Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Đổi mới sự lãnh đạo của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.06 KB, 17 trang )

Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng trong điều kiện xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Xây dựng nhà nước pháp quyền là con đường phát triển tất yếu của đất nước ta,
phù hợp với xu thế chung của thời đại, không chỉ là nguyện vọng của nhân dân, mà đã
và đang trở thành nhu cầu hiện thực và khả năng hiện thực. Sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Những vấn đề cơ bản về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, đã được thể hiện
trong Cương lĩnh, Nghị quyết của Đảng. Tiếp tục bổ sung, phát triển quan điểm phù hợp với
tình hình mới, Đại hội XI của Đảng khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền
XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân
dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức,
do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công,
phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp” – “Khẩn trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi,
bổ sung năm 2001) phù hợp với tình hình mới. Tiếp tục xây dựng, từng bước hoàn thiện cơ
chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ
quan công quyền”.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, tự phê bình nghiêm túc,
nhận thức sự phát triển tất yếu của đất nước, tại các kỳ đại hội, Đảng ta đã chỉ rõ những hạn
chế, khuyết điểm và đề ra đường lối, biện pháp đổi mới mạnh mẽ, sâu sắc trên tất cả các lĩnh
vực hoạt động; đổi mới sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới. Nhiệm vụ đổi
mới và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền
trước những biến đổi sâu sắc, toàn diện của quốc gia và quốc tế, đã và đang đặt ra nhiều vấn
đề cần quan tâm thực hiện. Theo đó, vừa khẳng định một thực tế lịch sử, khách quan tất yếu
của sự lãnh đạo của Đảng, vừa xác định những yêu cầu đặt ra trong bối cảnh mới. Đảng lãnh
đạo Nhà nước và xã hội, sức mạnh, uy tín của Đảng được thể hiện ở vai trò, năng lực quản ly
của Nhà nước bằng hệ thống pháp luật bảo vệ, bảo đảm và thúc đẩy các quyền con người,
quyền công dân.
Trên bình diện phổ quát nhất, nhà nước pháp quyền là phương thức tổ chức quyền lực
nhà nước và phương thức quản ly xã hội; là kiểu tổ chức xã hội ở trình độ cao và tính pháp


quyền trong mọi lĩnh vực quan hệ xã hội. Nhà nước pháp quyền phải gắn với một nền lập


pháp, hành pháp và tư pháp trong sạch, vững mạnh, có trí tuệ và đạo đức, thể hiện và bảo vệ
được con người – giá trị cao quy nhất.
Như vậy, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội phải đặt trong điều kiện
của nhà nước pháp quyền với những yêu cầu, nguyên tắc và mục tiêu cơ bản nêu trên. Nhìn
nhận nhà nước pháp quyền ở mục đích, yêu cầu đặt ra như vậy thì sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng cùng với trí tuệ, sức mạnh đoàn kết của cả dân tộc sẽ là điều kiện tiên quyết cho sự
nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta. Nhà nước pháp quyền thực hiện quản ly xã
hội theo tinh thần dân chủ trong khuôn khổ pháp luật và đạo đức, tất cả vì lợi ích chính đáng
của con người. Để thực hiện được những mục tiêu, yêu cầu đó, có nhiều cách thức, con đường
khác nhau trên cơ sở nền tảng những quy luật, nguyên tắc, luật lệ chung mà mỗi quốc gia phải
tuân theo trong đời sống quốc tế.
Xây dựng nhà nước pháp quyền không thể tách rời với đổi mới hệ thống chính trị. Đổi
mới hệ thống chính trị là cần thiết trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
hiện nay. Trước hết phải đổi mới tổ chức và hoạt động của Đảng, nâng cao vai trò, nâng cao
năng lực lãnh đạo của Đảng, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã
hội. Tổ chức chính trị – xã hội là nơi triển khai thực hiện chủ trương của Đảng, pháp luật của
Nhà nước. Vì vậy, các tổ chức chính trị – xã hội phải có những bước đổi mới về cơ cấu tổ
chức, hình thức hoạt động để góp phần vào việc xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền.
Trong điều kiện hiện nay, nói đến tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
phải gắn liền với đổi mới và chỉnh đốn Đảng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong
điều kiện mới. Kiên quyết đấu tranh chống lại các hiện tượng “hành chính đơn thuần, phi
chính trị”; xa rời sự lãnh đạo của Đảng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và
ngược lại, sự bao biện, làm thay các công việc của Nhà nước từ phía các tổ chức đảng. Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước trên những nội dung cơ bản như lãnh đạo nhà
nước thể chế hóa đường lối của Đảng thành các quy định pháp luật, tổ chức thực hiện pháp
luật; xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức và năng lực công tác; kiểm tra, thanh tra,
giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước.

Nói đến sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội và Nhà nước là nói đến một hệ thống các
nguyên tắc, phương thức lãnh đạo của Đảng, trong đó đường lối, chính sách của Đảng có tầm
quan trọng đặc biệt, bởi trên cơ sở đó, Nhà nước thể chế hóa thành các quy định pháp luật, áp
dụng vào cuộc sống. Một xã hội được tổ chức ở trình độ cao - xã hội pháp quyền, không thể
thiếu được pháp luật và đạo đức. Do vậy, xây dựng cơ chế phản biện xã hội đối với các nghị


quyết của các tổ chức đảng và các chính sách, pháp luật của Nhà nước sẽ là điều kiện thiết
yếu bảo đảm cho sự lãnh đạo của một đảng duy nhất cầm quyền, bảo đảm cho đất nước phát
triển. Đó là tinh thần dân chủ, phù hợp với ly tưởng, trách nhiệm và năng lực thực tiễn của
Đảng ta trong sự nghiệp lãnh đạo xã hội và Nhà nước. Vấn đề đặt ra là phải xem xét, triển
khai thực hiện cơ chế phản biện xã hội này sao cho hợp ly, có hiệu quả.
Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng cao trí tuệ, phẩm
chất chính trị, đạo đức của cán bộ, đảng viên. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói
rằng: “Đảng là trí tuệ, Đảng là đạo đức, là văn minh”. Lòng tin của nhân dân đối với Đảng
chính là thước đo uy tín và sức mạnh của Đảng. Thước đo tính đúng đắn, uy tín của sự lãnh
đạo của Đảng, cuối cùng phải được thể hiện ở hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước.
Năng lực, hiệu quả hoạt động, uy tín xã hội của Nhà nước không chỉ do các tổ chức Đảng
đánh giá, mà phải là sự kiểm soát, đánh giá một cách công khai, dân chủ của người dân, cộng
đồng và xã hội. Sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân
và vì dân ở Việt Nam đòi hỏi sự đóng góp trí tuệ, công sức của toàn Đảng, toàn dân, toàn xã
hội, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Việc quy định trong Hiến pháp về vai trò, trách nhiệm lãnh đạo của Đảng đối với nhà
nước và xã hội là một vấn đề tất yếu khách quan. Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2013 đã
khẳng định đầy đủ hơn về sự lãnh đạo của Đảng với tinh thần pháp quyền, dân chủ. Theo đó,
nội dung Điều 4, Hiến pháp đã xác định rõ, Đảng phải chịu trách nhiệm phục vụ nhân dân,
gắn bó với nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Đây là
một bước tiến đáng kể trong lịch sử lập hiến của nước ta. Đảng ta không có lợi ích riêng. Lợi
ích của Đảng là lợi ích của nhân dân, của đất nước, là lợi ích của quốc gia, dân tộc.


Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ mới
TCCS - Sáu mươi bảy năm xây dựng và phát triển, Nhà nước ta dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng thể hiện rõ bản chất ưu việt


của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực sự trong sạch, vững
mạnh, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tuy nhiên, trong bối cảnh mới,
trước những yêu cầu, nhiệm vụ mới, để đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển của
đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi Nhà
nước ta cần có những bước phát triển mới vừa sâu sắc, vừa toàn diện.
Nhà nước pháp quyền
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ khi ra đời đến
nay, sau 67 năm xây dựng và hoàn thiện, Nhà nước ta ngày càng thể hiện rõ
những phẩm chất và đặc trưng của một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đó là một nhà nước hợp hiến,
hợp pháp, được xây dựng, tổ chức và hoạt động trên cơ sở những quy định của
hiến pháp, pháp luật và vận hành trong khuôn khổ hiến pháp, pháp luật. Hiến
pháp và hệ thống pháp luật của chúng ta ngày càng được xây dựng, bổ sung và
hoàn thiện để không những đáp ứng kịp thời những yêu cầu phong phú và sinh
động của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước mà còn để phù hợp với hệ thống
công ước, thông lệ và pháp luật quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng của đất nước.
Nhà nước pháp quyền là một thành tựu to lớn của lịch sử phát triển lâu dài
của nhân loại. Thực vậy, trong lịch sử tư tưởng nhân loại, tư tưởng về nhà nước
pháp quyền xuất hiện từ thời cổ đại, gắn liền với tên tuổi các nhà tư tưởng Xôcrát, Đê-mô-crít, Pla-tôn, Ari-xtốt, Xi-xê-rôn,... Tuy nhiên, những tư tưởng về
nhà nước pháp quyền được phát triển rực rỡ nhất trong thời kỳ cách mạng tư sản
vào các thế kỷ XVII - XVIII và gắn liền với tên tuổi của các nhà tư tưởng châu
Âu, như J.Lốc-cơ, S.L.Mông-téc-xki-ơ, J.J.Rút-xô, I.Kan-tơ, G.W.Ph.He-ghen,...

và các nhà tư tưởng châu Mỹ, như T.Giep-phec-xơn, T. Pên, Gi. A đam, Gi. Mêđi-sơn,...
Trên cơ sở những tư tưởng vĩ đại của các nhà tư tưởng và thực tiễn vận
động của lịch sử, nhà nước pháp quyền đã từng bước hình thành, phát triển ngày
càng mạnh mẽ và rộng khắp ở nhiều quốc gia phương Tây. Nhìn lại tiến trình


phát triển của nhà nước pháp quyền trong lịch sử, ta có thể nêu một số đặc trưng
cơ bản của nhà nước pháp quyền như sau: Nhà nước pháp quyền là một tổ chức
chính trị, là cơ quan quyền lực của nhân dân; trong nhà nước pháp quyền pháp
luật mang tính tối thượng, pháp luật đó thể hiện y chí chung của nhân dân và vì
lợi ích của nhân dân; nhà nước pháp quyền bảo đảm quyền tự do, dân chủ của
nhân dân; mọi hoạt động của nhà nước pháp quyền đều nhằm thực hiện quyền
lợi của nhân dân và nhân dân phải thực hiện nghĩa vụ của mình đối với nhà
nước; quyền lực nhà nước được tổ chức phù hợp bảo đảm lợi ích của nhân dân
và có chế độ giám sát độc lập; trong nhà nước pháp quyền tòa án hoạt động độc
lập nhằm bảo đảm tính minh bạch và nghiêm minh của pháp luật,...
Thực tế cho thấy, nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước
riêng biệt mà chỉ là phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà
nước hiện đại, trong đó, điều cốt yếu là hạn chế quyền lực của nhà nước và tăng
cường quyền lực của nhân dân bằng hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện.
Có thể nói, nhà nước pháp quyền chính là cách thức tổ chức của nền dân chủ. Đó
thực sự là tổ chức nhà nước và xã hội trên nền tảng của nền dân chủ phát triển ở
trình độ cao. Trong nhà nước pháp quyền, tính tối thượng của pháp luật được tôn
trọng, mọi hành vi, hoạt động, quan niệm, tư tưởng chính trị, tôn giáo, khoa học,
nghệ thuật,... của mọi tổ chức và cá nhân đều phải tuân theo Hiến pháp, pháp
luật và trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật.
Chính vì thế, không nên cho rằng nhà nước pháp quyền là nhà nước tư
sản, mặc dù, đa số nhà nước ở các nước tư bản phát triển hiện nay đều là nhà
nước pháp quyền. Tuy nhiên, thực tế trên thế giới hiện đang cùng tồn tại và phát
triển hai “mô hình” nhà nước pháp quyền. Đó là, nhà nước pháp quyền tư bản

chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Và, mặc dù còn một số hạn
chế, chưa hoàn thiện, nhưng có thể nhận thấy tính ưu việt, hơn hẳn của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa so với nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa. Do
không phải là một kiểu nhà nước nên cũng không thể có mô hình chung của nhà
nước pháp quyền cho mọi quốc gia. Mỗi quốc gia khi xây dựng nhà nước pháp
quyền của mình, cùng với việc kế thừa, phát triển những giá trị phổ biến của nhà


nước pháp quyền, phải đặc biệt chú y tới đặc trưng lịch sử, văn hóa và chế độ
chính trị của mình. Nghĩa là, các quốc gia khác nhau về chế độ chính trị, bản sắc
văn hóa, đặc trưng lịch sử,... cũng sẽ có các mô hình nhà nước pháp quyền khác
nhau. Đây chính là yếu tố tạo nên tính phức tạp, đa dạng và phong phú của nhà
nước pháp quyền trong thời đại ngày nay. Tuy nhiên, dù có khác biệt như thế
nào, thì nhà nước pháp quyền trong thời đại ngày nay để tồn tại và phát triển
được với đúng nghĩa của mình, nó phải thực sự là nhà nước của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân.
Tư tưởng của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới
Tư tưởng về nhà nước pháp quyền thấm đẫm trong tư tưởng Hồ Chí Minh
trong quá trình Người lãnh đạo nhân dân ta xây dựng chính quyền non trẻ và xây
dựng đất nước. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; đó là,
dân là chủ, mọi quyền lực của Nhà nước đều thuộc về nhân dân; đó là, sự ban
hành và từng bước hoàn thiện Hiến pháp và hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, khái
niệm “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” lần đầu tiên được Đảng ta sử
dụng chính thức trong Văn kiện Hội nghị Trung ương 2 khóa VII và được chính
thức sử dụng trong Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa
VII (năm 1994). Tại Hội nghị này, Đảng ta đã xác định rõ nhiệm vụ và phương
hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân và đã được các Đại hội VIII, IX, X và XI của Đảng
tiếp tục phát triển và hoàn thiện.

Tại Đại hội VIII, Đảng ta nêu ra 5 quan điểm cơ bản xây dựng Nhà nước
pháp quyền và Đại hội IX của Đảng đã chỉ ra một số đặc trưng cơ bản của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tại Đại hội X, Đảng ta chỉ rõ: Nhà
nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cần xây dựng cơ chế vận
hành của Nhà nước, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về
nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các
cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện


hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp
luật. Xây dựng và hoàn thiện thể chế giám sát, kiểm tra tính hợp hiến và hợp
pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền.
Trong quá trình đổi mới toàn diện đất nước, Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đã từng bước được xây dựng và hoàn thiện. Về tổng thể, có
thể nêu một số đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là: Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, mọi quyền
lực của nhà nước đều thuộc về nhân dân; Tôn trọng và bảo vệ quyền con người,
vì hạnh phúc của con người; Tuyệt đối tuân theo Hiến pháp và pháp luật, bảo
đảm tính tối cao của pháp luật; Quyền lực của nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp và kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước về lập
pháp, hành pháp và tư pháp; Nhà nước chịu trách nhiệm trước công dân về mọi
hoạt động của mình và bảo đảm cho công dân thực hiện nghĩa vụ trước Nhà
nước và xã hội; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo; Thực hiện đường lối đối ngoại hòa bình, hữu nghị hợp
tác, bình đẳng với các nước; Tôn trọng và cam kết thực hiện các công ước, điều
ước quốc tế mà mình tham gia ky, phê chuẩn,...
Vấn đề xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thực sự trong sạch, vững mạnh của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân được Đại hội XI của Đảng đặc biệt quan tâm. Đảng ta coi đây là nhân tố
quyết định bảo đảm thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai

đoạn hiện nay. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
một vấn đề trọng tâm nên được Đảng ta đề cập đến trong tất các các văn kiện
quan trọng của Đại hội XI. Nhất là trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) là một văn kiện quan trọng có y nghĩa chiến lược,
định hướng cho sự phát triển lâu dài của đất nước trong suốt thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Khi nói về những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa


mà nhân dân ta xây dựng, Cương lĩnh đã khẳng định: “Có Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh
đạo”. Cương lĩnh cũng chỉ rõ, một trong tám mục tiêu tổng quát của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội là: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Trên cơ sở ly luận và thực tiễn xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thời gian qua, Cương
lĩnh đã nêu ra những định hướng lớn về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam trong suốt thời kỳ quá độ. Đó là: Nhà nước ta là Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và
kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản ly xã hội bằng pháp luật và
không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước phục vụ nhân
dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân
dân, tôn trọng, lắng nghe y kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân;
có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công
dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích

của Tổ quốc và của nhân dân. Tổ chức và hoạt động của bộ máy theo nguyên tắc
tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo
thống nhất của Trung ương.
Đây chính là những định hướng lớn mang tính nguyên tắc để xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân trong suốt thời kỳ quá độ lâu dài lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới


Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đáp ứng những yêu cầu đang đặt ra của sự nghiệp đổi mới và hội nhập
quốc tế là một nhân tố mang y nghĩa quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay. Cần tập trung xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước theo hướng bảo đảm thực sự trong sạch, vững mạnh, thực
sự là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; phải chăm lo, phục vụ nhân dân,
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân; đồng thời, có cơ
chế để người dân thực hiện tốt nhất trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với
Nhà nước và xã hội. Cần có cơ chế phù hợp giữa nguyên tắc quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất có sự phân
công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp. Có cơ chế phù hợp bảo đảm mở rộng dân chủ, đồng
thời, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự nghiêm minh của pháp
luật, giữ vững kỷ luật, kỷ cương trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tăng
cường, củng cố quốc phòng, an ninh, tăng cường và mở rộng quan hệ đối ngoại,
giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, ổn định chính trị,
trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho sự phát triển đất
nước.
Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay để thực sự

xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo
tinh thần Đại hội XI của Đảng cần tập trung hoàn thiện chức năng quản ly kinh
tế, quản ly xã hội của Nhà nước phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế trong bối cảnh toàn cầu
hóa. Không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản ly của Nhà nước, trong đó
tập trung: thứ nhất, thực hiện tốt chức năng của Nhà nước, giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa Nhà nước với thị trường; thứ hai, hoàn thiện bộ máy nhà nước,
tạo bước chuyển mạnh về cải cách hành chính. Đó là, đẩy mạnh cải cách lập
pháp, hành pháp, tư pháp; tập trung xây dựng nền hành chính nhà nước trong
sạch, vững mạnh, bảo đảm quản ly thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả;


hoàn thiện cơ chế phân cấp trong quản ly kinh tế và xã hội; xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức, có bản lĩnh chính trị, có
năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân;... thứ ba, đẩy
mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; thứ tư, tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng
bộ máy nhà nước.
Để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam trong sạch, vững mạnh, thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân, Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ một số nhiệm vụ và giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, do Đảng lãnh đạo. Nâng cao năng lực quản ly và điều hành của Nhà
nước theo pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, kỷ cương, kỷ luật.
Nâng cao vai trò và hiệu lực quản ly kinh tế, quản ly xã hội của Nhà nước phù
hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoàn
thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế và
thực hiện tốt các cam kết quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. Nghiên cứu

xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành bảo đảm nguyên tắc tất cả
quyền lực của Nhà nước đều thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan
trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đồng thời, nghiên cứu, sửa
đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 phù hợp với tình hình mới.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước. Đổi
mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm để Quốc hội thực sự là cơ quan
đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Hoàn
thiện cơ chế bầu cử Quốc hội. Nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội và hoạt
động của Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội. Tiếp tục đổi mới và nâng
cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật. Thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ


quyết định và giám sát các vấn đề quan trọng của đất nước. Tiếp tục đổi mới tổ
chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng nền hành chính thống
nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực, hiệu quả, tổ chức tinh gọn,
hợp ly; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, tổ chức bộ
máy của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan chính phủ. Thực hiện phân cấp hợp
ly cho chính quyền địa phương. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục
hành chính. Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp. Tiếp tục đổi
mới tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của chính quyền địa phương, hội
đồng nhân dân, ủy ban nhân dân các cấp; nghiên cứu tổ chức chính quyền đô thị,
hải đảo,...
Thứ ba, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp
ứng yêu cầu trong tình hình mới. Nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện quy chế quản
ly cán bộ, công chức; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm, thẩm quyền
của mỗi cán bộ, công chức. Tăng cường tính công khai, minh bạch của hoạt
động công vụ. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về phẩm chất
đạo đức, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản ly nhà
nước. Có chính sách đãi ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ, công chức hoàn

thành tốt nhiệm vụ và có cơ chế loại bỏ những người không hoàn thành nhiệm
vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân.
Thứ tư, tích cực thực hành tiết kiệm, phòng ngừa và kiên quyết chống
tham nhũng, lãng phí. Đây là một nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài. Hoàn
thiện thể chế và đẩy mạnh cải cách hành chính phục vụ công tác phòng, chống
tham nhũng, lãng phí. Phân cấp, quy định rõ chức năng cho các ngành, các cấp
trong phòng, chống tham nhũng. Thực hiện chế độ công khai, minh bạch về kinh
tế, tài chính trong các cơ quan hành chính, đơn vị cung ứng dịch vụ công, doanh
nghiệp nhà nước. Công khai, minh bạch về cơ chế, chính sách, các dự án đầu tư,
xây dựng cơ bản, mua sắm từ ngân sách công, quản ly và sử dụng đất đai, tài sản
công, tiếp nhận, bổ nhiệm cán bộ. Thực hiện hiệu quả việc kê khai và công khai
tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Xử ly nghiêm cán bộ tham nhũng, tịch
thu tài sản từ tham nhũng. Có cơ chế khuyến khích, bảo vệ người tham gia đấu


tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Phát huy vai trò của nhân dân, của
cơ quan dân cử, của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các phương tiện thông tin
đại chúng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Triển khai những quan điểm quan trọng của Đại hội XI của Đảng về xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch,
vững mạnh thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Hội nghị Trung
ương 4 khóa XI đã ra Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng
hiện nay”, Hội nghị Trung ương 5 khóa XI đã thảo luận và Kết luận về tổng kết
việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và những nội dung cơ bản về sửa đổi Hiến
pháp năm 1992 và Kết luận về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần
thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với cơng tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí.
Để hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam trong sạch, vững mạnh của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Đảng
ta phải thực sự trong sạch, vững mạnh. Nghị quyết về những vấn đề cấp bách về

xây dựng Đảng hiện nay chính là một bước đột phá có y nghĩa quyết định sự
thành công của quá trình tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đẩy mạnh công tác phòng,
chống tham nhũng, lãng phí trong giai đoạn hiện nay chính là một bước hướng
tới làm trong sạch đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy công quyền và hệ
thống chính trị. Thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch trong các hoạt động
công vụ và tài chính công. Tham nhũng đã trở thành một vấn nạn của xã hội ta,
nó xuất hiện ở nhiều cơ quan công quyền và trở thành nỗi nhức nhối của cả xã
hội. Không ngăn chặn, đẩy lùi được tham nhũng, lãng phí sẽ làm mất lòng tin
của nhân dân, suy yếu nội bộ Đảng, bộ máy nhà nước sẽ thoái hóa, biến chất
không còn là của nhân dân, vì nhân dân. Vì vậy, tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong giai đoạn hiện
nay là thiết thực thúc đẩy cải cách hành chính nhằm kịp thời lành mạnh hóa nền
hành chính quốc gia, trong sạch hóa đội ngũ cán bộ, công chức, đẩy mạnh thực
thi pháp luật, đề cao vai trò điều chỉnh của pháp luật trong đời sống xã hội.


Sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là một nhu cầu cấp thiết của sự phát triển
kinh tế - xã hội đất nước khi nước ta bước vào một thời kỳ phát triển mới trong
bối cảnh mới. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là
một tất yếu lịch sử khách quan nhưng để đạt được kết quả như mong muốn,
chúng ta phải chủ động, tích cực phát huy sức mạnh và động lực của các nhân tố
chủ quan. Sửa đổi Hiến pháp năm 1992 chính là mở đường cho một thời kỳ phát
triển mới của đất nước. Vì vậy, sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cần tập trung vào
những nội dung cốt yếu: Thể chế hóa, cụ thể và sâu sắc hơn chủ trương phát huy
dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân;
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động các lực lượng xã hội
phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước; Khẳng định và làm rõ hơn vị trí, vai trò
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội; Phát huy nhân tố con người, tôn
trọng con người, bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền, nghĩa vụ cơ bản của công

dân; Xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, bảo đảm công bằng xã hội,
bảo vệ môi trường; Bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; Xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.../.
Liên hệ Đổi mới phương thức lãnh đạo
Quán triệt quan điểm của Đảng, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm,
xây dựng đảng là nhiệm vụ then chốt, trong thời gian qua đối với công tác xây
dựng đảng, Đảng bộ huyện đặc biệt chú trọng việc đổi mới phương thức lãnh
đạo của các cấp ủy đảng với phương châm hướng về cơ sở. Ban Thường vụ
Huyện ủy thành lập các tổ công tác phân công các đồng chí Ủy viên Thường vụ
phụ trách địa bàn định kỳ dự sinh hoạt với chi, đảng bộ cơ sở (chủ yếu là cấp xã)
để kịp thời nắm bắt tình hình, từ đó đề ra giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo phù hợp.
Các đồng chí cán bộ chủ chốt của huyện định kỳ mỗi tuần dành từ 1 đến 2 buổi
trực tiếp gặp gỡ, đối thoại với cán bộ, đảng viên và đại diện nhân dân ở các thôn,
khu phố, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, những khó khăn, vướng mắc để tháo
gỡ ngay từ cơ sở; kịp thời phát hiện biểu dương khen thưởng những chi, đảng bộ
làm tốt, chấn chỉnh những chi, đảng bộ chưa làm tốt.


Cùng với đổi mới lề lối làm việc của các cấp ủy Đảng, Huyện ủy chỉ đạo
đổi mới công tác kiểm tra, giám sát, chấn chỉnh hoạt động của Ủy ban kiểm tra
các cấp đi dần vào nền nếp, đúng quy định của Điều lệ Đảng. Các cấp ủy đã tiến
hành thực hiện công tác giám sát thường xuyên và chuyên đề các chỉ thị, nghị
quyết của Đảng. Qua kiểm tra, giám sát, phát hiện những sai phạm đều có biện
pháp uốn nắn, chấn chỉnh kịp thời.
Huyện ủy cũng tập trung chỉ đạo đổi mới công tác cán bộ. Thường vụ
Huyện ủy đã xây dựng phương án quy hoạch cấp ủy huyện nhiệm kỳ 2015-2020
và các chức danh chủ chốt huyện về tiêu chuẩn chung, tiêu chuẩn cụ thể, số
lượng nguồn đưa vào quy hoạch. Huyện ủy đã chọn được 11 cán bộ công chức
trẻ có triển vọng được đào tạo cơ bản đưa vào tạo nguồn. Qua đào tạo, luân

chuyển, đến nay đã có 1 đồng chí được bầu làm cán bộ chủ chốt của huyện, 5
đồng chí được bổ nhiệm giữ chức trưởng, phó các phòng, ban, đơn vị. Nhờ xắp
xếp, bố trí cán bộ “đúng người, đúng việc” nên cán bộ, công chức đã phát huy
được năng lực, có động lực phấn đấu rèn luyện, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được
giao.
Từ chuyển biến trong đổi mới phong cách, lối làm việc của các cấp ủy
đảng và công tác cán bộ nên việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa
phương có nhiều chuyển biến tích cực.
Giải pháp thời gian tới:
- Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở
đảng, các cấp ủy phải tập trung chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng,
chính trị và tổ chức.
- Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê
bình để khơi dậy, phát huy trí tuệ của tập thể.
- Trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ, chủ động xây dựng chương trình, kế
hoạch gắn với kiểm tra, giám sát đôn đốc thường xuyên.


- Chú trọng bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất chính trị,
chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm thực tiễn và tinh thần trách nhiệm cao, tiền
phong, gương mẫu. Trong quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ phải phù
hợp với trình độ chuyên môn để phát huy được năng lực, sở trường của từng
người. Gần gũi với dân, lắng nghe y kiến dân đóng góp để đề ra chương trình
công tác sát với thực tế.
Xây dựng chính quyền cơ sở vững mạnh ở huyện K:
Những năm qua, Huyện ủy, HĐND, UBND huyện K luôn quan tâm đến
công tác củng cố, kiện toàn bộ máy chính quyền cơ sở gắn với việc chuẩn hóa,
từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ, công
chức. HĐND cấp xã trong các nhiệm kỳ đều có cơ cấu hợp ly; HĐND các cấp
đã chú trọng ban hành các Nghị quyết kịp thời, phù hợp với tình hình thực tế;

công tác giám sát được tăng cường, góp phần giải quyết tốt nhiều y kiến, kiến
nghị chính đáng của cử tri. Bên cạnh đó, huyện cũng luôn quan tâm xây dựng hệ
thống chính trị ở cơ sở, nhất là hệ thống chi bộ, mặt trận, các tổ chức đoàn thể ở
thôn, xóm, nhằm tạo mối liên hệ chặt chẽ giữa các cấp ủy, chính quyền với nhân
dân.
Việc lựa chọn, bố trí đội ngũ Trưởng thôn, Bí thư chi bộ được tiến hành
một cách công khai, tôn trọng y kiến của đảng viên, quần chúng nhân dân. Đây
là một trong những yếu tố quan trọng nhằm xây dựng và củng cố hệ thống chính
quyền vững mạnh từ cơ sở, đủ sức và đủ tin cậy để làm “cầu nối” giữa Đảng,
chính quyền với nhân dân.
Với mục tiêu từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã, hàng năm, UBND huyện đều chỉ đạo phòng Nội vụ rà soát nhu cầu, tiêu
chuẩn, điều kiện của cán bộ, công chức ở các xã, thị trấn, tham mưu xây dựng kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng từng năm và từng giai đoạn. Từ đầu năm đến nay,
huyện đã cử 70 cán bộ, công chức cấp xã đi học các lớp bồi dưỡng nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ do Sở Nội vụ tổ chức.


Cùng với đó, huyện tập trung cải cách hành chính và nâng cao đạo đức
công vụ, góp phần xây dựng chính quyền gần dân. Từ đó, phương thức hoạt
động của bộ máy chính quyền cơ sở đã được đổi mới theo hướng tinh gọn, tạo
được mối quan hệ phối hợp bền chặt giữa chính quyền với MTTQ và các đoàn
thể, đáp ứng yêu cầu xây dựng chính quyền cơ sở trong sạch, vững mạnh trong
tình hình mới. Năm 2013, qua đánh giá, xếp loại toàn huyện có 7/9 chính quyền
cơ sở xếp loại trong sạch, vững mạnh.
Nhằm mục tiêu xây dựng chính quyền vững mạnh với một nền hành chính
trong sạch, chuyên nghiệp, Yên Mô đã triển khai đồng bộ nhiều biện pháp đẩy
mạnh cải cách hành chính, trọng tâm là triển khai cơ chế “Một cửa” và nâng cao
đạo đức công vụ cho cán bộ, công chức. Từ điều kiện thực tế của địa phương,
huyện đã từng bước trang bị cơ sở vật chất, kiện toàn lại đội ngũ cán bộ của các

trung tâm giao dịch hành chính “Một cửa” từ huyện đến xã.
Bên cạnh đó, huyện còn đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao đạo đức
công vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức và phát huy vai trò của người đứng đầu
trong thực thi nhiệm vụ thông qua tổ chức bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ, kỹ
năng giao tiếp cho cán bộ, công chức và đội ngũ trực tại bộ phận “Một cửa”.
Đồng thời thành lập các tổ công tác kiểm tra thường xuyên việc thực thi
công vụ, cải cách hành chính tại các xã, thị trấn và ngành, đơn vị, kịp thời chấn
chỉnh, uốn nắn những thiếu sót, sai phạm, từng bước nâng cao đạo đức công vụ
cho cán bộ, công chức. Nhờ đó công tác lãnh đạo, điều hành của cấp ủy, chính
quyền các cấp trong huyện đã có nhiều đổi mới, hướng mạnh về cơ sở. Nhiều
việc làm cụ thể gắn với vai trò người đứng đầu được phát huy góp phần giải
quyết có hiệu quả các vấn đề liên quan đến công tác giải phóng mặt bằng, giải
quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo...
Giải pháp:
Để tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền
cơ sở, trong thời gian tới, huyện tập trung kiện toàn tổ chức, bộ máy chính
quyền các cấp. Trọng tâm là nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND và hiệu


lực quản ly, điều hành của UBND; trách nhiệm tham mưu và năng lực tổ chức
thực hiện của các phòng, ban, ngành, đơn vị, các xã, thị trấn. Chỉ đạo UBND cấp
xã xác định và lựa chọn những vấn đề trọng tâm, trọng điểm để tập trung lãnh
đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện, nhất là các nội dung về cải cách thủ tục hành
chính, xây dựng nông thôn mới, tăng cường quản ly đất đai, tài nguyên, môi
trường…
Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế
- xã hội ở từng địa phương theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra” nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, gắn đào tạo
về chuyên môn, nghiệp vụ với việc đào tạo, bồi dưỡng về kỹ năng giải quyết

công việc, kỹ năng lãnh đạo, điều hành và trình độ chính trị, tin học của đội ngũ
cán bộ, công chức cấp xã.
Thực hiện nghiêm túc công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ, rà soát, bổ
sung quy hoạch, bố trí, luân chuyển cán bộ phù hợp để lựa chọn được những cán
bộ có năng lực, phẩm chất đạo đức, có triển vọng phát triển. Tiếp tục đẩy mạnh
cải cách hành chính gắn với nâng cao đạo đức công vụ của cán bộ, công chức;
ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác cải cách hành chính ở cơ sở.
Xây dựng kế hoạch kiểm tra, thanh tra thường xuyên các lĩnh vực, đặc
biệt các vấn đề nổi cộm, bức xúc trong nhân dân, gắn việc kiện toàn tổ chức bộ
máy chính quyền các cấp với việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh”, góp phần xây dựng quê hương ngày càng phát triển.



×