Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

(TIỂU LUẬN) phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn từ ảnh hưởng của dòng di dân đi thực tế ở các vùng nông nước ta và các biện pháp khắc phục vấn đề tiêu cực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.89 KB, 31 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA KINH TẾ
 

Đề tài báo cáo:
Phát triển kinh tế xã hội ở nơng thơn từ ảnh hương của
dịng di dân đi. Thực tế ở các vùng nông nước ta và các
biện pháp khắc phục vấn đề tiêu cực
GVHD: Huỳnh Viết Thiên Ân
Mơn học: Dân số phát triển
Nhóm 2 thực hiện:
1, Võ Thị Thương Hoài
2, Nguyễn Thị An Khuyên
3, Hoàng Lê Anh Thư
4, Nguyễn Thị Bích Lệ
5, Lê Thị Xuân Thanh
Đà Nẵng, 03/04/2022


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................................................... 1
I. Tổng quan về di dân:................................................................................................................... 4
1. Khái niệm củủ̉a di dân.............................................................................................................. 4
2. Đặc điểm về di cư:................................................................................................................... 4
3. Các loại hình di dân:............................................................................................................... 5
II. Tác động thực tế củủ̉a việc di dân đối với sự phát triển củủ̉a vùng nơng thơn:.........................6
1.

Thực tế tình hình phát triển kinh tế xã hội ở vùng nông thôn tác động đến việc di dân:
6


2. Các hình thức di dân phổ biến củủ̉a người lao động ở nơng thơn.......................................... 8
2.1. Hình thức xuất khẩu lao động ở Việt Nam....................................................................... 8
2.1.1. lý thuyết về XKLĐ........................................................................................................... 8
2.1.2 Nguyên nhân việc lựa chọn xuất khẩu lao động:........................................................ 10
2.1.3. Thực trạng đi xuất khẩu lao động ở VN:..................................................................... 10
2.2 . Hình thức di dân ra các đô thị lớn................................................................................... 16
2.2.1. Nguyên nhân của di cư................................................................................................ 16
2.2.2 Thực trạng việc di cư, số lượng và đặc điểm nhân khẩu học.......................................18
2.2.3. Thời gian di cư............................................................................................................. 20
2.2.4. Tác động của quá trình di cư....................................................................................... 21
III, NHỮNG GIẢI PHÁP CHO VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI VỀ VIỆC DI CƯ Ở
NÔNG THÔN:.............................................................................................................................. 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................................ 29

Danh mục bảng biểu

Hình 1: Số liệu về XKLĐ ởViệt Nam........................................................................................... 11
Hình 2: Số liệu về số lượng lao động đi làm việc ở các quốc gia................................................ 11
Hình 3: Tỷ lệ thất nghiệp ở nông thôn phân theo vùng(Cục TKQG)........................................ 12

1


MỞ ĐẦU

Di dân là một hiện tượng xã hội phổ biến mà hầu hết quốc gia nào cũng
sẽ và phải đối mặt. Di dân mang trong mình tính quố gia và quốc tế. Di dân
diễn ra trong phạm vi không gian, thời gian với những hình thái cụ thể khác
nhau. Có di dân nội vùng, nội địa, có di dân quốc tế, di dân tự do và di dân có
tổ chức, có kế hoạch. Trong các dịng di dân đó có di dân tự do nơng thơn –

đơ thị.
Với q trình phát triển kinh tế xã hội nhanh chóng, trong vòng 20 năm
trở lại đây Việt Nam đã chứng kiến sự tăng theo cấp số nhân của dòng người
di cư trong nước và quốc tế. Càng ngày người ta càng nhận thấy rằng q
trình phát triển và di cư ln đi đôi với nhau. Di cư vừa là động lực thúc đẩy
lại vừa là kết quả của sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Ở Việt
nam quá trình phát triển kinh tế xã hội từ thời kỳ Đổi Mới vào năm 1986
chính là chất xúc tác cho dòng di cư trong nước gia tăng, người dân được tự
do di chuyển khỏi nơi ở của mình, và sự khác biệt về điều kiện sống giữa các
vùng ngày càng gia tăng cũng là động lực khiến người dân di cư. Di cư trong
nước đã góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội thông qua việc di chuyển
của người lao động nhằm đáp ứng nhu cầu lao động trong các khu công
nghiệp và trong các khu vực có vốn đầu tư nước ngồi đồng thời thơng qua đó
đã đóng góp vào phát triển kinh tế gia đình của số lượng lớn các gia đình có
người di cư.
Di cư trong nước có thể đóng góp nhiều hơn cho sự tăng trưởng kinh tế
cả ở cấp độ quốc gia và hộ gia đình. Di cư có thể đẩy mạnh mối quan hệ giữa
nơi đi và nơi đến, không chỉ đơn thuần thông qua số tiền người di cư gửi về,
mà còn qua việc chuyển giao kiến thức và kỹ năng, và vì thế góp phần làm
giảm sự khác biệt giữa các vùng. Hỗ trợ di cư còn là hỗ trợ quyết định của
mỗi cá nhân và gia đình về cuộc sống của họ, hay nói cách khác việc hỗ trợ
này sẽ đóng góp vào việc tạo sức mạnh về kinh tế vã xã hội cho người dân di
cư. Tuy nhiên vẫn còn rất nhiều thách thức đối với vấn đề này. Các thách thức
lớn nhất là đảm bảo các quyền cho người di cư nữ, nam, trẻ em trai và trẻ em
gái.
2


Các tác động cụ thể của di cư, cho dù là tác động tích cực hay tiêu cực
đối với quá trình di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển

kinh tế - xã hội ở Việt Nam phát triển phụ thuộc vào các môi trường chính trị,
kinh tế và xã hội, đồng thời phụ thuộc vào hành vi và nguồn lực của người di
cư và gia đình của họ. Di cư chứa đựng những tiềm năng đáng kể có lợi cho
sự phát triển kinh tế xã hội nhưng để có thể khai thác tiềm năng này, cần phải
xây dựng các chính sách đồng bộ dựa trên sự hiểu biết đầy đủ về các dòng di
cư, quy mô và các đặc điểm nhân khẩu học của di cư trong nước. Cần có hiểu
biết về kinh nghiệm của người di cư, và tác động của những di chuyển này tới
các địa phương nơi đi và nơi đến.
Tuy nhiên, hầu hết các số liệu cấp quốc gia và các dữ liệu có quy mơ
lớn về di cư trong nước ở Việt Nam chưa thống kê được đầy đủ và chính xác.
Có thể do phương pháp chọn mẫu và khái niệm về phạm vi di cư sử dụng
trong các cuộc điều tra là khác nhau hoặc có một số lượng lớn người di cư
một mình và các hộ gia đình di cư chưa được tính trong cuộc điều tra.
Vì nhận thấy được tầm quan trọng của vấn đề di cư sẽ ảnh hưởng đến
quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn như thế nào nên nhóm 2 đã
chọn đề tài này để tìm hiểu và tìm ra những giải pháp trong vấn đề di cư ở
nơng thơn ảnh hưởng đến q trình phát triển – xã hội.

3


I. Tổng quan về di dân:
1. Khái niệm củủ̉a di dân
- Theo nghĩa hẹp: di dân là sự di chuyển dân cư từ một đơn vị lãnh thổ đến
một đơn vị lãnh thổ khác, nhằm thiết lập nơi cư trú mới trong một khoảng
thời gian nhất định.
-

Theo nghĩa rộng: di dân là sự chuyển dịch bất kì của con người trong một


không gian
-

Trong nghiên cứu di cư một số khái niệm cần quan tâm là:
Nơi đi: Còn gọi là nơi xuất cư, là địa điểm cư trú trước khi một người
rời đi nơi khác sinh sống.
Nơi đến: Là điểm kết thúc quá trình di chuyển, là địa điểm mà một
người dừng lại để sinh sống. Nơi và địa điểm ở đây là ám chỉ một lãnh
thổ, một đơn vị hành chính nhất định.
Người xuất cư hay cịn gọi là người di cư đi là người rời nơi đang sinh
sống để đi nơi khác
Người nhập cư hay còn gọi là người di cư đến là người đến nơi mới để
sinh sống
Luồng (dòng) di cư là tập hợp người đi ra khỏi vùng đang sinh sống và
đến cùng một vùng mới để cư trú theo những hướng nhất định vào
những khoảng thời gian xác định.
Chênh lệch giữa số người đến và số người đi trong cùng một lãnh thổ,
đơn vị hành chính trong cùng một khoảng thời gian nhất định được gọi
là di cư thuần túy.

2. Đặc điểm về di cư:
Có rất nhiều nguyên nhân khiến người dân có thể di cư từ nơi này đến nơi
khác để sinh sống. Mỗi cá nhân có những quyết định khác nhau phụ thuộc vào
nhiều yếu tố. Các yếu tố đó gồm:
4


-

Các đặc trưng nhân khẩu học như: Tuổi, giới tính. Các đặc trưng này quyết


định vị trí của mỗi cá nhân trong chu kỳ cuộc sống và vai trò của họ trong
gia đình và xã hội.
-

Trình độ chun mơn, kỹ năng nghề nghiệp của từng người. Ở đây có thể

hiểu là trình độ học vấn và trình độ chun mơn kỹ thuật. Các trình độ, kỹ
năng này có thể giúp hoặc ngăn cản họ tham gia vào lực lượng lao động ở
địa phương nơi đi và nơi đến.
-

Sự nắm bắt và nhận thức về các cơ hội tại địa phương nơi họ đang sinh

sống và những địa phương nơi họ dự định ra đi. Điều này sẽ thúc đẩy họ ra
đi hay ở lại.
-

Nhận thức về lối sống, điều kiện vật chất. Đây là những điều cá nhân mong

muốn đạt được. Điều này cũng là những yếu tố góp phần hình thành quyết
định di cư.
-

Người thân và bạn bè cũng có thể ảnh hưởng tới quyết định di cư của mỗi

cá nhân. Người ta thường chọn chuyển đến những nơi bạn bè và người thân
đang sống. Đây là một hình thức di cư gọi là di cư dây truyền. Do di chuyển
theo dây chuyền, các dòng di cư từ một vùng này đến một vùng khác có thể
tiếp tục diễn ra khá lâu, ngay cả khi lý do lựa chọn ra đi ban đầu khơng cịn

nữa.
3.

Các loại hình di dân:
Theo khoảng cách:

Theo địa bàn nơi đến:
-

Di dân quốc tế: +

Di dân hợp pháp

+ Di dân bất hợp
pháp + Cư trú tị nạn
+ Chảy máu chất xám
+ Buôn bán người qua biên giới
5


- Di chuyển nội địa:
+

Di dân nông thôn_thành thị

+

Di dân nông thôn_nông thôn

+


Di dân thành thị_nông thôn

+

Di dân thành thi_thành thị

Theo độ dài thời gian cư
trú: -Di chuyển lâu dài
-Di chuyển tạm thời
-Ngoài ra: di dân mùa vụ, di chuyển con lắc
Theo đặc trưng di
dân: -Di dân có tổ chức
-Di dân tự phát

Tác động thực tế củủ̉a việc di dân đối với sự phát triển củủ̉a
vùng nơng thơn:
AI.

Thực tế tình hình phát triển kinh tế xã hội ở vùng nơng thôn
tác động đến việc di dân:
Đặc điểm nền kinh tế ở nông thôn:

1.
-

+

Cơ cấu dân số đa dạng, nguồn lao động dồi dào, giá rẻ


+ Khu

vực nơng thơn có việc làm nhưng khơng bền vững, mang tính thời

vụ
+

Phần lớn là lao động tay chân, khơng có kinh nghiệm

+ Nên

phát triển những ngành nghề thu hút nhiều lao động phổ thông, ít

đầu tư chất xám
+ Nhà

nước cần chú ý đầu tư hạ tầng, cơ sở vật chất phục vụ người dân và

tăng cường chính sách hỗ trợ để người nơng dân chăm lo đời sống.
-

Tác động củủ̉a việc di dân:
Tác động tích cực:
Góp phần phát triển kinh tế gia đình ở địa phương nơi đi qua đó làm
thay đổi bộ mặt làng quê ở nơi đi. Tác động tích cực của người di cư
6


đối với gia đình và địa phương nơi đi được đánh giá qua số tiền gửi về
gia đình, sử dụng tiền gửi của gia đình vào phát triển kinh tế, giáo dục

và chăm sóc sức khỏe cho các thành viên trong gia đình và đầu tư
phát triển kinh tế ở địa phương.
Góp phần phát triển kinh tế ở địa phương, người di cư cịn góp phần
phát triển kinh tế ở địa phương thơng qua việc người di cư có thu
nhập cao đầu tư về phát triển ngành nghề ở địa phương. Nhiều người
di cư đã học được kinh nghiệm sản xuất ở nơi đến, khi trở về quê họ
mở ngành nghề mới thu hút lao động địa phương qua đó cải thiện đời
sống cho người lao động ở quê nhà.
-

Tác động tiêu cực:
Thiếu lao động tại địa phương nơi đi: Khi người di cư tìm việc làm
một cách ồ ạt, do đặc trưng chủ yếu của người di cư là những người
trong độ tuổi lao động, nên ở lại nông thơn chỉ cịn phụ nữ mang thai,
ni con nhỏ và những người đã hết tuổi lao động, sức yếu không thể
đi làm ngoại tỉnh. Điều này làm cho những người cao tuổi phải vất vả
thêm, phải làm cả việc đồng áng mà đáng lẽ đến tuổi nghỉ hưu (trên
60 tuổi) họ khơng cịn phải làm nữa. Thậm chí có người đã đến 70
tuổi rồi vẫn còn phải làm việc trên đồng ruộng. Một số gia đình do
những người trong độ tuổi lao động di cư tìm việc làm nơi khác, nên
trẻ em dưới 14 tuổi đã phải thay thế cha mẹ làm việc.
Một số lối sống đô thị không phù hợp với truyền thống đã du nhập
vào cuộc sống hàng ngày ở nơi đi: Những nét văn hoá lối sống của đô
thị không phù hợp với truyền thống ở nông thôn đã được thanh niên di
cư mang về như nhuộm tóc màu, trang phục kiểu lố lăng. Điều này
làm cho những người quen sống ở nơng thơn khó chịu và cho là làm
mất thuần phong mỹ tục ở nông thôn. Ngay cả cha mẹ của thanh niên
di cư cũng không chấp nhận lối sống đó nên thường xảy ra mẫu thuẫn
trong gia đình giữa hai thế hệ.
7



Một tác động tiêu cực nữa cần phải kể đến, là một số nữ thanh niên
đã có quan hệ tình dục tiền hơn nhân và mang thai ngồi giá thú. Số
nữ thanh niên này quay về quê cũ tìm sự giúp đỡ của gia đình. Làm
cho gia đình ở nơi đi khơng chỉ chịu thiệt thịi về kinh tế mà còn là
gánh nặng tâm lý đối với họ, trước những dị nghị của những người
xung quanh.
Nhiều thanh niên di cư mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục,
HIV/AIDS tạo ra gánh nặng về chăm sóc về y tế, về tinh thần cho gia
đình.
Nhiều trẻ em đã chịu những cú sốc tâm lý khi cha mẹ chúng di cư tìm
việc làm ở nơi khác khơng thể chăm sóc chúng hàng ngày. Các biểu
hiện cụ thể là: Kết quả học tập kém đi, không nghe lời ông bà hoặc
người đỡ đầu. Thậm chí có một số ít thanh thiếu niên, do thiếu vắng
sự chăm sóc của cha mẹ đã có hành động vi phạm pháp luật như: trộm
cắp; sử dụng ma túy…
Một số cặp vợ chồng đã ly hôn sau thời gian xa cách vì nhiều lý do:
Khơng cịn phù hợp về lối sống, nghi ngờ vợ (chồng) khơng chung
thủy…
Các hình thức di dân phổ biến củủ̉a người lao động ở nơng thơn
2.1. Hình thức xuất khẩu lao động ở Việt Nam
2.1.1. Lý thuyết về XKLĐ
- Khái niệm: Xuất khẩu lao động Việt Nam ra nước ngoài, thường gọi tắt là
2.

Xuất khẩu lao động Việt Nam, là hoạt động kinh tế dưới hình thức cung ứng
lao động Việt Nam ra nước ngồi theo hợp đồng có thời hạn, phục vụ cho nhu
cầu nhân cơng lao động của doanh nghiệp nước ngồi.
-


Đặc điểm:
Đối tượng của hợp đồng lao động này là “sức lao động” một loại hàng
hóa đặc biệt, khơng được định hình dưới hình dạng cụ thể mà được xác
8


định thơng qua khả năng hồn thành cơng việc của người lao động, sức
khỏe, trí lực, trình độ chun mơn tay nghề của người lao động.
Đây là hợp đồng có tính chất xuyên quốc gia. Các bên tham gia ký kết
hợp đồng lao động sẽ đến từ các quốc gia, vùng lãnh thổ khác nhau.
Xuất khẩu lao động là xu hướng của toàn cầu. Hiện nay xu hướng dịch
chuyển lao động ngày càng phổ biến, việc người sử dụng lao động địi hỏi
trình độ lao động có tay nghề cao ngày càng nhiều mà trình độ lao động
trong nước nhiều khi khơng thể đáp ứng được, khi đó việc sử dụng lao
động được cung ứng bởi thị trường lao động nước ngoài là rất cần thiết.
Đây là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển cũng như thúc đẩy
người lao động tự mình nâng cao năng lực của bản thân trước sự cạnh tranh
ngày càng khốc liệt của thị trường lao động.
Các hình thức xuất khẩu lao động:
Người lao động xuất khẩu lao động theo hình thức hợp đồng được ký kết
với doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở
nước ngoài.
Hợp đồng đi làm việc ở nước ngoài với doanh nghiệp trúng thầu, nhận
thầu hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngồi có đưa người lao động
đi làm việc ở nước ngoài.
Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngồi theo hình thức
thực tập nâng cao tay nghề với doanh nghiệp đưa người lao động đi làm
việc dưới hình thức thực tập nâng cao tay nghề.
Hợp đồng cá nhân: Các quốc gia mà người lao động Việt Nam hướng

đến: Hàn Quốc, Đài loan, Nhật bản, Singapore… Và ở đây các ngành
nghề người lao động Việt Nam sang làm chủ yếu là ngành Cơ Khí, Xây
dựng, Chế biến thực phẩm, ngành ô tô…

9


2.1.2 Nguyên nhân việc lựa chọn xuất khẩu lao động:
Tình trạng lao động nông thôn thiếu việc, mất việc làm. Vấn đề lao động
và việc làm ở nông thôn vốn tồn tại từ nhiều năm nay, nhất là vào thời
điểm hiện nay, do tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới, khơng ít
doanh nghiệp phải ngừng sản xuất, cơng nhân mất việc làm, tạo ra một
dòng di chuyển lao động về nông thôn. Hiện tượng lao động mất việc về
quê không chỉ xảy ra tại các tỉnh miền núi xa xơi, mà đang có chiều
hướng gia tăng ở ngay các vùng được coi là vựa lúa của cả nước, hay
trong vùng kinh tế trọng điểm với các khu công nghiệp (KCN), cụm
công nghiệp (CCN).
Các nước kinh tế phát triển có tốc độ tăng trưởng GDP cao, nhưng tốc
độ tăng dân số thấp, dẫn đến thiếu hụt về nguồn nhân lực, có nhu cầu về
nhập khẩu lao động, trong khi các nước chậm phát triển hoặc đang phát
triển cần đầu tư mở rộng sản xuất, tạo thêm việc làm, giải quyết nạn thất
nghiệp, bổ sung nguồn thu ngân sách và thu nhập cho người lao động,
rất cần đưa lao động ra nước ngoài làm việc.
Do sự chênh lệch về giá trị đồng tiền giữa các quốc gia nên số tiền
lương được quy đổi về tiền Việt là rất lớn. Điều này sẽ giúp việc người
lao động sẽ tích luỹ được một số vốn khá lớn sau khi trở về lại Việt
Nam. Đây có lẽ chính là điểm thu hút nhất và quan trọng khiến nhiều
người lựa chọn việc đi xuất khẩu lao động.
2.1.3. Thực trạng đi xuất khẩu lao động ở VN:
Theo số liệu thống kê, năm 2022 cả nước đưa đi được 134.751 lao động

(trong đó, có 53.340 lao động nữ, chiếm 39,6%); vượt 28,3% so với kế hoạch
năm và bằng 106,7% so với tổng số lao động đi làm việc ở nước ngoài trong
năm 2022

10


Hình 1: Số liệu về XKLĐ ởViệt Nam
Đây là năm thứ tư liên tiếp số lượng lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài vượt mức 100.000 lao động/năm. Đặc biệt, thị trường Nhật Bản có
sự tăng trưởng vượt bậc với 54.504 lao động (24.502 lao động nữ). Các thị
trường khác, cụ thể: Đài Loan: 66.926 lao động (23.530 lao động nữ); Hàn
Quốc: 5.178 lao động (473 lao động nữ); Ả rập - Xê út: 3.626 lao động (3.447
lao động nữ); Malaysia: 1.551 lao động; còn lại là các thị trường khác: 3.016
lao động.

Hình 2: Số liệu về số lượng lao động đi làm việc ở các quốc gia
2.1.4. Tác động củủ̉a việc XKLĐ đến sự phát triển về kinh tế xã hội vùng
nơng thơn


Ảnh hưởng tích cực:

11


-

Việc người di cư bằng hình thức ra khỏi vùng nơng thơn đi xuất khẩu lao
động thì sẽ làm giảm gánh nặng dân số và tạo việc làm ở vùng nơng thơn.

Hiện nay, ở các vùng nơng thơn có lượng dân số khơng có việc làm khá cao
hơn so với thành thị hay các thành phố lớn.Vào năm 2020, tổng số lao động ở
vùng nông thôn là 36671007 chiếm 66,9% lực lượng lao động của cả nước.
Tuy nhiên theo tổng cục thống kê, tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực nơng thơn năm
2020 là 1.75%.Trong đó Đồng bằng sơng Hồng có tỉ lệ TN là 1,45%, Trung
du và miền núi phía Bắc là 0,67%. Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền
Trung là 2,14%. Vùng Tây Nguyên là 1,29% và Vùng Đông Nam Bộ là 2,2%.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long là vùng có tỉ lệ TN cao nhất với 2,53%

Hình 3: Tỷ lệ thất nghiệp ở nơng thơn phân theo vùng(Cục TKQG)
Vì cơ bản, các vùng nơng thơn chưa được để ý đến nhiều nên khơng có nhiều
doanh nghiệp/xí nghiệp/cơng ty đặt vị trí làm việc ở nơng thơn. Điều này làm
cho tỷ lệ thất nghiệp ở vùng nông thôn cao hơn so với ở thành thị. Dẫn đến
việc người dân ở nông thôn mong muốn được ra nước ngoài làm việc, khi
tham gia lực lượng lao động xuất khẩu, họ có thể nhận được việc làm với mức
thu nhập cao hơn so với làm việc tại nông thôn. Khơng dừng lại ở đó, việc này
cũng tạo thêm cơ hội cho những người dân khác đang thất nghiệp ở nông

12


thơn được người đi trước giới thiệu/hướng dẫn để tìm thấy công việc phù hợp.
Điều này sẽ giảm thiểu con số thất nghiệp ở vùng nông thôn.
-

Xuất khẩu lao động quốc tế giúp tăng thêm nguồn thu ngoại tệ, tăng tài sản
cá nhân.
Khi lao động ra nước ngoài làm việc, tất nhiên là họ có thu nhập, hơn nữa thu
nhập cao hơn làm việc trong nước. Thông thường, người Việt Nam đi làm
việc ở nước ngồi có thu nhập rịng cao hơn làm việc trong nước khoảng 3

lần. Nhờ có thu nhập ròng cao, người lao động gửi khoản tiền đó về gia đình
làm khoản tiết kiệm. Theo ước tính của Ngân hàng Nhà nước và Bộ Lao động
- Việt Nam, năm 2007, chỉ riêng lao động Việt Nam ở nước ngoài chuyển về
nước khoảng 2 tỷ USD3. Khoản tiền người lao động gửi về nhà được chia là
hai phần: một phần gia đình chi tiêu vào việc nâng cao mức sống, chăm sóc
sức khỏe của gia đình đặc biệt là chi tiêu cho việc học tập của con cái góp
phần nâng cao dân trí; một phần lớn dành để tiết kiệm nhằm mục đích đầu tư
trong tương lai.Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, bình quân hàng
năm, mỗi lao động tiết kiệm được xấp xỉ 4.000 USD. Nếu người lao động đi
làm việc 5 năm ở nước ngồi, họ có thể tiết kiệm được 20.000 USD đây là
khoản tiền có thể giúp gia đình tự đầu tư hoặc góp vốn sản xuất sản xuất kinh
doanh. Điểu này sẽ góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế ở vùng nơng
thơn nói riêng và cả nước nói chung.

-

Người xuất khẩu lao động góp phần thiết lập những mối quan hệ chặt chẽ
giữa hai quốc gia, tạo điều kiện thuận lợi trong trao đổi thương mại, tăng
cường hợp tác về chính trị, văn hố, khoa học - kĩ thuật của hai quốc gia.
Chúng ta có thể nói đến việc các nhà máy của các doanh nghiệp lớn ở Hàn,
Nhật… Khi đầu tư và đặt vị trí nhà máy ở Việt Nam. Vì lượng người xuất
khẩu lao động ở nước mình sang các nước như Hàn, Nhật… khá nhiều chiếm phần lớn lượng lao động xuất khẩu ở các nước. Nhận thấy một thị
trường lao động tiềm năng đã thúc đẩy các nước như Hàn, Nhật… đặt nhà
máy và đầu tư cho Việt Nam. Điều này đã tạo điều kiện công ăn việc làm, cải
13


thiện đời sống tại các vùng nơng thơn (vì đại đa số thì các nước này đặt các
nhà máy tại các vùng nơng thơn vì nguồn nhân cơng giá rẻ, chi phí ít). Mở ra
mối quan hệ hợp tác giữa nước đầu tư và nước nhận đầu tư, sự giao lưu văn

hoá giữa hai quốc gia. Đồng thời, Việt Nam chúng ta cịn có thể học hỏi được
những kiến thức về khoa học - kĩ thuật của các nước đang phát triển.
-

Người xuất khẩu lao động góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại
vùng nông thôn.
Khi số lượng lớn/nhỏ người lao động di chuyển ra nước ngoài làm việc thì họ
được tiếp nhận những cơng nghệ tiên tiến và những kiến thức hiện đại, có ý
thức kỷ luật và lối sống văn minh hơn, trình độ ngoại ngữ và tay nghề, kỹ
năng nghề nghiệp của người lao động cũng dần được nâng cao. Do vậy, các
vùng nông thôn có thể tiết kiệm được chi phí đào tạo nguồn nhân lực. Đồng
thời, khi những người lao động này quay trở về nông thôn, họ sẽ mang theo
những kiến thức và các kỹ năng mà họ được tích lũy và rèn luyện ở nước
ngồi để áp dụng vào q trình sản xuất, kinh doanh mà họ tham gia ở nông
thôn. Điều này góp phần thúc đẩy năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và
đóng góp tích cực giúp nền kinh tế tại vùng nông thôn tăng trưởng.
 Ảnh hưởng tiêu cực:

-

Sự di chuyển của những người lao động sang Quốc gia khác sẽ làm giảm
nguồn cung nhân lực tại nơng thơn, là một trong những nguồn lực có ý nghĩa
quan trọng đóng góp và tăng trưởng và phát triển của nơng thơn. Một nơi có
thể để thu hút được nhiều nhà đầu tư, nhiều doanh nghiệp, xí nghiệp chọn làm
nơi làm việc là nơi đó có thể có nguồn nhân lực dồi dào, giá thành nhân công
rẻ. Mà nông thôn là vùng đất lý tưởng để đáp ứng những tiêu chí trên. Nếu thu
hút các nhà đầu tư thuận lợi thì sẽ kéo theo tiếng vang lớn đến các nhà đầu tư
khác sẽ tham gia vào vùng đất đó. Điều này sẽ thúc đẩy nhanh quá trình phát
triển kinh tế - xã hội tại vùng nông thôn. Tuy nhiên, việc người dân có khả
năng lao động tại vùng di dân đi xuất khẩu lao động thì sẽ dẫn đến nông

14


thôn thiếu đi lượng người lao động. Điều này sẽ không đáp ứng được nhu cầu
của các doanh nghiệp/người đầu tư vì tại nơng thơn đã thiếu đi lượng người
làm việc và các nhà doanh nghiệp/người đầu tư sẽ không chọn vùng đất nông
thôn làm nơi làm việc. Dẫn đến việc vấn đề tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội tại nơng thơn sẽ khó mà có thể phát triển mạnh mẽ.
-

Việc lợi dụng những người lao động không biết nhiều thông tin về vấn đề xuất
khẩu lao động cũng như mong muốn lựa chọn những quốc gia có mức thu
nhập cao để lừa đảo. Những người lao động này thường sẽ phải trả một
khoản phí rất lớn, hàng trăm triệu đồng với mong muốn có thể kiếm được một
mức thu nhập cao với quy trình đơn giản. Thậm chí nhiều người cịn bất chấp
luật pháp, lựa chọn việc đi xuất khẩu lao động “chui”. Sau khi phát hiện bị lừa
thì họ đã mang trên mình một khoản nợ lớn, điều này sẽ gây cản trở rất lớn
đến đời sống của người lao động. Nhiều người thậm chí có thể vì vậy mà chán
nản, lâm vào các tệ nạn xã hội. Điều này gây ảnh hưởng rất lớn đến sự phát
triển của toàn xã hội

-

Xuất khẩu lao động có thể gây ra những vấn đề tiêu cực cho xã hội ở nông
thôn như việc mất cân bằng giới tình. Vì đại đa số tỷ lệ nam giới tham gia
xuất khẩu lao động nhiều hơn so với nữ giới. Điều này dẫn đến tình trạng một
gia đình sẽ thiếu đi một người con trai làm chỗ dựa cho ba mẹ, một người
chăm sóc/chăm lo cho bố mẹ, một người anh chăm sóc/dạy dỗ cho các em
mình, một người chồng và một người bố. Những sự thiếu hụt trong gia đình sẽ
làm thiếu đi tình cảm gia đình, dễ dẫn tới những mâu thuẫn trong gia đình hay
cộng đồng.


-

Người đi xuất khẩu lao động sẽ bị tổn thương về tinh thần. Việc người lao
động từ một quốc gia này sang một quốc gia khác dễ dẫn đến tình trạng “bắt
nạt” hay “phân biệt đối xử”, dù rằng nó khơng thường xun xảy ra nhưng nó
có thể ln xuất hiện đối với bất kì ai đi xuất khẩu lao động. Điều này sẽ dẫn
đến người đi xuất khẩu lao động cảm thấy bị tự ti, buồn bã, chán nản hay nghĩ
đến những điều tồi tệ. Bên cạnh đó, bản thân nhiều người lao động chưa nắm
15


rõ chính sách về lương, bảo hiểm, nhà ở của nước mà họ đến làm việc và sự
khác biệt về ngơn ngữ/văn hóa đã hạn chế và gặp khó khăn nhiều đến việc
hiểu biết và chấp hành pháp luật tại nước họ đến làm việc. Việc họ không thể
hiểu rõ về những quyền, lợi ích hợp pháp của mình sẽ dễ bị vi phạm pháp luật
tại đất nước đó. Và không biết vận dụng luật pháp nước họ để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình. Chính những điều này đã dẫn đến nhiều người
xuất khẩu lao động có khuynh hướng sống khép kín hơn, cùng với việc phải
sống xa gia đình trong mơi trường hồn tồn mới khiến họ dễ gặp các vấn đề
về tâm lý.
2.2 . Hình thức di dân ra các đơ thị lớn.
2.2.1. Ngun nhân của di cư
Di cư trong nước không phải là một hiện tượng mới trong xã hội Việt
Nam mà đây là một phần của lịch sử. Sau khi thống nhất đất nước năm 1975
đã có một sự di chuyển dân số lớn từ thành phố về các khu vực nông thôn. Xu
thế di cư này một phần là do chương trình tái định cư theo kế hoạch của Nhà
nước đưa cư dân thành phố về các khu vực kinh tế mới và một phần lý do
khác là người dân trở về nơi cư trú cũ của mình sau chiến tranh. Kể từ những
năm 1970 trở đi, các chương trình di chuyển có sự hỗ trợ của Nhà nước đưa

người vào các khu kinh tế mới vẫn tiếp tục và tạo thành một loại hình di cư
chính trong nước ở Việt Nam.. Những năm 1990 chứng kiến sự thay đổi trong
các chính sách di cư có tổ chức của Chính phủ. Các chương trình di cư khơng
cịn tập trung vào các vùng kinh tế mới nữa mà chuyển sang các chương trình
tái định cư lồng ghép với chương trình phủ xanh đất trống đồi trọc và các
chương trình phục hồi ven biển.Tuy nhiên bên cạnh các chương trình di cư
theo kế hoạch của Chính phủ, trong giai đoạn này hiện tượng di dân tự do
trong nước cũng bắt đầu phát triển. Những sự di chuyển này nằm ngoài kế
hoạch của Nhà nước và liên quan tới tác động của chính sách Đổi Mới trong
những năm 1980 và là điểm khởi đầu cho quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế
16


tập trung sang nền kinh tế theo định hướng thị trường. Những cải cách này
làm giảm nhẹ một số điều kiện mà trước đây vẫn hạn chế sự di chuyển, cụ thể
là xóa bỏ hệ thống bao cấp liên quan chặt chẽ với việc đăng ký hộ khẩu của
hộ gia đình và bắt đầu áp dụng cơ chế khốn cho hộ gia đình. Chính điều này
khiến người nơng dân khơng cịn bị bó buộc với ruộng đồng nữa và đồng thời
bắt đầu tạo nên thị trường đất đai, từ đó cho phép người dân linh hoạt hơn khi
di chuyển sau khi chuyển nhượng hoặc cho thuê lại đất đai của mình.
Việc di cư trong nước có thể được phân chia thành nhiều giai đoạn. Giai
đoạn đầu diễn ra trong các xã hội truyền thống trong đó quy mơ di dân bị hạn
chế. Sau đó đến giai đoạn chuyển tiếp đặc trưng bởi sự ra tăng nhanh về mức
độ di dân ( đặc biệt là di dân nông thôn - đô thị) trong giai đoạn tiền cơng
nghiệp hố. Sau cùng, di dân ra đơ thị đạt đến ngưỡng bão hồ ở các xã hội
hiện đại, được thay thế bởi quá trình phi đơ thị hố với sự mở rộng các hình
thái di chuyển quốc tế và đến các khu vực ngoại ô.
Sự di chuyển dân số thường được lý thuyết hoá từ nhiều khu vực truyền
thống lan truyền sang khu vực hiện đại của nền kinh tế, nơi mức tiền lương
cao hơn nhiều hơn. Trong giai đoạn kinh tế khủng hoảng và đình đốn, các

dịng di dân lao động hướng vào khu vực kinh tế phi chính thức, Điều này xảy
ra ngay cả trong những quốc gia phát triển, ở đó các khu vực truyền thống và
hiện đại vẫn đan xen với nhau. Cũng từ các tiếp cận kinh tế, người ta đã xem
xét q trình di dân từ hai phía là cung và cầu. Sự tồn tại nhu cầu lao động
dịch vụ ở khu vực đầu đến là nguyên nhân dẫn đến sự ra tăng khả năng cung
cấp lao động và dịch vụ thông qua di cư.
Động lực dẫn đến di dân bị chi phối chủ yếu bởi các yếu tố kinh tế, văn
hoá, xã hội ở những cấp độ khác nhau. Sự chênh lệch về mức sống và cơ hội
phát triển giữa các vùng miền là nguyên nhân dẫn đến q trình di dân. ở cấp
độ vi mơ, người di chuyển ra đi với hi vọng có được một cuộc sống tốt đẹp
hơn tại nơi ở mới. Có 4 nhóm yếu tố cơ bản quyết định việc ra đi của người di
cư: đó là những nhân tố cơ bản liên quan đến đầu đi, đầu đến, các trở lực
17


trung gian ngăn cách giữa đầu đi và đầu đến, những yếu tố mang tính các
nhân của người di chuyển: Lực hút - đẩy, tại đầu đi và đầu đến
+

Các lực hút tại các vùng có dân chuyển đến bao gồm:
-

Đất đai màu mỡ, tài nguyên phong phú, khí hậu ôn hoà, môi trường

sống thuận lợi hơn.
-

Cơ hội sống thuận tiện, dễ kiếm việc làm, thu nhập cao, điều kiện sinh

hoạt ổn định, có triển vọng cải thiện đời sống hơn…

+

Mơi trường văn hố - xã hội tốt hơn nơi ở cũ.

Các lực đẩy tại những vùng dân chuyển di có thể là do:
-

Điều kiện sống quá khó khăn, thu nhập thấp, khó kiếm việc làm.

-

Đất canh tác ít, bạc màu, khơng có vốn và kỹ thuật để chuyển đổi

nghành nghề, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện đời sống.
-

Mong muốn tìm đến vùng đất “hứa” có khả năng kiếm việc làm, tăng

thu nhập, học hành của con cái, muốn cải thiện đời sống.
-

Do nơi ở cũ bị giải toả, di dời, xây dựng đường xá hay các công trình

cơng cộng.
Ngồi ra cịn có những ngun nhân mang bản chất xã hội nhưng tồn tại
ở cấp các nhân như:
-

Muốn gần gũi, liên hệ với thân nhân, đoàn tụ gia đình.


-

Bị mặc cảm, định kiến của xã hội khơng muốn ở lại cộng đồng nơi cư

trú, mong muốn đến nơi ở mới nhằm thay đổi môi trường xã hội và xây
dựng các mối quan hệ xã hội tốt đẹp hơn.
-

Tuổi, giới tính, dân tộc, trình độ học vấn, tình trạng hơn nhân, nghề

nghiệp, mức thu nhập…quyết định tính chất tuyển chọn của di dân.
2.2.2 Thực trạng việc di cư, số lượng và đặc điểm nhân khẩu học.
- Cả nước có 6,4 triệu người từ 5 tuổi trở lên là người di cư, chiếm 7,3% tổng
dân số, thấp hơn so với năm 2009 (6,7 triệu người di cư, chiếm 8,5% dân số).
Nữ giới vẫn chiếm tỷ lệ cao hơn nam giới trong tổng dân số di cư nhưng sự
18


khác biệt này đang dần thay đổi theo hướng cân bằng. Phần lớn người di cư
thuộc nhóm tuổi trẻ từ 20-39 tuổi (chiếm 61,8% tổng số người di cư). Hầu hết
người di cư là vì lý do kinh tế bao gồm những người tìm việc làm, những
người muốn tăng thêm thu nhập và nâng cao điều kiện sống và những người
di cư theo gia đình có mục đích nêu trên. Gần đây đã có một số chương trình
tái định cư vì các lý do mơi trường ví dụ như do thiên tai và thay đổi khí hậu.
-

Tây Nguyên chuyển từ vùng nhập cư trở thành vùng xuất cư (với tỷ suất di

cư thuần là -12‰). Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ là hai vùng nhập
cư lớn nhất cả nước. Đặc biệt, Đông Nam Bộ, vùng kinh tế phát triển với các

khu công nghiệp lớn, tiếp tục là điểm đến thu hút nhất đối với người di cư với
1,3 triệu người nhập cư. Tỉnh Bình Dương có tỷ suất di cư thuần dương cao
nhất (200,4‰) trong số 12 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có tỷ suất di
cư thuần dương; tỉnh Sóc Trăng có tỷ suất di cư thuần âm cao nhất (-75,0‰).
-

Trẻ em di cư thiệt thòi hơn trẻ em không di cư trong việc tiếp cận giáo dục

cấp trung học cơ sở và trung học phổ thơng; đặc biệt, trẻ em trong nhóm di cư
ngoại tỉnh chịu thiệt thòi hơn so với trẻ em ở các nhóm di cư khác trong việc
tiếp cận giáo dục ở tất cả các cấp. Năm 2019, có tới 83,9% trẻ em không di cư
trong độ tuổi 11-18 đang đi học nhưng chỉ có 55,7% trẻ em di cư ngoại tỉnh
trong nhóm nhóm tuổi này đang đi học.
-

Trình độ chun mơn kỹ thuật (CMKT) của người di cư đã cải thiện so với

10 năm trước, tăng từ 22,9% năm 2009 lên 37,2% năm 2019 và cao hơn so
với người không di cư. Năm 2019, tỷ lệ người di cư có trình độ CMKT cao
hơn 17,5 điểm phần trăm so với người không di cư.
-

Trong tổng số lao động di cư đang làm việc trong nền kinh tế, có tới 91,4%

người di cư làm ở khu vực dịch vụ, công nghiệp và xây dựng. Tỷ lệ này ở
người di cư cao hơn so với người không di cư, đặc biệt tỷ trọng người di cư
làm trong khu vực công nghiệp và xây dựng cao gần gấp đôi tỷ trọng người
không di cư làm trong cùng khu vực (44,9% so với 27,7%).

19



-

Tỷ lệ thất nghiệp của người di cư cao hơn người không di cư (2,53% so với

2,01%). Nữ giới di cư có tỷ lệ thất nghiệp cao hơn nam giới di cư, lần lượt là
2,82% và 2,20%. Trong số những người di cư đang thất nghiệp, hơn hai phần
ba (69,7%) là những người di cư tới thành thị và chỉ có một phần ba là những
người di cư tới nơng thôn.
-

Điều kiện về nhà ở của người di cư tốt hơn người không di cư với tỷ lệ

người sống trong nhà thiếu kiên cố hoặc đơn sơ của hai nhóm này tương ứng
là 2,8% và 7,3%. Tuy nhiên, diện tích nhà ở bình quân đầu người của người di
cư lại thấp hơn của người không di cư (tương ứng là 21,9m2/người và
25,4m2/người) với gần một nửa người di cư phải đi thuê/mượn nhà để ở.
-

Có mối quan hệ chặt chẽ giữa di cư và đơ thị hóa. Người nhập cư từ 5 tuổi

trở lên chiếm 12,3% dân số của các đô thị. Áp lực nhập cư đối với đô thị đặc
biệt là lớn nhất, cứ 1000 người sống tại các đơ thị đặc biệt thì có tới gần 200
người là người nhập cư, cao gấp 2,7 lần mức chung của cả nước.
2.2.3. Thời gian di cư
- Di cư trong nước ở Việt Nam bao gồm di cư lâu dài, di cư ngắn hạn (di cư tạm thời)

hay di cư mùa vụ. Di cư mùa vụ thường là các gia đình ở nơng thơn có người di cư
trong thời gian nơng nhàn để kiếm thêm thu nhập. Số liệu điều tra mức sống hộ gia

đình năm 2004 và năm 2006 cho thấy khoảng 3,3% các cá nhân được phỏng vấn có di
chuyển trong 6 tháng hoặc ít hơn 6 tháng trong năm. Các đối tượng này được coi là
người di cư mùa vụ. Các số liệu này cũng cho biết có 11,9% các hộ gia đình có người
di cư mùa vụ . Di cư con lắc hoặc di cư tạm thời là một đặc điểm đang tăng trong xu
hướng di cư và thời gian có thể dao động từ di chuyển hàng tuần tới vài năm và có ý
định quay trở lại. Có thể một số người di cư được ghi nhận trong cuộc tổng điều tra là
những người di cư tạm thời với thời gian ít nhất là 5 năm. Tuy nhiên các con số của
tổng điều tra dân số bao gồm cả những người di cư lâu dài đã khiến chúng ta khó có thể
phân biệt con số chính xác của mỗi loại trên. Về di cư lâu dài chúng ta biết rằng tất cả
các chương trình di cư theo kế hoạch của Chính phủ đều nhằm mục
20


đích tái định cư lâu dài các hộ gia đình và vì thế phần lớn những người di cư mùa vụ
và di cư tạm thời được coi là di cư tự do nằm ngồi các chương trình của Chính phủ
-

Đáng tiếc là hầu hết các số liệu cấp quốc gia và các dữ liệu có quy mơ lớn về

di cư trong nước ở Việt Nam chưa thống kê được đầy đủ về hai xu thế di cư
ngắn hạn và di cư mùa vụ này.
-

Với sự tương quan chặt chẽ giữa di cư và phát triển kinh tế, động thái di cư

trong nước cũng đang thay đổi để thích ứng với các vấn đề hiện tại như khủng
hoảng tài chính tồn cầu, thay đổi khí hậu và cơ cấu nhân khẩu học và chắc
chắn những thay đổi này vẫn sẽ còn tiếp diễn trong tương lai. Đáng tiếc là đối
tượng người di cư có đăng ký tạm trú và người di cư không đăng ký hộ khẩu
chưa được thống kê đầy đủ trong các cuộc điều tra của Chính phủ.

2.2.4. Tác động của quá trình di cư
Nơi đến:
Di cư là một q trình thúc đẩy sự phát triển thơng qua việc lấp đi những
khoảng trống trong thị trường lao động chính quy và phi chính quy tại nơi
đến. Tuy nhiên điều này cũng mang lại những thách thức cho cộng đồng nơi
đến và đảm bảo sự đáp ứng những nhu cầu của những người di cư tại những
nơi này.


Ảnh hưởng tích cực:
Người di cư chiếm một tỷ lệ lớn trong số người lao động làm việc tại các
khu vực công nghiệp này. Một số ước tính cho rằng số lao động này có thể
chiếm tới 70% tổng số lao động trong các khu cơng nghiệp. Góp phần vào
việc bổ xung nhanh chóng nguồn lao động, đáp ứng nhu cầu khai thác tài
nguyên, lao động di cư đóng góp đáng kể vào năng suất của các khu vực
này.Lao động di cư góp một phần khơng nhỏ cho sự đóng góp vào Tổng
sản phẩm quốc nội tại các nơi mà họ đến.
Nguồn lực của dịng người di cư góp phần vào sự phát triển đồng đều ra
các vùng của một quốc gia, tập trung nguồn lực phát triển tại một số vùng
21


nhất định. Ngoài ra, sự đa dạng trong bản sắc văn hóa của mỗi người từ
những địa phương đem đến tạo sự mới lạ, phát triển và khai sáng làm cho
văn hóa nói chung được củng cố và phát huy.


Ảnh hưởng tiêu cực:
Tuy nhiên, với những đợt di cư ồ ạt và liên tục việc khai thác nguồn tài
nguyên bừa bãi, gây ô nhiễm môi trường, tạo ra áp lực về xã hội cho

địa phương mới đến.
Vấn đề nhà ở đối với những người di cư tạo cho xã hội một gánh nặng.
Rất nhiều người nghèo đặc biệt là những người mới di cư đến hiện đang
sống trong những căn nhà trọ xây tạm và ở những khu vực mà cơ sở hạ
tầng nghèo nàn hoặc khơng có cơ sở hạ tầng, điện, hệ thống thoát nước
và hệ thống giao thông công cộng nghèo nàn hoặc không tồn tại. Nhiều
người di cư khác lại sống trong những nhà trọ chất lượng thấp và trả
tiền trọ hàng ngày hoặc sống tại nơi làm việc mà thường là các công
trường xây dựng. Những người di cư này cố gắng giành dụm tiền cho
tương lai hoặc gửi về cho gia đình, và vì thế phải giảm thiểu chi phí cho
các nhu cầu tối thiểu của mình. Họ chỉ sử dụng rất ít tiền cho việc ăn
uống và chăm sóc sức khỏe và thực tế này dẫn đến điều kiện sống tạm
bợ và không an toàn cho các cư dân và làm tăng các nguy cơ về các
bệnh lây nhiễm và sức khỏe kém.
Một vấn đề quan trọng nữa đặt ra ở đây là người lao động khơng có
nhiều lựa chọn trong việc giải trí trong thời gian rỗi rãi ít ỏi của họ.
Chính điều này đã dẫn tới hiện tượng uống rượu, đánh bạc tạo ra tệ nạn
xã hội.

Nơi đi
Tác động của di cư lên nơi đi thường rất đa dạng và phức tạp. Đặc biệt cũng
rất khó có thể lượng hóa được các tác động này do quá trình phát triển nhanh,
dù sự phát triển không đồng đều đang diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam. Tuy

22


nhiên có một vài vấn đề quan trọng và đáng quan tâm xuất hiện khi xem xét
vấn đề phát triển và di cư qua “lăng kính” nơi đi.



Ảnh hưởng tích cực:
Các vấn đề này bao gồm tác động của tiền gửi. Việc gửi tiền phổ biến và
việc sử dụng tiền gửi là một số chỉ báo về đóng góp của người di cư trong
nước vào sự giàu có của các địa phương có người di cư trong q trình
phát triển gần đây của Việt Nam. Những dòng thu nhập như vậy được
chuyển từ những nơi có nhiều cơ hội việc làm tới các vùng nơng thơn với
ít cơ hội việc làm. Nó góp phần vào việc phân chia lại của cải trên phạm vi
cả nước và có thể đóng góp vào việc xóa đói giảm nghèo cho những khu
vực kém phát triển hơn ở Việt Nam.
Vốn dĩ ở những vùng nông thôn người dân chỉ sống dựa vào những thu
nhấp ít ỏi từ việc mua bán nông sản trong gia đình, mua bán quy mơ nhỏ,
số tiền mang về chỉ đủ để chi tiêu nhưng như cầu cơ bản nhất trong một
gia đình. Nhưng khi di cư đến thành thị, người dân có cơ hội việc làm với
mức lương cao, điều đó làm cải thiện rõ mức thu nhập của gia đình, giúp
cải thiện mức sống của người dân ở vùng nông thôn.
Di dân đến các thành thị làm cho người dân có một cái nhìn rộng mở hơn.
Đến một thành phố lớn để làm việc và sinh sống giúp người dân dần thốt
khỏi cái nhìn hạnh hẹp của bản thân về thế giới. Họ được mở mang kiến
thức, quan điểm sống. Từ đó thay đổi tư duy để phát triển cho bản thân,
gia đình và xã hội.
Khi người dân từ vùng nông thôn di cư ra thành thị họ làm việc, kiếm tiền
xây dựng nhà cửa, mang những thứ hiện đại mới mẻ về quê hương, góp
phần thúc đẩy tiến trình hiện đại hóa đất nước.

Việc di cư đến các thành phố góp phần làm giảm sức ép về việc làm, nâng
cao thu nhập, xố đói giảm nghèo nơi xuất cư.


Ảnh hưởng tiêu cực: Ngồi những tác động tích cực mà dòng di dân tạo

ra đối với nơi đi thì việc di dân nơng thơn - đơ thị có thể dẫn tới việc bỏ
23


hoang đồng ruộng, bỏ phí nhiều tiềm năng nơng nghiệp, thiếu vắng lực
lượng sản xuất. Lực lượng lao động trẻ, khoẻ, trong độ tuổi xung mãn nhất
đã thoát ly khỏi quê hương, để lại đằng sau người già, trẻ em. Trong khi
đó, dịng di dân này lại góp phần tạo nên sự đơ thị hố q mức cho phép
dẫn tới sức ép cơ sở hạ tầng, vấn đề nhà ở, an ninh, tệ nạn xã hội, kinh tế,
giáo dục và y tế.
Những người có xu hướng muốn đến thành phố lớn làm việc thường là
những đối tượng trẻ tuổi, có sức lao động. Chính vì vậy, xu hướng người
trẻ ồ ạt ra thành phố để làm việc dẫn đến những vùng nơng thơn chỉ cịn lại
đa số là người già và trẻ em.
Người dân nông thôn đặc biệt là nông thôn Việt Nam rất chú trọng về
phong tục tập quán và lối sống. Nhiều người trẻ khi ra những thành phố
lớn, hịa với nhịp sống xơ bồ của những thành phố lớn mà đánh mất đi
những giá trị tinh thần của làng quê mình, mãi chạy theo xu hướng làm
mất đi giá trị truyền thống tốt đẹp.
Chính vì được tiếp cận với một thế giới mới, mà quan điểm của người dân
nơng thơn dần thay đổi, khơng cịn phù hớp với thuần phong mỹ tục của
quê hương. Nhiều người sa vào con đường nghiện ngập, bệnh xã hội, làm
tổn hại đến gia đinh và xã hội.
III, NHỮNG GIẢI PHÁP CHO VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI
VỀ VIỆC DI CƯ Ở NƠNG THƠN:
Việc người di cư vùng nơng thơn là một yếu tố đầu ra ảnh hưởng rất nhiều đến
quá trình sản xuất, kinh doanh, làm việc tại vùng nơng thôn. Đồng thời những
người di cư ra khỏi vùng nông thơn cịn là nhân tố quan trọng để đánh giá
được sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng nơng thơn đó. Thấy được tầm
quan trọng của việc di cư ra khỏi vùng nông thôn sẽ ảnh hưởng lớn đến việc

phát triển kinh tế - xã hội ở nông thơn nên nhóm đã đề xuất một số giải pháp
chủ yếu sau:

24


×