Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

LUẬN VĂN: Một số vấn đề về bảo đảm tiền vay trong cho vay của ngân hàng thương mại, nghiên cứu tại chi nhánh ngân hàng công thương Thanh Xuân pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (665.85 KB, 62 trang )


z













LUẬN VĂN:

Một số vấn đề về bảo đảm tiền vay trong
cho vay của ngân hàng thương mại,
nghiên cứu tại chi nhánh ngân hàng công
thương Thanh Xuân




Lời mở đầu

Trong quá trình phát triển đất nước, hoạt động ngân hàng đóng vai trò vô cùng quan
trọng, nó là mạch máu của nền kinh tế và là đầu tàu trong hệ thống tài chính tiền tệ.
Nhưng ngân hàng lại là một ngành kinh doanh gặp rất nhiều rủi ro và thực tế hệ
thống ngân hàng Việt Nam đã gặp phải những vấn đề đó, gây ra không ít tổn thất


nặng nề cho toàn hệ thống ngân hàng và cả nền kinh tế. Những năm gần đây liên tiếp
xảy ra các vụ án lớn có liên quan đến hoạt động của ngân hàng, để lại nhiều di chứng
cho nền kinh tế đất nước. Trong giai đoạn hiện nay hoạt động ngân hàng càng trở nên
khó khăn phức tạp hơn do những đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh tế. Vậy phải
làm gì để ngăn chặn và giảm thiểu hậu quả của những mối nguy cơ đó? Nhiệm vụ
này chắc chắn không phải của riêng ngân hàng. Các giải pháp phát triển hữu hiệu cần
được tìm ra nhằm bảo đảm an toàn cho các khoản tín dụng của ngân hàng và trong xu
thế đó bảo đảm tiền vay chính là một công cụ hữu hiệu. Vấn đề này ngày càng trở
nên cấp bách hơn bao giờ hết trong giai đoạn hiện nay.
Chi nhánh ngân hàng công thương Thanh xuân mặc dù mới được thành lập từ 5 năm
nay nhưng đã quán triệt được tầm quan trọng của vấn đề này. Chi nhánh đang ngày
càng khẳng định vị thế của mình trong nền kinh tế. Đó là kết quả của sự nỗ lực không
ngừng của tập thể lãnh đạo, cán bộ công nhân viên ngân hàng. Trong sự thành công
đó không thể không kể đến vai trò của công tác bảo đảm tiền vay. Để phát huy thành
công đó chi nhánh còn rất nhiều việc cần phải tiếp tục thực hiện. Trong điều kiện
những văn bản pháp lý còn đang trong quá trình hoàn thiện thì việc quan tâm đúng
mức đến vấn đề bảo đảm tiền vay là điều hết sức cần thiết. Nhận thức được tầm quan
trọng của vấn đề, trong thời gian thực tập tại phòng kinh doanh em đã đi sâu nghiên
cứu vấn đề bảo đảm tiền vay tại chi nhánh với hy vọng có được những phân tích có
ích cho ngân hàng nhằm nâng cao chất lượng tín dụng và an toàn trong cho vay của
chi nhánh. Đề tài nghiên cứu là: “Một số vấn đề về bảo đảm tiền vay trong cho vay
của ngân hàng thương mại, nghiên cứu tại chi nhánh ngân hàng công thương
Thanh Xuân”.




Đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về bảo đảm tiền vay trong cho vay của ngân hàng thương
mại.

Chương II: Thực trạng công tác bảo đảm tiền vay tại chi nhánh ngân hàng công
thương Thanh Xuân.
Chương III: Một số đề xuất về vấn đề bảo đảm tiền vay trong cho vay của ngân
hàng công thương Thanh xuân.



























CHƯƠNG 1: Lý LUậN CHUNG Về BảO ĐảM
TIềN VAY TRONG CHO VAY CủA NGÂN HàNG
THƯƠNG MạI.
1.1. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
1.1.1. Khái niệm và những hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại.
1.1.1.1. Khái niệm.
Có rất nhiều quan điểm về ngân hàng thương mại. Sau đây là khái niệm được chấp
nhận rộng rãi nhất về ngân hàng thương mại là:
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ mà hoạt động chủ
yếu và thường xuyên của nó là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn
trả và sử dụng số tiền đó để cấp tín dụng và cung cấp một số dịch vụ khác về ngân
hàng cho khách hàng.
1.1.1.2. Những hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại.
Khái niệm trên đã chỉ ra những hoạt động cơ bản mà ngân hàng thương mại thực
hiện. Đó chính là:
-Huy động vốn.
-Cho vay vốn.
-Cung cấp các dịch vụ khác về ngân hàng.
Huy động vốn có thể coi là hoạt động cơ bản đầu tiên của ngân hàng thương mại
bởi từ thuở sơ khai thì ngân hàng chính là nơi để cho những người có lượng tiền tạm
thời nhàn rỗi gửi vào. Những đối tượng gửi tiền vào ngân hàng là tất cả các cá nhân,
các hộ gia đình, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội Họ gửi tiền vào dưới các hình
thức ký gửi như mở tài khoản thanh toán, tài khoản tiết kiệm Qua thời gian, khi
hoạt động của ngân hàng trở nên phong phú hơn, ngân hàng không chỉ dừng lại ở chỗ
chờ đợi những người này gửi tiền mà còn dùng nhiều hình thức để chủ động thu hút
vốn về mình. Ngoài các biện pháp thông thường để vay vốn ngân hàng còn phát hành
trái phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi Ngân hàng cũng được vay ngắn hạn từ
Ngân hàng Trung ương dưới hình thức tái chiết khấu.
Ngân hàng sử dụng phần lớn số vốn huy động được để thực hiện cho vay nền kinh
tế, từ việc hỗ trợ cho nhu cầu chi tiêu của các cá nhân, các hộ gia đình; nhu cầu vốn

để mở rộng sản xuất của các doanh nghiệp đến việc đáp ứng nhu cầu vốn cho phát
triển cơ sở hạ tầng xã hội. Các hình thức cho vay cũng vô cùng đa dạng từ cho vay

thông thường đến cho vay chiết khấu, cho vay thấu chi và cho đến cả hình thức tín
dụng thuê mua đang rất phát triển hiện nay.Thật dễ hiểu khi coi ngân hàng như một
cái “két đựng tiền khổng lồ” có thể đáp ứng được mọi nhu cầu lớn nhỏ của nền kinh
tế mà cho đến nay chưa có ai thay thế được vị trí quan trọng này của nó, nhất là đối
với những nước mà thị trường tài chính chưa phát triển như ở nước ta.
Nền kinh tế thị trường càng phát triển thì ngân hàng lại càng trở thành một đầu mối
quan trọng. Nó không chỉ là trung gian chu chuyển vốn mà còn là trung gian trong
nhiều hoạt động khác của các chủ thể của nền kinh tế, điều này được đặc biệt thể hiện
thông qua vai trò trung gian thanh toán của ngân hàng thương mại. Ngân hàng thực
hiện thanh toán hộ cho khách hàng, chuyển tiền từ nơi này đến nơi khác, từ người
này sang người khác Ngoài ra ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ như bảo lãnh,
chiết khấu. Ngân hàng cũng không thể bỏ qua một hoạt động hết sức hấp dẫn là hoạt
động đầu tư: đầu tư vào chứng khoán, vào bất động sản Tuy nhiên, do hoạt động
ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế nên hiện nay Chính phủ các nước đã
có những quy định khắt khe về hoạt động đầu tư của ngân hàng như: phải thành lập
các công ty chứng khoán, công ty tài chính trực thuộc thực hiện riêng các hoạt động
đầu tư, đảm bảo cho sự an toàn trong hoạt động ngân hàng nói riêng, họat động của
nền kinh tế nói chung.
1.1.2. Nội dung hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
Trở lại với hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại, có thể nói rằng cho dù có
sự phát triển không ngừng của các hoạt động khác thì khi nói đến ngân hàng thương
mại người ta không thể không nhắc tới hoạt động này. Trước hết bởi vì đây là hoạt
động mang tính truyền thống của ngân hàng, sau đó vì nó là hoạt động sử dụng vốn
lớn nhất và mang lại phần lớn lợi nhuận cho ngân hàng, là hoạt động mang tính sống
còn, là lý do cơ bản để tồn tại các ngân hàng thương mại. Không thể có ngân hàng
nào phát triển mà lại yếu kém trong hoạt động cho vay.
Cho vay thực chất chính là việc ngân hàng chuyển quyền sử dụng một khoản vốn

cho một chủ thể khác dựa trên nguyên tắc hoàn trả.
Ngân hàng có thể sử dụng vốn huy động được để đầu tư hoặc cho vay, nhưng thực
tế đã khẳng định rằng cho vay chiếm ưu thế hơn cả về mức độ chuyên sâu cũng như
về lợi nhuận mang lại.

Hoạt động cho vay xuất hiện ngay từ khi ngân hàng còn là “ngân hàng của những
người thợ vàng”. Lúc đầu hoạt động này còn mang tính chất sơ khai, sau đó cùng với
sự phát triển của xã hội, hoạt động ngân hàng cũng trở nên tinh vi và phức tạp hơn.
Nhà ngân hàng do đó cũng có nhiều kiến thức và kinh nghiệm xử lý tình huống hơn
dẫn đến việc thực hiện hoạt động này ngày càng mang tính sắc sảo và tinh vi hơn. Có
thể nói hoạt động cho vay là hoạt động chủ yếu để có thể bù đắp được chi phí lãi tiền
gửi và các chi phí liên quan. Điều này không phủ nhận vai trò cũng hết sức to lớn của
các hoạt động khác cũng đang phát triển và cần được phát triển mà chỉ cho thấy rõ
hơn tầm quan trọng của hoạt động cho vay trong hoạt động của ngân hàng thương
mại. Hoạt động cho vay cũng chính là cơ sở để ngân hàng trở thành người “tạo tiền”
khổng lồ cho nền kinh tế, góp phần đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn trong nền kinh
tế, mở rộng tái sản xuất và bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận. Hoạt động này vừa phải
đảm bảo duy trì mức lợi nhuận cao cho ngân hàng, lại vừa phải đảm bảo cho tính an
toàn trong hoạt động của nó. Khó có thể nói hết được vai trò to lớn của hoạt động cho
vay nhưng những phân tích ở trên ít nhiều đã khẳng định được tầm quan trọng của
nó.
Như đã nói ở trên, hoạt động cho vay xuất hiện từ rất sớm và từ đó đến nay đã có
những bước phát triển to lớn đưa ngân hàng trở thành nhân tố quan trọng thúc đẩy
nền kinh tế phát triển. Song cho dù có phát triển đến đâu thì do hoạt động của ngân
hàng chứa đựng nhiều rủi ro và mang tính hệ thống cao nên hoạt động này đều phải
dựa trên nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Chính điều này đặt ra vấn đề đảm
bảo tiền vay trong cho vay của ngân hàng thương mại và cũng là cơ sở để nghiên cứu
đề tài: “Những vấn đề cơ bản về bảo đảm tiền vay trong cho vay của ngân hàng
thương mại” tại ngân hàng công thương Thanh xuân.
1.2. Vấn đề bảo đảm tiền vay trong cho vay của ngân hàng thương mại.

1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của bảo đảm tiền vay.
1.2.1.1. Khái niệm
Theo quan điểm truyền thống, bảo đảm tiền vay là việc bảo vệ quyền lợi của người
cho vay dựa trên cơ sở thế chấp, cầm cố tài sản thuộc sở hữu của người đi vay hoặc
bảo lãnh của bên thứ ba.

Với quan điểm trên thì chỉ khi có tài sản cụ thể thì khoản cho vay mới được công
nhận là có bảo đảm, còn lại thì được coi là không có bảo đảm. Ta hãy phân tích quan
điểm này.
Đây là một cái nhìn rất trực quan, nó cho thấy rằng đối với một khoản cho vay nếu
nguồn thu nợ thứ nhất như lợi nhuận, khấu hao hay thu nhập từ lương, cổ tức
không được thực hiện thì đã có nguồn thứ hai là những tài sản bảo đảm như trên. Thế
nhưng câu hỏi đặt ra là giả sử có khách hàng muốn xin vay và có tài sản thế chấp
hoặc cầm cố mà mục đích sử dụng không rõ ràng hoặc có mục đích sử dụng nhưng
không hợp pháp thì ngân hàng có thể quyết định đồng ý cho vay? Bên cạnh đó không
phải lúc nào tài sản đảm bảo cũng thực sự an toàn, chẳng hạn đối với tài sản cầm cố
nhưng không có đăng ký quyền sở hữu và lại nhờ quản lý ở kho khách hàng hoặc
thuê kho; còn đối với tài sản thế chấp là bất động sản thì luôn tiềm ẩn nguy cơ hao
mòn hữu hình và vô hình Mặt khác nếu chỉ dựa vào lượng tài sản này mà không có
các biện pháp thu hồi nợ hoặc không có các biện pháp xử lý, khi xảy ra tình huống
bất ngờ làm tiêu hao tài sản của khách hàng thì như vậy khoản cho vay đã trở thành
nợ khó đòi. Lúc đó thì mục tiêu thu hồi được các khoản nợ đã không được bảo đảm.
Như vậy quan điểm này là hoàn toàn thiếu sót. Vậy chúng ta sẽ quan niệm bảo đảm
tiền vay như thế nào cho đúng? Quay trở lại với lý do đặt ra vấn đề bảo đảm tiền vay
trong cho vay của ngân hàng thương mại. Ta đã khẳng định đó chính là nguyên tắc
hoàn trả trong cho vay, tức là các khoản cho vay sau một thời gian đã xác định thì
phải được quay về ngân hàng với đầy đủ cả gốc và lãi. Như vậy vấn đề bảo đảm tiền
vay phải được thực hiện theo cả một quá trình và nó cần nhiều hơn so với việc chỉ
đòi hỏi tài sản cầm cố hay thế chấp. Nó phải là tất cả các công việc mà cả ngân hàng
và khách hàng phải làm để có được một khoản tín dụng an toàn và hiệu quả. Điều

này có nghĩa là khi có một nhu cầu về vốn thì ngân hàng phải thực hiện phân tích,
đánh giá khách hàng cũng như phương án sử dụng vốn của khách hàng, đưa ra các
phương án trả nợ của khách hàng. Sau khi giải ngân thì cán bộ tín dụng phải thường
xuyên theo dõi tiến trình sử dụng vốn của khách hàng cũng như các vấn đề liên quan
và nếu xảy ra tình trạng mất khả năng trả nợ thì cả hai sẽ phải bàn bạc để đưa đến
quyết định cuối cùng. Cũng trong quá trình đó thì nhiệm vụ của ngân hàng trong vấn
đề bảo đảm tiền vay chính là phải thực hiện quá trình phân tích thẩm định một cách
mau lẹ và chính xác; sau đó phải thực hiện giải ngân đầy đủ đúng hạn để đảm bảo

vốn đến được đúng vào lúc khách hàng cần. Điều này sẽ đảm bảo được tính hiệu quả
cho khách hàng trong việc sử dụng vốn và đó cũng chính là cơ sở để khách hàng thu
hồi đựơc vốn đem trả cho ngân hàng. Tất cả những điều trên sẽ đảm bảo cho nguyên
tắc hoàn trả không bị phá vỡ.
Với sự phân tích ở trên, có thể hiểu rằng “bảo đảm tiền vay chính là tất cả các biện
pháp thực hiện để vốn cho vay ra phải quay về với ngân hàng sau một thời gian xác
định với đầy đủ cả gốc và lãi”.
1.2.1.2. Đặc điểm.
Theo như sự phân tích ở trên chúng ta có thể khái quát một số đặc điểm của bảo
đảm tiền vay như sau:
a) Bảo đảm tiền vay tồn tại trong mọi quan hệ tín dụng.
Không phải ngẫu nhiên mà ngân hàng trao cho khách hàng của mình sử dụng tiền
mà ngân hàng đã phải trả tiền để có được chỉ để nhận được một tờ giấy chứng nhận.
Tín dụng có một tính chất đặc biệt là vốn cho vay ra phải được hoàn trả trở lại. Do đó
bất kỳ một khoản tín dụng nào mà ngân hàng cấp cho khách hàng cũng cần có bảo
đảm.
Tín dụng dựa trên lòng tin của một bên đối với bên kia về khả năng họ sẽ hoàn trả
số tiền nhận được cộng với số lãi nhất định đã thoả thuận. Lòng tin này được xây
dựng trên cơ sở khả năng tài chính và uy tín của mỗi bên. Có thể không cần tài sản
cầm cố thế chấp nhưng tuyệt đối không thể thiếu được lòng tin. Cả hai phía đối tác
đều đòi hỏi bên kia về khả năng tài chính lành mạnh, khả năng thực hiện đúng những

điều khoản hợp đồng. Người cho vay yêu cầu khoản tiền vay được sử dụng đúng mục
đích, người đi vay lại yêu cầu người cho vay cung cấp tiền đầy đủ, kịp thời. Chỉ khi
đảm bảo được điều đó thì quan hệ tín dụng mới tồn tại. Bởi vậy bảo đảm tiền vay tồn
tại trong mọi quan hệ tín dụng.
b) Thành công của khách hàng là sự bảo đảm cao nhất cho khoản vay nhưng yếu
tố quyết định cuối cùng lại là đạo đức của người vay.
Tất cả các biện pháp thực hiện đều nhằm mục đích cuối cùng là thu hồi được vốn đã
cho vay. Do đó ngân hàng phải thẩm định để lựa chọn dự án khả thi, theo dõi kiểm
tra tiến trình sử dụng vốn của khách hàng và phối hợp xử lý nếu có rủi ro xảy ra. Khi
dự án triển khai hiệu quả thì không những đem lại thu nhập cho người lao động, đem
lại nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước, lợi nhuận cho chủ đầu tư mà còn có tiền để

trả cho ngân hàng. Đây chính là điều mà ngân hàng và khách hàng cùng mong đợi.
Như vậy thành công của khách hàng chính là sự đảm bảo cao nhất cho các khoản tín
dụng ngân hàng.
Song ngay cả trong trường hợp khách hàng thành công thì khả năng ngân hàng
không thu được nợ vẫn có thể xảy ra. Nếu khách hàng cố tình trì hoãn việc trả nợ
trong trường hợp họ có thể làm được điều đó thì không còn là bảo đảm tiền vay nữa.
Yếu tố đạo đức được nói đến ở đây là dù trong trường hợp nào thì người đi vay cũng
phải coi bảo đảm tiền vay luôn gắn liền với quá trình thực hiện dự án và gắn liền với
sự thành công của mình. Điều này có nghĩa là luôn phải có sự thôi thúc từ chính bản
thân họ rằng phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình đối với ngân hàng.
1.2.2. Vai trò của bảo đảm tiền vay.
a) Đối với ngân hàng.
Không phải ngẫu nhiên mà bảo đảm tiền vay là yếu tố được nhắc đến trong mọi
quan hệ tín dụng. Và nếu đảm bảo tiền vay thành công, không những ngân hàng đảm
bảo được khả năng hoàn trả vốn vay mà còn sản sinh lợi nhuận, đảm bảo hoạt động
kinh doanh của ngân hàng.
Đối với những khoản vay mà ngân hàng không đòi hỏi tài sản bảo đảm thì ngân
hàng phải thẩm định khách hàng một cách chặt chẽ hơn, nhờ đó mà chất lượng tín

dụng được nâng cao, khả năng thẩm định của cán bộ tín dụng cũng được cải thiện.
Mặt khác những tài sản mà lẽ ra doanh nghiệp phải đem bảo đảm sẽ được dùng vào
hoạt động sản xuất kinh doanh để nâng cao hiệu qủa hoạt động của doanh nghiệp, tạo
điều kiện tốt hơn để doanh nghiệp hoàn trả vốn vay cho ngân hàng. Tất cả những
điều trên sẽ làm cho mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng trở nên khăng khít
hơn. Đây là một điều mà cả ngân hàng và khách hàng cùng mong đợi.
Đối với những khoản vay mà ngân hàng đòi hỏi tài sản bảo đảm sẽ tạo tâm lý mạnh
dạn cho ngân hàng khi đưa ra quyết định cho vay, như vậy sẽ dẫn đến kết quả là
ngân hàng mở rộng tín dụng đối với nền kinh tế.
Cần phải nhắc lại rằng không một khoản tín dụng nào được ngân hàng cấp mà lại
không cần bảo đảm. Chỉ như vậy thôi cũng đủ nói lên vai trò to lớn của đảm bảo tiền
vay trong quyết định cho vay của ngân hàng.
b) Đối với khách hàng.

Cũng theo như sự phân tích ở trên, khách hàng muốn có được khoản vốn từ ngân
hàng thì chỉ có tạo ra sự bảo đảm cho chính khoản tiền mà mình cần. Một số doanh
nghiệp có khả năng phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu trên thị trường tài chính
nhưng trong điều kiện thị trường tài chính chưa phát triển như ở nước ta hiện nay thì
tín dụng ngân hàng vẫn là rất quan trọng, còn đối với những doanh nghiệp chưa có
khả năng đó thí tín dụng ngân hàng đã trở thành nguồn thiết yếu cho mở rộng sản
xuất. Đấy là chưa kể đến việc khi được ngân hàng thẩm định thì đó sẽ là lần xét duyệt
thứ hai cho dự án của khách hàng, tạo thêm cơ sở cho sự thành công của dự án.
Đa phần khách hàng đều không mong muốn phải bảo đảm bằng tài sản vì như vậy
sẽ bị ràng buộc vào khoản vay nhưng chính sự ràng buộc này lại tạo cho họ động lực
để thực hiện tốt dự án và cái lợi đầu tiên và lớn nhất mang lại chính là lợi nhuận cho
chính họ.
c) Đối với nền kinh tế.
Vai trò của bảo đảm tiền vay đối với nền kinh tế mang tính gián tiếp. Khi chất lượng
tín dụng được nâng cao sẽ thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tăng cường sức
mạnh cho nền kinh tế. Nó giúp cho quá trình phân phối lại vốn tiền tệ diễn ra theo

đúng yêu cầu: vốn từ nơi tạm thời nhàn rỗi chuyển sang nơi đang cần để mở rộng sản
xuất kinh doanh, mở rộng tiêu dùng, kích thích tổng cầu. Bảo đảm tiền vay sẽ tránh
được sự lãng phí do vốn bị chuyển vào những ngành làm ăn không hiệu quả hay có ý
định chiếm dụng vốn cho những mục đích xấu.
Ngành ngân hàng là một ngành kinh doanh gặp rất nhiều rủi ro, mặt khác hoạt động
của nó lại mang tính hệ thống cao. Chính nhờ bảo đảm tiền vay đã hạn chế được
những mất mát mà ngân hàng phải gánh chịu, tránh cho nền kinh tế những tổn thất to
lớn do sự khủng hoảng của hệ thống ngân hàng.
Tác động tích cực của bảo đảm tiền vay là góp phần củng cố niềm tin của dân chúng
vào hệ thống tài chính, tạo điều kiện để họ gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn để phát
triển sản xuất, đóng góp cho sự phát triển của xã hội.
Bảo đảm tiền vay có tác dụng rất to lớn đối với nền kinh tế, đây là điều không thể
phủ nhận. Vì vậy Chính phủ các nước luôn phải ban hành nhiều văn bản pháp luật
cho vấn đề bảo đảm tiền vay trong cho vay của các ngân hàng thương mại.
1.2.3. Phân loại bảo đảm tiền vay.

Theo suốt quá trình phân tích trên chúng ta có thể thấy được có sự phân chia bảo
đảm tiền vay thành bảo đảm bằng tài sản và bảo đảm không bằng tài sản hay bảo đảm
bằng uy tín.


1.2.3.1. Bảo đảm bằng tài sản.
Đây là hình thức mà trong đó ngân hàng (đóng vai trò là chủ nợ) được thừa hưởng
một số quyền hạn nhất định đối với tài sản của bên bảo đảm nhằm làm căn cứ để thu
hồi nợ trong trường hợp con nợ không có khả năng hoặc không trả nợ. Trong trường
hợp này mối quan hệ bảo đảm giữa ngân hàng và khách hàng là quan hệ thông qua tài
sản bảo đảm. Thông qua mối quan hệ này ngân hàng sẽ có quyền định đoạt đối với số
tài sản đó.
Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ là một lĩnh vực chứa
đựng rất nhiều rủi ro, do đó ngân hàng được pháp luật giao cho một đặc quyền trong

việc xử lý nợ đối với những tài sản bảo đảm trong trưòng hợp con nợ không thực
hiện đúng nghĩa vụ trả nợ. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là đã đảm bảo chắc
chắn cho khả năng thu nợ của ngân hàng mà còn tuỳ thuộc vào khả năng của ngân
hàng trong khi đánh giá giá trị của tài sản đảm bảo theo sự biến động của thời gian
cũng như khả năng đảm bảo của chúng. Đây chính là một khó khăn lớn đặt ra cho
ngân hàng.
Chúng ta có thể chia hình thức bảo đảm bằng tài sản thành hai loại, đó là: bảo đảm
bằng chính tài sản của người đi vay và bảo đảm bằng tài sản của người thứ ba (người
bảo lãnh).
1.2.3.1.1. Bảo đảm bằng tài sản của chính người đi vay.
a) Cầm cố.
Cầm cố là hình thức theo đó người đi vay phải chuyển quyền kiểm soát tài sản bảo
đảm sang cho ngân hàng trong thời gian cam kết (thường là thời hạn vay vốn).
Cầm cố thích hợp với những tài sản ngân hàng có thể kiểm soát và bảo quản tương
đối chắc chắn, đồng thời việc ngân hàng nắm giữ không ảnh hưởng đến quá trình
hoạt động của người nhận tài trợ, ví dụ các chứng khoán, hợp đồng, sổ tiết kiệm,
ngoại tệ mạnh, kim loại quý Các tài sản này gọn nhẹ, dễ quản lý, không chịu ảnh
hưởng của các yếu tố môi trường tự nhiên. Đối với hàng hoá, ngân hàng thường chấp
nhận các loại ít chịu tác động của môi trường trong thời gian cầm cố.
Khi xét thấy việc khách hàng nắm giữ tài sản bảo đảm (có thể là nắm giữ tài sản
hoặc giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản) là không an toàn thì ngân hàng sẽ yêu
cầu cầm cố, thường đó là những tài sản dễ bán, dễ chuyển nhượng.

Khi cho vay dựa trên tài sản cầm cố, ngân hàng kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ, an
toàn của vật cầm cố như quyền sở hữu của khách hàng, khả năng chi trả của giấy tờ,
giá trị thị trường khi phát mại Ngân hàng cùng khách hàng định giá vật cầm cố, ký
hợp đồng cầm cố, quy định nghĩa vụ của các bên trong quá trình cầm cố, quyền phát
mại tài sản cầm cố.
b) Thế chấp.
Thế chấp là hình thức theo đó người nhận tài trợ phải chuyển các giấy tờ chứng

nhận quyền sở hữu (hoặc sử dụng) các tài sản bảo đảm sang cho ngân hàng nắm giữ
trong thời gian cam kết.
Nhiều tài sản của khách hàng trở thành bảo đảm cho các khoản tài trợ của ngân
hàng song vẫn phải tham gia vào quá trình hoạt động, những tài sản này ngân hàng
không thể cầm cố. Ví dụ như máy móc, thiết bị, nhà xưởng đang trong quá trình sử
dụng, hàng hoá đang trong quá trình luân chuyển. Các tài sản này thường cồng kềnh,
phân tán. Hơn nữa việc bán hoặc chuyển nhượng cũng không đơn giản. Trừ các ngân
hàng, các công ty tài chính có thể nắm giữ nhiều chứng khoán, tài sản chủ yếu của
doanh nghiệp là hàng hoá và tài sản cố định. Vì vậy, đảm bảo bằng thế chấp rất phổ
biến, đặc biệt đối với doanh nghiệp và người tiêu dùng. Do giá trị của loại tài sản này
thường cao nên doanh nghiệp có thể vay ngân hàng với quy mô lớn.
Đảm bảo bằng thế chấp cho phép người nhận tài trợ sử dụng tài sản bảo đảm phục
vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, đó là một thuận lợi. Tuy nhiên, quá trình sử
dụng sẽ làm biến dạng tài sản, hơn nữa, do khả năng kiểm soát tài sản bảo đảm của
ngân hàng bị hạn chế, khách hàng có thể lợi dụng phân tán, làm giảm giá trị của tài
sản, gây thiệt hại cho ngân hàng.
Khi tài trợ dựa trên bảo đảm bằng thế chấp, ngân hàng phải xem xét kỹ vật thế chấp.
Trong hợp đồng thế chấp (ký cùng với hợp đồng tài trợ), phải có phần mô tả vật thế
chấp. Như vậy, ngân hàng cần phải có (hoặc thuê) các nhà chuyên môn đủ khả năng
đánh giá tài sản bảo đảm. Nếu định giá quá cao, quy mô tài trợ có thể lớn, có thể gây
rủi ro cho ngân hàng. Ngược lại, nếu định giá quá thấp sẽ ảnh hưởng đến khả năng
vay của khách hàng. Sau khi định giá, ngân hàng và khách hàng phải thoả thuận về
nội quy sử dụng bảo đảm, quyền của ngân hàng giám sát bảo đảm, phát mại bảo đảm
khi khách hàng vi phạm hợp đồng vay vốn.
1.2.3.1.2. Bảo đảm bằng tài sản của người bảo lãnh.

Người thứ ba cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với ngân hàng thay cho
khách hàng khi khách hàng không thực hiện được. Đối với những người bảo lãnh
chưa có uy tín, ngân hàng đòi hỏi phải có tài sản bảo đảm cho bảo lãnh đó. Thực
chất, việc phân chia tài sản bảo đảm theo mức độ trực tiếp hay gián tiếp như trên chỉ

có ý nghĩa đối với khách hàng, còn đối với ngân hàng thì dù đó là bảo đảm bằng tài
sản của khách hàng hay của ngươì bảo lãnh, ngân hàng cũng có quyền như nhau đối
với tài sản này trong trường hợp khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ của
mình.
*Hiện nay việc bảo đảm bằng tài sản còn có hình thức mới đó là bảo đảm bằng
chính tài sản được hình thành từ vốn vay, tức là khách hàng dùng chính tài sản có
được do vay vốn để bảo đảm cho khoản tiền vay. Đây là biện pháp cuối cùng để ngân
hàng có thể hạn chế việc khách hàng bán tài sản được hình thành từ vốn vay. Tuy
nhiên khi khách hàng không có khả năng trả nợ thì phần lớn các tài sản này cũng
đều bị giảm giá, khó bán. Do đó tài sản này không bảo đảm cho ngân hàng thu đủ cả
gốc lẫn lãi. Hình thức này được áp dụng cho khách hàng mà các tài sản khác dùng
để bảo đảm có ít hoặc không thể trở thành tài sản bảo đảm cho ngân hàng.
1.2.3.2. Bảo đảm bằng uy tín.
Đây là hình thức mà trong đó ngân hàng cho khách hàng vay dựa trên khả năng
hoàn trả của khách hàng chứ không cần bất cứ tài sản bảo đảm nào. Để có thể đưa ra
quyết định cho vay không cần tài sản bảo đảm, khách hàng phải đáp ứng những yêu
cầu do ngân hàng đặt ra. Hình thức này gồm có bảo đảm bằng uy tín của người vay
và bảo đảm bằng uy tín của người bảo lãnh.
1.2.3.2.1.Bảo đảm bằng uy tín của người vay.
Theo hình thức này, ngân hàng dựa trên uy tín và hiệu quả hoạt động kinh doanh
của khách hàng. Không phải đơn giản mà ngân hàng có thể giao tiền cho khách hàng
mà không đặt ra bất cứ tiêu chuẩn nào. Để có thể cho vay theo hình thức này, người
vay trước hết phải chứng minh được tính khả thi của dự án. Cán bộ tín dụng sẽ phải
làm việc tích cực để thu thập được nhiều thông tin hơn và thẩm định đúng đắn khách
hàng cũng như dự án đầu tư. Đôi khi mối quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng lại
đóng vai trò quyết định. Ngân hàng đánh giá uy tín của người vay dựa trên cơ sở
khách hàng đó có phải là khách hàng truyền thống hay không, tình hình tài chính
hiện tại và trong quá khứ có tốt không, phương án xin vay có khả thi không.

Những đòi hỏi của ngân hàng đề ra phải chặt chẽ hơn và thông thường để có thể cho

vay bằng uy tín, ngân hàng cũng phải tuân thủ nhiều ràng buộc trong các quy định
của pháp luật. Cho vay bảo đảm bằng uy tín của khách hàng có cả những thuận lợi
cũng như những khó khăn. Thuận lợi ở chỗ nó thúc đẩy mối quan hệ giữa hai bên,
giảm bớt tính phức tạp của quy trình tín dụng khi thực hiện món vay và cán bộ tín
dụng cũng gặp phải ít khó khăn hơn khi không phải tiến hành đánh giá theo dõi tài
sản bảo đảm. Tuy nhiên bất lợi lớn nhất chính là ngân hàng sẽ phải đối mặt với nhiều
rủi ro lớn. Một khi niềm tin của ngân hàng bị đặt nhầm chỗ thì lúc đó hậu quả gây ra
đối với ngân hàng sẽ không thể lường hết được. Không bị ràng buộc trách nhiệm bởi
tài sản đảm bảo, nỗ lực của người vay khi sử dụng vốn có thể vì thế mà giảm sút. Khi
mà khách hàng không có khả năng trả nợ thì ngân hàng chỉ còn có thể chờ đợi mà
không có cơ sở pháp lý để thu hồi tiền cho vay. Chính vì sự bất lợi này mà chủ yếu
trong quan hệ tín dụng này ngân hàng đòi hỏi khách hàng là khách hàng lâu năm, tức
là sự tin tưởng lẫn nhau đã đạt đến độ chín. Mặc dù trong việc đánh giá uy tín của
người vay bao gồm cả việc khách hàng lâu năm. tình hình tài chính cũng như phương
án sử dụng vốn nhưng nếu khách hàng chỉ có hai điều kiện sau đó vẫn rất khó có thể
vay mà không cần tài sản bảo đảm, bởi vì yếu tố đạo đức trong bảo đảm tiền vay
chưa được khẳng định. Tuy nhiên lật lại vấn đề chúng ta lại cần phải nói rằng, với bất
cứ một phương án xin vay nào thì câu hỏi đầu tiên mà ngân hàng đặt ra cho khách
hàng là “vay để làm gì?”. Do đó việc thẩm định dự án đầu tư mặc dù không thể thay
thế cho mối quan hệ lâu năm giữa ngân hàng và khách hàng nhưng lại là yếu tố quyết
định khi có một khoản vay của khách hàng, đặc biệt là trong trường hợp vay không
có tài sản bảo đảm. Điều này được lý giải bởi thẩm định dự án là cơ sở quan trọng
nhất để có được khái niệm tín chấp. Do đó ở mục này vấn đề thẩm định dự án sẽ
được đề cập nghiên cứu.
Thẩm định dự án:
Mục tiêu cần phải đạt được của cán bộ tín dụng là đưa ra quyết định có cho vay hay
không và nếu có thì cho vay như thế nào và cho vay bao nhiêu.
Khi xuất hiện nhu cầu vay vốn trước hết khách hàng cần được hướng dẫn để lập hồ
sơ vay vốn. Bởi vậy việc đầu tiên phải làm là giúp khách hàng có được một bộ hồ sơ
đầy đủ, chặt chẽ và tuân theo những quy định của pháp luật.


Để quyết định cho vay hay từ chối khoản vay, cán bộ tín dụng phải điều tra thu
thập, tổng hợp và xử lý các nguồn thông tin về khách hàng bao gồm: thông tin do
khách hàng cung cấp, thông tin thu thập được từ các bạn hàng của khách hàng, từ
những khách hàng của mình, từ các cơ quan thông tin đại chúng, thông tin từ thị
trường tiêu thụ sản phẩm mà khách hàng cung cấp, từ các trung tâm chuyên trong
lĩnh vực cung cấp thông tin Một tập hợp thông tin đầy đủ chính xác là điều kiện cần
để đánh giá dự án xin vay bởi đó là cơ sở cho nhận định, phân tích và đưa ra kết luận
về tính khả thi của dự án.
Quá trình thẩm định dự án là lúc nhân viên ngân hàng phải vận dụng mọi kiến thức
và kinh nghiệm, sử dụng các phương pháp phân tích định lượng kết hợp phân tích
định tính trên cơ sở những thông tin có được. Những nội dung trong phân tích định
lượng có thể bao gồm: đánh giá các luồng tiền; sử dụng các chỉ số NPV, IRR; thời
gian hoàn vốn , trong đó việc đánh giá luồng tiền là vô cùng quan trọng vì nó là yếu
tố trực tiếp quyết định việc khi nào khách hàng có khả năng trả nợ cho ngân hàng, từ
đó làm cơ sở để hai bên thống nhất về thời điểm trả nợ, thời hạn vay vốn, số tiền thu
nợ cho từng giai đoạn… Quy trình thẩm định dự án chính xác cũng sẽ làm cho việc
thẩm định dự án suôn sẻ. Việc này đòi hỏi cán bộ tín dụng không những phải có
chuyên môn nghiệp vụ mà phải có trình độ trong lĩnh vực mà khách hàng đang hoạt
động. Khi quyết định cho vay được đưa ra hai bên sẽ phải hoàn thiện hồ sơ cho vay
và các điều khoản cần thiết sẽ được xác lập như: giá trị tiền vay, thời hạn vay, hình
thức hoàn trả, lãi suất và các vấn đề về tài sản bảo đảm (nếu có).
Khách hàng khi đến với ngân hàng đều mong muốn vay được vốn và ngân hàng
cũng mong muốn mở rộng tín dụng cả về số lượng lẫn chất lượng. Cả hai phía đều có
những điều kiện và yêu cầu, hợp đồng tín dụng sẽ được thảo ra trên cơ sở sự hài hoà
những điều kiện và yêu cầu đó. Để có được một khoản vay có chất lượng khi đặt bút
ký hợp đồng, ngân hàng phải chắc chắn rằng đã không bỏ qua một yếu tố đáng ngờ
nào và các điều khoản trong hợp đồng đã được cân nhắc kỹ lưỡng, mang lại lợi ích
cho cả hai phía. Việc thẩm định dự án sẽ xem xét việc khách hàng thu lại số vốn đầu
tư như thế nào và đó chính là cơ sở để ngân hàng có thể thu hồi vốn cho vay. Chất

lượng công tác thẩm định dự án tốt sẽ là sự đảm bảo đến 50% cho khả năng thu hồi
vốn của ngân hàng. Để khoản vay có thể được hoàn trả đúng thời hạn thì sau đó còn

một loạt vấn đề cần được xem xét tới như tài sản bảo đảm, quá trình sử dụng tiền vay
của khách hàng, đạo đức của người đi vay
Nói tóm lại, ngoài những yếu tố khác đã được kể đến, thẩm định dự án đầu tư là yếu
tố cần thiết quyết định mọi khoản cho vay của ngân hàng.
1.2.3.2.2. Bảo đảm bằng uy tín của người bảo lãnh.
Vấn đề bảo đảm bằng uy tín của người bảo lãnh và bằng tài sản của người bảo lãnh
đều thuộc về bảo lãnh của người thứ ba và đã được đề cập đến trong phần trên. Chỉ
có điều ở đây người bảo lãnh cũng chỉ dùng uy tín của mình để bảo đảm, do đó cơ sở
pháp lý cho việc ngân hàng thu tiền nếu khách hàng không trả nợ là không có. Trên
thực tế thì người có thể bảo lãnh bằng uy tín là những người mà mọi ngân hàng đều
có thể chấp nhận, ví dụ Chính phủ, các Bộ Đòi hỏi ở đây là người bảo lãnh cũng
phải có quan hệ tín chấp với khách hàng.
Một điều có thể nhận thấy là bảo lãnh mang lại rất nhiều thuận lợi. Nó giúp cho
những người tạm thời chưa thể tự mình đáp ứng được những điều kiện mà ngân hàng
đưa ra sẽ có thể vay được vốn đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh, ngân hàng cũng
giải quyết được một dự án khả thi mà chưa dám cho vay.
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến bảo đảm tiền vay.
Cũng như các vấn đề khác, bảo đảm tiền vay chịu ảnh hưởng bởi cả nhân tố chủ
quan và nhân tố khách quan
1.2.4.1. Nhân tố chủ quan.
Theo như khái niệm về bảo đảm tiền vay đã được xác định ở trên, bảo đảm tiền vay
chính là tất cả các biện pháp thực hiện để vốn cho vay ra phải quay về với ngân hàng
sau một thời gian xác định với đầy đủ cả gốc và lãi. Như vậy quyền chủ động trong
việc áp dụng bảo đảm tiền vay là thuộc về ngân hàng. Do đó nhân tố khách quan ảnh
hưởng đến bảo đảm tiền vay trước hết thuộc về ngân hàng mà trong đó quan trọng
nhất chính là khả năng thẩm định của ngân hàng.
Thẩm định ở đây bao gồm cả việc thẩm định dự án đầu tư, đánh giá năng lực tài

chính khách hàng, đánh giá tài sản bảo đảm cũng như khả năng bảo đảm của chúng
Tất cả những việc làm trên sẽ đánh giá năng lực của khách hàng trong việc trả nợ cho
khoản tiền đã vay. Với xu thế như hiện nay thì ngày càng có nhiều số tiền xin vay để
sử dụng vào mục đích kinh doanh, đi kèm với nó bao giờ cũng là những dự án do

khách hàng lập ra, do đó ngân hàng càng phải đặt vấn đề này lên vị trí cao để đáp ứng
với những điều kiện đó.
Nếu ngân hàng là người có khả năng trong việc đánh giá khách hàng thì dù khách
hàng có ý định dở thủ đoạn nào để qua mắt ngân hàng cũng không thể làm được.
Bên cạnh đó, nhân tố chủ quan cũng hết sức quan trọng tác động đến bảo đảm tiền
vay chính là từ phía khách hàng vay vốn. Đây chính là năng lực của khách hàng
trong việc tạo được bảo đảm cho chính khoản vay của mình như: tài sản bảo đảm, uy
tín trong quan hệ vay vốn với ngân hàng, khả năng tài chính trong quá khứ và hiện
tại, bảo lãnh của người thứ ba, khả năng thực hiện cho được những mục tiêu đã đề ra
trong luận chứng kinh tế- kỹ thuật của dự án.
1. 2.4. 2. Các nhân tố khách quan.
Kể cả trong trường hợp năng lực của ngân hàng trong việc thẩm định có tốt đến đâu
mà xảy ra các yếu tố bất ngờ như thiên tai, hoả hoạn hay các biến động của môi
trường pháp lý, chính trị, kinh tế, môi trường xã hội thì vẫn có nguy cơ xảy ra tình
trạng khách hàng không trả được nợ và như vậy thì bảo đảm tiền vay vẫn không được
thực hiện một cách đầy đủ. Các nhân tố khách quan này khi xảy ra sẽ tác động đến
khả năng thực hiện dự án, đến tài sản bảo đảm hay đến khả năng bảo lãnh của người
thứ ba. Điều này khẳng định một điều rằng bảo đảm tiền vay trong cho vay của ngân
hàng là để giảm thiểu rủi ro nhưng hoạt động đầu tư tín dụng vẫn tiềm ẩn những rủi
ro mà ngân hàng không thể dự tính hết được.
















CHƯƠNG 2: THựC TRạNG VấN Đề BảO ĐảM
TIềN VAY TạI CHI NHáNH NGÂN HàNG
CÔNG THƯƠNG THANH XUÂN.
2.1. KHáI QUáT HOạT ĐộNG CủA CHI NHáNH.
2.1.1. Tổng quan về chi nhánh.
2.1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của chi nhánh.
Việc hình thành các Ngân hàng hay các chi nhánh Ngân hàng tại các khu trung tâm,
các vùng kinh tế nhằm huy động tối đa mọi nguồn vốn trong dân, đồng thời bám sát
nhu cầu, cung cấp mọi hoạt động dịch vụ về tài chính nhằm kinh doanh có hiệu quả,
tạo lợi nhuận ngày càng cao, thúc đẩy nền kinh tế phát triển là điều kiện tiên quyết
cho sự tăng trưởng trong hoạt động của hệ thống NH nói chung, NHCT Việt Nam nói
riêng.
Chính vì lẽ đó, tháng 4-1997, chi nhánh NHCT Thanh Xuân được thành lập trên cơ
sở nâng cấp phòng giao dịch Thượng Đình thuộc chi nhánh NHCT Đống Đa. Sau 2
năm hoạt động, với sự nỗ lực không ngừng của tập thể cán bộ công nhân viên của chi
nhánh, chi nhánh đã hội đủ các điều kiện cần thiết để đến ngày 20-2-1999 được tách
ra và chính thức trở thành đơn vị thành viên trực thuộc NHCTVN theo quyết định
13/QĐ-HĐQT/NHCT1 của chủ tịch HĐQT NHCT Việt Nam. Đây chính là sự ghi
nhận và đánh giá cao nhất cho sự nỗ lực của CBCNV và tập thể lãnh đạo NHCT
Thanh Xuân.

Tên đầy đủ: Chi nhánh ngân hàng công thương Thanh Xuân.
Tên viết tắt: Chi nhánh NHCT Thanh Xuân.
Tên giao dịch quốc tế bằng tiếng Anh: Vietnam Industrial and Commercial
Bank, Thanhxuan Branch.
Trụ sở đặt tại: Số 275 đường Nguyễn Trãi, quận Thanh Xuân, Thành phố Hà
Nội.
Chi nhánh Ngân hàng công thương Thanh Xuân là đại diện pháp nhân của NHCT
Việt Nam, có con dấu, có bảng tổng kết tài sản, hạch toán phụ thuộc trong hệ thống
NHCT Việt Nam.

Chi nhánh NHCT Thanh Xuân có chức năng nhiệm vụ thực hiện hoạt động ngân
hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan theo Luật các tổ chức tín dụng,
theo điều lệ tổ chức và hoạt động của NHCT Việt Nam, theo quy chế tổ chức hoạt
động của chi nhánh và theo uỷ quyền của Tổng giám đốc NHCTVN.
2.1.1.2. Cơ cấu tổ chức của chi nhánh NHCT Thanh Xuân.
Để tạo điều kiện phù hợp với hoạt động kinh doanh của mình, chi nhánh NHCT
Thanh Xuân đã sắp xếp và tổ chức bộ máy như sau:
Giám đốc: ông Nguyễn Long Hải.
Phó giám đốc: bà Đoàn Thị Hồng và bà Hoàng Thị Đàn.
7 phòng nghiệp vụ:
- Phòng Tổ chức hành chính (1)
- Phòng kinh doanh. (2)
- Phòng kinh doanh đối ngoại (3)
- Phòng kế toán tài chính (4)
- Phòng tiền tệ kho quỹ (5)
- Phòng quản lý tiền gửi dân cư (6)
- Phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ (7)
Ngân hàng từ chỗ gồm có 146 cán bộ công nhân viên năm 1999 đã tăng lên thành
169 cán bộ công nhân viên vào năm 2003 hoạt động ở tất cả các phòng ban. Trong đó
có 2 thạc sỹ, 86 đại học, còn lại là cao đẳng và trung học.








Sơ đồ tổ chức bộ máy của NHCT Thanh Xuân được thể hiện như sau:





Giám đốc




















Chức năng nhiệm vụ cụ thể của từng phòng ban:
- Phòng tổ chức hành chính:
Phòng tổ chức hành chính có chức năng tổ chức cán bộ, từ việc sắp xếp bố trí đến
việc quản lý hồ sơ của cán bộ công nhân viên, tổ chức công tác đào tạo, tiền lương, tổ
chức thực hiện công tác hành chính quản trị, thi đua khen thưởng Nói tóm lại, đây là
phòng có chức năng đảm bảo hoạt động của ngân hàng và đảm bảo chính sách cho
người lao động.
* Công tác tổ chức đào tạo và tiền lương:
Phòng bố trí cân đối lực lượng lao động, tham mưu đề xuất với ban lãnh đạo có kế
hoạch bổ sung nhân lực để đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh của chi nhánh; mở
các lớp đào tạo huấn luyện về nghiệp vụ: tín dụng, kế toán tài chính, thanh toán quốc
tế
* Công tác hành chính quản trị:
Phó giám đốc Phó giám đốc
P. kho
quỹ
P. qltgdc

Công tác

Tccb
p. Tchc
Công tác hc

P.tchc
PHòNG K.TRA
K.SOáT

NộI Bộ
p.kinh
doanh
p. kinh
doanh đối
ngoại
p. kt-tc
phòng

chỉ đạo
chung

Thực hiện chức năng hậu cần, phối hợp chặt chẽ với phòng kế toán để mua sắm trang
thiết bị, tăng cường cơ sở vật chất cho nhu cầu hoạt động của ngân hàng; đặt quan hệ
tốt với chính quyền địa phương. Bộ phận văn thư thực hiện chế độ văn thư bảo mật,
phục vụ các hội nghị và công tác quyết toán cuối năm.
- Phòng kinh doanh:
Đây là “phòng mũi nhọn” trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, 95% lợi
nhuận của ngân hàng là từ lãi trong hoạt động của phòng. Chức năng của phòng là
cho vay cá nhân và các tổ chức kinh tế theo đúng quy định của pháp luật. Phòng cho
vay và thu nợ, cho vay các dự án, làm dịch vụ bảo lãnh
- Phòng kinh doanh đối ngoại:
Thực hiện các dịch vụ thanh toán quốc tế và kinh doanh mua bán ngoại tệ. Cùng
với sự lớn mạnh của chi nhánh, hoạt động kinh doanh đối ngoại của NHCT Thanh
Xuân ngày càng phát triển, đáp ứng đầy đủ và phong phú các loại hình kinh doanh,
dịch vụ kinh tế đối ngoại: mở và thanh toán L/C xuất nhập khẩu, chiết khấu hối
phiếu, cho vay ứng trước bộ chứng từ ; tổ chức tốt việc mua bán ngoại tệ không
những đáp ứng đủ nhu cầu ngoại tệ của các đơn vị giao dịch mà còn hỗ trợ cho các
chi nhánh khác.
- Phòng kế toán tài chính:

Thực hiện các nghiệp vụ về kế toán, thanh toán thông qua quản lý tài khoản tiền
gửi, tiền vay của các tổ chức kinh tế. Thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt trong
hệ thống ngân hàng công thương và các ngân hàng khác trên địa bàn Hà Nội và phạm
vi cả nước. Thực hiện cơ chế tài chính của ngành theo các văn bản chế độ hiện hành.
- Phòng tiền tệ kho quỹ:
Phòng có nhiệm vụ quản lý tiền tệ; thực hiện nghiệp vụ thu chi tiền mặt, ngân phiếu
thanh toán, chứng từ có giá và ngoại tệ. Đáp ứng đầy đủ, kịp thời mọi nhu cầu của
khách hàng thanh toán qua ngân hàng, chấp hành chế độ quản lý kho quỹ, đảm bảo
tuyệt đối an toàn kho quỹ.
- Phòng quản lý tiền gửi dân cư:
Huy động vốn trong nền kinh tế, bao gồm huy động tiền gửi tiết kiệm của các tầng
lớp dân cư và các tổ chức kinh tế xã hội. Hoạt động tạo nguồn của phòng là tiền đề,
là cơ sở để ngân hàng thực hiện hoạt động cho vay và đầu tư.
- Phòng kiểm tra, kiểm soát nội bộ:

Căn cứ vào các văn bản hướng dẫn của Nhà nước, của ngành để thực hiện công tác
kiểm tra kiểm soát nội bộ và công tác pháp chế; kiểm tra giám sát tất cả các hoạt
động nghiệp vụ trong nội bộ ngân hàng để phát hiện sai sót, chỉnh sửa đảm bảo đúng
pháp luật, văn bản hướng dẫn, đảm bảo an toàn kinh doanh.
2.1.1.3. Nội dung hoạt động của chi nhánh.
Chi nhánh tiến hành hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng
được quy định trong điều lệ về tổ chức và hoạt động của NHCT Việt Nam, cụ thể
như sau:
- Huy động vốn:
Huy động vốn ngắn, trung và dài hạn bằng VNĐ và bằng ngoại tệ từ mọi nguồn
trong cả nước dưới các hình thức:
+ Nhận tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán của các tổ
chức và dân cư.
+ Thực hiện các hình thức huy động vốn khác.
- Cho vay:

Cho vay ngắn, trung và dài hạn bằng VNĐ và ngoại tệ theo quy định của pháp luật,
theo quy định của NHCTVN và khả năng cân đối vốn của ngân hàng.
- Thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng.
- Thực hiện các nghiệp vụ thanh toán trong nước và thanh toán quốc tế.
- Thực hiện dịch vụ đại lý, uỷ thác, quản lý nguồn vốn đầu tư cho các dự án theo yêu
cầu của khách hàng.
- Thực hiện các nghiệp vụ mua bán, chuyển đổi ngoại tệ và các dịch vụ ngân hàng
đối ngoại khác theo quy định của TGĐ NHCTVN.
- Làm các dịch vụ cất giữ, bảo quản và quản lý các giấy tờ có giá và các tài sản quý
khác của khách hàng.
Ngoài ra chi nhánh còn thực hiện các hoạt động sau khi có sự chấp thuận của TGĐ
NHCTVN, cụ thể:
+ Phát hành các chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu trong nước và quốc tế.
+ Đầu mối đồng tài trợ các dự án đầu tư.
+ Thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh hoặc tái bảo lãnh cho các tổ chức, cá nhân ngoài
nước trừ trường hợp bảo lãnh đối ứng cho các doanh nghiệp nước ngoài tham gia dự
thầu.

+ Đầu tư dưới các hình thức đầu tư khác ra ngoài NHCT.
+ Thực hiện các hoạt động khác thuộc thẩm quyền.
2.1.2. Thực trạng hoạt động kinh doanh của chi nhánh ngân hàng công thương
Thanh xuân.
 Đánh giá chung về hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHCT Thanh Xuân.
Năm 2002 kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh như sau:
Tổng thu trên 60 tỷ đồng;
Tổng chi trên 50 tỷ đồng;
Tổng lợi nhuận trên 10 tỷ đồng.
Tình hình dư nợ và cho vay tính đến 31/12/2002 như sau:
Tổng cho vay là 1030 tỷ đồng ;trong đó ngoại tệ quy đổi là 76 tỷ đồng; VNĐ là 874
tỷ đồng; uỷ thác cho vay là 80 tỷ đồng.

Cho vay ngắn hạn là 693 tỷ đồng, cho vay trung và dài hạn là 257 tỷ đồng.
Cho vay doanh nghiệp Nhà nước là 878 tỷ đồng, chiếm 93% tổng dư nợ.
 Thực trạng các mặt hoạt động.
2.1.2.1. Hoạt động huy động vốn.



Bảng 1: Tình hình huy động vốn qua các năm.
(đơn vị: triệu đồng)


(Nguồn: Báo cáo phòng nguồn vốn ngân hàng công thương Thanh Xuân)

Tổng nguồn vốn huy động (bao gồm cả VNĐ và ngoại tệ quy đổi VNĐ) năm 2002
đạt 1.116.940 triệu đồng, tăng 417.290 triệu đồng so với năm 2001, bằng 146,1%; so
với kế hoạch tăng 83.655 triệu đồng, bằng 111,15%.
Trong đó:
- Vốn huy động bằng VNĐ đạt 819.546 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 70.23% tổng
nguồn vốn huy động, tăng 332.535 triệu đồng so với năm 2001.
- Huy động vốn bằng ngoại tệ quy VNĐ đạt 347.927 triệu đồng, chiếm tỷ trọng
29,77% tổng nguồn vốn huy động, tăng 85.288 triệu đồng.
Về cơ cấu nguồn vốn huy động:
- Tiền gửi doanh nghiệp đạt 349.927 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 29,98% tổng nguồn
huy động, tăng 137.440 triệu đồng so với năm 2001.
- Tiền gửi dân cư đạt 817.009 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 70,02% tổng nguồn vốn
huy động, tăng 195.841 triệu đồng so với năm 2001.
- Huy động kỳ phiếu đạt 68.296 triệu đồng, tăng 48.967 triệu đồng, chiếm tỷ trọng
5,98% tổng nguồn vốn huy động.
- Năm 2002 NHCT Thanh Xuân đã tiến hành huy động trái phiếu đạt 44.530 triệu
đồng.

Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
Huy động vốn
-VNĐ
-Ngoại tệ
659.089
452.667
206422
749.650
487.011
262.639
1.166.940
819.546
347.394

Tiền gửi dân cư
-TGTK
-Tiền gửi kỳ phiếu
-Tiền gửi trái phiếu
454.997
454.997
0
0
621.168
601.840
19.328
0

817.009
704.183
68.296

44.530
Tiền gửi tổ chức kinh tế 204.092 128.482 349.931

×