Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

(TIỂU LUẬN) phân tích các quy định pháp luật về phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hoà giải thương mại rút ra bài học kinh nghiệm cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (585.73 KB, 19 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
________________

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: LUẬT THƯƠNG MẠI 2
Đề tài số 21: “Phân tích các quy định pháp luật về phương thức giải quyết tranh
chấp thương mại bằng hoà giải thương mại. Rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam từ việc tham khảo quy định pháp luật của một quốc gia trên thế giới về nội
dung này

Họ và tên:

VŨ THỊ NGỌC MAI

MSSV:
Lớp thảo luận:

Hà Nội, 2021


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
NỘI DUNG............................................................................................................... 1
1. Khái quát chung về phương thức giải quyết tranh chấp thương mại quốc
tế bằng hòa giải.....................................................................................................1
1.1. Tranh chấp thương mại............................................................................1
1.1.1. Định nghĩa tranh chấp thương mại.....................................................1
1.1.2. Các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại...........................2
1.2. Hòa giải thương mại.................................................................................2
1.2.1. Định nghĩa hòa giải thương mại......................................................... 2


1.2.2. Đặc điểm của hòa giải thương mại..................................................... 3
1.2.3. Ưu điểm và nhược điểm so với các phương thức giải quyết tranh
chấp khác.........................................................................................................3
Pháp luật quốc tế về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng
hòa giải6
3.
Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng hòa giải tại Việt
Nam và
một số đề xuất.......................................................................................................8
2.

3.1. Thực trạng hòa giải thương mại tại Việt Nam........................................ 8
3.2. Một số kiến nghị cho Việt Nam theo kinh nghiệm quốc tế về hòa giải
thương mại....................................................................................................... 10
KẾT LUẬN............................................................................................................. 12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................ 13


MỞ ĐẦU
Khác với các tranh chấp thông thường, các tranh chấp thương mại đòi hỏi phải
được giải quyết thỏa đáng bằng một phương thức thích hợp nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của các bên và đồng thời cũng phải đảm bảo giữ gìn mối quan hệ
hợp tác hịa bình, góp phần tạo dựng mơi trường kinh doanh thuận lợi, lành mạnh.
Việc xây dựng, phát triển và vận hành một cách hiệu quả các phương thức giải
quyết tranh chấp thương mại cũng là một ưu tiên đặt ra cho công tác giải quyết
tranh chấp thương mại. Bên cạnh các phương thức giải quyết tranh chấp truyền
thơng như Tịa án thì các phương thức giải quyết tranh chấp tự nguyện như Trọng
tài, thương lượng, hòa giả ngày càng trở nên phổ biến. Do đó, em xin lựa chọn đề
tài số 21: “Phân tích các quy định pháp luật về phương thức giải quyết tranh chấp
thương mại bằng hoà giải thương mại. Rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

từ việc tham khảo quy định pháp luật của một quốc gia trên thế giới về nội dung
này.” Làm đề tài tiểu luận của mình.
NỘI DUNG
1.

Khái quát chung về phương thức giải quyết tranh chấp thương

mại quốc tế bằng hòa giải
1.1.

Tranh chấp thương mại

1.1.1. Định nghĩa tranh chấp thương mại
Tranh chấp thương mại là hiện tượng phổ biến và thường xuyên diễn ra trong
hoạt động của nền kinh tế thị tường1. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật
Thương mại 2005, “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi,
bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các
hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.” Từ việc tiếp cận trên, có thể hiểu: “
Tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về quyền và
nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động thương mại”
1

Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam. Tập II, trường Đại học Luật Hà Nội, tr.313


1.1.2. Các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại
Theo pháp luật hiện hành ở Việt Nam, tranh chấp thương mại có thể được giải
quyết theo các phương thức sau: thương lượng, hòa giải, trọng tài và tòa án 2. Mỗi
phương thức có sự khác nhau nhất định về tính chất pháp lý cũng như nội dung của
thủ tục, trình tự tiến hành. Các bên tranh chấp có quyền tự do trong việc lựa chọn

các phương thức giải quyết tranh chấp. Việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh
chấp phụ thuộc vào những lơi thế mà phương thức giải quyết có thể mang lại cho
các bên; mức độ phù hợp của phương thức giải quyết tranh chấp so với nội dung,
tính chất của tranh chấp và thiện chí của các bên.
1.2.

Hòa giải thương mại

1.2.1. Định nghĩa hòa giải thương mại
Hòa giải, thuật ngữ tiếng Anh thông dụng là conciliation, là biện pháp giải
quyết tranh chấp mà trong đó vai trị của bên thứ ba thể hiện rõ tính chất tư vấn, chỉ
dẫn, tuân thủ pháp luật và mức độ can thiệp nhất định vào việc đưa ra thỏa thuận
giải quyết tranh chấp cho các bên.
Theo Điều 1, Luật Mẫu của UNCITRAL, “hịa giải là một trình tự được gọi
bằng cụm từ hòa giải, trung gian hay một cụm từ khác có nghĩa tương đương,
trong đó các bên yêu cầu một bên thứ ba (hòa giải viên) hỗ trợ các bên đạt được
thỏa thuận giải quyết tranh chấp; hòa giải viên khơng có quyền áp đặt giải pháp
giải quyết tranh chấp cho các bên”.
Khái niệm hòa giải thương mại được quy định tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định
22/2017/NĐ-CP của Chính phủ:” Hòa giải thương mại là phương thức giải quyết
tranh chấp thương mại do các bên thỏa thuận và được hòa giải viên thương mại
làm trung gian hòa giải hỗ trợ giải quyết tranh chấp theo quy định của Nghị định
này”

2

Điều 317, Luật Thương mại 2005


1.2.2. Đặc điểm của hòa giải thương mại3

Đặc điểm của hình thức giải quyết tranh chấp bằng hịa giải:
Thứ nhất, việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải đã có sự hiện
diện của bên thứ ba (do bên tranh chấp lựa chọn) làm trung gian để trợ giúp các
bên tìm kiếm giải pháp tối ưu nhằm loại trừ tranh chấp
Thứ hai, q trình hịa giải các bên tranh chấp khơng chịu sự chi phối bởi
các quy định có tính khn mẫu, bắt buộc của pháp luật về thủ tục hòa giải
Thứ ba, kết quả hòa giải thành được thực thi cũng hoàn toàn phụ thuộc vào
sự tự nguyện của các bên tranh chấp mà khơng có bất kì cơ chế pháp lí nào bảo
đảm thi hành những cam kết của các bên trong q trình hịa giải.
1.2.3. Ưu điểm và nhược điểm so với các phương thức giải quyết tranh chấp
khác4
Ưu điểm:
Thứ nhất, đây là phương thức giải quyết tranh chấp đơn giản, nhanh chóng, ít
tốn kém
Thứ hai, các bên hịa giải thành thì khơng có kẻ thắng, người thua nên khơng
gây ra tình trạng đối đầu giữa các bên và vì vậy có khả năng duy trì được quan hệ
hợp tác vốn có giữa các bên.
Thứ ba, giải quyết tranh chấp bằng hòa giải các bên dễ dàng kiểm soát được
việc cung cấp chứng cứ và sử dụng chứng cứ qua đó giữ được bí quyết kinh doanh
và uy tín của các bên.
Thứ tư, thương lượng, hịa giải xuất phát từ sự tự nguyện của các bên, vì vậy
khi đạt được phương án hịa giải thường nghiêm túc thực hiện.
Nhược điểm:

3
4

Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam. Tập II, trường Đại học Luật Hà Nội, tr.324
Giáo trình Luật thương mại tập hai (dung cho các trường đào tạo Đại học Luật ), NXB Giáo dục,



Thứ nhất, sự thành cơng của q trình giải quyết tranh chấp chủ yếu phụ thuộc
vào thái độ thiện và hợp tác của các bên tranh chấp
Thứ hai, việc thực thi các kết quả đạt được trong quá trình giải quyết tranh chấp
phụ thuộc vào sự tự nguyện thi hành của bên có nghĩa vụ phải thi hành; thỏa thuận
hịa giải giữa các bên (trừ trường hợp hòa giải tại trọng tài và tịa án) khơng được
đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước
Thứ ba, bên tranh chấp khơng có thiện chí có thể lợi dụng hịa giải để trì hỗn
việc thực hiện nghĩa vụ
1.3.

Pháp luật về hịa giải thương mại

Trước khi có Nghị định 22/2017/NĐ-CP ban hành ngày 22/02/2017 và có hiệu
lực từ ngày 15/4/2017 (gọi tắt là Nghị định 22), Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt
Nam (VIAC) đã cung cấp dịch vụ hòa giải với Quy tắc hòa giải từ năm 2007 và đã
có 5 vụ hịa giải tại VIAC theo Quy tắc này. Tuy nhiên, cơ sở pháp lý cho hoạt
động này chỉ dừng lại ở khung pháp luật tại một số đạo luật như Luật Thương mại
2005, Luật Trọng tài thương mại 2010, Luật Đầu tư 2014 và Bộ luật dân sự 2015..
Ở Việt Nam hiện nay, theo quy định của pháp luật, phương thức hòa giải trong
việc giải quyết tranh chấp có thể chia làm 2 loại:
-

Hịa giải bắt buộc theo thủ tục tố tụng của Tòa án (theo quy định tại Bộ luật

Tố tụng dân sự 2015);
-

Hòa giải theo thỏa thuận của các bên hay hịa giải ngồi tịa án (theo quy định


tại Luật Trọng tài thương mại 2010 hoặc theo Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ngày
24 tháng 02 năm 2017 quy định về hòa giải thương mại).
1.3.1. Hòa giải thương mại Tòa án
Hòa giải thương mại Tòa án là một thủ tục bắt buộc trong tố tụng Tòa án, thể
hiện tại Điều 10 BLTTDS 2015. Theo quy định hiện hành, hịa giải có thể được tịa
án tiến hành ở nhiều giai đoạn, nhiều cấp xét xử và đối với hầu hết các vụ án, trừ
một số trường hợp không thể hòa giải được. Nguyên tắc tiến hành hòa giải được


quy định tại Điều 205 BLTTDS 2015. BLTTDS 2015 đã bổ sung thêm trường hợp
một trong các đương sự đề nghị khơng tiến hành hịa giải vào các trường hợp
khơng hòa giải được. Trước đây, theo quy định của BLTTDS 2011, Tòa án vẫn phải
triệu tập đương sự đến lần thứ hai mặc dù đương sự không muốn tham gia hịa giải,
đến lần thứ hai đó vẫn vắng mặt thì mới được đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm, dẫn đến
thời gian giải quyết vụ án bị kéo dài. Do đó, việc bổ sung quy định này là hợp lý
nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tế, hạn chế việc kéo dài thời gian giải quyết vụ án.
Thủ tục phiên hòa giải trong BLTTDS 2015 đã được quy định chi tiết, cụ thể hơn
so với BLTTDS 2011.
Đặc điểm của hòa giả thương mại tòa án: Thứ nhất, quyền tự do ý chí, tự do
định đoạt của các bên tranh chấp vẫn được tơn trọng trong q trình hịa giải tại
Tịa án, các bên có quyền tự do thỏa thuận trong các phiên hòa giải do Tòa án mở
hoặc ngay trong khi đang xét xử, trước khi Tòa án tuyên án.Thứ hai, quyền tự định
đoạt của các bên bị hạn chế ở phạm vi nhất định, chịu ảnh hưởng của cơ chế quyền
lực cơng5.
1.3.2. Hịa giải thương mại ngồi tịa án
Hịa giải thương mại ngồi tịa án: là hình thức hòa giải do các tổ chức trọng tài
thương mại thực hiện hoặc do các tổ chức làm dịch vụ hòa giải chuyên nghiệp hoặc do
một bên thứ ba (tổ chức, cá nhân) làm trung gian hòa giải theo yêu cầu của các bên
tranh chấp. Nghị định 22/2017/NĐ-CP về hòa giải thương mại ra đời đánh dấu một
bước tiến mới trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp thương mại tại Việt Nam. So với

hòa giải trong tố tụng tại tòa án, tự hịa giải ngồi tố tụng, các bên có thể lựa chọn một
bên trung gian thứ ba có tổ chức chuyên nghiệp, kỹ năng kinh nghiệm, năng lực đáp
ứng các tiêu chuẩn theo quy định pháp luật la hào giải viên thương

5

Lê Đăng Hùng (2019),” Pháp luật Việt Nam về hòa giải thương mại”, luận văn thạc sĩ luật học, đại học
Huế, trường đại học Luật, tr.11


mại. Kết quả hịa giải thành cơng được cơng nhận và đảm bảo theo quy định tại
BLTTDS 2015 nếu các bên có u cầu.
Trước đây, hoạt động hịa giải thương mại ngồi tố tụng khơng chịu sự điều
chỉnh của pháp luật. Do vậy, thỏa thuận giữa các bên khơng có cơ chế bảo đảm thi
hành về mặt pháp lý. Nghị định 22/2017/NĐ-CP về hòa giải thương mại ra đời đã
luật hóa hoạt động hịa giải thương mại nhưng vẫn giữ đúng tính thần của phương
thức hịa giải. Các bên có thể hòa giải theo phương thức truyền thống là tự hịa giải
với nhau hoặc có thể lựa chọn hịa giải theo Nghị định 22/2017/NĐ-CP
2. Pháp luật quốc tế về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng hòa
giải
Hòa giải thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp, xung đột đã tồn tại
lâu đời, nhưng hòa giải theo nghĩa hiện đại, tức là có tổ chức, có quy chế và mang
tính chuyên nghiệp được các nhà nghiên cứu trên thế giới cho rằng xuất hiện ở Hoa
Kỳ vào những năm 1970, sau đó là các nước khác thuộc hệ thống pháp luật AnhMỹ. Đến nay, hòa giải đã được áp dụng ngày càng rộng rãi trong giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại ở nhiều nước trên thế giới.
Hoa Kỳ:
Ở Hoa Kỳ, hòa giải đã phát triển hơn 30 năm và phạm vi áp dụng ngày càng
được mở rộng, cả ở Tịa án, các cơ quan cơng quyền, ở cộng đồng cũng như
trong giới kinh doanh. Năm 2001. Ủy ban quốc gia về thống nhất pháp luật
tiểu ban của Hoa Kỳ ban hành Đạo luật Hòa giải thống nhất và được sửa đổi

năm 2003 để phù hợp với Luật mẫu về hòa giải thương mại quốc tế của
UNCITRAL(2002). So với các nước khác, đạo luật Hoa Kỳ có quy định về
bảo đảm bảo mật thông tin ở mức độ rất cao: hòa giải viên, các bên tranh
chấp và cả bên thứ ba tham gia trong q trình hịa giải để sử dụng làm
chứng cứ (Điều 4 UMA).
Australia


Australia cũng là một quốc gia thuộc hệ thống Common Law có hoạt động hịa
giải phát triển mạnh và rộng khắp. Bên cạnh hình thức hịa giải tại cộng đồng được
cơng nhận và thực hiện khá thành cơng, hịa giải cịn được phát triển khá mạnh mẽ
với tính chất là một phương thức giải quyết chuyên nghiệp trong giải quyết các
tranh chấp kinh tế, thương mại 6. Australia có một thiết chế đặc biệt – đó là Hội
đồng cố vấn quốc gia về giải quyết tranh chấp ngồi tịa án (NADRAC) được thành
lập năm 1995, có chức năng tham mưu, tư vấn cho Chính phủ trong hoạch định
chính sách về ADR. Chính quyền các bang ở Australia đều có các biện pháp tích
cực mang tính tổ chức và pháp lý nhằm khuyến khích sử dụng phương thức hịa
giải như: cơng nhận về mặt pháp lý vị trí, vai trị của hòa giải trong giải quyết tranh
chấp; thiết lập chế độ hoặc cơng nhân bằng pháp luật các thiết chế hịa giải và tiêu
chuẩn đối với hịa giải viên. Nhờ đó, Nhà nước Australia đã khẳng định và nâng
cao vai trò phòng ngừa và giải quyết tranh chấp của hòa giải, biến hịa giải thành
một dịch vụ có tính chun nghiệp, có tổ chức.
Châu Âu


châu Âu lục địa, hịa giải tranh chấp kinh doanh, thương mại được áp dụng
muộn hơn và ban đầu việc áp dụng hòa giải gặp khá nhiều trở ngại về mặt
nhận thức cũng như trong thực tiễn, Đến những năm 1990, hịa giải mới bắt
đầu có chỗ đứng trong khu vực này nhờ hoạt động tích cực của các Phòng
Thương Mại ở Châu Âu và các tổ chức hòa giải tư, đặc biệt là Trung tâm

giải quyết tranh chấp CEDR ở Anh. Ở Đức, năm 1996, Hiệp hội quốc gia về
hòa giải trong lĩnh vực kinh doanh và lao động (BMWA) được thành lập;
tiếp đó, Hiệp hội hòa giải thương mại và quản lý xung đột (GWMK) được
thành lập năm 19987. Một số nước châu Âu đã

6

Đặng Hoàng Oanh, Pháp luật và thực tiễn của Australia về hòa giải-một số kiến nghị áp dụng cho Việt
Nam, bài viết đăng trên cổng thông tin điện tử Bộ Tư Pháp
7
Alexander, N.(2001), ”What’s law got to do with it? Mapping Modern Mediation movements” 13(2) Bond Law
Review, Special Issue: Dispute Resolition 2001, tr.325


xây dựng đạo luật riêng về hòa giải như: Áo (2003), Bungari (2004), Bỉ (2005),
Cộng hòa Secsbi (2005) với phạm vi điều chỉnh khác nhau.
Luât hòa giải của Bỉ (được đưa vào Phần thứ 7 Bộ luật về Tư pháp của Bỉ)
điều chỉnh hai hình thức: hịa giải tự nguyện và hịa giải tại tịa án, trong đó hịa
giải tự nguyện là hịa giải khơng gắn với một quy trình tố tụng của tòa án. Luật
Hòa giải của Bungari điều chỉnh hoạt động hịa giải ngồi tịa án đối với tất cả các
tranh chấp dân sự, thương mại, lao động, hơn nhân gia đình, các tranh chấp hành
chính liên quan đến quyền lợi người tiêu dung và các tranh chấp khác giữa cá nhân
hoặc pháp nhân8.
Liên minh châu Âu ra Chỉ thị về một số khía cạnh của hịa giải các vụ việc
dân sự, thương mại ra đời tháng 4/2008, ấn định trong thời gian 36 tháng, các quốc
gia thành viên EU phải chuyển hóa các quy định của Chỉ thị vào pháp luật quốc
gia.
Như vậy, hiện nay trên thế giới, hòa giải đã được áp dụng rất phổ biến trong giải
quyết tranh chấp nói chung và tranh chấp thương mại và được luật hóa trong cả
pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế. Các nước cũng quan tâm đến việc xây

dựng bộ quy tắc ứng xử của hòa giải viên, thiết lập tiêu chuẩn đối với hòa giải viên
và chú trọng đào tạo hịa giải viên mang tính chuyên nghiệp.
3. Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng hòa giải tại Việt Nam và
một số đề xuất
3.1.

Thực trạng hòa giải thương mại tại Việt Nam

Hòa giải là một phương thức giải quyết tranh chấp thay thế rất phổ biến trên thế
giới và cũng đã xuất hiện từ rất lâu, tuy nhiên tại Việt Nam hoạt động này chưa
được điều chỉnh bởi bất kỳ thiết chế pháp luật nào.
Theo số liệu chính thức trên website của Bộ Tư pháp, Việt Nam hiện có 10
Trung tâm hịa giải thương mại. Theo qui định của Nghị định 22, hòa giải viên
8

The Bulgarian Mediatione Act 2004


thương mại được chia thành hai loại, hòa giải viên thương mại vụ việc và hòa giải
viên thương mại trong danh sách của tổ chức hòa giải thương mại (trung tâm hòa
giải thương mại). Một số hòa giải viên thương mại vụ việc cũng đồng thời là hòa
giải viên thương mại trong danh sách của các trung tâm hòa giải. Bộ Tư pháp đã
ban hành Công văn số 4001/BTP-BTTP ngày 18/10/2018 về việc hướng dẫn đăng
ký hòa giải viên thương mại vụ việc. Hiện tại chưa có một cơ sở đào tạo hịa giải
viên hay một chương trình đào tạo hịa giải viên nào tại Việt Nam một cách chính
thức tuy một số tổ chức như Cục bổ trợ tư pháp, VMC, Học viện tư pháp, Liên
đoàn luật sư Việt Nam, Đoàn luật sư tỉnh/thành phố… đã tổ chức một số khóa tập
huấn có thời lượng từ một buổi cho tới 2 ngày. Trong năm 2018, với sự hỗ trợ của
Cơng ty tài chính quốc tế (IFC), VIAC đã cùng IFC tổ chức 4 khóa đào tạo hịa
giải viên thương mại quốc tế được giảng dạy, sát hạch và cấp chứng chỉ bởi Trung

tâm giải quyết tranh chấp hiệu quả của Anh quốc (CEDR). Có thể nói, 71 học viên
người Việt Nam tại khóa học này và một số hịa giải viên được cấp chứng chỉ bởi
tổ chức khác như của Anh quốc, Úc v.v. tạo thành một cộng đồng các chun gia
có kỹ năng hịa giải thương mại đầu tiên tại Việt Nam. Theo như nhận định của
những tổ chức cung cấp giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại cũng như
các chuyên gia trong lĩnh vực này thì điều quan trọng nhất làm nên hiệu quả của
hịa giải chính là ở hịa giải viên.
Thực tế chứng minh rằng, việc hịa giải thành cơng hay thất bại phụ thuộc rất
nhiều vào chuyên môn ngành, kinh nghiệm, kỹ năng hòa giải cũng như khả năng
vận động, thuyết phục các bên của hòa giải viên. Do vậy, ngay từ những bước đầu
tiên khi tham gia hòa giải, các bên cần lưu ý để lựa chọn được hòa giải viên phù
hợp, bao gồm chuyên môn liên quan đến lĩnh vực tranh chấp lẫn những kỹ năng
cần thiết của một hòa giải viên. Tại Việt Nam, việc này hoàn toàn phù hợp với qui
định của pháp luật (cụ thể tại khoản 4 Điều 14 Nghị định 22/2017). Và với phương
thức này, trong q trình hịa giải, các bên nộp cho hịa giải viên nhiều tài liệu và


chứng cứ có liên quan tới vụ tranh chấp. Hịa giải viên phải dành nhiều thời gian
đọc tài liệu, tìm hiểu vụ việc thông qua tài liệu. Điều này dẫn tới việc thời gian tiến
hành thủ tục hòa giải dài hơn, bao gồm số lần hòa giải viên họp với các bên cũng
nhiều hơn.
Đến thời điểm hiện tại, mới chỉ có một Trung tâm hồ giải duy nhất theo Nghị
định 22/2017/NĐ-CP được thành lập là VMC, đồng thời cũng chưa ghi nhận vụ
tranh chấp nào được đưa đến hoà giải tại Trung tâm trọng tài này theo trình tự, thủ
tục của Nghị định 22/2017/NĐ-CP. Kéo theo đó, cũng chưa có u cầu nào u
cầu cơng nhận kết quả hồ giải thành ngoài Toà án được ghi nhận.
Ngày 02/10/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1268/QĐTTg “Phê duyệt Đề án hoàn thiện pháp luật về hợp đồng và giải quyết tranh chấp
hợp đồng bằng phương thức trọng tài thương mại, hòa giải thương mại”. Hy vọng
rằng, việc thực hiện có hiệu quả Quyết định số 1268 nói trên sẽ góp phần tích cực
nâng cao nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp về hòa giải thương mại.

3.2. Một số kiến nghị cho Việt Nam theo kinh nghiệm quốc tế về hòa giải
thương mại
Qua thực tiễn áp dụng, mỗi loại hình hịa giải đều đạt được những kết quả nhất
định, nhưng còn nhiều hạn chế, bất cập, dẫn đến chưa đáp ứng được nhu cầu, đòi
hỏi của xã hội. Việc xây dựng khung pháp luật riêng cho hòa giải thương mại ngồi
Tịa án theo mơ hình hịa giải độc lập ở Việt Nam là hết sức cần thiết. Việc ghi
nhận mơ hình hịa giải độc lập này bằng một Nghị định như chỉ đạo của Chính phủ
trong giai đoạn hiện nay là phù hợp, về dài hạn có thể hướng tới việc tổng kết, rút
kinh nghiệm để ban hành một luật riêng về hòa giải thương mại như ở Ấn Độ, Nhật
Bản hay Phi-lip-pin.
Thứ nhất, đối với thời hạn lấy ý kiến của đương sự vắng mặt trong trường hợp
thỏa thuận của các đương sự có mặt có ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương
sự vắng mặt quy định tại Khoản 3, Điều 212 BLTTDS 2015, cần quy định thời hạn


và phương thức lấy ý kiến của đương sự vắng mặt trong trường hợp này, có thể là
tối đa 07 ngày, kể từ ngày các đương sự có mặt tại phiên hòa giải thỏa thuận được
với nhau về giải quyết vụ án.
Thứ hai, quy định cụ thể trình tự thủ tuc hòa giải bằng bằng trọng tài trong Luật
trọng tài thương mại 2010
Thứ ba, đào tạo đội ngũ trọng tài viên đạt chuẩn về số lượng và chất lượng
Thứ tư, xây dụng quy định pháp luật về tiêu chuẩn và cơng nhận hịa giải viên
Thứ năm, đối với quy định về cơng nhận thỏa thuận tại phiên tịa trong trường
hợp các bên chỉ thỏa thuận được một phần nội dung tranh chấp cịn những phần
khác khơng thỏa thuận được, theo BLTTDS 2015, Tồ án chỉ ra quyết định cơng
nhận sự thoả thuận nếu các bên thoả thuận được toàn bộ nội dung của vụ tranh
chấp, quy định này có phần hơi chặt chẽ và góp phần làm gia tăng khối lượng cơng
việc lên Tồ án. Quy định này nên được điều chỉnh lại theo hướng Tồ án cơng
nhận thoả thuận của các bên đối với một phần hay toàn bộ nội dung vụ án, trong
trường hợp công nhận một phần vụ án, Tồ án đình chỉ phần nội dung đã thoả

thuận được đó và đưa phần nội dung cịn lại không thoả thuận được ra xét xử sợ
thẩm.
Thứ sáu, tăng cường công tác đào tạo, quảng bá và hợp tác quốc tế về hòa giải
thương mại. Bộ Tư pháp, các Sở tư pháp có kế hoạch tun truyền về hịa giải
thương mại. Liên đoàn luật sư Việt Nam, Đoàn luật sư các tỉnh/thành phố đưa nội
dung về hòa giải thương mại vào các chương trình bồi dưỡng pháp luật. Các
Trường luật, khoa luật bổ sung, hoàn thiện thêm nội dung về hòa giải thương mại.
Các cơ quan truyền giúp giới thiệu lợi ích của hịa giải thương mại tới cộng đồng
doanh nghiệp. Các Trung tâm hòa giải, hòa giải viên hồn thiện qui trình, nâng cao
chất lượng hoạt động và tích cực tun truyền về hịa giải thương mại. Hoạt động
hợp tác quốc tế với các tổ chức có uy tín trong đào tạo hịa giải như CEDR, CIArb,
SIMI…cần được tiến hành hiệu quả


Để hòa giải thực sự phát huy vai trò của mình trong giải quyết tranh chấp
thương mại, hịa giải cần được ghi nhận như một hoạt động chuyên nghiệp, mang
tính chất dịch vụ của các hòa giải viên được đào tạo bài bản, đáp ứng được các tiêu
chuẩn do pháp luật quy định, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận,
tương tự như hoạt động luật sư, hoạt động trọng tài.
KẾT LUẬN
Nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN đã đưa nước ta ngày càng lớn
mạnh, và ngày càng có uy tín trong khu vực và trên thế giới, chúng ta đang dần
khẳng định vị thế của mình trên trường khu vực và rộng hơn là trường quốc tế.
Việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng biện pháp hòa giải sẽ là lựa chọn tối
ưu để các bên lựa chọn đàm phán giải quyết. Pháp luật hiện hành đã có bước đột
phá mới trong việc đưa hoạt động hồ giải vào luật hố cũng như quy định về cơng
nhận kết quả hồ giải thành ngồi Tồ án, qua đó đã mở ra một kênh giải quyết
tranh chấp mới phù hợp với thơng lệ quốc tế, có nhiều ưu điểm như thủ tục đơn
giản, linh hoạt, nhanh chóng, tiết kiệm được thời gian, chi phí. Khơng ngừng hồn
thiện pháp luật để tạo điều kiện, đảm bảo lợi ích tối đa nhất cho các doanh nghiệp

trong nước phát triển và cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước ngoài bằng
cách hoàn thiện thể chế, hệ thống pháp luật hỗ trợ tối ưu cho doanh nghiệp khi xảy
ra tranh chấp thương mại, kinh tế, góp phần thúc đẩy kinh tế ngày càng phát triển
và lớn mạnh.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Giáo trình: Luật Thương mại (Chương trình trung cấp), tác giả
Chương
6: Pháp luật về cung ứng dịch vụ thương mại, NXB Công an nhân dân, Hà
Nội, 2007
2.

Sách: Hướng dẫn môn học Luật thương mại, Tập 1, tác giả chương 2:

Bản chất pháp lý của doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh; và chương
12: Khái quát về phá sản và pháp luật phá sản, NXB Lao Động, Hà Nội,
2014
3.
Sách: Hướng dẫn môn học Luật thương mại, Tập 2, tác giả chương 2:
Pháp
luật về cung ứng dịch vụ thương mại; và chương 12: Thủ tục giải quyết
tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại, NXB Lao Động, Hà Nội,
2014
4.

Sách chuyên khảo: Luật Kinh tế, tác giả: chương 5: Công ty hợp danh;

chương 12: Pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã; mục 3, 4, 5

chương 16: Một số hợp đồng thông dụng trong thương mại và đầu tư;
chương 20: Giải quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài thương mại,
NXB Lao Động, Hà Nội, 2017
5.

Giao trinh: Luât Thương mai Viêt Nam, tác giả chương 5: Đia vi phap

ly cua công ty hợp danh - trương Đai hoc Luât Ha Nôi, NXB Tư phap, Hà
Nội, 2017
6.

Luật Thương mại 2005.

7.

Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ngày 24 tháng 02 năm 2017 quy định

về hòa giải thương mại.


8.

Nguyễn Thị Yến, Sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động của

trọng tài thương mại theo Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003, Tạp chí Luật
học, 2/2005


9.


Ths. Nguyễn Thị Yến, Đặc trưng cơ bản của quan hệ mua bán hàng

hóa qua Sở giao dịch hàng hóa theo pháp luật Việt Nam, Tạp chí Luật học,
6/2007
10.

Ths. Nguyễn Thị Yến, Bàn về bản chất pháp lý của hợp đồng kỳ hạn,

Tạp chí Luật học, 6/2008
11.
chí

Ths. Nguyễn Thị Yến, Những “hạt sạn” trong Luật Doanh nghiệp, Tạp

Pháp lý, 8/2008
12.Ths. Nguyễn Thị Yến, Bản chất pháp lý của hợp đồng quyền chọn qua Sở
giao dịch hàng hóa, Tạp chí Luật học, 11/2008
13.Ths. Nguyễn Thị Yến, Các chủ thể tham gia giao dịch trên Sở giao dịch hàng
hóa, Tạp chí Luật học, 7/2009
14.Ths. Nguyễn Thị Yến, Những điểm hạn chế của Luật Doanh nghiệp năm
2005 và một số đề xuất hoàn thiện, Tạp chí Luật học, 11/2009
15.

Ths. Nguyễn Thị Yến, Những quy định về thủ tục thành lập doanh

nghiệp cần được tiếp tục hồn thiện, Tạp chí Luật học, 9/2010
16. Ths. Trần Thị Bảo Ánh, TS. Nguyễn Thị Yến, Pháp luật về ngành nghề
kinh

doanh có điều kiện và kiến nghị hồn thiện, Tạp chí Luật học, 4/2012

17.TS. Nguyễn Thị Yến, Hồn thiện pháp luật về sở giao dịch hàng hoá, Tạp chí
Luật học, 11/2012
18.TS. Nguyễn Thị Yến, Thực tiễn áp dụng một số quy định của Luật Trọng tài
thương mại tại Việt Nam, Tạp chí Luật học, 5/2014
19. TS. Nguyễn Thị Yến, Hoạt động quảng cáo bị cấm theo pháp luật hiện
hành
– Bất cập và kiến nghị hồn thiện, Tạp chí Luật học, 9/2014
20. TS. Nguyễn Thị Yến, Doanh nghiệp xã hội và giải pháp phát triển
doanh


nghiệp xã hội tại Việt Nam, Tạp chí Luật học, 11/2015.
21.TS. Nguyễn Thị Yến, Công ty hợp danh theo Luật Doanh nghiệp 2014 – bất
cập và kiến nghị hoàn thiện, Tạp chí Luật học, 1/2017.


22.

TS Nguyễn Thị Yến, TS Trần Thị Bảo Ánh, Pháp luật về doanh

nghiệp xã hội – Bất cập và kiến nghị hồn thiện, Tạp chí Luật học, 4/2017



×