Tải bản đầy đủ (.docx) (83 trang)

CHIẾN lược đầu tư QUỐC tế của HONDA tại THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (572.16 KB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

TIỂU LUẬN
Môn học: Đầu tư quốc tế
CHIẾN LƯỢC ĐẦU TƯ QUỐC TẾ CỦA HONDA
TẠI THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM
Giảng viên hướng dẫn: TS. Cao Thị Hồng Vinh
Thành viên nhóm thực hiện:
1. Lưu Quý Nhân
2. Đặng Xuân Phương
3. Đỗ Ngọc Sơn
4. Nguyễn Bá Thành
5. Bùi Thị Thắm
6. Bùi Thị Anh Thư

Hà Nội, 2020


MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT



DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC HÌNH





DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT

Từ viết tắt

Giải thích

1

HEAD

Honda Exclusive Authorised Dealer – Cửa hàng Bán
xe và Dịch vụ do Honda Ủy nhiệm

2

TNC

Transnational corporation – Công ty xuyên quốc gia

3

WSS

Wing Service Station – Trung tâm bảo dưỡng và dịch
vụ


4

UNCTAD

United Nations Conference on Trade and
Development – Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Thương
mại và Phát triển

5

CVCC

Compound Vortex Controlled Combustion – Động cơ
đốt trong

6

VMEP

Vietnam Manufacturing and Export Processing
Company Limited – Công ty TNHH Chế tạo công
nghiệp và gia công chế biến hàng xuất khẩu Việt Nam

7

VAMM

Vietnam Association of Motorcycle Manufacturers –
Hiệp hội các nhà sản xuất xe 2 bánh Việt Nam



LỜI MỞ ĐẦU
Chiến lược đầu tư quốc tế là điều quan trọng trong bước tiến xa hơn nữa
trên thương trường của mỗi doanh nghiệp. Tuy nhiên, không phải đơn vị nào
cũng thành cơng trong việc vươn mình ra thế giới. Nguyên nhân không nhỏ bởi
doanh nghiệp đã không nắm rõ, biết được điều kiện áp dụng các chiến lược đầu
tư quốc tế là gì?
Là một cơng ty của Nhật Bản đã rất thành công tại thị trường Mỹ, Châu
Âu trước khi thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Honda đã từng bước chiếm
lĩnh được thị phần tại Việt Nam trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là thị phần ô tô và
xe gắn máy. Những kinh nghiệm, bài học về chiến lược kinh doanh của Honda
trên các thị trường quốc tế mà đặc biệt là tại thị trường Việt Nam rất đáng để
chúng ta xem xét, đánh giá và học tập.
Xuất phát từ những lý do trên Nhóm 3 quyết định chọn: “Chiến lược đầu
tư quốc tế của Honda tại thị trường Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu.
Trong quá trình thực hiện đề tài chắc chắn còn rất nhiều thiếu sót, Nhóm 3
rất mong nhận được sự góp ý từ cô và các bạn học viên của Lớp QLKT K2A để
bài tiểu luận của nhóm được hồn thiện hơn.

9


NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1 Đầu tư quốc tế
1.1.1 Khái niệm
Theo Giáo trình Đầu tư quốc tế (Đại học Ngoại thương), “Đầu tư quốc tế
là việc các nhà đầu tư của một nước (pháp nhân hoặc cá nhân) đưa vốn hoặc
bất kỳ hình thức giá trị nào khác sang một nước khác để thực hiện các hoạt
động sản xuất kinh doanh hoặc các hoạt động khác nhằm thu lợi nhuận hoặc

đạt các hiệu quả xã hội.”
1.1.2 Phân loại đầu tư quốc tế
Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại đầu tư quốc tế: theo chủ đầu tư,
theo thời hạn đầu tư, theo quan hệ giữa chủ đầu tư và đối tượng tiếp nhận đầu tư,
… Trong đó, cách phân loại được phổ biến nhất là phân loại theo chủ đầu tư thì
đầu tư quốc tế với hai hình thức là đầu tư tư nhân quốc tế và đầu tư phi tư nhân
quốc tế:
- Đầu tư tư nhân quốc tế bao gồm: Đầu tư trực tiếp nước ngoài; Đầu tư
chứng khốn nước ngồi và Tín dụng tư nhân.
- Đầu tư phi tư nhân quốc tế bao gồm: Hỗ trợ phát triển chính thức và Hỗ
trợ chính thức.
1.1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình đầu tư quốc tế
Các yếu tố tác động đến quá trình phát triển ra thị trường quốc tế của
doanh nghiệp bao gồm:
- Yếu tố chính phủ: Mở cửa thị trường, các hiệp định thương mại song
phương và đa phương, cắt giảm thuế.
- Yếu tố thị trường: Sự phát triển của các phương tiện vận tải và phương
tiện thông tin, qui mô cầu lớn hơn thị trường nội địa.
- Yếu tố chi phí: Khai thác lợi thế kinh tế theo qui mô, tiếp cận đến các
nguồn yếu tố đầu vào rẻ.
- Yếu tố cạnh tranh: Cạnh tranh nội địa, quốc tế.
1.2 Công ty xuyên quốc gia (TNC)
1.2.1 Khái niệm về TNC
Sự phát triển liên tục về quy mô, cơ cấu tổ chức và phương thức sở hữu của
các TNC trong thời gian qua đã làm nảy sinh nhiều quan niệm và định nghĩa
10


khác nhau về công ty xuyên quốc gia. Về cơ bản có hai nhóm quan điểm về yếu
tố đặc trưng xác định một TNC.

Nhóm quan điểm thứ nhất nhấn mạnh vai trị hợp tác. Tại đây quan niệm
TNC là cơng ty quốc tế (International Corporation), trong đó bao gồm cả cơng
ty tồn cầu (Global Corporation), cơng ty đa quốc gia (Multinational
Corporation – MNC) và công ty siêu quốc gia (Supra-national Corporation).
Những người theo quan điểm này chỉ quan tâm đến mặt hoạt động sản xuất, kinh
doanh, thương mại – đầu tư quốc tế của TNC mà không quan tâm đến nguồn gốc
tư bản sở hữu và quốc tịch của công ty, không chú ý đến bản chất quan hệ sản
xuất của quốc gia có cơng ty đó hay các chi nhánh của nó. Các khái niệm về
TNC theo quan điểm này khá mở, có thể kể đến như định nghĩa về TNC của
Cowlìng và Sugden (1987): “Một cơng ty xun quốc gia là công cụ hợp tác sản
xuất từ một trung tâm ra quyết định chiến lược khi việc hợp tác này đem một
công ty bượt khỏi các đường biên giới quốc gia” (Peter, 1994) hay khái niệm của
Peter Dicken: “Một TNC là một cơng ty có quyền lực để phối hợp và quản lý
hoạt động tại nhiều hơn một quốc gia, ngay cả khi công ty này không sở hữu các
hoạt động đó” (Peter, 1998).
Nhóm quan điểm thứ hai coi quyền sở hữu đối với vốn góp trong các hoạt
động ở nước ngoài là đặc trưng xác định quan trọng của một TNC. Quan điểm
này coi TNC là công ty có vốn (tư bản) thuộc về chủ sở hữu ở một nước nhất
định nào đó. Những người theo quản điểm này chú ý đến tính chất sở hữu và
quốc tịch của tư bản: vốn đầu tư – kinh doanh là của ai, ở đâu. Chủ tư bản ở một
nước cụ thể nào đó có cơng ty mẹ đóng tại nước đó và thực hiện việc sản xuất
kinh doanh trong và ngồi nước bằng cách lập các cơng ty con ở nước ngồi là
hình thức điển hình của loại hình này.
Với quan điểm này, đã có khá nhiều định nghĩa kỹ thuật về các TNC:
+ Trong thập kỷ 70, Ủy ban TNC (UNCTC) đã định nghĩa: “Công ty xuyên
quốc gia là một tổ chức kinh doanh gồm nhiều thực thể nằm ở hai hay nhiều
nước, khơng xét đến hình thức pháp lý và lĩnh vực hoạt động, miễn là các thực
thể này vận hành theo một hệ thống ra quyết định, một chế độ chính sách và một
chế độ chung. Qua đó, các thực thể này là những mắt xích của một chế độ sở
hữu, chúng ảnh hưởng đến hoạt động của nhau. Đặc biệt chúng có chia sẻ một

nguồn trí thức, nguồn lực và trách nhiệm trong việc thực hiện mục tiêu cuối
cùng” (UNCTAD, 1999.)
+ Trong thập kỷ 80, Liên hiệp quốc (UN) đã đưa ra định nghĩa: “Một TNC
là một cơng ty kiểm sốt những tài sản như nhà máy, hầm mỏ, các văn phòng
tiêu thụ… tại hai hay nhiều quốc gia (UNCTAD, 1988).
11


+ Sang thập kỷ 90, trong các báo cáo đầu tư thể giới của UNCTAD đã định
nghĩa về TNC như sau: “Các TNC là các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân
hoặc khơng có tư cách pháp nhân bao gồm các công ty mẹ và các công ty con ở
nước ngồi của chúng. Cơng ty mẹ được định nghĩa như các cơng ty kiểm sốt
tài sản của những thực thể kinh tế khác ở nước ngồi, thường được thực hiện
thơng qua việc sở hữu một tỷ lệ góp vốn nhất định. Tỷ lệ góp vốn với 10% hoặc
cao hơn các cổ phiếu thường hoặc quyền biểu quyết trong một doanh nghiệp có
tư cách pháp nhân hoặc mức tương đương trong một doanh nghiệp khơng có tư
cách pháp nhân, thường được coi là ngưỡng để có thể kiểm sốt tài sản. Từ đây,
một công ty con được định nghĩa là một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân
hoặc khơng có tư cách pháp nhân trong đó một nhà đầu tư, cư trú tại nước khác,
sở hữu một tỷ lệ góp vốn cho phép có được lợi ích lâu dài trong việc quản lý
cơng ty đó (tỷ lệ góp vốn 10% đối với doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hoặc
mức tương đương trong một doanh nghiệp khơng có tư cách pháp nhân)
(UNCTAD, 1999). Ta có thể thấy, theo quan điểm của UNCTAD, các cơng ty
con nước ngồi ra đởi do việc các công ty mẹ tiến hành đầu tư trực tiếp, mối
quan hệ giữa công ty mẹ và các công ty con nước ngồi của nó chính là quan hệ
FDI, hay nói cách khác, một doanh nghiệp trở thành TNC khi tiến hành FDI
(UNCTAD, 2000).
Trong tiểu luận này, để thống nhất trong cách tiếp cận, nhóm tác giả lựa
chọn định nghĩa của UNCTAD trong các báo cáo đầu tư thể giới (WIR): “TNC
là một công ty tiến hành FDI, bao gồm một công ty mẹ mang một quốc tịch nhất

định với các công ty con thuộc sở hữu một phần hay toàn bộ hoạt động trong các
dự án FDI tại nhiều quốc gia, trong đó cơng ty này có quyền quản lý hoặc quyền
kiểm soát đáng kể.”
1.2.2 Chiến lược hoạt động của các TNC
Phân loại theo mức độ hội nhập các chức năng của sản xuất quốc tế:
- Chiến lược thành lập các công ty con tự chủ: TNC thành lập các công ty
con tự chủ yếu hoạt động tự chủ trong nền kinh tế chủ nhà. Mối liên kết chủ yếu
giữa công ty mẹ và các công ty con nước ngồi của mình là kiểm sốt thơng qua
quyền sở hữu; các mối liên kết khác bao gồm chuyển giao công nghệ và việc
cung cấp vốn dài hạn. Công ty con tự chủ chịu trách nhiệm về phần lớn chuỗi
giá trị của sản phẩm mà công ty này phụ trách mặc dù cơng ty có thể phát triển
các mối liên kết với các nhà cung cấp và nhà thầu phụ địa phương.
- Chiến lược hội nhập đơn giản: Một số TNC tham gia vào sản xuất quốc
tế thông qua chiến lược tìm kiếm nguồn lực bên ngồi (outsourcing) - một số
hoạt động tạo giá trị gia tăng được thực hiện ở nước chủ nhà và liên kết với các
12


hoạt động được thực hiện ở những nơi khác, chủ yếu là tại nước chủ đầu tư.
Động cơ cơ bản của outsourcing là tận dụng các lợi thế địa điểm của một nước
chủ nhà đối với một phần của chuỗi giá trị gia tăng. Cơng ty mẹ kiểm sốt hoạt
động outsourcing thông qua quyền sở hữu tại công ty con hoặc thơng qua các
thỏa thuận khơng góp vốn với các cơng ty nội địa, ví dụ như các hợp đồng thầu
phụ, cho phép TNC tập trung vào những phần nhất định của chuỗi giá trị gia
tăng trong khi các nhà thầu phụ chun mơn hóa vào sản xuất những phần khác.
Mức độ và bản chất của các mối liên kết phụ thuộc vào vị trí và mức độ phù hợp
của phần sản xuất bên ngoài trong chuỗi giá trị của công ty mẹ. Các nhà thầu
phụ thường không thể tự chủ mà phải hội nhập vào chuỗi giá trị của công ty mẹ
thông qua việc tạo lập ra các mối liên kết chức năng.
- Chiến lược hội nhập phức hợp: Chiến lược hội nhập phức hợp dựa trên

cơ sở khả năng của công ty trong việc chuyển dịch sản xuất và cung cấp tới
những địa điểm sinh lời nhất. Với hội nhập phức hợp, bất cứ công ty con nào
cũng có thể thực hiện, tự mình hoặc với các cơng ty con khác của cùng công ty
mẹ, các chức năng của tồn bộ cơng ty. Hội nhập phức hợp địi hỏi sẵn sàng để
đặt các hoạt động chức năng không chỉ sản xuất mà cả R&D, mua sắm, tài
chính, kế tốn, đào tạo tại bất cứ nơi nào có thể thực hiện chúng tốt nhất nhằm
hoàn thành chiến lược chung của cơng ty. Trong hội nhập phức hợp, có sự hội
nhập chức năng đáng kể giữa các quá trình khác nhau và các địa điểm khác
nhau, mặc dù không phải tất cả các nhân tố của chuỗi giá trị đều được hội nhập
ở mức độ như nhau.
Phân loại theo phạm vi địa lý của chiến lược sản xuất quốc tế:
- Chiến lược đa thị trường nội địa: Trong chiến lược này, công ty con chủ
yếu phục vụ thị trường của nước chủ nhà trong khi cơng ty mẹ kiểm sốt nhiều
công ty con tại các thị trường khác nhau.
- Chiến lược khu vực: Các công ty con đặt tại nhiều nước chủ nhà trong
một khu vực duy nhất cùng với nhiều công ty khác hoạt động như các nhà cung
cấp và các nhà thầu phụ. Việc lắp ráp cuối cùng có thể được thực hiện tại bất cứ
quốc gia nào trong khu vực và thị trường chủ yếu cho sản phẩm chính là trong
khu vực.
- Chiến lược tồn cầu: Các hoạt động trong chuỗi giá trị của các công ty
con có thể phối hợp, liên kết với nhau trên phạm vi toàn cầu.
2. THỰC TRẠNG CHIẾN LƯỢC ĐẦU TƯ QUỐC TẾ CỦA HONDA
TẠI THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM
2.1 Giới thiệu chung về Honda
13


Honda là nhà sản xuất động cơ lớn nhất thế giới của Nhật Bản với số lượng
hơn 14 triệu chiếc mỗi năm. Trong năm 2019, Honda là nhà sản xuất xe hơi
đứng thứ 2 tại thị trường Nhật Bản và đứng thứ 4 trên thị trường thế giới.


14


Bảng 1: Doanh số các thương hiệu ôtô tại Nhật Bản năm 2019

15


16


Nguồn: dantri.com.vn

17


Hình 1: Số tiền 19 tập đồn ơ tơ lớn nhất thế giới kiếm được mỗi giây trong
năm 2019

18


19


Nguồn: vietnambiz.vn

20



Nền tảng ban đầu của Honda là sản xuất xe máy. Đến nay, hãng đã sản xuất
được đa dạng các sản phẩm cơ khí như:

21


-

Sản phẩm chính: xe máy, ơ tơ.

22


-

Sản phẩm mới: thuyền máy, máy bay, robots, máy cắt cỏ, máy bơm nước,
pin mặt trời…
2.1.1 Lịch sử hình thành

Thời kỳ hậu chiến tranh thế giới thứ hai, cơ sở hạ tầng của Nhật Bản bị tàn
phá nặng nề, nước Nhật bị kiềm chế và kiểm soát bởi những thỏa thuận của phe
đồng minh. Soichiro Honda đã nhận thấy rằng, một trong những nhu cầu cấp
thiết nhất đối với người Nhật lúc này là khả năng di chuyển và phương tiện vận
tải đơn giản. Năm 1946, Soichiro Honda thành lập Honda Technical Research
Institute (Viện Nghiên cứu kỹ thuật Honda), với cơ sở đầu tiên là một căn nhà
ngỗ nhỏ. Sau khi mua lại được 500 động cơ dư thừa sau chiến tranh thế giới thứ
hai, Honda đã có một ý tưởng kinh doanh đơn giản mà độc đáo, đó là gắn động
cơ vào xe đạp, biến những chiếc xe đạp trở thành xe đạp máy, việc này đã tạo ra
một phương tiện đi lại hiệu quả và rẻ tiền. Từ xe đạp máy, Honda đã nghiên cứu

và chế tạo ra xe máy động cơ hai kỳ, rồi xe máy động cơ bốn kỳ.
Ngày 24 tháng 9 năm 1948, Soichiro Honda cùng với Takeo Fujisawa thành
lập Honda Motor Co. Ltd với tổng số vốn ban đầu là 1 triệu Yên, liên kết cả với
Viện Nghiên cứu kỹ thuật Honda. Từ đây một kỷ nguyên xe gắn máy của Honda
bắt đầu. Chỉ vài năm sau, động cơ của Honda đã chiếm được 60% thị phần tại
Nhật Bản. Năm 1949, Honda cho ra đời chiếc xe máy đầu tiên của hãng mang
tên “Dream”, đây đồng thời cũng là chiếc xe máy được chế tạo và lắp ráp hoàn
toàn tại Nhật Bản. Đến năm 1955, Honda trở thành hãng dẫn đầu về sản xuất xe
máy tại thị trường Nhật Bản. Cuối thập niên 1960, Honda chiếm lĩnh thị trường
xe máy thế giới. Đến thập niên 1970 công ty trở thành nhà sản xuất xe máy lớn
nhất thế giới và từ đó đến nay chưa bao giờ để mất danh hiệu này.
Năm 1963, Honda mở ra một thời ký mời khi chế tạo thành công chiếc ô tô
đầu tiên và là chiếc ô tô đua thể thao S500. Từ đó Honda đã vượt qua ranh giới
nước Nhật để vươn ra thế giới, có thể sản xuất cả những sản phẩm cần một trình
độ cao về khoa học và công nghệ như máy bay và người máy công nghiệp.
Năm 1958, Công ty Honda Hoa Kỳ được thành lập. Mặc dù, thương hiệu
Honda đã có một chỗ đứng vững chắc tại thị trường Nhật Bản và có danh tiếng
khi đạt được nhiều thành tích tại các triển lãm và các cuộc đua, nhưng tại thời
điểm đó, thị hiếu của người Mỹ ưa chuộng những chiếc xe hơi to, bề thế trong
khi những chiếc xe hơi đầu tiên của Honda lại thiên về thiết kế gọn nhẹ và tiện
lợi. Do đó, trong những năm đầu xe hơi của Honda không được chú ý tại thị
trường Mỹ, mãi đến năm 1972 hoạt động của Honda Hoa Kỳ mới bắt đầu có sự
khởi sắc. Cuộc khủng hoảng nhiên liệu trên toàn thế giới đã làm thị hiếu của
người Mỹ về mặt hàng xe hơi thay đổi, họ bắt đầu quan tâm tới những chiếc xe
23


hơi nhỏ gọn với khả năng tiết kiệm nhiên liệu. Nhận thấy được thời cơ, Honda
đã tung ra thị trường Mỹ mẫu xe mới mang tên Civic, mẫu xe này đã đáp ứng
được yêu cầu của khách hàng Mỹ khó tính. Thời điểm này, tại Mỹ ban hành Luật

mới yêu cầu các nhà sản xuất xe hơi phải gắn thêm bộ phận chuyển đổi chất xúc
tác vào hệ thống xả. Bộ phận chuyển đổi này có giá tương đối cao do đó làm giá
xe hơi tăng. Tuy nhiên khi Honda giới thiệu chiếc Civic đới 1975 với động cơ
CVCC (Compound Vortex Controlled Combustion), động cơ này đáp ứng được
yêu cầu về khí thải nên khơng cần phải lắp đặt bộ phận xúc tác khí thải nữa, đây
chính là lợi thế cạnh tranh của Honda Civic. Kể từ đó, Honda đã có được chỗ
đứng tại một trong những thị trường xe hơi hấp dẫn nhất thế giới, mở đường cho
những thành công tiếp theo. Honda đã xây dựng nhà máy sản xuất xe hơi ngay
tại Mỹ, giúp cho thương hiệu này đứng vững và ngày càng khẳng đinh vị thế của
mình.
Sau thị trường Mỹ, Honda tiếp tục thâm nhập những thị trường tiềm năng
khác như: Canada, Úc, Anh, Ấn Độ... Với những chiến lược cụ thể, rõ ràng và
việc đầu tư bài bản, Honda đã trở thành hãng sản xuất có dây chuyển chế tạo ô
tô nhanh nhất thế giới và tiết kiệm công nhân nhất với chỉ 2,05 người sản xuất 1
ơ tơ. Hiện nay, Honda đã có 65 nhà máy tại 34 quốc gia trên thế giới (Lê Thị Hà
Phương, Nguyễn Dương Tùng, Võ Thị Bích Ngọc & Triệu Quốc Huy, 2015).
Ngày 06/03/1996, Honda chính thức nhận được giấy phép kinh doanh tại thị
trường Việt Nam, với sản phẩm đầu tiên là xe máy Super Dream (xuất xưởng
ngày 06/12/1997). Sau hơn 20 năm hoạt động, Honda Việt Nam đã từng bước
phát triển, với 3 nhà máy sản xuất xe máy và 1 nhà máy sản xuất xe hơi, Honda
luôn là doanh nghiệp dẫn đầu tại thị trường Việt Nam.
2.1.2 Viễn cảnh – sứ mệnh

24


Viễn cảnh: Honda trở thành tập đồn sản xuất ơ tô, xe máy và các sản phẩm
công nghệ hàng đầu thế giới.

25



×