Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

(TIỂU LUẬN) PHÉP BIỆN CHỨNG về mâu THUẪN và vận DỤNG PHÂN TÍCH mâu THUẪN BIỆN CHỨNG TRONG nền KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.6 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
=====000=====

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MÂU THUẪN VÀ VẬN DỤNG
PHÂN TÍCH MÂU THUẪN BIỆN CHỨNG TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.

Sinh viên thực hiện: Đàm Thanh Yến
Mã SV: 2014110264
Lớp Anh 10, Khối 3 Kinh tế đối ngoại, Khóa
59
Lớp tín chỉ: TRI114.3
STT: 111
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Trần Huy Quang

Hà Nội - 3/2021


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................1
NỘI DUNG....................................................................................................... 3

I Lý luận chung về mâu thuẫn biện chứng và kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.............................................................3
1 Mâu thuẫn biện chứng..........................................................................3
1.1 Khái niệm mâu thuẫn...................................................................... 3
1.2 Các tính chất chung của mâu thuẫn................................................3
1.3 Q trình vận động của mâu thuẫn.................................................5


1.4 Vai trị của mâu thuẫn đối với sự vận động và phát triển...............6
2 Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa............................... 6
2.1 Khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.....6
2.2 Một số ưu nhược điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.........................................................................................7

II Phân tích mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay..........................7
1 Những mâu thuẫn biện chứng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay...............................7
2 Giải pháp, phương hướng giải quyết mâu thuẫn.............................12
KẾT LUẬN.....................................................................................................14


LỜI MỞ ĐẦU
Mâu thuẫn là một khái niệm quan trọng trong phép biện chứng. Trong
Bút ký triết học V.I.Lênin đã chỉ ra vị trí quan trọng đó khi viết rằng: “Có thể
định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt
đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng”, “Theo nghĩa
đen, phép biện chứng là sự nghiên cứu mâu thuẫn ngay trong bản chất của
các đối tượng”1. Từ đó, có thể cho rằng quy luật mâu là quan trọng nhất trong
ba quy luật của phép biện chứng (quy luật mâu thuẫn, quy luật lượng chất, quy
luật phủ định của phủ định), đây cũng là cơ sở giúp chúng ta nắm vững thực
chất của tất cả các quy luật và phạm trù của phép biện chứng duy vật.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa (XHCN) đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhưng đồng
thời cũng đang phải đối mặt với nhiều mâu thuẫn nan giải. Những mâu thuẫn
đó đã đặt ra ra nhiều thách thức buộc Đảng và Nhà nước phải giải quyết đúng
đắn thì mới có thể đưa con thuyền kinh tế thị trường định hướng XHCN vượt
qua ghềnh thác đến bờ bến thành công nhưng đây lại cũng chính là nguồn gốc,

động lực cho sự phát triển chung của đất nước. Với mong muốn làm rõ những
bản chất, mâu thuẫn của nền kinh tế em đã lựa chọn đề tài “Phép biện chứng
về mâu thuẫn và vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” để
viết tiểu luận.
-

-

-

Đối tượng nghiên cứu: Quy luật mâu thuẫn trong Triết học Mác –
Lênin
Phạm vi nghiên cứu: Tìm hiểu về quy luật mâu thuẫn trong Triết học
Mác – Lênin, từ đó vận dụng vào trong việc xây dựng nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Mục tiêu nghiên cứu: Khẳng định tính đúng đắn của quy luật mâu
thuẫn theo quan điểm Triết học Mác – Leenin, đặc biệt trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Làm rõ nội dung của quy luật mâu thuẫn theo
quan điểm Triết học Mác – Leenin, trên cơ sở phân tích đó, thấy rõ

1V.I.Lênin : Toàn tập, t.24, Nxb Tiến bộ, M., 1981, tr.240,116,268.

1


được tầm quan trọng của lý luận đó và vận dụng trong nền kinh tế
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Tuy nhiên, do trình độ hiểu biết và thời gian nghiên cứu mơn học cịn hạn

chế nên bài tiểu luận của em khơng tránh khỏi sai sót. Em rất mong sự đóng
góp ý kiến của thầy giáo để bài tiểu luận của em đươc hoàn chỉnh hơn. Em xin
chân thành cảm ơn thầy giáo Trần Huy Quang đã giúp đỡ em rất nhiều trong
q trình tìm hiểu mơn Triết học Mác – Lênin và thực hiện đề tài này.

2


NỘI DUNG
I Lý luận chung về mâu thuẫn biện chứng và kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
1 Mâu thuẫn biện chứng
1.1 Khái niệm mâu thuẫn
Trong phép biện chứng duy vật, mâu thuẫn biện chứng là khái niệm dùng
để chỉ sự liên hệ, tác động theo cách vừa thống nhất, vừa đấu tranh; vừa đòi
hỏi, vừa loại trừ, vừa chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập. Yếu tố tạo
thành mâu thuẫn biện chứng là các mặt đối lập, các bộ phận, các thuộc tính...
có khuynh hưởng biến đổi trái ngược nhau, nhưng cùng tồn tại khách quan
trong mỗi sự vật, hiện tượng của tự nhiên, xã hội và tư duy. Trong mỗi mâu
thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh lẫn nhau tạo
nên trạng thái ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng.
1.2 Các tính chất chung của mâu thuẫn
Tính khách quan và phổ biến: bất kỳ sự vật, hiện tượng nào trong tự
nhiên, xã hội và tư duy cũng tồn tại, vận động trên cơ sở các mâu thuẫn nội tại
của các mặt đối lập của nó hoặc giữa nó với các sự vật, hiện tượng khác.
Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi lĩnh vực của thế giới và vơ
cùng đa dạng. Sự đạ dạng đó phụ thuộc vào đặc điểm của các mặt đối lập,
vào điều kiện mà trong đó sự tác động qua lại giữa các mặt đối lập triển khai,
vào trình độ tổ chức của sự vật, hiện tượng mà trong đó mâu thuẫn tồn tại.
Mỗi loại mâu thuẫn có đặc điểm riêng và có vai trò khác nhau đối với sự tồn

tại và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Căn cứ vảo sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, hiện tượng, có
mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn khơng cơ bản. Mâu thuẫn cơ bản tác động
trong suốt quá trình tồn tại của sự vật, hiện tượng; nó quy định bản chất, sự
phát triển của chúng từ khi hình thành đến lúc tiêu vong. Mâu thuẫn không
cơ bản đặc trưng cho một phương diện nào đó, chỉ quy định sự vận động,
phát triển của một hay một số mặt của sự vật, hiện tượng và chịu sự chi phối
cửa mâu thuẫn cơ bản.
Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự
3


vật, hiện tượng trong mỗi giai đoạn nhất định, có thể phân chia thành mâu
thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu. Mâu thuẫn chủ yếu luôn nổi lên hàng đầu
ở mỗi giai đoạn phát triển của sự vật, hiện tượng, có tác dụng quy định đối với
các mâu thuẫn khác trong cùng giai đoạn đó của q trình phát triển. Giải
quyết mâu thuẫn chủ yếu sẽ tạo điều kiện để giải quyết các mâu thuẫn khác ở
cùng giai đoạn, cịn sự phát triển, chuyển hóa của sự vật, hiện tượng từ hình
thức này sang hình thức khác phụ thuộc vào việc giải quyết mâu thuẫn chủ
yếu. Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn khơng đống vai trị quyết định trong sự
vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Tuy vậy, ranh giới giữa mâu thuẫn
chủ yếu, thứ yếu chỉ là tương đối, tuỳ theo từng hoàn cảnh cụ thể, có mâu
thuẫn trong điều kiện này là chủ yếu, song trong điều kiện khác lại là thứ yếu
và ngược lại.
Căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lập với một sự vật, hiện tượng, có
mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài. Mâu thuẫn bên trong là sự tác
động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng... đối lập nằm trong chính mỗi
sự vật, hiện tượng; có vai trị quy định trực tiếp q trình vận động và phát
triển của sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn bên ngoài xuất hiện trong mối liên hệ
giữa các sự vật, hiện tượng với nhau; tuy cũng ảnh hưởng đến sự tồn tại và

phát triển của chúng, nhưng phải thông qua mâu thuẫn bên trong mới phát huy
tác dụng. Các mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu đều là những mâu thuẫn giữa các
mặt, các bộ phận, yếu tố bên trong cấu thành sự vật hiện tượng nên có thể gọi
chúng là mâu thuẫn bên trong. Song các đối tượng còn có những mối liên hệ
và quan hệ với các đối tượng khác thuộc về mơi trường tồn tại của nó, những
mâu thuẫn loại này được gọi là các mâu thuẫn bên ngoài. Tuy nhiên, sự phân
chia này cũng chỉ mang tính tương đơi, bởi trong quan hệ này hoặc so với một
số đối tượng này, nó là bên trong; nhưng trong quan hệ khác, so với một số đối
tượng khác, nó lại là bên ngồi.
Căn cứ vào tính chất của lợi ích cơ bản là đối lập nhau trong mối quan
hệ giữa các giai cấp ở một giai đoạn lịch sử nhất định, trong xã hội có mâu
thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng. Mâu thuẫn đỗi kháng là mâu
thuẫn giữa các giai cấp, tập đoàn người, lực lượng, xu hướng xã hội... có lợi
ích cơ bản đối lập nhau và khơng thể điều hồ được. Đó là mâu thuẫn giữa các
giai cấp bóc lột và bị bóc lột, giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị... Mâu
4


thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai cấp, tập đồn người, lực
lượng, xu hướng xã hội... có lợi ích cơ bản khơng đối lập nhau nên là mâu
thuẫn cục bộ, tạm thời.
1.3 Quá trình vận động của mâu thuẫn
Sự thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập
-

-

Thống nhất giữa các mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ
giữa chủng và được thể hiện ở, thứ nhất, các mặt đối lập cần đến
nhau, nương tựa vào nhau, làm tiền đề cho nhau tồn tại, khơng có mặt

này thì khơng có mặt kia; thứ hai, các mặt đối lập tác động ngang
nhau, cân bằng nhau thể hiện sự đấu tranh giữa cái mới đang hình
thành với cái cũ chưa mất hẳn; thứ ba, giữa các mặt đối lập có sự
tương đồng, đồng nhất do trong các mặt đối lập còn tồn tại những yếu
tố giống nhau. Do sự đồng nhất này mà trong nhiều trường họp, khi
mâu thuẫn xuất hiện và tác động ở điều kiện phù hợp, các mặt đối lập
chuyển hóa vào nhau. Đồng nhất khơng tách rời với sự khác nhau, với
sự đối lập, bởi mỗi sự vật, hiện tượng vừa là bản thân nó, vừa là sự
vật, hiện tượng đối lập với nó nên trong đồng nhất đã bao hàm sự
khác nhau, đối lập.
Đấu tranh giữa các mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ sự tác động qua
lại theo hướng bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa chúng và sự tác động đó
cũng khơng tách rời sự khác nhau, thống nhất, đồng nhất giữa chúng
trong một mâu thuẫn. So với đấu tranh giữa các mặt đối lập thì thống
nhất giữa chúng có tính tạm thời, tương đổi, có điều kiện, nghĩa là sự
thống nhất đó chỉ tồn tại trong trạng thái đứng im tương đối của sự vật,
hiện tượng; cịn đấu tranh có tính tuyệt đối, nghĩa là đấu tranh phá vỡ sự
ổn định tương đối của chúng dẫn đến sự chuyển hóa về chất của chúng.
Tính tuyệt đối của đấu tranh gắn với sự tự thân vận động, phát triển diễn
ra không ngừng của sự vật, hiện tượng, về vấn đề này C.Mác viết: “Cái
cấu thành bản chất của sự vận động biện chứng, chính là sự cùng nhau
tồn tại của hai mặt mâu thuẫn, sự đấu tranh giữa hai mặt ấy và sự dung
hợp của hai mặt ấy thành một phạm trù mới”.
Còn V.I. Lênin, chú ý nhiều hơn đến tính tuyệt đối của “đấu tranh” đã
viết: “Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”
5


Quá trình thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tất yếu dẫn đến sự
chuyển hóa giữa chúng. Sự chuyển hóa của các mặt đối lập diễn ra hết sức

phong phú, đa dạng tùy thuộc vào tính chất của các mặt đối lập cũng như tùy
thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể.
Trong sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, sự đấu tranh giữa
chúng là tuyệt đối, sự thống nhất giữa chúng là tương đối, có điều kiện, tạm
thời; trong sự thống nhất đã có sự đấu tranh, đấu tranh trong tính thống nhất
của chúng.
1.4 Vai trò của mâu thuẫn đối với sự vận động và phát triển
Nói về vai trị của mâu thuẫn đối với sự vận động và phát triển,
Ph.Ăngghen nhấn mạnh, nguyên nhân chính cũng là nguyên nhân cuối cùng
tạo nên nguồn gốc của sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng là sự tác
động (theo hướng phủ định, thống nhất) lẫn nhau giữa chúng và giữa các mặt
đối lập trong chúng. Có hai loại tác động dẫn đến vận động là tác động lẫn
nhau giữa các sự vật, hiện tượng (bên ngoài) và sự tác động lẫn nhau giữa các
mặt đối lập của cùng một sự vật, hiện tượng (bên trong); nhưng chỉ có sự tác
động lẫn nhau giữa các mặt đối lập (bên trong) mới làm cho sự vật, hiện tượng
phát triển.
Mối quan hệ giữa các khái niệm của quy luật chỉ ra rằng, mâu thuẫn
giữa các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng là nguyên nhân, giải quyết mâu
thuẫn đó là động lực của sự vận động, phát triển. Bởi vậy, sự vận động, phát
triển của sự vật, hiện tượng là tự thân. Khái quát lại, nội dung của quy luật
thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập là: Mọi đối tượng đều bao gồm những
mặt, những khuynh hướng, lực lượng... đối lập nhau tạo thành những mâu
thuẫn trong chính nó; sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập này là
nguyên nhân, động lực bên trong của sự vận động và phắt triển, làm cho cái cũ
mất đi và cái mới ra đời.
2 Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
2.1 Khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền
kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường,
đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn

6


phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc
tế; có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng cộng sản
Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh.
2.2 Một số ưu nhược điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa
Kinh tế thị trường mang lại hiệu quả kinh tế cao, vì kinh tế thị trường là
một cơ chế mà nó phát huy được động lực cá nhân, tự cân bằng, tự điều chỉnh
do quan hệ cung càu quyết định, đảm bảo sự phù hợp giữa khối lượng, cơ cấu
sản xuất với khối lượng, cơ cấu tiêu dung. Vì vậy nó kich thích tang năng suất,
hạ chi phí, nâng cao chất lượng.
Tuy nhiên kinh tế thị trường đưa đến một sự phân phối bất bình đẳng,
phân hóa giàu nghèo, hủy hoại nhân cách đạo đực của một bộ phận người. Nó
dẫn đến việc lạm dụng tài ngun, gây ơ nhiễm mơi trường. Ngồi ra kinh tế
thị trường cịn gắn liền với tính chu kì khủng hoảng, lạm phát, thất nghiệp.
AI Phân tích mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
1 Những mâu thuẫn biện chứng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Đây là mâu thuẫn cơ bản trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhi ều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước, thì vấn đề lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là
một vấn đề hết sức phức tạp. Xét trên phương diện triết học, thì lực lượng sản
xuất là nội dung, còn quan hệ sản xuất là ý thức, lực lượng sản xuất là yếu tố
động, luôn luôn thay đổi, và là yếu tố quyết định quan hệ sản xuất. Khi lực

lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất lúc
này tỏ ra khơng cịn phù hợp nữa và trở thành yếu tố kìm hãm. Để mở đường
cho lực lượng sản xuất phát triển thì cần thay đổi quan hệ sản xuất cũ bằng
quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng với nhau, nó là thước đo để đánh
7
-


giá sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, mặc dù nhà nước đã
có rất nhiều chính sách để cân đối sao cho LLSX – QHSX phát triển song
song đồng bộ. Nhưng thực tế cho thấy, khi bắt tay vào xây dựng và phát triển
nền kinh tế thị trường thì LLSX ln tỏ ra mâu thuẫn với QHSX. Tính cạnh
tranh và năng động là một trong những đặc điểm cơ bản của nền kinh tế thị
trường, thì ngược lại chúng ta lại chậm tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế,
chính sách để tạo động lực và điều kiện cho doanh nghiệp nhà nước nâng cao
hiệu quả hoạt động, phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Việc
thí điểm cổ phần hố doanh nghiệp nhà nước còn làm chậm. Chưa quan tâm
tổng kết thực tiễn, kịp thời chỉ ra ph ương hướng, biện pháp đổi mới kinh tế
hợp tác, để hợp tác xã nhiều nơi tan rã hoặc chỉ cịn là hình th ức, cản trở sản
xuất phát triển, chưa kịp thời đúc kết kinh nghiêm, giúp đỡ các hình thức kinh
tế hợp tác mới phát triển. Chưa giải quyết tốt một số chính sách để khuyến
khích kinh tế tư nhân phát huy tiềm năng, đồng thời chưa quản lý tốt thành
phần kinh tế này. Quản lý kinh tế hợp tác liên doanh với nước ngồi cịn nhiều
sơ hở. Kinh tế vĩ mơ cịn những yếu tố thiếu vững chắc. Cơng tác tài chính,
ngân hàng, giá cả, kế hoạch hố, quy hoạch xây dựng, quản lý đất đai còn yếu
kém, thủ tục đổi mới hành chính chậm. Thương nghiệp nhà nước bỏ trống một
số trận địa quan trọng, chưa phát huy tốt vai trò chủ đạo trên th ị trường. Quản
lý xuất nhập khẩu còn nhiều sơ hở, tiêu cực, một số trường hợp gây ra tác
động xấu với sản xuất. Chế độ phân phối thu nhập còn bất hợp lý, bội chi ngân

sách và nhập siêu cịn lớn ... Đó là một số hạn chế của QHSX kìm hãm LLSX
phát triển và điều đó làm cho q trình xây dựng đất nước của ta gặp nhiều
khó khăn. Một trong những vấn đề bức xúc đối với chúng ta hiện nay đó là
việc làm, tình trạng thất nghiệp là một biểu hiện rõ ràng để chứng tỏ được rằng
giữa LLSX – QHSX có sự mất cân đối. Khi QHSX phù hợp, nó khơng những
giải phóng được sức sản xuất mà cịn tạo tiền đề để thúc đẩy bước phát triển
của LLSX.
- Cơ chế thị trường và những mâu thuẫn xunh quanh nó
Thị trường là điều kiện tồn tại của nền sản xuất hàng hoá, do vậy kinh tế
hàng hoá càng phát triển thì thị trường càng được mở rộng, ngược lại, thị
trường càng được mở rộng thì càng thúc đẩy kinh tế hàng hố phát trển, đó là
8


mối quan hệ biện chứng gắn bó hữu cơ với nhau. Và xunh quanh mối quan hệ
biện chứng đó là những mâu thuẫn khách quan, tồn tại trong cơ chế thị trường.
Các bộ phận hợp thành cơ chế thị trường là: giá cả thị trường: là thứ giá cả
hình thành trên thị trường bởi sự tác động của các lực thị trường. Trên mỗi thị
trường, mỗi hàng hoá, dịch vụ đều có một giá nhất định và tồn bộ những giá
cả đó tạo thành hệ thống giá cả thị trường; cầu hàng hoá: là số lượng hàng hoá
mà người mua mong muốn mua và có khả năng mua theo mức giá nhất định.
Như vậy, để có cầu hàng hố phải có ba điều kiện: mong muốn mua, có khẳ
năng mua và mức giá; cung hàng hoá: là số lượng mà người sản xuất hàng hố
mong muốn sản xuất và có khả năng bán trên thị trường với giá nhất định. Để
có cung hàng hố cũng phải có ba điều kiện: mong nuốn sản xuất, có khả năng
sản xuất và mức giá. Khi cung hàng hóa nào đó trên thị trường vừa bằng cầu
về hàng hố đó, thì mức giá cả là bình quân. Cạnh tranh trên thị trường: cạnh
tranh giữa những người sản xuất hàng hoá với nhau theo ba hướng; giá cả,
chất lượng và dịch vụ tương ứng. Cạnh trang giữa những người mua với nhau.
cạnh tranh giữa một bên là người bán và một bên là người mua. Trên thị

trường khơng bao giờ có chuyện “đơn phương độc mã” mà là “bn có bạn,
bán có phường”. Bốn bộ phận hợp thành cơ chế thị trường kể trên có quan hệ
mật thiết với nhau, như là những khâu trong một guồng máy. Giá cả là cái
nhân của thị trường, cung – cầu là trung tâm và cạnh tranh là linh hồn, là sức
sống của thị trường. Thực tế trong nền KTTT, thì cạnh tranh mang tính mâu
thuẫn, nó vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, vừa là yếu tố kìm
hãm, sự phá sản, tình trạng thất nghiệp, sự phân hoá giàu nghèo giữa các vùng
và các bộ phận dân cư, và nhất là không thể tránh khỏi những tệ nạn xã hội do
mặt trái của KTTT gây ra. Thực tế cho thấy, sản phẩm hàng ngoại tràn lan trên
thị trường Việt Nam, lấn áp hoàn tồn hàng hố trong nước. Ngun nhân chủ
yếu, đó là do sức cạnh tranh của nước ta còn yếu, tâm lý người dân muốn
dùng hàng ngoại. Một số doanh nghiệp nhà nước bị phá sản, phải đóng cửa vì
khơng đủ sức để có thể cạnh tranh được trên thị trường. Hàng hố trong nước
khơng được ưa chuộng, do mẫu mã cũng như chất lượng sản phẩm không thể
cạnh tranh được với hàng ngoại được sản xuất với dây truyền công nghệ hiện
đại.
- Mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội
9


Trong hoạt động kinh tế, lợi ích là mục tiêu hàng đầu, vì vậy để thực hiện
tăng trưởng kinh tế cần phải coi trọng mọi lợi ích: lợi ích cá nhân, lợi ích tập
thể vầ lợi ích xã hội. Trong nền KTTT, mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi
ích xã hội chẳng những khơng bị mất đi mà cịn có nh ững diễn biến phức tạp
hơn. Trước hết là phải nói đến ưu điểm của nền KTTT, nó tạo điều kiện cho
mọi cá nhân phát huy năng lực, trí tuệ, thị trường được tạo ra là một thị trường
tự do, tự do giao dịch... KTTT có sự quản lý của nhà nước, một mặt nó đảm
bảo tính ổn định của thị trường, mặt khác nó lại tạo điều kiện tốt cho hoạt
động tham nhũng, buôn lậu... của một số người lạm dụng chức trách của mình.
Mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội nếu không được giải quyết

đúng đắn sẽ biểu hiện thành những hiện tượng bất công bằng xã hội. Trong
mối quan hệ này, nếu lợi ích cá nhân bị vi phạm thì xã hội sẽ mất đi một động
lực to lớn của sự phát triển xã h ội. Còn ngược lại, nếu các nhân có lợi, nhưng
lợi ích xã hội bị vi phạm, thì nạn nhân của sự bất cơng lại là cộng đồng xã hội.
Ví dụ: Vì lợi ích cá nhân mà trong hoạt động sản xuất kinh doanh, người ta có
thể phá hoại mơi trường sống, có thể làm những việc phi pháp, phi đạo đức,
phi nhân tính, để có lợi cho bản thân, làm thất thoát tài sản của nhà nước...
Trong trường hợp này hậu quả do cá nhân đó tạo ra làm ảnh hưởng đến cộng
đồng xã hội. Chúng ta cần biệt lợi ích chính đáng với lợi ích ích kỉ cá nhân.
Lợi ích chính đánh của cá nhân là động lực phát triển của xã hội, là cái mà xã
hội phải tơn trọng và phát huy, cịn lợi ích ích kỉ của cá nhân là nguồn gốc của
chủ nghĩa cá nhân, là nguyên nhân dân đến sự thoái hoá, biến chất, trộm cắp,
tham nhũng của một số cá nhân trong bộ máy của nhà nước. Nếu xã hội khơng
có những biện pháp tích cực và có hiệu quả thì những tệ nạn này chẳng nh ững
khơng giảm đi, mà trái lại càng gia tăng, vì cùng với sự phát triển kinh tế, của
cải xã hội, phúc lợi tập thể sẽ tăng lên và những thứ này lại được giao cho cá
nhân trực tiếp quản lý. Thực tế cho thấy rằng ở Việt Nam, trong quá trình xây
dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì tình
trạng tham nhũng, suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống ở một
bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên là rất nghiêm trọng. Sở dĩ có tình trạng
trên là do nguyên nhân chủ quan trong quá trình thực hiện đường lối của
Đảng: Việc tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng
chưa tốt, kỉ luật, kỉ cương chưa nghiêm. Một số người và cơ quan do lợi ích cá
10


nhân, cục bộ không muốn đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tổ chức bộ
máy nhà nước... Trên đây là những tiêu cực của một số cá nhân có chức quyền
và lạm dụng nó để tiến hành mưu lợi riêng cho mình, gây tổn thất nặng nề cho
nền kinh tế quốc dân. Còn đối với các chủ thể sản xuất kinh doanh bất chấp

pháp luật để chạy theo lợi nhuận. Hiện tượng làm hàng giả, hàng lậu vẫn tiếp
tục phát triển làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Như vậy, chính mâu
thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội nảy sinh trong nền kinh tế thị
trường, càng cho thấy rõ được tầm quan trọng trong vai trò quản lý của nhà
nước đối với việc phát triển kinh tế.
-

Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người xã hội
chủ nghĩa

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước
hết phải có con người XHCN. Yêu tố con người giữ vai trò cực kỳ quan trọng
trong sự nghiệp cách mạng, bởi con người là chủ thể của mọi sáng tạo, của
mọi nguồn của cải vật chất và văn hố. Con người phát triển cao về trí tuệ,
cường tráng về thể chất, phung phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là
động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, là mục tiêu của CNXH. Chúng
ta phải bắt đầu từ con người làm điểm xuất phát”. Kinh tế thị trường là một
loại hình kinh tế mà trong đó các mối quan hệ kinh tế giữa con người với con
người được biểu hiện thông qua thị trượng, tức là thơng qua việc mua bán,
trao đổi hàng hố tiền tệ trên thị trường. KTTT phản ánh đầy đủ trình độ văn
minh và phát triển xã hội, là nhân tố phát triển sức sản xuất, tăng trưởng kinh
tế, thúc đẩy xã hơi tiến lên. tuy nhiên KTTT cũng có những khuyết tật như: sự
cạnh tranh lạnh lùng, tính tự phát mù quáng dẫn đến phá sản, thất nghiệp,
khủng hoảng chu kỳ... Xuất phát từ sự phân tích trên dây, chúng ta đã thấy
rằng đổi mới ở nước ta hiện nay, không thể xây dựng con người nếu thiếu yếu
tố KTTT. Do hậu quả của nhiều năm chiến tranh, nền kinh tế kém phát triển,
mơ hình kinh tế khơng phù hợp, nước ta đã bị tụt hậu nghiêm trọng so với các
nước trong khu v ực và trên thế giới. Trong bối cảnh đó, KTTT là điều kiện rất
quan trọng đưa nền kinh tế nước ta ra khỏi khủng hoảng và đi vào phục hồi,
đẩy mạnh tốc đ ộ tăng trưởng, bắt kịp bước tiến của thời đại. Trong những

năm qua, KTTT ở nước ta đã được nhân dân hưởng ứng rộng rãi và đi vào
11


cuộc sống rất nhanh chóng, làm cho nền kinh tế sôi động hơn. Đây là kết quả
đáng mừng và cần được phát huy, nó thể hiện sự vận dụng đúng đắn các quy
luật khách quan của xã hội. Quá trình biện chứng đi lên CNXH từ khách quan
đang trở thành nhận thức chủ quan trên quy mơ tồn xã hội. Bên cạnh đó, có
một khía cạnh khác cũng cần được đề cập đến: KTTT ở nước ta hiện nay
không chỉ tạo điều kiện vật chất để xây dựng và phát huy nguồn lực của con
người mà cịn tạo ra mơi trường thích hợp cho con người phát triển tồn diện
cả về thể chất lẫn tinh thần. KTTT tạo ra sự cạnh tranh và chạy đua quyết liệt.
Điều đó buộc con người phải năng động sáng tạo, linh hoạt, có tác phong
nhanh.... Từ đó nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn của con người.
2 Giải pháp, phương hướng giải quyết mâu thuẫn
Cần đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế,
chính sách và thủ tục hành chính để huy động tối đa mọi nguồn lực, tạo sức
bật mới cho phát triển sản xuất, kinh doanh của mọi thành phần kinh tế với các
hình thức sở hữu khác nhau. Mọi doanh nghiệp, mọi công dân được đầu tư
kinh doanh theo hình thức do luật định và được pháp luật bảo vệ. Mọi tổ chức
kinh doanh theo các hình thức sở hữu khác nhau hoặc đan xen hỗn hợp đều
được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng và là bộ
phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa
Trong điều kiện thế giới toàn cầu hóa hiện nay, để phát triển nhanh và
lành mạnh thì kinh tế của một nước khơng chỉ cần có thị trường nội địa mà
còn cần cả thị trường quốc tế rộng lớn. Do vậy, bên cạnh việc tạo dựng niềm
tin của người tiêu dùng trong nước, phải tranh thủ được niềm tin của người
tiêu dùng ở ngoài biên giới quốc gia. Điều này đòi hỏi người sản xuất, kinh
doanh phải là người có văn hóa và đạo đức kinh doanh bên cạnh những năng

lực và nhiều phẩm chất quan trọng khác.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa muốn vượt lên, muốn
chiến thắng trong cuộc cạnh tranh khốc liệt trên mặt trận kinh tế thế giới tồn
cầu hóa hiện nay thì càng cần phải đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng hợp lý; phải
biết quý trọng và trọng dụng thật sự hiệu quả nguồn lực lao động trí tuệ cao.
Nếu chúng ta khơng có được những con người trí tuệ cao, thậm chí rất cao
12


này, nếu khơng có đội ngũ đơng đảo người lao động đủ sức tiếp thu các công
nghệ cao trong kỷ ngun chuyển đổi cơng nghệ số và trí tuệ nhân tạo thì sẽ
rất khó vượt lên để đạt đến trình độ của một nước phát triển. Nền kinh tế phát
triển cao cũng là điều kiện cần để giải quyết nhiều vấn đề xã hội nan giải, như
sự bất bình đẳng, đặc biệt là giảm bớt khoảng cách giàu nghèo đang ngày một
dỗng rộng ra và ngăn chặn tình trạng phân cực giàu nghèo quá mức có thể là
nguy cơ đe dọa sự ổn định xã hội.
Tăng cường quản lý nhà nước. Thực hiện nghiêm nghị quyết trung ương
Đảng lần thứ IX, chủ trương chỉnh đốn Đảng, tạo ra sự thống nhất về quan
điểm, ý chí và hành động trong tồn Đảng, lãnh đạo tổ chức thực hiện, xây
dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh. Cần nhận thức
rằng: “Đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự
nghiệp đổi mới”.

13


KẾT LUẬN
Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan, phổ biến hình thành từ những
cấu trúc, thuộc tính bên trong vốn có tự than của tất cả các sự vật, hiện tượng,
quá trình trong bản thận thế giới khách quan. Do đó trong hoạt động thực tiễn

phân tích từng mặt độc lập tạo thành mâu thuẫn cụ thể để nhận thức được bản
chất khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật hiên tượng.
Cần nắm vững nguyên tắc để giải quyết mâu thuẫn. Đó là sự đấu tranh
giữa hai mặt đối lập diễn ra theo quy luật phá vỡ những cái cũ để thiết lập cái
mới tiến bộ hơn. Vì vậy, trong đời sống xã hội, mọi hành vi đấu tranh cần
được coi là chân chính khi thúc đẩy sự phát triển.
Trong thời kì chuyển nền kinh tế Việt Nam từ tập trung quan liêu bao cấp
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã
hội chủ nghĩa. Chủ trương lãnh đạo của Đảng là rất đúng đắn tuy nhiên trong
thực hiện còn nhiều thiếu sót, mâu thuẫn giữa các vấn đề nảy sinh, nhưng
những mâu thuẫn đó lại địi hỏi chúng ta phải giải quyết có như thế nền kinh tế
mới phát triển theo đúng nghĩa.

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ giáo dục và đào tạo (2016), Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác Lê-nin, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật.
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hà, Tư tưởng của Ph. Ăngghen về mâu thuẫn, , ngày
20/03/2021, />Trương Đình Tuyển, Kinh tế thị trường hiện đại theo định hướng XHCN là
gì?, ngày 22/03/2021, />GS, TS. Nguyễn Trọng Chuẩn (ngày 19-11-2020), Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và vấn đề con người - tiếp cận từ mục tiêu và động
lực của sự phát triển, Tạp chí Cộng sản.
Maiphuongdc, Mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, ngày 20/03/2021, />


×