Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Nâng cao chất lượng tín dụng trung & dài hạn tại SDG NHNo&PTNT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (498.77 KB, 109 trang )

Lời mở đầu
Thuế là nguồn thu chủ yếu và quan trọng của ngân sách nhà nớc.
Thuế là công cụ quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế của nhà nớc. Nhng
mức độ và nội dung sử dụng công cụ thuế để điều tiết nền kinh tế nói
chung và kinh doanh xuất bản phẩm nói riêng hiện nay vẫn là vấn đề bức
xúc và nan giải. Việc thu thuế và thực hiện thuế đối với các doanh
nghiệp, các tổ chức cá nhân hiện nay còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố nh:
tình hình kinh tế xã hội, định hớng phát triển kinh tế cụ thể trong từng
thời kỳ lịch sử và đặc thù riêng của mỗi loại hình sản xuất, kinh doanh
hay dịch vụ.
Trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đổi mới đất nớc
hiện nay, kinh doanh xuất bản phẩm giữ một vị trí hết sức quan trọng
trong việc phổ biến đờng lối, chính sách chủ trơng của Đảng và Nhà nớc,
phổ biến tri thức đến mọi đối tợng, nghề nghiệp ở các vùng địa lý khác
nhau trên phạm vi quốc gia và cả trên thị trờng quốc tế. Hoạt động kinh
doanh xuất bản phẩm là loại hình kinh doanh đặc thù vừa phải đảm bảo
mục tiêu kinh tế, vừa phải đạt mục tiêu xã hội. Kinh doanh xuất bản
phẩm lấy hiệu quả kinh tế làm phơng tiện, giá đỡ để đạt mục tiêu xã hội.
Hiệu quả xã hội là mục tiêu lâu dài trong kinh doanh xuất bản phẩm. Đây
là loại hình kinh doanh đặc thù hoạt động mang tính chính trị, sự nghiệp
nên nhà nớc đã có những u đãi riêng nh chính sách cấp phát vốn, chính
sách thuế, chính sách trợ cớc phí Tuy nhiên vài năm trở lại đây, từ khi
nhà nớc ban hành luật thuế giá trị gia tăng, việc thực hiện thuế của các
doanh nghiệp trở nên khó khăn và phức tạp hơn nhiều. Bởi kinh doanh
xuất bản phẩm là loại hình kinh doanh đặc thù nhng vẫn phải chịu các
loại thuế và mức thuế suất quá cao, không phù hợp với loại hình kinh
doanh này. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến những
tồn tại hoặc khó khăn của hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm ở Việt
Nam hiện nay. Vấn đề đặt ra là làm sao để có một chính sách thuế phù
hợp tạo điều kiện lành lang môi trờng cho hoạt động kinh doanh xuất bản
phẩm phát triển và quản lý nó một cách hữu hiệu nhất. Xuất phát từ ý


nghĩa trên đây, tôi đã chọn và nghiên cứu đề tài: Chính sách thuế đối
với hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm ở Việt Nam hiện nay.
Do tính chất và điều kiện thực hiện đề tài nên nội dung và phạm vi
nghiên cứu chỉ tập trung và lấy ví dụ minh họa một số công ty Phát hành
sách ,nhà sách t nhân ở Hà Nội là chủ yếu và một số công ty Phát hành
sách ở các tỉnh khác (nguồn do Cục Xuất bản cung cấp). Thời gian
nghiên cứu chỉ tập trung vào một số năm 1998, 1999, 2000.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề tài nhằm xác định đ-
ợc những vấn đề sau:
- Vị trí đặc biệt quan trọng của hoạt động kinh doanh xuất bản
phẩm ở Việt Nam hiện nay trong việc thực hiện mục tiêu chính trị xã hội
của Đảng và nhà nớc.
- Nghiên cứu đúng thực trạng thuế đối với hoạt động kinh doanh
xuất bản phẩm ở Việt Nam. Khẳng định những thành công và hạn chế
của chính sách thuế đối với kinh doanh xuất bản phẩm hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp có tính khả thi đối với quản lý vĩ mô và
vi mô về chính sách thuế hiện hành trong kinh doanh xuất bản phẩm
nhằm góp phần hoàn thiện chính sách thuế đối với kinh doanh xuất bản
phẩm - kinh doanh đặc thù.
Nội dung của đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài tập trung
nghiên cứu và giải quyết những vấn đề sau đây:
Chơng I : Thuế và tác động của thuế đối với hoạt động kinh
doanh xuất bản phẩm hiện nay.
Chơng II : Thực trạng thuế đối với hoạt động kinh doanh xuất
bản phẩm hiện nay.
Chơng III : Đánh giá chung và những giải pháp nhằm hoàn
thiện chính sách thuế trong hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm hiện
nay.
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài, tôi đã sử dụng các
phơng pháp nghiên cứu sau:

- Phơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mác Lênin.
- Phơng pháp điều tra xã hội học.
- Phơng pháp thống kê phân tích so sánh.
Chơng I. Thuế và tác động của nó đối với hoạt động
kinh doanh xuất bản phẩm ở Việt Nam hiện nay.
I. Nhận thức chung về thuế trong kinh doanh xuất
bản phẩm hiện nay.
1.
Sự hình thành và phát triển của thuế.
Thuế ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của nhà nớc, vì
nhà nớc và do nhà nớc. Nhà nớc ra đời là một tất yếu khách quan với
chức năng chủ yếu và đầu tiên là nhằm đảm bảo nguồn tài chính phục vụ
cho các nhu cầu chi tiêu theo chức năng của Nhà nớc.
Nhà nớc là bộ máy quyền lực dùng để duy trì sự thống trị của giai
cấp này đối với giai cấp khác. Theo quan điểm của Ăngghen, nhà nớc có
hai đặc trng chủ yếu.
Một là phân chia dân c theo khu vực địa lý để quản lý.
Hai là thiết lập những quyền lực công cộng để duy trì những quyền
lực công cộng đó, cần phải có sự đóng góp của công dân đó là thuế.
Trớc xã hội nô lệ, khi điều kiện làm việc còn mông muội, năng
suất lao động còn rất thấp, con ngời rất khó nhọc mới tìm ra đợc t liệu
sinh hoạt cần thiết cho đời sống, lúc đó xã hội cha biết đến thuế. Càng
đến xã hội văn minh, thuế rất phát triển, tiếp sau đó bản thân thuế cũng
không đủ nữa, cho nên nhà nớc còn phải vay nợ của dân, hình thức phát
hành công trái xuất hiện.
Nh vậy chúng ta thấy khái niệm của thuế xuất hiện và phát triển
cùng với sự xuất hiện và phát triển của nhà nớc. Hai khái niệm: Nhà nớc
và thuế đi đôi với nhau, gắn bó mật thiết hữu cơ, không thể thiếu nhau.
Nói cách khác, nếu có nhà nớc, đơng nhiên phải có thuế, nhà nớc sử dụng

thuế để phục vụ cho mục đích của mình. Nhà nớc của giai cấp bóc lột,
thu thuế để phục vụ cuộc sống xa hoa, lãng phí của bọn thống trị áp bức.
Đối với nhà nớc nào thực sự là của dân, do dân và vì dân, nhà nớc đó thu
thuế của dân để trở lại phục vụ cuộc sống của ngời dân cho công bằng và
hợp lý hơn, đảm bảo quyền sống của con ngời đầy đủ và tốt đẹp hơn.
Tuy nhiên chúng ta biết rằng, thuế là một phần thu nhập do những
ngời dân trực tiếp lao động sản xuất tạo ra và đóng góp cho nhà nớc. Thế
nhng trong quá trình tái sản xuất giản đơn, số của cải vật chất do ngời
dân sản xuất ra chỉ đủ nuôi sống bản thân họ mà thôi, làm gì có phần
đóng góp cho nhà nớc. Chỉ khi nền kinh tế quốc dân xuất hiện quá trình
tái sản xuất mở rộng - của cải vật chất sản xuất ra nhiều, d thừa (phần giá
trị d thừa này đợc Mác gọi là thu nhập), lúc đó ngời dân mới có sự đóng
góp của cải cho nhà nớc. Phần thu nhập đó cũng chính là cơ sở đảm bảo
cho tái sản xuất mở rộng, là nguồn cho sự động viên tài chính cho nhà n-
ớc. Nh vậy là thuế xuất hiện trong xã hội loài ngời với hai điều kiện cần
và đủ là: Sự xuất hiện của nhà nớc và sự xuất hiện của thu nhập xã hội.
Sự xuất hiện của Nhà nớc tạo ra quyền lực tập trung để nhà nớc ban
hành các luật lệ và thuế buộc các thành viên trong xã hội phải thực hiện.
Sự hình thành thu nhập trong xã hội là cơ sở tạo ra khả năng cho nguồn
động viên về thuế. Có thu nhập thì ngời dân mới có thể đóng góp cho nhà
nớc và ngợc lại.
Lịch sử phát triển của xã hội loài ngời đã cho chúng ta thấy: khi
nhà nớc chỉ làm nhiệm vụ quản lý hành chính, nhu cầu chi tiêu của nhà
nớc có mức độ nhất định, cho tới lúc nhà nớc có thêm nhiệm vụ điều
hành và quản lý nền kinh tế, lúc đó nhu cầu chi tiêu của nhà nớc tăng lên,
các khoản thuế đóng góp của nhà nớc cũng phát triển, tăng theo; Và cho
đến khi nhà nớc đi dần vào chăm lo đời sống văn hóa xã hội của toàn dân
một cách tỉ mỉ và toàn diện hơn lúc này thuế lại phát triển hơn nữa. Nh
vậy khi nhiệm vụ của bộ máy quản lý nhà nớc đợc mở rộng, đòi hỏi phải
có một ngân sách lớn để đảm bảo nhu cầu chi tiêu đó, không thể nào

thiếu sự đóng góp của ngời dân, của các cơ sở kinh tế xã hội: Đó là thuế.
Cùng với sự phát triển của lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội,
sự phát triển ngày càng cao của kinh tế hàng hóa, tiền tệ; Sự gia tăng
mạnh mẽ của quyền lực nhà nớc, đã phát sinh ra những yêu cầu chi tiêu
to lớn, đa dạng và phức tạp làm nảy sinh những biến đổi về thuế, các
quan hệ về thuế dới hình thức giá trị đợc hình thành và ngày càng phát
triển có tính hệ thống, các thứ thuế khác nhau ra đời. Lịch sử phát triển
của thuế cũng đã chứng minh, đó là quá trình phát triển ngày càng hoàn
thiện và hợp lý trong thực hiện nhiệm vụ phân phối tổng sản phẩm xã hội
và thu nhập quốc dân, nhờ đó đi dần tới chỗ động viên thu nhập của ngời
dân một cách công bằng và ngày càng hợp lý hơn. Từ đó nên yêu cầu các
luật thuế phải đợc xây dựng hợp lý đầy đủ càng hoàn thiện hơn. Để cho
chính sách thuế góp phần động viên công bằng hợp lý thu nhập quốc dân
đợc tạo ra trong toàn xã hội và nhất là khi nền sản xuất hàng hóa phát
triển mạnh mẽ, mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế, giữa các đơn vị
kinh tế, giữa các cá nhân với nhau và với xã hội ngày càng mật thiết chặt
chẽ hơn, thì sự phân phối thu nhập quốc dân trở nên phức tạp hơn, đòi hỏi
phải có một hệ thống chính sách thuế mà ở đó có sự liên kết hợp lý trong
một tổng thể thống nhất cùng tham gia trong quá trình phân phối đó.
Nh trên đã phân tích, thuế xuất hiện khi lao động sản xuất của xã
hội loài ngời đã tạo ra sản phẩm thặng d. Nhng do mối quan hệ của nền
kinh tế hàng hóa phát triển, sự chuyển dịch giá trị của sản phẩm thặng d
từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác, từ khu vực sản xuất sang khu vực lu
thông, từ ngành sản xuất vật chất này sang ngành sản xuất vật chất khác,
từ thành phần kinh tế này sang thành phần kinh tế khác rất đa dạng và
phức tạp do đó đòi hỏi nhà nớc phải có hệ thống chính sách thuế phù hợp
để điều tiết, phân phối thỏa đáng số sản phẩm thặng d đã tạo ra, sao cho
hợp lý công bằng nhất, đặc biệt đối với hoạt động mang tính sự nghiệp
phục vụ chính trị và hoạt động kinh doanh đặc thù nh kinh doanh xuất
bản phẩm hiện nay.

Với bớc tiến của lịch sử, chỉ dùng hình thức thuế không đủ để đáp
ứng nhu cầu chi tiêu nhất là chi cho những công việc đột xuất, cấp bách,
nhà nớc đã áp dụng hình thức phát hành công trái hoặc phát hành giấy
bạc. Tuy nhiên thuế vẫn là hình thức động viên tài chính chủ yếu và cơ
bản nhất của nhà nớc.
2. Khái niệm, bản chất và các hình thức của thuế.
a. Khái niệm thuế:
Thuế ra đời và phát triển với những đặc trng cơ bản nh đã trình bày
ở trên. Nhng thuế là gì? Có đợc khái niệm tơng đối đầy đủ, đó không
phải chỉ là vấn đề định nghĩa hay khái niệm đơn thuần, mà nó có ý nghĩa
sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn, giúp cho việc hiểu rõ và làm đúng chức
năng thuế cũng nh nghĩa vụ nộp thuế của các tổ chức, đơn vị cá nhân sản
xuất kinh doanh dịch vụ trong nền kinh tế. Đứng ở các góc độ khác nhau,
ngời ta có những khái niệm (hay cách hiểu) về thuế khác nhau. Sau đây
có thể đa ra một số khái niệm về thuế nh sau:
ở góc độ nghiên cứu về kinh tế chính trị học thì có khái niệm về
thuế là hình thức phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu
nhập quốc dân để hình thành nên các quỹ tiền tệ tập trung nhằm đáp ứng
nhu cầu chi tiêu theo chức năng của nhà nớc.
ở góc độ nghiên cứu về pháp luật thì có khái niệm về thuế là
khoản đóng góp theo quy định của pháp luật mà nhà nớc bắt buộc mọi tổ
chức và cá nhân phải nộp vào ngân sách nhà nớc.
ở góc độ ngời thu thuế thì thờng hiểu thuế là khoản đóng góp theo
nghĩa vụ bắt buộc theo quy định của các luật thuế. Thuế là khoản thu
không phải hoàn trả ngang giá và trực tiếp.
ở góc độ ngời nộp thuế thì thờng hiểu thuế là khoản bắt buộc phải
nộp cho nhà nớc chi tiêu.
Những khái niệm về thuế trên đây tuy không sai nhng rõ ràng mới
nhấn mạnh một chiều theo quan niệm ở từng góc độ khác nhau, cho nên
cha thật đầy đủ và cũng cha thật chính xác. Có thể hiểu thuế là khoản

đóng góp mang tính bắt buộc đợc nhà nớc quy định thành luật để mọi ng-
ời dân và các tổ chức kinh tế phải thực hiện và nộp vào ngân sách nhà n-
ớc theo từng thời kỳ nhất định, nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của bộ
máy nhà nớc. Cũng có thể hiểu: Thuế là hình thức động viên, phân phối
và phân phối lại sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân do các tổ chức
kinh tế và ngời dân tạo ra để hình thành quĩ tiền tệ tập trung nhằm đáp
ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nớc. Từ những đặc trng cơ bản về thuế, có
thể hiểu một cách khái quát chung nhất, đầy đủ nhất về khái niệm thuế
nh sau:
Thuế là một phần thu nhập mà mỗi tổ chức cá nhân có nghĩa
vụ đóng góp cho nhà nớc theo luật định để đáp ứng yêu cầu chi tiêu
theo chức năng của nhà nớc; Ngời đóng thuế đợc hởng hợp pháp phần
thu nhập còn lại.
Theo khái niệm trên, cần lu ý một số điểm sau đây:
- Thuế trớc hết là một phần thu nhập. Có thu nhập mới có tiền nộp
thuế, nhng là một phần thôi, phải có phần còn lại để tái sản xuất giản đơn và
tái sản xuất mở rộng trong chu kỳ sản xuất tiếp theo. Nếu triệt tiêu sản xuất
thì không có thu nhập để đóng thuế. Thu nhập nói ở đây là thu nhập xã hội
nhằm kích thích sản xuất phát triển, hạ giá thành sản phẩm, điều chỉnh cơ
cấu kinh tế theo định hớng của nhà nớc. Không nên nhầm lẫn với trờng hợp
sản xuất kinh doanh thua lỗ, không có hiệu quả với dây da không chịu nộp
thuế dẫn đến vi phạm pháp luật.
- Thuế là một trong những nghĩa vụ cơ bản của công dân đã đợc
quy định rõ trong Hiến pháp là đạo luật cơ bản của mỗi nớc. Việc qui
định nghĩa vụ đóng góp của nhân dân là một vấn đề lớn của mỗi một
quốc gia, cho nên phải do cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nớc là
quốc hội ban hành thành văn bản pháp quy là các luật hoặc bộ luật. Các
khoản thuế đợc nhà nớc quy định cụ thể cho từng ngành hoạt động kinh
tế cho từng loại hình doanh nghiệp tuỳ thuộc vào thu nhập cao thấp,
đặc thù riêng của mỗi loại hình sản xuất kinh doanh để định mức nộp vào

ngân sách nhà nớc.
- Do phân công lao động xã hội, mỗi ngời làm một nghề lao động ở
một lĩnh vực cụ thể trong cộng đồng xã hội. Việc đóng thuế cho nhà nớc
là một đòi hỏi khách quan để nhà nớc có nguồn tài chính phục vụ việc
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình nh chi tiêu cho những công việc
chung, vì sự trật tự, an toàn của xã hội, vì sự phát triển sự nghiệp kinh tế
- văn hóa - xã hội của đất nớc, tạo môi trờng pháp lý và điều kiện cho
mọi ngời làm ăn, trong đó có việc bảo hộ cho quyền sở hữu về tài sản và
thu nhập hợp pháp của tổ chức và cá nhân. Trên ý nghĩa đó, đóng thuế
cho nhà nớc vừa là nghĩa vụ, vừa là quyền lợi, là sự đầu t cho mình, một
yêu cầu cần thiết khách quan.
- Thuế là một phần thu nhập của nhân dân đóng góp cho nhà nớc
chi tiêu nhằm thực hiện các chức năng của nhà nớc là phục vụ nhân dân.
Nếu tổ chức bộ máy của nhà nớc đợc sắp xếp gọn nhẹ, hoạt động có hiệu
quả sẽ góp phần làm giảm nhẹ sự đóng góp của nhân dân và ngợc lại. Nh
Mác cũng đã nói: Tổ chức bộ máy nhà nớc cồng kềnh và thuế khóa
nặng nề là hai khái niệm đồng nghĩa .
- Đối với mỗi tổ chức cá nhân sau khi làm tròn nghĩa vụ nộp thuế
cho nhà nớc theo luật định, phần thu nhập còn lại là thuộc quyền sở hữu
hợp pháp của họ phải đợc pháp luật tôn trọng, bảo vệ và giúp họ sử dụng
có hiệu quả phần thu nhập đó.
b. Bản chất của thuế
Từ nguồn gốc ra đời và khái niệm chung về thuế, thuế có bản chất
kinh tế - chính trị - xã hội rất sâu sắc.
- Bản chất kinh tế của thuế thể hiện trớc hết thuế là một phần thu
nhập của xã hội đợc tập trung để phục vụ nhu cầu chi tiêu của nhà nớc.
Kinh tế là cơ sở của thuế, thuế gắn chặt chẽ với sản xuất kinh doanh và
kiểm soát thu nhập của mọi tổ chức và cá nhân để động viên và điều hòa
thu nhập, điều tiết kinh tế. Nguồn thu từ thuế cho ngân sách nhà nớc chỉ
có thể tăng nhiều và nhanh trên cơ sở nền kinh tế đợc phát triển và đạt

hiệu quả cao. Ngợc lại, qua thu thuế phải góp phần kích thích sản xuất
kinh doanh phát triển, thúc đẩy thực hiện tiết kiệm về mọi mặt trong sản
xuất và tiêu dùng một cách hợp lý để tạo nguồn thu thuế ngày càng lớn
hơn. Chính vì vậy nếu nhà nớc tăng thu ngân sách để đáp ứng yêu cầu chi
của nhà nớc mà bỏ qua yêu cầu bảo đảm sự tăng trởng về kinh tế thì th-
ờng là gặp thất bại, dễ dẫn đến hậu quả xấu về nhiều mặt cả về kinh tế -
chính trị. Mức động viên thuế hợp lý sẽ có tác dụng tăng thu cho ngân
sách và kích thích sản xuất kinh doanh phát triển.
Việc động viên thuế phải có giới hạn của nó. Giới hạn đó không
thể vợt quá mức nhất định trong tổng thu nhập của xã hội mới sáng tạo
ra. Mức thuế hợp lý thờng đợc nhân dân dễ chấp nhận và ủng hộ. Đồng
thời tạo điều kiện thúc đẩy đầu t, phát triển sản xuất kinh doanh và từ đó
số thu thuế sẽ ngày càng tăng lên. Trong trờng hợp thuế suất đã quy định
quá cao thì giải pháp duy nhất là phải hạ thấp thuế suất, đi đôi với việc
tìm cách mở rộng diện cho thuế, bao quát hết nguồn thu để gánh nặng
thuế đợc san sẻ cho nhiều ngành. Nh vậy vừa đảm bảo tăng thu, vừa đảm
bảo công bằng xã hội trong nghĩa vụ thực hiện nộp thuế cho nhà nớc.
- Về bản chất giai cấp của thuế. Thuế ra đời là do sự ra đời của nhà
nớc. Nhà nớc đại diện cho quyền lợi của giai cấp thống trị xã hội. Do đó
bản chất của nhà nớc quyết định bản chất của thuế. Nhà nớc mang bản
chất giai cấp nên thuế cũng mang bản chất giai cấp.
Xét về bản chất thì nhà nớc có hai chức năng: Chức năng quản lý
cộng đồng xã hội và chức năng bảo vệ lợi ích giai cấp (chức năng chính
trị). Nhà nớc thực hiện chức năng bảo vệ lợi ích thông qua hành vi quản
lý xã hội của mình. Có những công việc mà xã hội nào làm cũng tơng đối
giống nhau (về mặt hiện tợng) nhng xét về bản chất thì không giống
nhau, thậm chí là trái ngợc nhau. Thuế là một trong những công việc nh
vậy. Cùng một hiện tợng nhà nớc thu thuế của dân, nhng với những nhà
nớc khác nhau thì bản chất giai cấp của thuế cũng khác nhau. Điều đó đ-
ợc ẩn chứa bên trong những nội dung chủ yếu là: Thuế thu vào ai? Thu

nh thế nào? Thu để làm gì? Nhà nớc nào cũng đều phải thu thuế vào dân,
nhng nhà nớc phong kiến thực dân tàn bạo còn đặt thêm những loại thuế
hà khắc, bất công, vô lý để vơ vét, bóc lột vừa nặng nề, vừa tàn khốc, bắt
nhân dân lao động phải nộp su cao, thuế nặng cho chúng chi tiêu phè
phỡn trên mồ hôi nớc mắt của dân (thuế đinh, thuế thuốc phiện, muối, tạp
dịch ). Nhà n ớc đế quốc thực dân còn bắt nhân dân thuộc địa phải nộp
thuế cho chúng để đa về chính quốc, nộp thuế để chia bớt gánh nặng chi
phí cho chiến tranh xâm lợc thuộc địa của chúng
Song về bản chất giai cấp của thuế lại đợc thể hiện rõ ràng nhất ở
mục đích, ý nghĩa của việc thu, nộp thuế. Trong xã hội ngời bóc lột ngời,
nhân dân lao động đóng thuế cho nhà nớc để nuôi bộ máy áp bức, bóc lột
lại chính mình. Còn dới chế độ xã hội chủ nghĩa, nhân dân đóng thuế cho
nhà nớc để chi tiêu cho những công việc nhằm phục vụ trở lại cho nhân
dân lao động, thực hiện chuyên chính vô sản đối với kẻ thù của nhân dân
lao động. Đó là điểm khác biệt cơ bản về bản chất giai cấp, bản chất
chính trị của thuế.
- Thuế còn thể hiện tính xã hội rất rộng rãi. Trớc hết vì thuế thu
vào toàn dân, thuế có liên quan đến mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội.
Thuế gắn liền với nhà nớc, mà trong cơ chế quản lý đất nớc ta hiện nay
theo nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nớc quản lý thì
nhà nớc và chỉ có nhà nớc là chủ thể duy nhất có chức năng, nhiệm vụ
quản lý xã hội mang tính toàn dân, toàn diện mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội và quản lý bằng pháp luật (trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, đối ngoại ). Thuế là một công cụ có
hiệu lực đợc nhà nớc sử dụng để thực hiện chức năng của mình trong việc
quản lý đối với toàn xã hội. Thuế điều chỉnh các quan hệ phân phối, phân
phối lại thu nhập xã hội giữa các tổ chức kinh tế, giữa các tầng lớp dân c
- các quan hệ giữa ngời với ngời. Do đó thuế mang tính xã hội rộng rãi.
Nghiên cứu bản chất xã hội của thuế giúp chúng ta quán triệt đầy đủ và
sâu sắc yêu cầu về tính đơn giản, dễ hiểu, dễ làm, dễ kiểm tra trong việc

hoạch định chính sách thuế và trong tổ chức quản lý thu thuế. Yêu cầu
này trớc hết là việc đặt ra chính sách thuế để thu cho ngân sách nhà nớc
là quyền của nhà nớc, còn nộp thuế là nghĩa vụ của công dân. Nhà nớc
đặt ra thuế là để toàn dân thực hiện, cho nên chính sách thuế phải rõ
ràng, dễ hiểu, đơn giản, mang tính phổ thông, phù hợp với trình độ của cả
ngời thu thuế và ngời nộp thuế, phù hợp với trình độ của mọi tầng lớp dân
c trong xã hội. Việc tổ chức quản lý thu thuế cũng phải quán triệt tính
quần chúng, tính công khai, dân chủ thì mới đạt kết quả tốt.
Bản chất của thuế còn đợc biểu hiện ở đặc trng cơ bản của chính
sách thuế, đó là tính luật pháp đã quy định mức đóng góp theo nghĩa vụ
của các tổ chức kinh tế và dân c. Nhà nớc muốn có nguồn thu nhập ổn
định và vững chắc cho ngân sách đơng nhiên phải tiến hành bằng phơng
pháp cỡng bức của luật pháp.
c. Các hình thức của thuế.
Thuế ra đời cùng với sự ra đời của nhà nớc. Thời kỳ đầu khi hàng
hóa cha phát triển, thuế thờng đợc thu bằng hiện vật. Chế độ thu bằng
hiện vật ấy có mặt giản tiện cho ngời nộp thuế, nhng có mặt bất lợi cho
ngời thu nộp, bảo quản, không linh hoạt trong cả việc thu thuế và sử dụng
số thuế thu đợc. Cùng với sự phát triển của lực lợng sản xuất và quan hệ
sản xuất xã hội, kinh tế hàng hóa - tiền tệ ra đời và phát triển, thuế đợc
thu bằng tiền là chủ yếu. Thuế thu bằng tiền, các quan hệ về thuế dới
hình thức giá trị đợc hình thành và ngày càng phát triển có tính hệ thống,
các thứ thuế khác nhau lần lợt ra đời, làm cho thuế ngày càng đa dạng,
phong phú, linh hoạt hơn. Nhng để sử dụng tốt công cụ thuế, cần phải
phân loại các hình thức thuế để hiểu rõ bản chất của từng loại thuế thu
vào ai, thu bao nhiêu, cách tính thuế và tổ chức thu nộp thuế nh thế nào
cho thích hợp và đạt hiệu quả cao.
* Theo góc độ ngời nộp thuế và ngời chịu thuế, ngời ta chia
thành hai loại thuế là thuế trực thu và thuế gián thu.
- Thuế trực thu là những loại thuế nhà nớc thu trực tiếp của các cơ

sở hoạt động sản xuất kinh doanh, khi các đơn vị này có thu nhập. Loại
này thờng là các loại thuế nh: thuế lợi tức, thuế thu nhập, thuế tài sản
Bản chất kinh tế của thuế trực thu là ngời nộp thuế cũng đồng thời
là ngời chịu thuế. Căn cứ mức thuế quy định trong pháp luật thuế, ngời
nộp thuế tự tính và trích nộp một phần thu nhập của mình trực tiếp nộp
cho nhà nớc, tức là thuế thu trực tiếp vào thu nhập của ngời nộp thuế.
Ưu điểm của thuế trực thu là động viên trực tiếp vào thu nhập của
từng tổ chức, cá nhân có thu nhập cho nên đảm bảo đợc tính công bằng
xã hội: ngời có thu nhập cao thì phải nộp thuế nhiều, ngời có thu nhập
vừa thì phải nộp ít hơn, ngời không có thu nhập thì không phải nộp thuế.
Thuế trực thu còn cho phép tính đến những yếu tố có tính độc lập với thu
nhập của ngời nộp thuế nh hoàn cảnh bản thân (bệnh tật), tình trạng hôn
nhân (đã có hay cha có gia đình), hoàn cảnh gia đình (số ngời phải nuôi
dỡng) Nh ng thuế trực thu cũng có mặt hạn chế là: việc tính toán phức
tạp hơn, dễ dẫn đến tình trạng tính toán đúng thì nộp đúng, tính toán
không đúng thì nộp thuế không đúng và thờng là phải xác định rõ thu
nhập thì mới thu đợc thuế nên thờng rất chậm. Nhiều trờng hợp phải đến
kỳ quyết toán mới thu đủ thuế, có trờng hợp thu thiếu thì phải nộp thêm,
thu thừa thì phải hoàn trả. Một trở ngại khác là thuế thu trựcdiện vào thu
nhập của tổ chức, cá nhân nên về tâm lý là dễ bị phản ứng. Mặt khác nếu
chỉ thu thuế trực thu thì diện quản lý thu thuế sẽ rất rộng, tốn nhiều công
sức nên hiệu quả thấp. Chính vì vậy, để động viên tất cả mọi ngời trong
xã hội, ngời ta sử dụng thuế gián thu cùng với thuế trực thu hợp thành hệ
thống thuế thống nhất, trong đó các loại thuế vừa thực hiện chức năng
nhiệm vụ chính của mình, vừa hỗ trợ nhau để phát huy tác dụng đồng bộ
của cả hệ thống thuế.
- Thuế gián thu là một hình thức thu thuế nhng ngời ta không thu trực
tiếp vào thu nhập của cá nhân hoặc tổ chức kinh tế. Thuế gián thu đánh vào
hành vi tiêu dùng của ngời dân, thông qua việc đánh thuế vào các sản phẩm
hàng hóa và hoạt động dịch vụ mà ngời dân cần sử dụng. Tiền thuế đợc tính

vào giá bán hàng. Thuế gián thu thờng là thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc
biệt, thuế tiêu dùng, thuế xuất nhập khẩu
Bản chất kinh tế của thuế gián thu là ngời nộp thuế (tức ngời bán
hàng hóa, dịch vụ) có thể chuyển dịch số thuế phải nộp cho ngời mua
hàng hóa dịch vụ. Do đó ngời nộp thuế không phải là ngời chịu thuế, mà
ngời chịu thuế chính là ngời tiêu dùng hàng hóa dịch vụ.
Thuế gián thu đảm bảo đợc sự tự lựa chọn của ngời chịu thuế đối
với các loại hàng hóa dịch vụ mà họ quyết định mua; bảo đảm đợc tính tự
nguyện chịu thuế. Ngời sản xuất kinh doanh khi bán sản phẩm hàng hóa,
dịch vụ sẽ thu đợc thuế gián thu cùng với giá bán hàng (thu hộ nhà nớc)
và nộp khoản thuế này vào ngân sách nhà nớc (nộp thay cho ngời tiêu
dùng). Đợc gọi là thuế gián thu vì nhà nớc thu thuế vào ngời tiêu dùng
nhng lại không thu trực tiếp vào thu nhập của ngời tiêu dùng (tức là ngời
mua hàng hóa dịch vụ để sử dụng) mà lại thu gián tiếp qua ngời bán hàng
hóa dịch vụ. Trên ý nghĩa đó ngời ta sản xuất kinh doanh thu thuế gián
thu khi bán hàng hóa, dịch vụ nếu không đủ số thuế đã thu vào ngân sách
nhà nớc thì có thể coi là hành động tham ô, biển thủ công quỹ Nhà nớc.
Có thể nói thuế gián thu là thứ thuế do toàn dân đóng góp. Nghiệp
vụ tính thuế và thu thuế đơn giản thu kịp thời hơn thuế trực thu. Thuế
gián thu nằm trong giá cả cho nên dễ thu hơn; ngời chịu thế không nhận
biết là mình phải nộp thuế nên rất ít có phản ứng khi mua hàng. Thuế
gián thu mang lại nguồn thu thờng xuyên và tơng đối ổn định cho ngân
sách nhà nớc vì bất luận trong hoàn cảnh nào thì sự tiêu dùng của cá nhân
và xã hội cũng luôn diễn ra và có xu hớng phát triển ngày càng đa dạng
và phong phú hơn.
Đối tợng quản lý thuế gián thu cũng hẹp hơn so với thuế trực thu vì
trăm ngời bán, vạn ngời mua, chỉ cần quản lý vào số doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh hàng hóa dịch vụ là có thể thu đợc thuế của tất cả những
ngời tiêu dùng hàng hóa dịch vụ trong xã hội.
Nhợc điểm của thuế gián thu là đánh thuế nh nhau trên cùng một

loại sản phẩm hàng hóa và số lợng nh nhau thì chịu thuế nh nhau, nhng
thực chất tỉ lệ động viên thuế gián thu so với thu nhập thì ngời giàu chịu
thuế thấp hơn ngời nghèo; ngời có thu nhập càng cao thì tỉ lệ nộp thuế
gián thu trên thu nhập càng thấp.
* Theo đối tợng đánh thuế, thuế đợc chia làm các loại sau:
- Thuế đánh vào sản phẩm hàng hóa nh: Thuế tiêu thụ đặc biệt (hay
còn gọi là thuế tiêu dùng hay thuế hàng hóa).
- Thuế đánh vào thu nhập nh thuế lợi tức, thuế thu nhập.
- Thuế đánh vào hoạt động sản xuất kinh doanh nh thuế môn bài
- Thuế đánh vào khai thác sản xuất tài nguyên nh thuế tài nguyên,
thuế sử dụng đất.
* Phân loại theo tên gọi của từng sắc thuế thờng có:
- Thuế doanh thu (còn gọi là thuế doanh nghiệp hoặc thuế tiêu thụ)
nay đợc thay đổi thành thuế giá trị gia tăng nhằm khắc phục nhợc điểm
thu trùng lắp của thuế doanh thu.
- Thuế tiêu thụ đặc biệt (còn gọi là thuế hàng hóa hoặc thuế tiêu
dùng) đánh vào các sản phẩm xa xỉ nh rợu, bia, thuốc lá
- Thuế lợi tức nay thay đổi thành thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Thuế thu nhập (còn gọi là thuế thu nhập dân c, thu nhập cá nhân)
đánh vào những ngời có thu nhập cao.
- Thuế xuất khẩu, nhập khẩu; thuế môn bài, thuế sử dụng đất
3. Các loại thuế trong kinh doanh xuất bản phẩm hiện nay
Hiện nay các doanh nghiệp kinh doanh xuất bản phẩm thực hiện
nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nớc thông qua những loại thuế cơ bản sau:
a. Thuế doanh thu:
Thuế doanh thu là loại thuế gián thu, thu trên doanh thu của doanh
nghiệp nhằm động viên một phần thu nhập của ngời tiêu dùng cho ngân
sách nhà nớc, bảo đảm công bằng xã hội, kiểm soát kinh doanh và thúc
đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.
Xét về tính chất thuế doanh thu là thuế gián thu, một yếu tố cấu

thành trong giá cả sản phẩm hàng hóa.
Đối tợng của thuế doanh thu là hoạt động kinh doanh. Thuế doanh
thu đợc thực hiện ở mọi khâu có phát sinh doanh thu bán hàng hay dịch
vụ với thuế suất thờng là thấp và biện pháp quản lý thu thuế tơng đối đơn
giản.
Đối tợng phải nộp thuế doanh thu là ngời tiêu dùng, sử dụng hàng
hóa. Vì vậy phạm vi thu thuế rất rộng, là nguồn thu của nhà nớc rất lớn.
Tuy nhiên thuế doanh thu có một hạn chế lớn, đó là tính trùng lặp của nó.
Hàng hóa càng qua nhiều khâu trung gian thì ngời tiêu dùng càng phải
chịu nhiều thuế (tức giá cả càng cao), nhiều lúc làm cho các nhà sản xuất
kinh doanh không bán đợc hàng hóa ra thị trờng Chính vì vậy để đảm
bảo quyền lợi cho ngời tiêu dùng, kích thích hoạt động sản xuất kinh
doanh, khuyến khích phát triển nền kinh tế quốc dân, tại kỳ họp lần thứ
11 khóa 9 từ ngày 2 tháng 4 đến ngày 10 tháng 5 năm 1997, Quốc hội đã
thông qua dự thảo luật thuế giá trị gia tăng. Luật thuế giá trị gia tăng có
hiệu lực thực hiện từ ngày 1 tháng 1 năm 1999 thay cho luật thuế doanh
thu trớc đây.
b. Thuế giá trị gia tăng (Thuế GTGT)
Thuế giá trị gia tăng là một loại thuế gián thu đợc tính trên khoản
giá trị tăng thêm của hàng hóa dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản
xuất lu thông đến tiêu dùng.
Thuế giá trị gia tăng đợc chính thức áp dụng trên toàn quốc từ ngày
1/1/1999.
Thuế giá trị gia tăng ra đời có những u điểm lớn:
Góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển mở rộng lu thông hàng hóa
dịch vụ, đẩy mạnh xuất khẩu do thuế GTGT khắc phục đợc việc đánh
thuế trùng lắp của thuế doanh thu trớc đây. Đối với hàng xuất khẩu,
không những không phải nộp thuế GTGT (vì thuế suất bằng 0) mà còn đ-
ợc khấu trừ hoặc hoàn lại số thuế GTGT ở đầu vào, nên tạo điều kiện hạ
giá bán, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trờng quốc tế.

Bảo đảm động viên số thu quan trọng và tơng đối ổn định cho ngân
sách nhà nớc. Thuế GTGT đợc tập trung thu ngay từ khâu đầu và việc thu
thuế ở khâu sau còn kiểm tra việc tính thuế nộp ở khâu trớc nên hạn chế
đợc việc thất thu thuế.
Tăng cờng công tác hạch toán kế toán và thúc đẩy việc mua bán
hàng hóa có hóa đơn chứng từ. Việc tính thuế đầu ra đợc khấu trừ số thuế ở
đầu vào là biện pháp kinh tế quan trọng thúc đẩy cả ngời mua hàng và ngời
bán hàng cùng thực hiện tốt hơn chế độ hóa đơn chứng từ.
Góp phần từng bớc hoàn thiện hệ thống thuế ở Việt Nam để tiến tới
phù hợp với sự vận động và phát triển của nền kinh tế thị trờng tạo điều
kiện mở rộng hợp tác kinh tế với các nớc trong khu vực và trên thế giới.
Đối tợng phải nộp thuế GTGT là các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ và các cơ sở nhập khẩu hàng hóa.
Đối tợng chịu thuế GTGT là hàng hóa dịch vụ dùng cho sản xuất
kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam (trừ các trờng hợp ở điều 4 chơng I
trong luật số 02/1997/QH9).
c. Thuế xuất nhập khẩu (Thuế xuất khẩu, nhập khẩu)
Thuế xuất khẩu, nhập khẩu là loại thuế gián thu đánh vào hàng hóa
xuất khẩu nhập khẩu qua các cửa khẩu và biên giới Việt Nam. Thuế xuất
khẩu, nhập khẩu là một trong những công cụ quan trọng của nhà nớc để
quản lý các hoạt động kinh tế đối ngoại.
Thông qua chính sách khuyến khích xuất khẩu bằng việc mở rộng
các danh mục hàng hóa xuất khẩu và u đãi về thuế suất đã góp phần kích
thích các tổ chức cá nhân phát huy các tiềm năng, thế mạnh của mình,
tích cực phát triển hàng hóa xuất khẩu, qua đó góp phần nâng cao khả
năng cạnh tranh hàng hóa xuất bản phẩm của Việt Nam trên thị trờng
quốc tế.
Cũng thông qua việc thực hiện thuế nhập khẩu, xuất khẩu góp phần
tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nớc. Đồng thời góp phần phát
triển và bảo hộ sản xuất kinh doanh trong nớc.

Theo luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu thì thuế xuất khẩu, nhập khẩu
đợc thực hiện đối với tất cả các tổ chức và cá nhân có hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu và biên giới Việt Nam; trừ các trờng hợp ở
điều 1 theo luật số 04/1998/QH10 ngày 20 tháng 5 năm 1998 luật sửa
đổi bổ sung một số điều của luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu.
d. Thuế sử dụng vốn ngân sách nhà nớc
Thuế sử dụng vốn ngân sách nhà nớc cấp đối với các tổ chức kinh
tế là khoản thu tính trên vốn (bao gồm cả vốn cố định và vốn lu động) do
ngân sách nhà nớc cấp và có nguồn từ ngân sách nhà nớc (gọi chung là
vốn ngân sách nhà nớc cấp). Chế độ thu và sử dụng vốn ngân sách bảo
đảm sự công bằng trong việc sử dụng các nguồn vốn thúc đẩy tổ chức
kinh tế sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn ngân sách.
Thực chất của thu sử dụng vốn là nhà nớc tham gia phân chia lợi
nhuận của các doanh nghiệp nhà nớc với t cách là chủ đầu t. Các tổ chức
kinh doanh hạch toán kinh tế độc lập có sử dụng vốn ngân sách đều phải
nộp tiền thu sử dụng vốn ngân sách nếu hoạt động sản xuất kinh doanh
có hiệu quả (có lợi nhuận).
Ngợc lại nếu doanh nghiệp hoạt động kinh doanh không có lợi
nhuận thì không phải nộp tiền thu sử dụng vốn cho ngân sách nhà nớc.
e. Thuế thu nhập doanh nghiệp (Thuế TNDN)
Thuế TNDN là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập chịu thuế của
các tổ chức cá nhân kinh doanh hàng hóa dịch vụ.
Thuế TNDN ra đời thay thế cho luật thuế lợi tức và một số chính
sách thuế đối với doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài vào Việt Nam.
Khác với các loại thuế khác (trừ khoản thu sử dụng vốn ngân sách
nhà nớc), thuế TNDN là loại thuế trực thu, bởi thông qua loại thuế này,
nhà nớc động viên một phần lợi nhuận của các tổ chức và cá nhân kinh
doanh vào ngân sách nhà nớc.
Thuế TNDN bảo đảm sự đóng góp công bằng giữa các tổ chức cá
nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa dịch vụ, thể hiện sự công bằng giữa

các thành phần kinh tế, giữa các doanh nghiệp nhà nớc và các doanh
nghiệp không phải nhà nớc, giữa các doanh nghiệp có vốn đầu t trong nớc
và các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài thông qua các quy định về
thuế suất, về việc chấp hành các chế độ sổ sách kế toán, chứng từ hóa
đơn về khai báo kiểm kê, kiểm soát, về thởng phạt và quyền khiếu nại
Cũng vì thế, thuế TNDN bảo đảm sự đóng góp công bằng, hợp lý
giữa các tổ chức và cá nhân kinh doanh. Vì vậy nó góp phần thúc đẩy sản
xuất kinh doanh phát triển, nâng cao hiệu quả của nền kinh tế xã hội.
Qua đó nó góp phần tạo và không ngừng nâng cao nguồn thu cho ngân
sách nhà nớc.
Đối tợng chịu thuế (phải nộp thuế) là tất cả các tổ chức cá nhân
kinh doanh có thu nhập phát sinh trên lãnh thổ Việt Nam đều phải nộp
thuế TNDN.
Thu nhập chịu thuế là thu nhập còn lại của các tổ chức hay cá nhân
sau khi lấy tổng doanh thu trừ đi tổng chi phí hợp lệ.
Trên đây chỉ là những loại thuế cơ bản mà bài viết đề cập đến,
ngoài ra trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp xuất bản phẩm
nói chung còn thực hiện một số loại thuế khác nh: thuế môn bài, thuế sử
dụng đất
II.Tác động của thuế đối với hoạt động kinh doanh
xuất bản phẩm hiện nay
Nh phần I đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rõ thuế là nguồn thu
chủ yếu của ngân sách nhà nớc, đồng thời thuế cũng là nguồn tài chính
quan trọng để điều chỉnh các quan hệ tài chính trong sự vận động của nền
kinh tế quốc dân nói chung. Vì vậy tác động của thuế đối với nền kinh tế
nói chung và hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm nói riêng là rất lớn.
Thuế vừa đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nớc vừa giúp nhà nớc
điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ
chức kinh tế trong phạm vi quốc gia.
1. Góp phần thực hiện tốt nghĩa vụ của doanh nghiệp với ngân sách nhà

nớc
Thông qua các khoản thuế gián thu và trực thu các doanh nghiệp
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với nhà nớc. Vì thế các doanh nghiệp nói
chung và các doanh nghiệp kinh doanh xuất bản phẩm nói riêng trong
nền kinh tế thị trờng hiện nay luôn phải nâng cao trách nhiệm và nghĩa
vụ, chủ động và sáng tạo trong hoạt động kinh doanh.Đảm bảo kinh
doanh có hiệu quả để có thể chi trả, thanh toán tốt những chi phí kinh
doanh, trong đó có các khoản thuế phải nộp. Đặc biệt thông qua các
khoản thuế trực thu phải nộp, doanh nghiệp phải trích một phần lợi
nhuận nhất định để nộp vào ngân sách nhà nớc. Do đó để thực hiện đợc
tốt nghĩa vụ của doanh nghiệp với ngân sách nhà nớc, các doanh nghiệp
luôn phải nhạy bén nắm bắt thị trờng, chủ động đầu t, đa dạng hóa các
hoạt động kinh doanh, các mặt hàng kinh doanh và tuân thủ chấp hành
luật pháp nghiêm túc. Nh vậy thông qua các khoản thuế, doanh nghiệp
làm tròn trách nhiệm và nghĩa vụ của mình với ngân sách nhà nớc.
2. Góp phần điều chỉnh hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động
kinh doanh xuất bản phẩm nói riêng trên phạm vi quốc gia.
Nh chúng ta đã biết thuế là nguồn động viên tài chính chủ yếu và
quan trọng của ngân sách nhà nớc. Thuế góp phần động viên, khai thác
các nguồn thu, tạo nên quỹ tiền tệ tập trung của nhà nớc là ngân sách nhà
nớc .Để tác động có hiệu quả vào sự tăng trởng kinh tế theo định hớng
của nhà nớc,thông qua việc thu thuế và sử dụng số tiền thuế thu đợc, nhà
nớc thực hiện vai trò quản lý bằng biện pháp kinh tế của mình đối với các
lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội; bảo đảm thực hiện các mục tiêu
công bằng xã hội, chú trọng cho sự phát triển mọi mặt của con ngời, thực
hiện dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Nguồn thu này không đơn giản chỉ phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng
của nhà nớc mà còn là nguồn thu quan trọng để đầu t phát triển và tái mở
rộng sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế quốc dân (đầu t cho giáo dục,
y tế, quốc phòng, xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công

cộng, cấp phát vốn ban đầu ).
Đặc biệt đối với hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm - hoạt động kinh
doanh đặc thù, thông qua nguồn thu từ thuế, ngân sách nhà nớc có tác động
trở lại với các doanh nghiệp xuất bản phẩm. Đó là việc ngân sách nhà nớc
cấp phát vốn ban đầu và bổ sung vốn kinh doanh cho các doanh nghiệp, công
ty phát hành sách tỉnh thành trong cả nớc. Mở rộng mạng lới phát hành sách
trên phạm vi quốc gia: Thành phố, nông thôn, miền núi, hải đảo xa xôi vừa
nhằm mục đích kinh doanh (có lợi nhuận) vừa nhằm mục đích nâng cao dân
trí xã hội. Nh vậy thông qua các nguồn thu thuế, góp phần điều chỉnh hoạt
động kinh doanh nói chung và hoạt động hoạt động kinh doanh xuất bản
phẩm nói riêng trong phạm vi quốc gia.
3. Tuy nhiên việc thực hiện nghĩa vụ thuế cũng ảnh hởng lớn đến
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp xuất bản phẩm.
Bên cạnh những tác động tích cực, thuế cũng có những tác động
không tốt đối với hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm hiện nay. Chúng
ta đã biết hàng hóa của doanh nghiệp xuất bản phẩm là hàng hóa đặc thù
(phần sau ở chơng II sẽ phân tích rõ hơn) , hàng hóa này khó bán, khó
tiêu thụ hơn những hàng hóa thông thờng khác. Do đó với mức thuế suất
cao không phù hợp với đặc điểm tính chất của mặt hàng xuất bản phẩm
nh hiện nay sẽ làm cho xuất bản phẩm vốn đã khó tiêu thụ nay lại càng
khó tiêu thụ hơn nữa .Điều đó sẽ cản trở không nhỏ đối với hoạt động
kinh doanh xuất bản phẩm trên thị trờng. Với mức thuế suất cao sẽ làm
giảm đi sự đầu t kinh doanh của doanh nghiệp xuất bản phẩm. Mặc dù
các phơng án kinh doanh có tính khả thi nhng hiệu quả kinh doanh không
cao, gây tâm lý ức chế cho các doanh nghiệp, các nhà kinh doanh. Họ sẽ
không chủ động mở rộng phạm vi, quy mô kinh doanh, không muốn đa
dạng hóa các hoạt động kinh doanh, cũng nh đa dạng hóa các mặt hàng
kinh doanh vì chi phí kinh doanh tăng lên đột ngột làm hạn chế mức lợi
nhuận thu đợc. Tình trạng này sẽ dễ dẫn đến các doanh nghiệp Xuất bản
phẩm nói chung chỉ chạy theo lợi nhuận, còn các doanh nghiệp xuất bản

phẩm nhà nớc không còn nắm vai trò chủ đạo và định hớng kinh doanh
trên thị trờng. Điều đó làm cho nhu cầu thị trờng Xuất bản phẩm rối
loạn, suy giảm trầm trọng.
4. Thuế còn tác động không nhỏ đến việc hình thành và phân phối thu
nhập của doanh nghiệp xuất bản phẩm.
Hàng hóa xuất bản phẩm là hàng hóa đặc biệt, nhu cầu về xuất bản
phẩm của khách hàng là nhu cầu lâu dài cần thiết nhng không bức xúc
nh nhu cầu các hàng hóa tiêu dùng khác. Vì vậy khi thuế suất đối với
hàng hóa xuất bản phẩm mà cao sẽ kéo theo giá cả xuất bản phẩm tăng.
Theo quy luật cung cầu, nhu cầu khách hàng sẽ giảm trầm trọng (vì nó
vốn là loại hàng hóa cao cấp). Một khi nhu cầu khách hàng trên thị trờng
giảm sẽ kéo theo sự giảm sút đầu t của các doanh nghiệp, các nhà kinh
doanh . Theo sau đó là hàng loạt vấn đề xảy ra: thu nhập của doanh
nghiệp , nguồn tài chính động viên cho ngân sách nhà nớc và lợi nhuận
của doanh nghiệp đều giảm sút, việc trích lập các quĩ chuyên dùng của
doanh nghiệp cũng suy giảm. Vì vậy việc tính thuế cao không những
không thúc đẩy mà còn kìm hãm hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp xuất bản phẩm.
Tóm lại, thông qua sự trình bày và phân tích trên đây, chúng ta đã
nhận thức rõ về đặc trng bản chất của thuế cũng nh sự tác động của nó
đối với hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm là không nhỏ. Vì vậy để
thuế thực sự là nguồn thu bền vững của ngân sách nhà nớc vừa là công cụ
quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế nói chung và hoạt động kinh doanh
xuÊt b¶n phÈm nãi riªng ®ßi hái chóng ta ph¶i nghiªn cøu thùc tr¹ng
thuÕ, tõ ®ã cã nh÷ng híng gi¶i quyÕt phï hîp víi yªu cÇu thùc tÕ cña
tõng lo¹i h×nh kinh doanh, tõng lo¹i doanh nghiÖp cô thÓ.
Chơng II. Thực trạng thuế đối với hoạt động
kinh doanh xuất bản phẩm hiện nay
I. Kinh doanh xuất bản phẩm là hoạt động kinh doanh
đặc thù

1. Hàng hóa xuất bản phẩm là hàng hóa đặc biệt
Xuất bản phẩm vừa là sản phẩm vật chất vừa là sản phẩm tinh thần
trí tuệ. Là sản phẩm vật chất bởi nó cũng đợc mua bán trao đổi trên thị tr-
ờng. Tuy nhiên sự trao đổi mua bán loại hàng hóa này chỉ diễn ra trong
những điều kiện nhất định. Là sản phẩm tinh thần trí tuệ bởi trong nó
chứa đựng và kết tinh tri thức của con ngời. Nó giải quyết và đáp ứng nhu
cầu về thợng tầng kiến trúc xã hội. Hàng hóa xuất bản phẩm là hàng hóa
văn hóa tinh thần và trí tuệ có tác động mạnh mẽ đến t tởng tình cảm con
ngời và góp phần hình thành nhân cách con ngời. Đọc xong một tác phẩm
nghệ thuật hay một công trình khoa học làm cho con ngời thêm yêu cuộc
sống, mềm lòng trớc cái đẹp, vơn tới cái đẹp, chìm đắm trong cái đẹp để
chau chuốt hoàn thiện bản thân. Hay ngời ta lại có cái nhìn đúng đắn,
khoa học bao quát trớc các vấn đề của cuộc sống, trớc các hiện tợng sự
vật đã gặp, đang gặp hay cha gặp bao giờ. Mỗi một công trình tri thức
nhân loại luôn đem lại cho con ngời những cách nhìn mới, khoa học và
chính xác. Nó đem lại cho con ngời những niềm vui, niềm yêu, niềm
hứng khởi với cuộc sống hiện tại, tơng lai và quá khứ dù khó khăn gian
khổ đã qua đi.
Đắm mình trong dòng văn học 1930 - 1945 làm hiện lên trớc mắt
chúng ta cảnh đời nô lệ đen tối của ngời dân mất nớc, cảnh đời cay
nghiệt, hà khắc và sự ngu dốt của lũ cờng hào bán nớc, Hình t ợng một
bà cụ già đau khổ trong Một bữa no, một chị Dậu trong Tắt đèn, đến
cả một thằng Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên, đến một anh giáo làng
tên Thứ, một anh Hoàng, anh Độ trong Đôi mắt Tất cả đều là hình
ảnh của một đất nớc thuộc địa lầm than dới ách thống trị của đế quốc,
hình ảnh của những ngời dân mất nớc cơ cực tủi nhục bần hàn tất cả,
tất cả cảnh đời hiện thực đó là sức mạnh vĩ đại đa nhân dân ta vùng lên
giành chính quyền, lật đổ ách thống trị của hàng ngàn năm phong kiến và
hàng trăm năm thuộc địa của đế quốc thực dân vào mùa thu tháng 8 năm
1945. Và sau đó là chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, chiến thắng

lịch sử vào mùa xuân năm 1975
Trở về với những câu thơ của nhà thi hào Nga Puski , lòng ngời trở
nên thanh thản êm dịu trong cái Tình yêu say đắm, nồng nàn của lứa
đôi. Chúng ta nh sống lại cái tuổi đôi mơi, trai tráng, má hồng trong
tình con ngời nhân hậu chứa chan Nó giáo dục con ng ời sống phải biết
yêu, phải có tình yêu và phải biết yêu nh thế nào cho đúng nghĩa, đúng
đạo làm ngời . Chính vì vậy xuất bản phẩm không đơn giản là hàng hóa
tinh thần mà nó là hàng hóa văn hóa và trí tuệ. Nó tác động mạnh đến t t-
ởng tình cảm và góp phần trong việc hình thành nhân cách con ngời. Do
đó loại hàng hóa này chỉ đợc lu thông phổ biến trên thị trờng khi xã hội
phát triển và có trình độ nhận thức nhất định.
Xuất bản phẩm là hàng hóa đặc biệt, hàng hóa có giá trị và giá trị
sử dụng nhng giữa chúng không đồng nhất với nhau. Giá trị sử dụng của
xuất bản phẩm thờng lớn hơn rất nhiều giá trị của nó. Tuy nhiên giá trị sử
dụng của nó lại rất khó nhận biết, nếu không qua quá trình đọc và sử
dụng. Mọi hiện tợng sự vật có thể bị thời gian làm phai mờ nhng những
tri thức thể hiện trong xuất bản phẩm thì vẫn sống mãi với thời gian. Nó
đợc lu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nói về vai trò của xuất bản
phẩm nói chung, vai trò của sách nói riêng, nhà lý luận Ghecxen đã nhấn
mạnh: Sách là lời di huấn về tinh thần của thế hệ này với thế hệ khác,
đó là lời khuyên của ngời già sắp từ giã cõi đời đối với ngời trẻ sắp bớc
vào cuộc sống, đó là mệnh lệnh của ngời gác đến giờ nghỉ truyền lại
cho ngời đến thay. Nhng trong sách không chỉ có quá khứ. Sách còn là
phơng tiện giúp chúng ta làm chủ tơng lai, nắm bắt lấy mọi chân lý và

×