Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

LUẬN VĂN: Nâng cao chất lượng tín dụng trung & dài hạn tại SGD NHNo&PTNT potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.15 MB, 87 trang )


z













LUẬN VĂN:

Nâng cao chất lượng tín dụng trung &
dài hạn tại SGD NHNo&PTNT





















Lời nói đầu


Từ một nước nông nghiệp lạc hậu sản xuất không đủ tiêu dùng, qua gần 15
năm đổi mới Việt Nam đã và đang từng bước vươn lên, bước đầu khẳng định được
uy tín, chinh phục được mọi khách hàng, chiếm lĩnh thị trường lớn, ổn định góp phần
nâng cao vị thế của mình trên chính trường quốc tế. Hiện nay với cơ chế mở cửa, các
thành phần kinh tế hoạt động một cách bình đẳng theo hiến pháp và pháp luật. Nhiều
loại hình doanh nghiệp ra đời và phát triển mạnh mẽ. Cùng với nó là sự cạnh tranh
gay gắt giữa các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài đòi hỏi các doanh
nghiệp phải luôn luôn đổi mới công nghệ, trang thiết bị và mở rộng sản xuất.
Theo tính toán và dự báo nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển trong tương lai
gần nhu cầu về vốn sẽ rất lớn để tạo ra nănglực sản xuất mới và nâng cao khả năng
cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, vốn đầu tư từ ngân sách
mà nhà nước có thể trực tiếp bố trí từ 35% đến 39%, còn lại sẽ huy động từ nhiều
nguồn vốn vay dưới nhiều hình thức Như vậy nhu cầu vốn tín dụng trung – dài hạn
của các thành phần kinh tế nhằm xây dựng mới, đổi mới công nghệ, cải tạo và mở
rộng sản xuất trong thời gian tới là rất lớn Các tổ chức tín dụng hình thành mạng
lưới trên hầu khắp các địa bàn cả nước. Ngoài hệ thống ngân hàng thương mại quốc
doanh còn có các ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh Nghiệp vụ
ngân hàng cũng được đổi mới và từng bước hiện đại hoá, tiếp cận với công nghệ và
thông lệ quốc tế. Với hoạt động tín dụng và các dịch vụ đa dạng, ngân hàng đã phần

lớn thoả mãn nhu cầu của khách hàng, góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển
kinh tế đất nước. Ngày nay ngân hàng đã trở thành một mắt xích quan trọng cấu
thành nên sự vận động nhịp nhàng của nền kinh tế. Cùng với các ngành kinh tế khác,
ngân hàng có nhiệm vụ tham gia bình ổn thị trường tiền tệ, kiềm chế và đẩy lùi lạm
phát, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, tạo công ăn việc làm cho người lao động, phát
triển thị trường ngoại hối.
Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế đang trong thời kì mới chuyển đổi sang
cơ chế thị trường, môi trường kinh tế chưa ổn định, môi trường pháp lí đang dần
được thực hiện nên hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại đang gặp

nhiều khó khăn, nhất là chất lượng tín dụng trung – dài hạn chưa cao mà biểu hiện là
nợ quá hạn, nợ khó đòi lớn. Như vậy việc nâng cao chất lượng tín dụng trung – dài
hạn là nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên của ngành ngân hàng. Vấn đề càng trở nên cần
thiết và bức xúc với hệ thống NHNNo có thị trường tín dụng chủ yếu là khu vực
nông thôn.
Xuất phát từ quan điểm đó, qua thời gian khảo sát khảo sát thực tế tại SGD
NHNo kết hợp với những lí thuyết được trang bị tại nhà trường, em đã lựa chọn đề
tài : “ Nâng cao chất lượng tín dụng trung & dài hạn tại SGD NHNo&PTNT ”
mục đích là nghiên cứu và luận giải những vấn đề lí luận, thực tiễn để khẳng định :
Việc nâng cao chất lượng tín dụng trung & dài hạn là một nhu cầu cấp thiết để đất
nước từng bước hội nhập vào nền kinh tế.
Bài viết chia làm 3 chương:
 Chương 1 : Phương pháp đánh giá chất lượng tín dụng
trung & dài hạn tại NHTM
 Chương 2 : Thực trạng chất lượng tín dụng trung & dài
hạn tại SDG NHNo&PTNT VN
 Chương 3 : Giảp pháp năng cao chất lượng tín dụng trung
& dài hạn tại SDGNHNo&PTNTVN



chương I
Phương pháp đánh giá
chất lượng tín dụng trung & dài hạn tại NHTM

I/ Tín dụng và các hình thức tín dụng ngân hàng
1.Tín dụng – Sự cần thiết của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế.
-Tín dụng được coi là mối quan hiện vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay
và người đi vay trong điều kiện có hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định.
Hay nói một cách khác : Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ
kinh tế mà trong đó mỗi cá nhân hay một tổ chức nhường quyền sử dụng một khối
lượng giá trị hoặc hiện vật cho một cá nhân hay một tổ chức khác với những ràng
buộc nhất định về thời gian hoàn trả, lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi.
Trong quan hệ mua bán chịu, thông thường giá bán chịu hàng hoá cao hơn giá
bán trao ngay, phần chênh lệch này chính là lãi của hàng hoá đem bán chịu. Quan hệ
mua bán chịu chỉ diến ra giữa các đơn vị liên quan trực tiếp với nhau. Vì vậy nó
không đáp ứng được nhu cầu vay mượn ngày càng tăng của nền sản xuất hàng hoá
.Mặt khác, do đặc điểm tuần hoàn vốn trong quá trình tái sản xuất, xã hội thường
xuyên xuất hiện hiện tượng thừa vốn tạm thời ở các tổ chức cá nhân này và nhu cầu
thiếu vốn ở các tổ chức cá nhân khác. Hiện tượng thừa thiếu vốn phát sinh do có sự
chênh lệch về thời gian. Trong khi đó số lượng các khoản thu nhập và chi tiêu ở các
tổ chức cá nhân trong quá trình tái sản xuất đòi hỏi phải được tiến hành liên tục. Vậy
để khắc phục tình trạng này thì chỉ có ngân hàng – một tổ chức chuyên kinh doanh
tiền tệ mới có khả năng giải quyết được những mâu thuẫn đó.
Vậy tín dụng ngân hàng là gì ?
“ Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ mà một bên là ngân
hàng – một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là tất cả các
tổ chức, cá nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay, vừa
là người cho vay”.
Với tư cách là người đi vay : ngân hàng huy động mọi nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi trong xã hội bằng hình thức nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức

cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong xã hội

Với tư cách là người cho vay : Ngân hàng đáp ứng nhu cầu cho các doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu thiếu vốn cần được bổ sung trong hoạt động
sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Với vai trò này, ngân hàng đã thực hiện chức năng
phân phối lại vốn, tiền tệ để đáp ứng nhu cầu tái sản xuất xã hội.
Đây là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường, nó luôn đáp
ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt đầy đủ và kịp thời.
Có thể thấy rõ hơn khái niệm về tín dụng ngân hàng qua ví dụ sau :
Tiến tới Seagame 22 lần đầu tiên tổ chức tại Việt Nam, số lượng khách du lịch
cũng như cổ động viên rất lớn. Nếu biết tận dụng cơ hội này thì việc xây dựng nên
khách sạn không những đem lại lợi nhuận cho chính bản thân mà còn đem lại sự
phát triển cho nền kinh tế. Nhưng để xây dựng được khách sạn đủ khả năng cạnh
tranh thì cần có lượng vốn rất lớn mà nguồn vốn của chính bản thân thì không thể
đáp ứng. Trong khi đó có một số người khác có món tiết kiệm do tích luỹ được trong
nhiều năm, tạm gọi là lượng tiền nhàn rỗi. Nếu 2 bên gặp được nhau và bên đối tác
sẵn sàng đáp ứng nhu cầu vốn thì kế hoạch sẽ trở thành hiện thực. Tuy nhiên, khả
năng gặp mặt giữa 2 bên có xảy ra không? Trong nền kinh tế thị trường, hàng ngày
hàng giờ không biết xảy ra bao nhiêu mối quan hệ như vậy. Nó đã hình thành nên :
một bên là những người có tiền tích luỹ, có khả năng cung cấp và phía bên kia là
những người có nhu cầu vay cho đầu tư phát triển. Như vậy nảy sinh vấn đề là làm
như thế nào để họ có thể tìm gặp được nhau và làm thế nào để cùng một lúc thoả mãn
được nhu cầu vốn đa dạng và to lớn trong khi các nguồn tiết kiệm còn đang nằm
phân tán trong xã hội. Không phải bất kì ai cũng có khả năng hoặc đầu tư vay vốn
trên thị trường tài chính, ngoài ra khi giao dịch trên thị trường tài chính đòi hỏi chi
phí về tiền bạc và thời gian rất lớn. Do đó các ngân hàng thương mại với chức năng
cơ bản là trung gian tài chính, hoạt động như một chiếc cầu nối liền giữa khả năng
cung ứng và nhu cầu về vốn tiền tệ trong xã hội đã cơ bản giải quyết được những vấn
đề nẩy sinh trên. Đồng thời với tư cách là một trung gian, tín dụng ngân hàng đóng
vai trò là người môi giới giữa một bên là người có tiền cho vay và một bên là người

có nhu cầu vay vốn. Thông qua cơ chế thị trường bằng những biện pháp kinh tế năng
động và áp dụng các phương pháp kĩ thuật theo hướng hiện đại tiên tiến, ngân hàng
có khả năng thu hút hầu hết những nguồn vốn tiền tệ tiết kiệm dự trữ trong xã hội để
chuyển giao đúng nơi, đúng lúc phù hợp với nhu cầu vốn trong sản xuất kinh doanh.

Chính nhờ có tín dụng ngân hàng mà những đồng tiền tạm thời nhàn rỗi đã trở thành
tiền hoạt động, biến những đồng tiền phân tán thành nguồn vốn tập trung phục vụ
cho nhu cầu kinh doanh. Qua đó thúc đầy hoạt động sản xuất kinh doanh giúp cho
nền kinh tế ngày càng phát triển.

2.Các hình thức tín dụng ngân hàng.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế với xu hướng tự do hoá, các
ngân hàng phải luôn nghiên cứu và đưa ra các hình thức tín dụng khác nhau để có thể
đáp ứng một cách tốt nhất quá trình tái sản xuất, từ đó đa dạng hoá danh mục đầu tư
để mở rộng tín dụng, thu hút khách hàng, tăng lợi nhuận và thực hiện phân tán rủi ro.
Dựa vào các tiêu thức khác nhau mà chúng ta tiến hành phân loại các hình
thức tín dụng ngân hàng.
-Căn cứ vào mục đích sử dụng
+Cho vay bất động sản : Là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây
dựng bất động sản nhà ở đất đai, bất động sản trong lĩnh vực thương mại dịch vụ.
+ Cho vay công nghiệp và thương mại : là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung
vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại, dịch vụ.
+ Cho vay nông nghiệp : là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất :
phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động
+ Cho vay tiêu dùng cá nhân : Là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu
dùng như mua sắm các vật dụng đắt tiền. Ngày nay ngân hàng còn thực hiện cho vay
để trang trải chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.
- Căn cứ vào tài sản thế chấp
+Cho vay có tài sản thế chấp : Ngân hàng căn cứ vào tài sản của khách hàng
để đảm bảo cho việc trả nợ của khách hàng.

Cho vay cầm cố : Là việc ngân hàng căn cứ vào tài sản khách hàng
mang đến cầm cố tại ngân hàng. Tài sản của khách hàng do ngân hàng bảo quản.
Trong suốt thời gian cầm cố, khách hàng không được sử dụng nhượng bán, cho
thuê
Cho vay thế chấp : là việc ngân hàng căn cứ vào tài sản của khách hàng
để đảm bảo cho khả năng trả nợ của khách hàng. Tài sản không cần mang đến ngân
hàng, khách hàng có quyền sử dụng nhưng không có quyền bán và cho thuê.

+ Cho vay không có tài sản thế chấp ( Tín chấp ) : Ngân hàng cho vay trên cơ
sở tin tưởng khách hàng, tài sản thế chấp là uy tín, danh dự của khách hàng. Ngoài ra
còn có hình thức cho vay thông qua việc bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể
chính trị – xã hội cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn.
- Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng
+ Cho vay bằng tiền : Là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được
cung cấp bằng tiền : thấu chi, tín dụng thời vụ, tín dụng trả góp
+ Cho vay bằng tài sản : Phổ biến là tài trợ thuê mua.

- Căn cứ vào xuất xứ tín dụng.
+ Cho vay trực tiếp : ngân hàng trực tiếp cấp vốn cho khách hàng và khách
hàng trực tiếp trả lãi và gốc cho ngân hàng.
+Cho vay gián tiếp : Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại
các khế ước hoặc các chứng từ nợ đã phát sinh và còn lại trong thời hạn thanh toán
- Căn cứ vào thời hạn cho vay
+ Tín dụng ngắn hạn
+ Tín dụng trung hạn
+ Tín dụng dài hạn

II/Vai trò của tín dụng trung & dài hạn đối với nền kinh tế
1. Tín dụng trung – dài hạn
Là những khoản tín dụng có thời hạn trên 12 tháng với mục đích là sửa chữa, khôi

phục, thay thế tài sản cố định, cải tiến kĩ thuật hợp lí hóa sản xuất, đổi mới công nghệ
và xây dựng những công trình mới

2.Đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn
2.1Tính rủi ro lớn.
Bản chất của tín dụng trung và dài hạn khác so với tín dụng ngắn hạn là ở thời
hạn cho vay dài hơn. Tín dụng ngắn hạn đáp ứng nhu cầu thanh toán ngắn hạn do đó
có tính lỏng cao, có thể xem như là một bộ phận đảm bảo khả năng thanh toán của
ngân hàng. Trái lại, tín dụng dài hạn thường được đầu tư vào mở rộng sản xuất, xây
dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới trang thiết bị khoa học công nghệ, dây chuyền sản xuất

hiện đại, tức là các dự án chưa có khả năng sinh lời trong thời gian ngắn nên thời hạn
của các khoản tín dụng này thường dài và chỉ được hoàn trả khi xuất hiện nguồn thu
từ dự án, mà thời hạn cho vay càng dài thì tính rủi ro càng cao.

2.2 Lãi suất cao

Đặc điểm này thực chất là hệ quả của đặc điểm trên. Một khoản vay chứa
đựng nhiều rủi ro hơn chắc chắn phải trả lãi suất cao hơn để có thể bù đắp cho những
rủi ro có thể xảy ra.

3. Các vấn đề cơ bản của tín dụng trung và dài hạn
3.1 Nguồn cho vay trung và dài hạn
-Vốn tự có và các quỹ của ngân hàng
- Vốn huy động trong nước và nước ngoài từ 1 năm trở lên : bằng cách phát hành kì
phiếu dài hạn hoặc huy động tiền gửi định kì dài hạn.
- Một phần vốn huy động trong nước có thời hạn dưới 1 năm : trên cơ sở quy định
của thống đốc ngân hàng nhà nước, mức độ trích phụ thuộc vào tình hình hoạt động
kinh doanh của ngân hàng trong từng thời kì
- Vốn uỷ thác và vốn tài trợ để cho vay theo chương trình hoặc dự án đầu tư của nhà

nước, của các tổ chức kinh tế xã hội trong và ngoài nước.
3.2 Đối tượng cho vay trung và dài hạn
Đó là các chi phí cấu thành trong tổng mức đầu tư của dự án đầu tư xây dựng
mới, mở rộng, cải tạo, khôi phục, đổi mới kĩ thuật, ứng dụng khoa học công nghệ bao
gồm : giá trị vật tư, máy móc thiết bị, công nghệ chuyển giao, sáng chế và phát minh,
chi phí nhân công, giá thuê và chuyển nhượng đất đai, giá thuê mua các tài sản khác
trong khuôn khổ luật định, chi phí mua bảo hiểm tài sản thuộc dự án đầu tư và các
chi phí khác.
Mức cho vay đối với một dư án đầu tư bằng tổng mức vốn đầu tư của dự án
trừ đi vốn tự đầu tư cho dự án của bên vay, nhưng tối đa bằng 70% giá trị tài sản thế
chấp, cầm cố.
3.3 Thời hạn cho vay trung và dài hạn.

- Thời hạn cho vay là thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận tiền vay
cho đến khi bắt đầu trả nợ gốc và lãi tiền vay đã được thoả thuận trong hợp đồng tín
dụng giữa ngân hàng và khách hàng.
- Thời hạn cho vay trung hạn từ 12 tháng tới 60 tháng.
- Thời hạn cho vay dài hạn trên 60 tháng nhưng không quá thời hạn hoạt động còn lại
theo quyết định thành lập của giấy phép kinh doanh đối với pháp nhân, không quá 15
năm đối với cho vay các dự án phục vụ đời sống.
3.4 Các hình thức tín dụng trung – dài hạn
Ngày nay, về mặt hình thức, tín dụng trung và dài hạn không chỉ đơn thuần là
việc phát tiền vay với thời hạn trên 1 năm mà nó tiềm ẩn dưới nhiều hình thức, trong
đó có thể các hình thức phổ biến sau :
Cho vay theo kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản của doanh nghiệp là loại cho
vay được thực hiện theo phương pháp cho vay, thông thường dựa trên cơ sở nhu cầu
vốn vay của từng công trình, hạng mục công trình được xác định trong kế hoạch đầu
tư xây dựng cơ bản của mỗi doanh nghiệp.
Cho vay theo dự án là một phương pháp cho vay dựa trên một văn bản hoàn
chỉnh về vay vốn và trả nợ được nghiên cứu, soạn thảo, xét duyệt, kí kết giữa người

đi vay và ngân hàng, đồng thời dựa trên các căn cứ khoa học kĩ thuật phù hợp với
đường lối phát triển kinh tế của nhà nước.
Tín dụng tuần hoàn : Là phương thức cho vay dựa vào chu kì sản suất kinh
doanh của doanh nghiệp. Nó được coi là tín dụng trung và dài hạn khi thời hạn của
hợp đồng được kéo dài trên 1 năm và khi đó người vay có thể rút tiền ra bất cứ khi
nào, miễn là phải cam kết trả nợ ngay khi có nguồn thu trong thời gian hợp đồng có
hiệu lực.
Tín dụng thuê mua : Là một trong những hình thức tài trợ vốn trung và dài hạn
nhưng bằng tài sản thay vì bằng tiền thông qua một hợp đồng tín dụng thuê mua. Bên
cho vay lấy một hợp đồng tín dụng để mua lại tài sản cố định và giữ quyền sở hữu,
bên vay kí một hợp đồng thuê mua tài sản và trả góp giá trị tài sản cả gốc và lãi cho
đến khi hết giá trị tài sản hoặc là cho đến khi hết thời hạn hợp đồng. Tài sản sau khi
cho thuê thì có thể được bán lại cho bên đi thuê.
3.5 Điều kiện vay vốn.
( Theo điều 7 của quy chế cho vay đối với tổ chức tín dụng)

- Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự
theo quy định của pháp luật :
- Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp
- Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết
- Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả;
hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy định
của pháp luật
- Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ và hướng
dẫn của NHNNVN
3.6 Quy trình thẩm định và cho vay dự án đầu tư trung, dài hạn.
3.6.1 Thẩm định tư cách pháp nhân của doanh nghiệp
-Quyết định thành lập của cơ quan có thẩm quyền
- Quyết định bổ nhiệm đại diện pháp nhân của doanh nghiệp ( Tổng giám đốc; giám
đốc )

- Quyết định bổ nhiệm kế toán trưởng
- Điều lệ tổ chức và hoạt động
3.6.2 Thẩm định hồ sơ kinh tế của doanh nghiệp
- Giấy phép đăng kí kinh doanh
- Giấy phép hành nghề ( nếu có)
- Đăng kí mã số thuế, mã số xuất nhập khẩu
3.6.3 Thẩm định năng lực tài chính của doanh nghiệp
- Căn cứ vào báo cáo tài chính của doanh nghiệp ít nhất 02 năm liền kề với thời điểm
xin vay
- Đánh giá năng lực tài chính thông qua các hệ số tài chính, chú ý làm rõ một số chỉ
tiêu như nguồn vốn CSH, giá trị TSCĐ, công nợ phải thu, phải trả, dư nợ ngân hàng,
vốn hoạt động thuần
3.6.4 Thẩm định hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
- Các lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính
- Cơ cấu doanh thu, lợi nhuận
- Năng lực thực hiện của doanh nghiệp đối với dự án xin vay.
3.6.5 .Thẩm định dự án
-Căn cứ pháp lý của dự án

- Phân tích khả năng đáp ứng thị trường của dự án có tính đến các dối thủ cạnh tranh
( dự báo cho cả vòng đời dự án)
- Thẩm định các phương án khả năng của dự án
- Thẩm định công nghệ của dự án, tác động của dự án tới môi trường
- Khả năng tổ chức, quản lý dự án của chủ đầu tư
-Thẩm định tính chính xác của giá trị dự toán từng hạng mục ( căn cứ vào định mức
kinh tế – kỹ thuật của ngành, của địa phương), giá trị dự phòng.
- Thẩm định chi phí vận hành dự án hàng năm
- Xác định tổng mức đầu tư của dự án
- Phân tích hiệu quả kinh tế – tài chính của dự án (Dựa vào các chỉ số NPV,IRR, thời
gian hoàn vốn nhờ lợi nhuận và khấu hao, công suất hoạt động hoà vốn, độ nhạy của

dự án )
- Phân tích hiệu quả kinh tế – xã hội của dự án ( chỉ số doanh lợi, khả năng giải quyết
việc làm, nộp ngân sách, góp phần phát triển kinh tế – xã hội tại địa phương )
3.6.5 Quy trình tài trợ vốn của ngân hàng đối với dự án
- Trên cơ sở các kết quả thẩm định nói trên, sơ bộ đánh giá xem có thể tài trợ vốn cho
dự án được hay không ?
- Nếu được, tiến hành đàm phán với doanh nghiệp về các nội dung chủ yếu sau :
+ Mức tài trợ vốn tối đa cho dự án ( tối đa 85% tổng mức đầu tư của dự án)
+Đồng tiền cho vay
+ Lãi suất cho vay ( phù hợp với quy định của NHNNo&PTNTVN)
+ Thời hạn cho vay
+ Phương thức giải ngân
+ Phương thức trả nợ/ kì hạn trả nợ
+Phương thức bảo đảm tiền vay ( bảo đảm bằng tài sản, bảo lãnh của bên thứ
ba, bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay, không bảo đảm bằng tài sản)
+ Nội dung chủ yếu các điều khoản của Hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo
đảm tiền vay.
4.Vai trò
Với sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của các NHTM, ta có thể thấy tín dụng
ngân hàng có vai trò quan trọng như thế nào đối với sự vận hành của một nền kinh

tế, trong đó tín dụng trung và dài hạn có vai trò đặc biệt quan trọng cho sự phát triển
kinh tế đất nước.
4.1 Tín dụng trung và dài hạn giúp các doanh nghiệp có khả năng đổi mới công nghệ,
mở rộng sản xuất.
Đại hội Đảng lần thứ VI đã khẳng định sự tồn tại,phát triển bình đẳng giữa các thành
phần kinh tế : Doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty liên doanh, công ty
tư nhân, hợp tác xã Trong cơ chế thị trường, với sự cạnh tranh gay gắt, quyết liệt,
đòi hỏi mỗi doanh nghiệp luôn phải đặt mình trước sự đổi mới về sản phẩm, dịch vụ
cung ứng cho thị trường. Điều này đồng nghĩa với doanh nghiệp phải không ngừng

đổi mới đầu tư trang thiết bị hiện đại, mở rộng dây chuyền sản xuất, nâng cao chất
lượng sản phẩm thì mới thắng được trong cạnh tranh và chiếm lĩnh được thị trường.
Do đó, vấn đề đầu tư cho phát triển, sản xuất được đưa ra như một yêu cầu bức thiết
đối với mỗi doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp nhà nước, ngoài nguồn vốn
ngân sách hạn hẹp, họ phải chủ động tìm kiếm các nguồn vốn trung và dài hạn nhằm
đáp ứng nhu cầu đổi mới, phát triển và mở rộng sản xuất đảm bảo giữ vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế. Còn đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nguồn vốn tự có
ban đầu phải được hỗ trợ bằng nguồn vốn bên ngoài. Về lí thuyết, có thể huy động
vốn trung và dài hạn bằng 2 cách chủ yếu sau:
- Phát hành cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường chứng khoán
- Vay ngân hàng
ở các nước kinh tế phát triển, cách thứ nhất tỏ ra ưu thế hơn. Đây là thị trường
vốn dài hạn rất có hiệu quả. Khi có nhu cầu đầu tư mới, công ty có thể phát hành cổ
phiếu, trái phiếu ra thị trường, với chi phí phát hành thấp, hay công ty có thể thuê
ngân hàng đầu tư làm đại lý bán hộ hay bao tiêu số cổ phiếu phát hành. Lãi trả cho
mỗi cổ phiếu là do công ty chủ động quyết định, công ty càng có uy tín trong kinh
doanh thì trị giá cổ phiếu càng lớn, thu hút được nhiều cổ đông.Thậm chí công ty có
thể phát hành trái phiếu đợt này để thanh toán cho đợt phát hành trước. Nếu sử dụng
cách này, lãi trả cho cổ phiếu thấp hơn lãi suất ngân hàng vì phần lớn các cổ đông
trông chờ vào thị giá cổ phiếu tăng trong tương lai chứ không phải là một khoản cổ
tức nho nhỏ. Hơn nữa, khối lượng cổ phiếu phát hành là tuỳ thuộc vào nhu cầu vốn
trung và dài hạn của công ty, chứ không bị lệ thuộc vào hạn mức tín dụng của ngân
hàng

Song ở nước ta hiện nay, sự hoạt động của thị trường chứng khoán chưa thực
sự đa dạng và mang tính hiệu quả cao. Đối tượng phát hành mới chỉ là các Ngân hàng
và một số ít các công ty, doanh nghiệp có uy tín. Mặt khác, khuôn khổ pháp lý, môi
trường kinh tế, thói quen, tâm lý của dân chúng chưa cho phép lưu hành cổ phiếu, trái
phiếu một cách rộng rãi để thị trường này trở thành thị trường vốn trung và dài hạn
tiềm năng, hoạt động có hiệu quả. Do vậy, doanh nghiệp không còn cách nào khác là

tìm đến ngân hàng. Lúc này tín dụng trung và dài hạn thực sự trở thành bà đỡ cho
những dự án đầu tư chiều sâu, phát triển sản xuất, hiện đại hoá doanh nghiệp.
Mục đích của tín dụng trung và dài hạn đối với các doanh nghiệp là đầu
tư vào mở rộng sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm trang thiết bị công nghệ
hiện đại, tức là đầu tư theo chiều sâu nên ta có thể thấy tác động trực tiếp của tín
dụng trung và dài hạn đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tài sản cố định
hình thành từ vốn vay dài hạn sẽ cải tạo, nâng cấp hiện đại hoá cơ sở sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Chính nhờ công nghệ hiện đại mà doanh nghiệp có thể nâng
cao được năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm, dẫn đến sản phẩm sản xuất ra
có tính hấp dẫn thu hút khách hàng, sẽ thúc đẩy chiếm lĩnh thị trường. Kết quả là tăng
khả năng sinh lời, tăng thu nhập cho người lao động đồng thời các khoản thực hiện
nghĩa vụ với nhà nước như thuế thu nhập, VAT cũng tăng.

4.2 Có tác động trực tiếp tới chính bản thân ngân hàng.
Tín dụng trung – dài hạn là một bộ phận của tín dụng ngân hàng, đóng góp
một phần quan trọng của tín dụng ngân hàng. Khi ngân hàng có khả năng cung ứng
vốn cho phương án kinh doanh lớn, chương trình kinh tế hoặc dự án tầm cỡ thì càng
nâng cao vị thế của ngân hàng và đa dạng các mối quan hệ đối ngoại.

4.3 Tác động của tín dụng trung và dài hạn đối với nền kinh tế.
Xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu,
nền kinh tế nước ta gặp vô vàn khó khăn trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Để có thể thực sự vững bước hội nhập trong nền kinh tế thì nhu cầu về vốn,
nhất là vốn trung – dài hạn là rất lớn.
Ví dụ như trong lĩnh vưc đổi mới công nghệ, tín dụng trung và dài hạn làm
cho quá trình chuyển giao công nghệ giữa các nước được thực hiện nhanh hơn. Đối

với những nước nhập khẩu công nghệ có thể nhanh chóng xây dựng được nền sản
xuất có nền công nghệ tiên tiến, mà các nước đi trước trong lĩnh vực đó phải mất
hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm.

Trong điều kiện thị trường vốn của ta chưa phát triển hoàn thiện thì hiện tại và
thời gian tới tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng vẫn đóng vai trò quyết định cho
tiến trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Vì vậy, nâng cao chất lượng tín
dụng trung và dài hạn là điều kiện cần thiết góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế
của đất nước.

III/ Phương pháp đánh giá chất lượng tín dụng
trung -dài hạn của NHTM và các nhân tố ảnh hưởng.

1.Chất lượng tín dụng trung – dài hạn.
Trong nền kinh tế thị trường, một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển
được thì phải thắng trong cạnh tranh. Khi nền sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển
thì cạnh tranh ngày càng găy gắt. Cạnh tranh diễn ra trên 3 phương diện : Chất lượng,
số lượng, giá cả trong đó chất lượng đóng vai trò quan trọng hàng đầu, tạo điều kiện
nâng cao chiếm lĩnh thị trường. Vậy chất lượng tín dụng ngân hàng như thế nào?
“ Chất lượng tín dụng ngân hàng là sự đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu của
khách hàng trong quan hệ tín dụng, đảm bảo an toàn hay hạn chế rủi ro về vốn, tăng
lợi nhuận cho ngân hàng, phù hợp và phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội”.
Chất lượng tín dụng trung – dài hạn là chất lượng tín dụng của các món vay có
thời hạn trên 1 năm Xét về tổng thể, Ngân hàng vừa phải tạo ra hiệu quả kinh tế vừa
đem lại hiệu quả xã hội.
Để có được chất lượng tín dụng tốt thì hoạt động tín dụng phải có hiệu quả và
quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở tin cậy và uy tín trong hoạt động
Hiểu đúng bản chất về chất lượng tín dụng, phân tích, đánh giá đúng chất lượng tín
dụng hiện tại cũng như xác định chính xác các nguyên nhân của những tồn tại về chất
lượng tín dụng sẽ giúp cho ngân hàng tìm được các biện pháp quản lí thích hợp để có
thể đững vững trong nền kinh tế thị trường hoạt động sôi động và có sự cạnh tranh
găy gắt.
2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung – dài hạn.



Nếu nhìn từ phương diện chủ thể tham gia, một quan hệ tín dụng giữa Ngân
hàng và khách hàng thì đơn giản chỉ là quan hệ giữa người cho vay và người đi vay.
Người đi vay có nghĩa vụ hoàn trả cả gốc và lãi đúng thời hạn. Người cho vay có
trách nhiệm giải ngân đúng quy trình. Và như vậy, giữa hai chủ thể đã hoàn thành
trách nhiệm với nhau. Nhưng xét một cách tổng thể, quan hệ tín dụng không chỉ có
vậy mà nó còn đặt trong mối quan hệ với các mặt khác nhau của xã hội. Chính vì
vậy, khi đánh giá chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng trung – dài
hạn nói riêng không chỉ dựa vào một số chỉ tiêu mà có thể bao quát được hết. Nhưng
xét về mặt lí thuyết, người ta dựa vào một số chỉ tiêu mang tính chất cơ bản, phản
ánh khái quát về thực trạng khoản tín dụng. Chất lượng tín dụng trung – dài hạn biểu
hiện qua hai nhóm chỉ tiêu định tính và định lượng

2.1 Nhóm chỉ tiêu định tính
- Nhóm chỉ tiêu định tính được thể hiện qua các quy chế, chế độ thể lệ tín dụng.
- Cho vay phải tuân thủ các nguyên tắc căn bản và chung nhất, đó là
+Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
+ Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng
tín dụng
Những nguyên tắc này đã được trải qua các thời đại khác nhau, tồn tại dưới
nhiều phương thức sản xuất và được đúc kết thành chuẩn tắc. Chúng hình thành như
một quy luật phát triển nội tại của tín dụng, là điều luật bất khả vi phạm, tước bỏ,
tách rời trong quan hệ tín dụng. Các nguyên tắc ấy tạo nên sự vững chắc cho tín
dụng. Vì vậy, một trong các nguyên tắc bị coi nhẹ hoặc nhấn mạnh sẽ gây sự mất
thăng bằng đó. Và kết quả tất yếu là sự phá vỡ trong quan hệ tín dụng, làm tiêu tan
dần vai trò tác dụng của nó, trở thành vật cản kìm hãm hoặc đẩy lùi sự phát triển của
nền kinh tế.
Do vậy, chất lượng tín dụng trung – dài hạn gắn bó chặt chẽ và bắt nguồn từ
chất lượng tuân thủ các nguyên tắc tín dụng. Thái độ chấp hành sẽ chi phối đến hoạt
động khác. Việc thẩm định, thanh tra, kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay nhằm

phát hiện vấn đề nảy sinh trong tín dụng các điều kiện kèm theo cũng xuất phát từ
việc tôn trọng các nguyên tắc đó. Thông qua thái độ, cung cách tổ chức đảm bảo cho

việc thực hiện các nguyên tắc ta có thể có những đánh giá bước đầu về chất lượng tín
dụng. Chất lượng tín dụng thể hiện kết quả thực hiện trọn vẹn hai nguyên tắc tín
dụng, được phản ánh bởi hiệu quả kinh doanh của từng tổ chức kinh tế, tốc độ tăng
trưởng kinh tế và phát triển xã hội qua từng giai đoạn

2.2 Nhóm chỉ tiêu định lượng

- Chỉ tiêu lợi nhuận
h¹n dµi trung dông tÝn nî d Tæng
h¹n dµi trung dông tÝn tõ nhuËn Lîi

Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng trung – dài hạn. Lợi
nhuận ở đây phải hiểu là chênh lệch giữa chi phí đầu vào( tức lãi suất huy động) và
thu nhập từ lãi suất cho vay của tín dụng trung – dài hạn. Xét cho cùng thì khoản tín
dụng dù không có nợ quá hạn, nợ quá hạn khó đòi thì cũng chỉ nhằm mục đích tăng
lợi nhuận cho ngân hàng. Chỉ tiêu này đặc biệt quan trọng với các ngân hàng chưa
phát triển các dịch vụ ngân hàng thu từ hoạt động tín dụng là chủ yếu.
Tuy nhiên đối với một số dự án trung – dài hạn theo kế hoạch nhà nước
thì chỉ tiêu này đôi khi tỏ ra không đầy đủ để phản ánh chất lượng tín dụng trung –
dài hạn. Vì mục tiêu kinh tế xã hội hay chiến lược phát triển các ngành công nghiệp
mũi nhọn, những ngành công nghiệp non trẻ thì đôi khi mục tiêu lợi nhuận không
phải là hàng đầu. Lúc này lợi nhuận không phản ánh thực chất của khoản tín dụng.
- Chỉ tiêu vòng quay vốn
h¹n dµi trung nî d Tæng
h¹n dµi trung nî Thu

Chỉ tiêu này cho biết khả năng thu nợ của ngân hàng theo kế hoạch trong hợp

đồng tín dụng ở mức nào. Nếu vòng quay vốn lớn chứng tỏ ngân hàng thu hồi được
vốn, hoạt động tín dụng có hiệu quả. Trong trường hợp ngược lại, chỉ tiêu đó báo
động cho ngân hàng về những bất ổn có thể xảy ra trong quá trình thu hồi vốn. Từ đó,
Ngân hàng sớm có biện pháp đôn đốc khách hàng, kịp thời ngăn ngừa rủi ro có thể
xảy ra. Đồng thời , đây cũng là cơ sở cho quyết định cho vay trong những quan hệ tín
dụng tiếp theo.
- Chỉ tiêu nợ quá hạn

h¹n dµi trung dông tÝn nî d Tæng
h¹n dµi trung dông tÝn h¹n qu¸ Nî

Đến kì hạn trả nợ và lãi tiền vay, nếu bên vay không đủ tiền để trả và không
được gia hạn nợ thì ngân hàng sẽ chuyển số nợ đó sang nợ quá hạn. Nợ quá hạn là
chỉ tiêu phản ánh mặt trái của chất lượng tín dụng trung – dài hạn. Nợ quá hạn rõ
ràng là điều không mong muốn của các Ngân hàng nhưng NHNo cũng không căn cứ
vào chỉ tiêu này làm thước đo chuẩn để đánh giá chất lượng tín dụng của món vay.
Không phải cứ nợ quá hạn cao thì đã đánh giá chất lượng tín dụng không tốt, không
có khả năng thu hồi nợ và ngược lại. Trên thực tế, các ngân hàng luôn cố gắng hạ
thấp nhất tỷ lệ nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn dưới 3% được coi là có thể chấp nhận
được.
- Chỉ tiêu nợ quá hạn khó đòi
h¹n dµi trung nî d Tæng
h¹n dµi trung ßi khã h¹n qu¸ Nî d


Nếu tỷ lệ này cao thì khoản tín dụng có chất lượng thấp, không những thế nếu
tỷ lệ này bao hàm toàn bộ gốc và lãi của hợp đồng tín dụng thì vốn đầu tư của của
ngân hàng đã bị lãng phí một cách vô ích. Có rất nhiều nguyên nhân chủ quan và
khách quan dẫn đến tình trạng này. Yêu cầu đối với cán bộ tín dụng là phải kiểm
soát, kiềm chế tỷ lệ này ở mức thấp nhất.

- Chỉ tiêu sử dụng vốn
Tổng dư nợ cho vay
Vốn huy động
Chỉ tiêu này cho phép đánh giá hiệu quả ngân hàng, thể hiện quy mô tín dụng.
Nếu tỷ lệ tổng dư nợ so với số dư tiền gửi lớn, chứng tỏ ngân hàng đã cải thiện được
phần nào mối quan hệ giữa huy động vốn và sử dụng vốn, tạo được tính cân đối giữa
hai hoạt động cơ bản ấy
3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung – dài hạn
Hiện nay vấn đề tín dụng trung và dài hạn đang được các ngân hàng rất quan
tâm và đang tìm mọi cách để có thể nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn
một cách tốt nhất. Muốn có giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng tín dung trung
và dài hạn chúng ta cần phải xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến nó.

Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung và dài hạn chính là
những nhân tố gây ra sự biến động tốt hoặc xấu của các chỉ tiêu đánh giá chất lượng.
Có nhiều nhân tố , chủ quan và khách quan , nhân tố bên trong và bên ngoài nhưng
tựu chung lại có thể phân thành 4 nhóm nhân tố chính:
- Môi trường kinh tế
- Môi trường pháp lý
- Nhân tố từ phía ngân hàng
- Nhân tố từ phía khách hàng

3.1. Nhóm nhân tố thuộc về môi trường kinh tế

Nghiên cứu sự ảnh hưởng của môi trường kinh tế đến hoạt động kinh doanh
tiền tệ của ngân hàng sẽ thấy được ảnh hưởng của nó tới chất lượng tín dụng. Bất kỳ
một ngân hàng nào cũng chịu sự chi phối của những chu kỳ kinh tế. Trong giai đoạn
nền kinh tế hưng thịnh thì các doanh nghiệp làm ăn phát đạt, xuất hiện nhiều nhu cầu
mở rộng sản xuất, nên nhu cầu tín dụng cũng tăng, hoạt động tín dụng của ngân hàng
sẽ phát triển . Trong giai đoạn nền kinh tế suy thoái thì tất yếu nhu cầu tín dụng giảm

vì hoạt động sản xuất kinh doanh bị đình trệ do sản phẩm không tiêu thụ được , khả
năng hấp thụ vốn của nền kinh tế cũng giảm sút. Lúc này ngân hàng sẽ dư thừa , ứ
đọng một lượng vốn lớn, nguồn vốn huy động được sử dụng không hiệu quả có nghĩa
là chất lượng tín dụng giảm.
Một yếu tố mà chúng ta cần phải đề cập đến ở đây, đó chính là lãi suất tín
dụng cũng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngân hàng . Với phương châm : “đi vay
để cho vay “ các ngân hàng luôn phải cố gắng để có thể đưa ra một mức lãi suất hợp
lý sao cho vừa thu hút được vốn nhàn rỗi vừa đem lại lợi nhuận . Bởi nếu lãi suất huy
động tiền nhàn rỗi quá thấp sẽ không khuyến khích được các tổ chức , cá nhân gửi
tiền vào ngân hàng dẫn đến ngân hàng không đủ vốn để đáp ứng nhu cầu của khách
hàng . Ngược lại nếu lãi suất huy động đặt ra cao sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích
của ngân hàng, ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong vấn đề cho vay. Và đối với lãi suất
cho vay cũng vậy trường hợp đưa ra mức lãi suất cao sẽ dẫn đến tình trạng không cho
vay được, ứ đọng vốn hoặc có cho vay được nhưng khó thu hồi bởi khách hàng cuả
ngân hàng không phải tất cả đều làm ăn có hiệu quả mà có những khách hàng làm ăn

không có lãi hoặc lãi thấp sẽ khó có thể trả được những khoản nợ lớn của ngân hàng
gây rủi ro cho hoạt động của ngân hàng. Ngoài ra những biến động về tỷ giá trên thị
trường cũng ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của ngân hàng.

3.2 Nhóm nhân tố thuộc về môi trường pháp luật.

Môi trường pháp luật được hiểu là một hệ thống luật và văn bản pháp lý liên
quan đến hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Những
hoạt động này muốn có hiệu quả thì phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ, thống
nhất đầy đủ đi kèm hỗ trợ. Pháp luật đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Không có pháp luật hoặc một hệ thống
pháp luật không đầy đủ , không phù hợp với những yêu cầu phát triển của nền kinh tế
thì mọi hoạt động trong nền kinh tế sẽ trở nên hỗn độn , không thể tiến hành trôi
chảy. Pháp luật đã tạo lập hành lang pháp lý giúp cho mọi hoạt động sản xuất kinh

doanh tiến hành thuận lợi và đạt kết quả cao. Chỉ trong trường hợp các chủ thể tham
gia quan hệ tín dụng, chấp hành luật pháp một cách nghiêm minh thì quan hệ tín
dụng mới đạt kết quả mong muốn đem lại chất lượng cho hoạt động tín dụng ngân
hàng.
Hiện nay hệ thống văn bản pháp luật chưa đồng bộ đã gây khó khăn cho ngân
hàng khi kí kết, thực hiện các hợp đồng tín dụng. Thực tế cho thấy rằng, luật ngân
hàng còn nhiều sơ hở, chưa đồng bộ với các quy định, văn bản dưới luật. Điều này
ảnh hưởng đến việc quản lí chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Sự thay đổi chủ trương,chính sách của nhà nước cũng gây ảnh hưởng đến khả
năng trả nợ của doanh nghiệp nhất là về cơ cấu kinh tế, chính sách xuất nhập khẩu,
do thay đổi một cách đột ngột, gây xáo trộn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp không tiêu thụ được sản phẩm hay chưa có phương án kinh doanh mới
dẫn đến nợ quá hạn, nợ khó đòi.
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp còn nhiều sơ hở, nhà nước cho
phép nhiều doanh nghiệp được sản xuất kinh doanh với nhiều chức năng, nhiệm vụ
vượt quá trình độ, năng lực quản lý dẫn đến rủi ro thua lỗ làm giảm sút chất lượng tín
dụng.


3.3 Nhóm nhân tố thuộc về phía ngân hàng

*Thẩm định tín dụng
Thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức xem xét một cách khách quan toàn
diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến tính khả thi của dự án để ra quyết
định đầu tư và cho phép đầu tư.
Mục đích của việc thẩm định dự án là nhằm giúp ngân hàng có các kết luận
chính xác về tính khả thi, tính hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ và những khả năng
rủi ro có thể xảy ra của dự án để ra quyết định cho vay hay từ chối. Đồng thời, cũng
từ việc thẩm định ngân hàng có thể tham gia góp ý cho chủ đầu tư, xác định số tiền
cho vay, thời gian cho vay, mức thu nợ hợp lý phù hợp với năng lực của doanh

nghiệp, nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả cao.
Với những mục đích quan trọng như vậy, nên thẩm định là khâu phức tạp và
khâu hay mắc sai sót nhất của ngân hàng. Nhưng nếu công tác thẩm định được tiến
hành tốt thì sẽ tạo tiền đề cho một khoản tín dụng trung – dài hạn có chất lượng tín
dụng cao.

* Chất lượng nhân sự
Con người ở đâu và bao giờ cũng vậy luôn là yếu tố quyết định đến sự thành
bại của công việc. Với ngành ngân hàng, khi các nghiệp vụ ngân hàng ngày càng
phát triển mở rộng thì đòi hỏi chất lượng nhân sự ngày càng cao để có thể sử dụng
các phương tiện hiện đại, nắm bắt kịp thời các thông tin về kinh tế, thị trường phục
vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, những người làm ngân hàng vừa
phải là nhà phân tích vừa phải là nhà dự đoán kinh tế. Trên cơ sở thông tin thu thập
được, họ sàng lọc ra những khách hàng có đủ phẩm chất tín dụng, những dự án khả
thi,lập được những hợp đồng chất lượng tốt có lợi cho ngân hàng. Nếu là người có
trình độ và kinh nghiệm , nhiều khi chỉ cần qua một lần tham quan, khảo sát hiện
trạng hoạt động của nhà máy cũng có thể phát hiện ra những điều bất ổn. Hoặc khi
một dự án của doanh nghiệp không thoả mãn một số chỉ tiêu nào đó, cán bộ tín dụng
phải là người tư vấn cho doanh nghiệp những lời khuyên hữu ích. điều đó thuốc về
“nhạy cảm nghề nghiệp” mà không phải cán bộ tín dụng nào cũng có

*Lãi suất tín dụng trung – dài hạn
NHTM là tổ chức kinh doanh nhằm mục tiêu lợi nhuận, các doanh nghiệp
khăc nhau, các chủ đầu tư khác nhau, bản thân từng dự án có mức lợi nhuận khác, lại
có mức rủi ro, khối lượng vay vốn thời hạn cho vay khác nhau. Việc áp dụng lãi suất
khác nhau ở từng dự án là có hiệu quả nhằm khuyến khích cả doanh nghiệp và ngân
hàng vay vốn trung và dài hạn.
Việc đưa ra mặt bằng rủi ro cho các dự án đầu tư và việc cho phép áp dụng lãi
suất linh hoạt tuỳ mức rủi ro, thời hạn số tiền vay là một trong những điều kiện nâng

cao chất lượng tín dụng.

* Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng có một ý nghĩa to lớn quyết định đến sự thành công hay
thất bại của cả hệ thống ngân hàng. Do vậy, khi xây dựng chính sách tín dụng cần
phải đảm bảo sự kết hợp hài hoà giữa quyền lợi của người gửi tiền, của ngân hàng và
của người sử dụng vốn vay. Đồng thời chính sách tín dụng phải phù hợp với đường
lối phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước và cần được dựa trên những cơ sở thực tiễn
và khoa học nhất định.
Đối với các ngân hàng thương mại một chính sách tín dụng đúng đắn phải
đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ
pháp luật và đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước đảm bảo công bằng xã hội.

* Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tín dụng.
Trang thiết bị góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng tín dụng
của ngân hàng. Nó là công cụ, phương tiện thực hiện tổ chức quản lý ngân hàng,
kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay và thực hiện nghiệp vụ giao dịch với khách hàng.
Đặc biệt với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin hiện nay, các trang thiết
bị tin học đã giúp cho ngân hàng cập nhật được thông tin nhanh chóng, kịp thời,
chính xác. Trên cơ sở đó đưa ra quyết định tín dụng đúng đắn, không bỏ lỡ thời cơ
trong kinh doanh, giúp cho quá trình quản lý tiền vay và thanh toán được thuận tiện,
nhanh chóng và chính xác.
3.4 Nhóm nhân tố thuộc về phía khách hàng.

Để đảm bảo khoản tín dụng được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả,
mang lại lợi ích cho ngân hàng, góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã
hội thì khách hàng có vai trò hết sức quan trọng. Một khách hàng có tư cách đạo đức
tốt, có tình hình tài chính vững vàng, có thu nhập sẽ sẵn sàng hoàn trả đầy đủ những
khoản vay vốn của ngân hàng khi đến hạn, qua đó đảm bảo an toàn và nâng cao chất
lượng tín dụng. Nhóm nhân tố này phụ thuộc vào năng lực khách hàng

Năng lực của khách hàng được hiểu là khả năng của doanh nghiệp trong việc
đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn đòi hỏi của tín dụng trung – dài hạn. Điều kiện tín
dụng được đưa ra nhằm tiêu chuẩn hoá khả năng của doanh nghiệp trong quá trình
vay vốn đồng thời đảm bảo cho khả năng thu hồi vốn của Ngân hàng. Khả năng đáp
ứng các điều kiện tín dụng thể hiện ở các mặt sau :
+ Năng lực thị trường của doanh nghiệp
Năng lực thị trường của doanh nghiệp được lượng hoá theo các mặt sau :
Khối lượng sản phẩm tiêu thụ, chất lượng sản phẩm như thế nào, có phù hợp
với thị hiếu của người tiêu dùng hay không? Vị thế của doanh nghiệp trên thị trường?
Quá khứ, hiện tại và tương lai phát triển của doanh nghiệp? Hệ thống tiêu thụ sản
phẩm của doanh nghiệp, mối quan hệ với các bạn hàng, với các đối tác?
Nghiên cứu năng lực thị trường của doánh nghiệp cho biết khả năng mở rộng
đầu tư của doanh nghiệp cũng như định hướng đầu tư của doanh nghiệp nhằm kiểm
tra sự phù hợp của dự án hoạt động với khả năng của doanh nghiệp.

+ Năng lực sản xuất của doanh nghiệp.
Năng lực sản xuất của doanh nghiệp biểu hiện giá trị công cụ lao động mà
chủ yếu là tài sản cố định, biểu hiện cụ thể là quá trình sản xuất sản phẩm, công nghệ
sản xuất, các nhu cầu đầu tư trước đây.
Nghiên cứu năng lực sản xuất của doanh nghiệp cho biết quy mô, sản xuất của
doanh nghiệp, sự phù hợp của quy mô đó với thị trường, cơ cấu và khả năng làm chủ
giá thành sản phẩm của doanh nghiệp.
Năng lực thị trường và năng lực sản xuất tạo nên khả năng tìm kiếm lợi nhuận.
Một điều kiện tín dụng đòi hỏi doanh nghiệp phải có sản xuất ổn định, phải kinh
doanh có lãi, có năng lực sản xuất và quản lý đáp ứng một trình độ nhất định theo
yêu cầu của thị trường.


+ Năng lực tài chính của doanh nghiệp
Năng lực tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở số vốn tự có của doanh nghiệp

và tỷ trọng vốn tự có trên tổng nguồn vốn huy động. Ngoài ra, năng lực tài chính của
doanh nghiệp còn thể hiện ở khả năng thanh toán của doanh nghiệp đối với các khoản
nợ. Năng lực tài chính của doanh nghiệp trong tín dụng trung – dài hạn còn đòi hỏi
doanh nghiệp có số vốn lưu động tối thiểu cho việc duy trì hoạt động thường xuyên
của tài sản cố định. Vì vậy, năng lực tài chính của doanh nghiệp càng cao thì càng
thuân lợi cho Ngân hàng trong việc nâng cao chất lượng tín dụng.
+ Năng lực quản lý của doanh nghiệp

Việc xem xét khả năng thích nghi của bộ máy quản lý doanh nghiệp với biến
động của cơ chế thị trường là điều cần thiết trước khi Ngân hàng quyết định cho vay.
Ngoài ra, việc xem xét sự phù hợp của hệ thống hạch toán kế toán và quản lý tài
chính của doanh nghiệp với quy định của pháp luật sẽ cho kết quả đánh giá về năng
lực quản lý của doanh nghiệp một cách chính xác hơn.

3.5 Các yếu tố tự nhiên
Đây là những nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh
Khi xảy ra thường gây ra hậu quả lớn tác động đến cả ngân hàng và khách hàng, ngân
hàng không có khả năng thu hồi được vốn. Điều đó ảnh hưởng đến chất lượng tín
dụng. Trước sự tác động của các yếu tố này, Ngân hàng khi tiến hành đầu tư cần phải
cân nhắc, báo cáo một cách cụ thể, chủ độngphòng ngừa nhằm giảm thiểu rủi ro.
Như vậy việc nắm vững các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngân
hàng nói chung cũng như chất lượng tín dụng trung – dài hạn nói riêng
và biết tận dụng các nhân tố này trong hoàn cảnh thực tế của ngân hàng mình
sẽ tạo ra một chất lượng tín dụng tốt, góp phần vào sự phát triển vững mạnh của ngân
hàng và của nền kinh tế quốc dân.



Chương II
Thực trạng tín dụng trung & dài hạn


tại SGD NHNo&PTNTvn

I/ Giới thiệu chung về ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam
(NHNNo&PTNT VN)

Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam, gọi tắt là ngân
hàng nông nghiệp NHNo; Tên giao dịch quốc tế là Vietnam for Ariculture and Rural
Development, gọi tắt là Agribank, viết tắt VBARD.
NHNo & PTNTVN có tổ chức tiền thân là ngân hàng Phát triển Nông Nghiệp
Việt nam, thành lập ngày 26/03/1988 theo Nghị định 53/HĐBT của Chủ tịch Hội
đồng bộ trưởng, nay là Thủ Tướng Chính phủ. Ngày 22/11/1999 Thống đốc ngân
hàng nhà nước đã phê duyệt điều lệ tổ chức và hoạt động của NHNo&PTNTVN.
Theo điều lệ NHNo &PTNT VN là một doanh nghiệp nhà nước đặc biệt, được tổ
chức theo mô hình tổng công ty nhà nước, có tư cách pháp nhân, thời hạn hoạt động
là 99 năm, có trụ sở chính tại Hà Nội, tự chủ về tài chính và tự chịu trách nhiệm về
kết quả kinh doanh, bảo toàn và phát triển vốn
NHNo&PTNTVN với tư cách là một ngân hàng thương mại quốc doanh do
Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc điều hành thực hiện chức năng kinh doanh đa
năng, chủ yếu là kinh doanh tiền tệ, tín dụng và các dịch vụ ngân hàng đối với khách
hàng trong nước và nước ngoài. Đầu tư vào dự án phát triển kinh tế xã hội, uỷ thác
tín dụng đầu tư cho chính phủ, các chủ đầu tư trong nước và nước ngoài, trong các
ngành kinh tế mà trước hết là trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn
Từ một ngân hàng được bao cấp với số vốn nhỏ bé, cán bộ nhân viên đông,
trình độ thấp Khi chuyển sang kinh doanh theo cơ chế thị trường NHNo đã có
nhiều cố gắng trong việc tổ chức lại để tăng cường huy động vốn phục vụ kinh tế
nông nghiệp, nông thôn, mở rộng các loại hình dịch vụ đa dạng nhằm đáp ứng nhu
cầu ngày càng tăng của xã hội, bước đầu đã đạt được những kết quả đáng kể : nhanh
chóng khắc phục cơ bản thói quen cũ của ngân hàng trong cơ chế bao cấp chuyển từ
một ngân hàng lỗ sang một ngân hàng có lãi, cải thiện đáng kể đời sống cán bộ công

nhân viên, góp phần thực hiện tốt nghĩa vụ với nhà nước.
Trong những năm gần đây, ngân hàng đã không ngừng tăng cường quan hệ đa
phương và các hoạt động kinh doanh đối ngoại, uy tín quốc tế của ngân hàng nhanh

×