Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

LUẬN VĂN: Giải pháp mở rộng cho vay đối với DNNVV tại Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Thành phố Vinh-Tỉnh Nghệ an pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (661.75 KB, 65 trang )




z
















LUẬN VĂN:

Giải pháp mở rộng cho vay đối với DNNVV
tại Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển
nông thôn Thành phố Vinh-Tỉnh Nghệ an
























Lời nói đầu
ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, dù là nước công nghiệp phát triển hay các
quốc gia đang phát triển, Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) có vị trí vai trò rất
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của mỗi nước. Bởi các doanh nghiệp này là
một trong những nguồn động lực mạnh mẽ tạo nên sự năng động, tăng trưởng liên tục
của nền kinh tế, góp phần cải thiện cán cân thanh toán, đóng góp rất lớn vào thu nhập
quốc nội (GDP) và đặc biệt tạo ra khối lượng việc làm cho người lao động trong mọi
nghành nghề.
Nước ta-là một quốc gia đang phát triển với hơn 80% dân số sống ở nông thôn,
diện tích đất đai bình quân đầu người quá thấp, lao động nhàn rỗi và dư thừa nhiều
thì việc xúc tiến phát triển mạnh các DNNVV là một điều rất quan trọng. Nhưng để
thúc đẩy phát triển DNNVV ở nước ta đòi hỏi giải quyết hàng loạt các khó khăn mà
những doanh nghiệp này đang gặp phải trong đó, thiếu vốn để sản xuất, để đổi mới

công nghệ là vấn đề rất bức xúc cần phải được giải quyết.
Trong giai đoạn hiện nay phần lớn các DNNVV phải huy động vốn qua kênh tín
dụng ngân hàng vì những đặc điểm của loại hình doanh nghiệp này chi phối. Tuy
nhiên, việc tiếp cận vốn tại các Ngân hàng Thương mại (NHTM) của các DNNVV
đang gặp rất nhiều khúc mắc bởi một phần do cơ chế cho vay một phần do quan niệm
của ngân hàng cho vay đối với loại doanh nghiệp này chứa đựng rủi ro cao hơn các
khách hàng khác. Thêm vào đó, nhà nước lại chưa có chính sách cụ thể để hỗ trợ
DNNVV vay vốn tại các NHTM. Và trên thực tế các DNNVV phải huy động vốn
không chính thức, không ổn định, lãi suất cao Để phát huy tốt vai trò là “bà đỡ”
trong nền kinh tế các NHTM hiện nay nên tìm ra giải pháp mềm dẻo để hỗ trợ và thu
hút đối tượng khách hàng này.

Nhằm góp phần hạn chế được điều này chính là lý do em chọn đề tài:
“ Giải pháp mở rộng cho vay đối với DNNVV tại Ngân hàng Nông nghiệp &
Phát triển nông thôn Thành phố Vinh-Tỉnh Nghệ an



Kết cấu của chuyên đề
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề bao gồm 3 chương
Chương I: Tín dụng ngân hàng đối với DNNVV.
Chương II: Thực trạng về hoạt động cho vay đối với các DNNVV tại
NHNo&PTNT Thành phố Vinh-Tỉnh Nghệ an.
Chương III: Giải pháp mở rộng cho vay đối với các DNNVV ở NHNo&PTNT
Thành phố Vinh.




Chương 1

tín dụng ngân hàng đối với DNNVV
1.1 Vị trí và vai trò của DNNVV trong nền kinh tế thị trường
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của DNNVV
1.1.1.1 Khái niệm và tiêu chí phân loại
Trong thực tế hiện nay, câu trả lời thế nào là một DNNVV là hết sức cần thiết.
Tuy nhiên, các tiêu chuẩn để xác định DNNVV có sự khác biệt khá lớn giữa các
nước tuỳ theo từng nghành nghề, từng thời kỳ, từng địa bàn….Nhưng có thể dựa vào
hai nhóm tiêu chí phổ biến dùng để phân loại DNNVV, đó là: Tiêu chí định tính và
Tiêu chí định lượng
Tiêu chí định tính, Tiêu chí này dựa trên những đặc trưng cơ bản của các
DNNVV như trình độ chuyên môn hoá thấp, số đầu mỗi quản lý ít…sử dụng các tiêu
chí này có ưu thế phản ánh đúng bản chất của vấn đề nhưng thường khó xác định trên
thực tế. Do đó, các tiêu chí này để tham khảo, kiểm chứng mà ít sử dụng để phân
loại.
Tiêu chí định lượng, Đó là tiêu thức như số lao động, giá trị tài sản, vốn, doanh
thu, lợi nhuận…



Bảng1 : Tiêu chí xác định DNNVV ở một số quốc gia
Tên nước Số lao động Tổng số vốn hoặc
giá trị tài sản
Doanh
thu
Canada < 500 người < 20
triệu
CAD
Hồng Kông < 100 trong công nghiệp
< 50 trong dịch vụ


Inđônêxia < 100 < 0,6 tỷ ru-pi < 2 tỷ
ru - pi
Nhật < 50 trong bán lẻ
< 100 trong bán buôn
< 300 trong ngành khác
< 10 triệu yên
< 30 triệu yên
< 100 triệu yên

Mêxicô < 250 < 7 triệu USD
Philippin < 200 < 100 triệu pê - sô
Xingapo < 100 < 499 triệu SD
Myanma < 100
Thái lan < 100 < 20 triệu Bạt
Mỹ < 500
Hàn quốc < 300 trong chế biến
< 200 trong xây dựng
< 20 trong dịch vụ

ở nước ta, tiêu chí phân loại DNNVV đã được quy định tạm thời tại công văn số
681/ CP - KTN ngày 20/6/1998 của Thủ tướng chính phủ. Theo quy định tại công
văn này, tiêu chí xác định DNNVV là vốn và số lao động. Cụ thể DNNVV là doanh
nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và số lao động trung bình hàng năm dưới 200



người. Nhưng theo quy định tại Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 Định
nghĩa DNNVV như sau:
DNNVV là cơ sỡ sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng kí kinh doanh theo
pháp luật hiện hành, có vốn đăng kí kinh doanh không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao

động trung bình hằng năm không quá 300 người.
Theo định nghĩa này các DNNVV chiếm khoảng 80% tổng số doanh nghiệp
Nhà nước (thành lập và hoạt động theo luật DNNN). Trong khu vực kinh tế tư nhân,
hiện có khoảng 50.000 doanh nghiệp gồm Công ty TNHH, Công ty cổ phần, doanh
nghiệp tư nhân (thành lập và hoạt động theo luật DN) và hơn 2 triệu hộ kinh doanh cá
thể ( không kể hộ sản xuất nông nghiệp ).



1.1.1.2 Đặc điểm DNNVV
+ Thứ nhất: DNNVV tồn tại và phát triển ở mọi ngành nghề, mọi thành phần
kinh tế. ở nước ta trong các loại hình sản xuất kinh doanh, DNNVV có sức lan toả
vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo số liệu mới đây cho thấy DNNVV chiếm
98% trong tổng số các doanh nghiệp với các hình thức: Doanh nghiệp Nhà nước,
Doanh nghiệp tập thể, Doanh nghiệp tư nhân, các Công ty cổ phần, Công ty TNHH,
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các cơ sở kinh tế cá thể.
Theo số liệu ước tính của Bộ kế hoạch và Đầu tư toàn bộ khu vực DNNVV
trong và ngoài quốc doanh chiếm khoảng 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp,
chiếm 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng lượng vận chuyển hàng hoá.
+ Thứ hai: DNNVV tính năng động và linh hoạt trước những thay đổi của thị
trường. Thật vậy, bởi quy mô của nó nhỏ, vốn tự có ít nên rễ dàng thay đổi loại hình
kinh doanh của mình trước sự biến động của thị trường. Mặt khác DNNVV tồn tại ở
mọi loại hình kinh tế nên chỉ cần không thấy thích ứng được với nhu cầu thị trường,
với tình hình kinh tế xã hội ở loại hình này thì nó sẽ chuyển hướng sản xuất để phù
hợp hơn với thị trường.
+ Thứ ba: DNNVV có bộ máy tổ chức sản xuất, quản lý gọn nhẹ, có hiệu quả.
Như trong khái niệm đã nói số lượng lao động trong DNNVV không quá 300 người.
Bởi số lượng lao động ít như vậy thì hầu như người nào cũng có việc và từ đó tinh
giảm được sự cồng kềnh của bộ máy trong các doanh nghiệp có quy mô lớn.
+ Thứ tư: DNNVV có vốn ban đầu ít, thu hồi vốn nhanh, hiệu quả cao. Bởi vì

số vốn đăng ký ban đầu không quá 10 tỷ đồng và chu kỳ sản xuất kinh doanh thường
là ngắn nên khả năng thu hồi vốn của DNNVV là rất nhanh.
Từ những đặc điểm trên ta thấy DNNVV có những lợi thế và bất lợi như sau:
 Các DNNVV có những lợi thế sau:
+ Chúng gắn liền với các công nghệ trung gian là cầu nối giữa công nghệ truyền
thống và công nghệ hiện đại.
+ Quy mô nhỏ có tính năng động, linh hoạt tự do sáng tạo trong kinh doanh.



+ Các DNNVV dễ dàng và nhanh chóng đổi mới công nghệ, thích ứng với cuộc
cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại
+ DNNVV chỉ cần vốn đầu tư ban đầu ít, hiệu quả cao thu hồi vốn nhanh.
+ DNNVV có tỷ suất vốn đầu tư trên lao động lớn hơn nhiều so với doanh
nghiệp lớn cho nên chúng có hiệu suất tạo việc làm cao hơn.
+ Hệ thống tổ chức sản xuất và quản lý ở các DNNVV gọn nhẹ linh hoạt, công
tác điều hành mang tính trực tiếp
+ Quan hệ giữa những người lao động và người quản lý ( quan hệ chủ - thợ )
trong các DNNVV khá chặt chẽ.
+ Sự đình trệ thua lỗ, phá sản của các DNNVV có ảnh hưởng rất ít hoặc không
gây nên khủng hoảng kinh tế - xã hội. Đồng thời ít chịu ảnh hưởng bởi các cuộc
khủng hoảng kinh tế dây chuyền.
 Bên cạnh những lợi thế quan trọng DNNVV có những bất lợi sau:
+ Nguồn vốn tài chính hạn chế
+ Cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ thiết bị công nghệ thường yếu kém, lạc hâu.
+ Khả năng tiếp cận thông tin và tiếp cận thị của các DNNVV bị hạn chế rất
nhiều.
+ Trình độ quản lý của các DNNVV còn bị hạn chế
+ Các DNNVV có năng suất lao động và sức cạnh tranh thấp hơn nhiều so với
doanh nghiệp lớn.

1.1.2 Vai trò và tác động kinh tế - xã hội của DNNVV
Xét về mặt lịch sử, sự ra đời và phát triển của các nước tư bản có nền đại công
nghiệp phát triển gắn với những công ty, tập đoàn kinh tế lớn nhưng ngày nay thì sự
khởi đầu của họ là những xí nghiệp, công trường thủ công sản xuất nhỏ. Trong quá
trình phát triển, sự tích tụ và tập trung vốn cùng với quá trình cạnh tranh gay gắt
giữa những xí nghiệp trong và ngoài nước đã tạo ra những tập đoàn kinh tế lớn như
ngày nay. Tuy vậy, ngay cả ở các nước tư bản phát triển, các DNNVV vẫn giữ một vị
trí quan trọng và ngày càng được khẳng định. Sau một thời kỳ suy thoái kinh tế thế



giới những năm đầu thập niên 30, người ta luận ra rằng khu vực DNNVV là nhân tố
cực kỳ quan trọng thúc đẩy và mở rộng cạnh tranh, đảm bảo ổn định kinh tế, phòng
chống nguy cơ khủng hoảng. Thật vậy, khu vực DNNVV là xương sống trong nền
kinh tế của nhiều quốc gia hiện tại và cả trong tương lai. Đặc biệt khi cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ ngày càng phát triển đã tạo điều kiện cho các DNNVV
nhiều cơ hội tập trung kỹ thuật, có khả năng sản xuất sản phẩm có chất lượng không
thua kém các doanh nghiệp lớn. Mặt khác xét trên phạm vi toàn cầu hiện nay về tính
chất cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đang chuyển từ cạnh tranh giá cả sang cạnh
tranh về chất lượng và công nghệ. Trong điều kiện cạnh tranh này, lợi thế của các
doanh nghiệp có quy mô lớn sẽ bị giảm sút. Sự phát triển của chuyên môn hoá và
hợp tác hoá đã không cho phép một doanh nghiệp tự khép kín chu trình sản xuất kinh
doanh một cách có hiệu quả. Mà với mô hình sản xuất kiểu vệ tinh, trong đó các
DNNVV là vệ tinh của doanh nghiệp lớn tỏ ra rất thích hợp.
Như vậy, một nền kinh tế hiện đại, DNNVV ngày càng không thể tan biến trong
các tập đoàn kinh tế lớn mà khả năng hợp tác mở rộng ngày càng tăng.
Đối với Việt Nam, DNNVV càng có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phát
triển kinh tế xã hội. Thể hiện cụ thể ở các mặt sau:
 DNNVV chiếm tỷ trọng cao về số lượng, thu hút nhiều lao động và đóng góp
phần lớn thu nhập quốc dân cho đất nước.

 Các DNNVV đóng vai trò quan trọng trong lưu thông hàng hoá và cung cấp dịch
vụ, có vai trò bổ sung cho các doanh nghiệp lớn, là xí nghiệp gia công vệ tinh cho các
doanh nghiệp lớn cùng hệ thống và là màng lưới tiêu thụ hàng hoá cho các doanh
nghiệp lớn.
 Các DNNVV đáp ứng tích cực, kịp thời nhu cầu tiêu dùng ngày càng phong phú
và đa dạng mà các doanh nghiệp lớn không thể làm được.
 Các DNNVV có vai trò tích cực đối với sự phát triển kinh tế địa phương, khai
thác tiềm năng thế mạnh của từng vùng sản xuất, chế biến hàng hoá xuất khẩu, tăng
kim ngạch xuất khẩu
Để thấy rõ vai trò của DNNVV trong nền kinh tế thị trường ta xem xét các mặt
sau:



 Đóng góp to lớn vào quá trình tăng trưởng của nền kinh tế.
Chúng đóng góp phần quan trọng vào sự gia tăng thu nhập quốc dân của các
nước tiên tiến trên thế giới, bình quân chiếm khoảng trên dưới 50% GDP ở mỗi nước.
ở Việt nam theo đánh giá của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương thì hiện
nay khu vực DNNVV cả nước chiếm khoảng 24% GDP.
 Tạo việc làm cho người lao động
Tác động kinh tế-xã hội lớn nhất của các DNNVV là giải quyết một số lượng
lớn chỗ làm việc cho dân cư, làm tăng thu nhập cho người lao động, góp phần xoá
đói giảm nghèo. Xét theo luận điểm tạo công ăn việc làm và thu nhập cho nguời lao
động thì khu vực này vượt trội hơn hẳn các khu vực khác, góp phần giải quyết những
vấn đề xã hội bức xúc. ở hầu hết các nước DNNVV tạo việc làm cho khoảng 50 -
80% lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ. Đặc biệt trong nhiều thời kỳ
các doanh nghiệp lớn sa thải công nhân thì DNNVV lại thu hút thêm nhiều lao động
hoặc có tốc độ thu hút lao động mới cao hơn khu vực doanh nghiệp lớn. ở Việt nam
cũng theo đánh giá của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương thì số lao động
của các DNNVV trong các lĩnh vực phi nông nghiệp hiện có khoảng 7,8 triệu người

chiếm tới khoảng 79,2 % tổng số lao động phi nông nghiệp và chiếm khoảng 22,5 %
lực lượng lao động cả nước.
 Góp phần làm năng động nền kinh tế trong cơ chế thị trường.
Do lợi thế của quy mô nhỏ là yêu cầu vốn ít, năng động linh hoạt sáng tạo
trong kinh doanh, cùng với hình thức tổ chức kinh doanh có sự kết hợp chuyên môn
hoá và đa dạng hoá mềm dẻo, hoà nhịp với đòi hỏi uyển chuyển của nền kinh tế thị
trường cho nên các DNNVV có vai trò to lớn góp phần vào sự tăng trưởng của nền
kinh tế trong cơ chế thị trường.
 Thu hút một lượng vốn đáng kể của dân cư
Do tính chất nhỏ lẻ, dễ phân tán dễ đi sâu vào các ngỏ ngách, bản làng và yêu
cầu số lượng vốn ban đầu không nhiều cho nên các DNNVV có vai trò tác dụng rất
lớn trong việc thu hút các nguồn vốn nhỏ lẻ, nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư đầu
tư vào sản xuất kinh doanh. Chúng tạo lập dần tập quán đầu tư vào sản xuất kinh
doanh và hình thành khu vực “ mồi ” cho việc thực hiện có kết quả vấn đề huy động



vốn của dân cư theo luật khuyến khích đầu tư trong nước. Tuy lượng vốn thu hút vào
một doanh nghiệp không lớn, nhưng nhờ số lượng DNNVV vốn thu hút vào sản xuất
kinh doanh ngày càng tăng, hạn chế tiêu dùng không sinh lời.
 Góp phần trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá
hiện đại hoá
Sự phát triển của các DNNVV ở nông thôn đã thúc đẩy nhanh quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, làm cho công nghiệp phát triển mạnh đồng thời thúc đẩy các
ngành thương mại dịch vụ phát triển. Sự phát triển các DNNVV ở thành phố cũng
góp phần làm tăng tỷ trọng khu công nghiệp, dịch vụ và làm thu hẹp dần tỷ trọng khu
vực nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Các DNNVV thông qua các hợp
đồng làm đại lý vệ tinh giúp sản xuất và tiêu thụ hàng hoá, cung cấp nguyên liệu,
thâm nhập vào mọi ngõ ngách của thị trường mà các doanh nghiệp lớn không làm
được. Phát triển DNNVV làm cho việc phân bố doanh nghiệp hợp lý hơn về mặt lãnh

thổ cả nông thôn, thành thị, miền núi và đồng bằng giãn sức ép dân số của các thành
phố. Các DNNVV còn đóng vai trò quan trọng trong việc làm thay đổi và đa dạng
hoá cơ cấu công nghiệp tập trung thực hiện phương châm “ Ly nông bất ly hương ”.
Đảng ta chủ trương thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá mà trọng tâm là
công nghiệp hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn. DNNVV mạng lưới rộng khắp đã
có truyền thống gắn bó với nông nghiệp và kinh tế - xã hội nông thôn sẽ là động lực
thúc dẩy sản xuất nông nghiệp, sẽ hình thành những tụ điểm, cụm công nghiệp để tác
động chuyên môn hoá nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Hệ
thống công nghiệp chế biến và sản xuất đồ gia dụng sẽ phát triển. Các làng nghề sẽ
được hiện đại hoá.
 Các DNNVV là nơi ươm mầm các tài năng kinh doanh là nơi đào tạo rèn
luyện các nhà doanh nghiệp.
Kinh doanh quy mô nhỏ, làm quen với môi trường kinh doanh. Bắt đầu từ kinh
doanh quy mô nhỏ và thông qua điều hành quản lý kinh doanh quy mô vừa và nhỏ
một số doanh nghiệp sẽ trưởng thành lên hình thành những nhà doanh nghiệp lớn tài
ba, biết đưa doanh nghiệp của mình nhanh chóng phát triển. Các tài năng kinh doanh
sẽ được ươm mầm từ trong các DNNVV.



Như vậy không còn nghi ngờ gì nữa tiềm năng và lợi thế của DNNVV là vô tận.
Khi chúng ta đã thấy rõ vị trí chiến lược của nó cần có chính sách hỗ trợ mang tính
thực tế từ quan điểm chiến lược, chính sách đến bộ máy vận hành, kinh nghiệm thế
giới và khu vực với những bài học quí mà chúng ta có thể chọn lựa.
1.2 Tín dụng Ngân hàng đối với DNNVV
1.2.1 Tầm quan trọng của vốn vay ngân hàng đối với DNNVV
Phần lớn các DNNVV khi hoạt động kinh doanh đều thiếu vốn và phải dựa vào
ngân hàng. Vai trò của vốn ngân hàng đối với DNNVV được thể hiện trên các mặt
sau:
 Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế hỗ trợ sự ra đời và phát triển các

DNNVV.
 Tín dụng ngân hàng tác động vào xu hướng chuyển dịch cơ cấu sản xuất kinh
doanh của các DNNVV theo chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
và chiến lược CNH-HĐH nền kinh tế quốc dân.
 Góp hần nâng cao hiệu quả kinh tế sử dụng vốn của DNNVV.
 Góp phần tạo thị trường đầu ra, đầu vào cho các DNNVV.
1.2.2 Các hình thức tín dụng Ngân hàng chủ yếu
Trong nền kinh tế thị trường, các hoạt động kinh tế rất đa dạng, phong phú. Để
đáp ứng được sự đa dạng và phong phú của hoạt động kinh tế này thì đòi hỏi tín dụng
Ngân hàng phải có những hình thức cũng phong phú, đa dạng để phù hợp với từng
hoạt động kinh tế đó ngày càng thúc đẩy các hoạt động kinh tế, trở thành một động
lực thúc đẩy quan trọng của từng doanh nghiệp trong nền kinh tế. Có thể xem xét các
hình thức tín dụng chủ yếu sau:
1.2.2.1. Cho vay từng lần
Khi khách hàng có nhu cầu vay vốn không thường xuyên thì ngân hàng sử dụng
phương thức cho vay từng lần. Mỗi lần có nhu cầu vay vốn, doanh nghiệp lập hồ sơ
vay vốn theo quy định của ngân hàng. Sau khi ngân hàng thẩm định, nếu chấp thuận
cho vay thì ngân hàng cùng doanh nghiệp kí hợp đồng tín dụng. Việc thẩm định xét
duyệt cho vay, quản lý giám sát tình hình sử dụng vốn vay và thu hồi nợ được thực



hiện theo từng hợp đồng tín dụng. Trong thời hạn hiệu lực rút vốn của hợp đồng tín
dụng, doanh nghiệp có thể rút vốn một lần hoặc nhiều lần phù hợp với nhu cầu của
doanh nghiệp nhưng tổng số tiền rút vốn không được vượt quá số tiền ghi trong hợp
đồng tín dụng.
Hình thức cho vay chủ yếu áp dụng cho các DNNVV song mỗi lần vay vốn
doanh nghiệp lại phải làm lại các thủ tục xin vay nên rất tốn thời gian.
1.2.2.2 Cho vay theo hạn mức:
hình thức này áp dụng cho những doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn thường

xuyên, mục đích sử dụng vốn rõ ràng và có tín nhiệm. Ngân hàng căn cứ vào nhu cầu
vay vốn theo hạn mức của doanh nghiệp, trị giá tài sản càm cố, thế chấp cùng doanh
nghiệp xác định hạn mức tín dụng.sau khi kí hợp đồng tín dụng - đã có hiệu lực mỗi
lần rút tiền vay doanh nghiệp không phải kí hợp đồng tín dụng mà lập giấy nhận nợ
cùng bảng kê và bản sao các chứng từ chứng minh việc sử dụng vốn vay. Trong thời
hạn rút vốn của hợp đồng tín dụng, doanh nghiệp có thể vừa rút vốn vay vừa trả nợ
tiền vay nhưng số dư nợ tiền vay trên tài khoản không được vượt hạn mức tín dụng.
Để đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh được ổn định, trước khi hết thời hạn rút
vốn theo hợp đồng tín dụng doanh nghiệp có thể căn cứ vào kế hoạch kinh doanh kì
tới đưa ra mức vốn cần vay và cùng thoả thuận với ngân hàng để xác định hạn mức
tín dụng mới.
Hình thức cho vay này doanh nghiệp phải gửi các báo cáo tài chính theo định
kỳ để cán bộ tín dụng ngân hàng thực hện việc kiểm tra đảm bảo nợ vay bằng
phương pháp tính toán cân đối.
1.2.2.3 Cho vay theo dự án đầu tư:
Ngân hàng cho các doanh nghiệp vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát
triển sản xuất, cơ sở hạ tầng, kinh doanh, dự án và các dự án phục vụ đời sống. Hình
thức cho vay này, ngoài các điều kiện trên doanh nghiệp cần có thêm các điều kiện
sau:
- Gửi các tài liệu liên quan đến dự án đầu tư
- Gửi các tài liệu, báo cáo định kỳ hoặc đột xuất cho ngân hàng kiểm tra giám
sát việc sử dụng vốn vay.



1.2.2.4 Cho vay trả góp:
Là loại hình thức cho vay mà việc trả nợ được phân ra làm nhiều kỳ hạn trong
thời hạn cho vay, đến mỗi kỳ trả một phần nợ gốc và lãi. Loại tín dụng này rất phù
hợp với đặc điểm sử dụng vốn của người vay là thu hồi vốn dần, lại vừa hỗ trợ cho
tiêu dùng hàng hoá vì được sử dụng và trả tiền sau.

Cho vay trả góp bao gồm các loại cho vay ngắn, trung và dài hạn. Người vay và
ngân hàng thoả thuận mức cho vay, lãi suất cho vay và kỳ hạn trả như mức trả từng
lần cho vốn và lãi, kỳ hạn nợ cuối cùng.
Đối tượng cho vay bao gồm cả trong lĩnh vực sản xuất và lĩnh vực tiêu dùng.
Trong tín dụng tiêu dùng trả dần Ngân hàng có thể cho vay để mua sắm tài sản tiêu
dùng sinh hoạt, chi trả chi phí du lịch. Đây là loại tín dụng có thị trường rất lớn và
phong phú. Tuy nhiên phải có điều kiện đảm bảo để có thể thực hiện loại hình này.
1.2.2.5 Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng:
Ngân hàng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho doanh nghiệp vay vốn trong phạm vi
hạn mức tín dụng nhất định và trong một khoảng thời gian xác định để tạo điều kiện
cho doanh nghiệp thu xếp các nguồn vốn cần thiết thực hiện các dự án đầu tư phát
triển hoặc phương án sản xuất kinh doanh. áp dụng hình thức này doanh nghiệp phải
trả phí cam kết cho ngân hàng. Trong thời hạn hiệu lực rút vốn của hợp đồng, nếu
doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng vốn vay thì phải lập giấy nhậ nợ theo mẫu và kèm
theo bảng kê cùng bản sao các chứng từ, tài liệu chứng minh mục đích sử dụng vốn
vay phù hợp với hợp đồng đã ki. Tuy nhiên, tổng số tiền cộng lại không được vượt
quá hạn mức tín dụng dự phòng và thời hạn cho vay trong giấy nhận nợ không được
dài hơn thời gian cho vay quy định trong hợp đồng tín dụng dự phòng.
1.2.2.6 Cho vay hợp vốn:
Đây là hình thức nhiều ngân hàng hoặc các TCTD cùng cho một đối tượng
khách hàng vay vốn và do một ngân hàng hoặc một TCTD đứng ra dàn xếp. Hình
thức này áp dụng ở Việt nam tỏ ra khá hữu hiệu. Tuy nhiên, hình thức này thường áp
dụng cho vay đối với các doanh nghiệp lớn với dự án lớn mà một ngân hàng không
thể đáp ứng nổi.
1.2.2.7 Các hình thức cho vay khác:



ngoài các hình thức cho vay trên tuỳ theo sự thoả thuận giữa ngân hàng và
doanh nghiệp còn có các phương thức khác như cho vay phát hành, ử dụng thẻ tín

dụng, chiết khấu, cho vay theo hạn mức thấu chi…
Trong tất cả hình thức cho vay trên thì ngân hàng thường áp dụng cho vay từng
lần vì nó đơn giản và hạn chế được rủi ro.
1.2.3 Các rủi ro và một số biện pháp phòng ngừa rủi ro khi cho vay
DNNVV ở các Ngân hàng thương mại
1.2.3.1 Các rủi ro khi cho vay vốn đối với DNNVV
Như trên đã nói DNNVV là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ mà lại tồn tại ở
nhiều loại hình. Vậy nên việc cho vay các DNNVV chắc chắn sẽ gặp rủi ro nhiều hơn
so với doanh nghiệp lớn có vốn tự có nhiều. Có thể nhận thấy một số rủi ro như:
 Thứ nhất: Do đặc điểm của các DNNVV vốn ít trình độ công nghệ và năng lực
quản lý hạn chế nên các doanh nghiệp này gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh
doanh. Từ đó, ảnh hưởng lớn tới khả năng trả nợ, có thể ngân hàng không thu được
hoặc khó thu hồi nợ đúng hạn.
 Thứ hai: Hiện nay cơ chế tín dụng không ngăn cản việc cho vay DNNVV của
ngân hàng thương mại nhưng cũng chưa có chính sách thích hợp để khuyến khích sự
phát triển DNNVV. Mặt khác khả năng thẩm định của cán bộ tín dụng chưa quen với
việc thu thập và xử lý thông tin từ nguồn bổ sung của DNNVV. Nên nhiều khi quyết
định tín dụng cũng không chính xác dễ dẫn tới việc cho vay không có hiệu quả.
 Thứ ba: Bên cạnh đó cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ thiết bị công nghệ của
DNNVV thường yếu kém lạc hậu nên ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất kinh doanh,
đến năng lực của từng người lao động trong doanh nghiệp. Từ đó giảm năng suất của
doanh nghiệp và có thể chậm thời gian trả nợ cho Ngân hàng mà như thế thì Ngân
hàng khó thu hồi nợ đúng hạn. Đó cũng là rủi ro cho Ngân hàng.
 Thứ tư: Ngoài ra do chưa thực sự quen với việc cho vay các DNNVV nên việc
thẩm định khách hàng, phân tích khách hàng kiểm tra điều kiện vay vốn nhiều khi
cán bộ tín dụng lại chưa chú trọng nhiều đến các yếu tố chi tiết có liên quan. Nên đôi
lúc việc kiểm tra đánh giá không chính xác dẫn đến quyết định tín dụng không đúng
đắn.




 Thứ năm: Đặc biệt là công tác giám sát sau khi cho vay chưa thực sự được chú
trọng. Do đó trong thực tế dẫn đến những trường hợp nợ xấu, phát sinh thu hồi chậm
hoặc không thu được, gây thiệt hại về vốn và tài sản của Ngân hàng.
 Thứ sáu: Hiện nay các DNNVV chưa thực hiện đúng các chế độ báo cáo kế
toán-tài chính. Do vậy, rất khó khăn trong việc thẩm định và xem xét cho vay.
Nhìn chung cho vay DNNVV là một nội dung quan trọng trong hoạt động tín
dụng Ngân hàng. Nhằm đa dạng hoá khách hàng, sản phẩm trong lĩnh vực tín dụng.
Nhưng hoạt động tín dụng với DNNVV thường gặp nhiều rủi ro hơn so với doanh
nghiệp lớn. Các DNNVV thường yếu kém về tài chính chưa đủ tin cậy, một số
DNNVV nợ quá hạn không có khả năng hoàn trả. Các DNNVV không đủ khả năng
lập dự án kinh doanh và vay vốn. Bởi vậy bản thân Ngân hàng thương mại ngại cho
các DNNVV vay vốn. Nhưng để thực hiện tốt chủ trương của Đảng là phát triển các
DNNVV đồng thời mở rộng khẳ năng cho vay thì các Ngân hàng thương mại cần
phải xây dựng kế hoạch và chính sách cho vay đối với các DNNVV.
1.2.3.2 Một số biện pháp để hạn chế rủi ro khi cho vay đối với các DNNVV
Để nâng cao hơn nữa chất lượng quy mô đầu tư, hiệu quả tín dụng và hạn chế
thấp nhất rủi ro tín dụng khi cho vay đối với các DNNVV các Ngân hàng thuơng mại
phải tăng cường giám sát khoản vay và phải đề ra biện pháp hữu hiệu xử lý món vay
có vấn đề.
Sau khi giải ngân cho khách hàng, cán bộ tín dụng phải thường xuyên theo dõi
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đánh giá tiến độ thực hiện của
phương án vay vốn. Việc này hết sức cần thiết bởi vì nó giúp cho cán bộ tín dụng
phát hiện sớm những vấn đề phát sinh, kịp thời đề ra biện pháp xử lý thích ứng với
tình hình. Tuy nhiên hiện nay ở nước ta các Ngân hàng hầu như không được cung
cấp đầy đủ và thường xuyên thông tin từ phía khách hàng nhất là thông tin về kế toán
tài chính.
Để khắc phục được tồn tại này, cán bộ tín dụng nên tận dụng triệt để những lần
gặp gỡ chủ doanh nghiệp. Khi họ đến Ngân hàng trả lãi, khi gặp trực tiếp cũng có thể
thu thập thông tin từ những người biết doanh nghiệp như hàng xóm, cán bộ chính

quyền địa phương, bạn hàng, quan hệ mua bán với doanh nghiệp khác trong đó đến



thăm trực tiếp nơi làm việc và sản xuất kinh doanh sau khi doanh nghiệp hoàn tất
việc đầu tư từ nguồn vốn vay tuy là công việc buồn tẻ và mất nhiều thời gian nhưng
nó giúp cho cán bộ tín dụng:
 Một là: Biết được tinh thần trách nhiệm của chủ doanh nghiệp đối với nợ vay
Ngân hàng qua việc họ có lảng tránh gặp gỡ, có nhiệt tình trao đổi với cán bộ tín
dụng những vấn đề liên quan món vay, có sao nhãng việc trả nợ hay không?
 Hai là: So sánh mức độ khác biệt giữa phương án xin vay với thực tế, chiều
hướng tốt hay xấu? Doanh số và quy mô hoạt động, doanh thu, lợi nhuận tăng hay
giảm? Hàng hoá có dễ tiêu thụ hay không? có phải hạ giá bán một cách không bình
thường không?
 Ba là: Đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp như mức độ lưu chuyển
tiền mặt có đáp ứng cho hoạt động sản xuất kinh doanh và trả nợ đến hạn không? Nợ
phải thu nhiều hay ít, dễ hay khó thu, có quá phụ thuộc vào một con nợ hay không?
 Bốn là: Đánh giá lại giá trị thực tế của tài sản đảm bảo nợ vay có đủ xử lý để thu
hồi nợ nếu trường hợp doanh nghiệp mất khả năng thanh toán không?
 Năm là: Do đặc điểm hoạt động của DNNVV là phần lớn chủ doanh nghiệp
không tách bạch rõ ràng giữa ngân sách dùng cho sản xuất kinh doanh với ngân sách
chi tiêu cho gia đình. Do đó, cán bộ tín dụng cần khéo léo tìm hiểu xem chủ doanh
nghiệp có biết cách điều hành sản xuất kinh doanh và quản lý chi tiêu gia đình hợp lý
nhằm hạn chế sự phụ thuộc lẫn nhau giữa hai loại ngân sách này, tránh tình trạng
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
Những thông tin trên đây phải được cán bộ tín dụng thường xuyên cập nhật
dưới dạng báo cáo hoặc biên bản làm việc kèm trong hồ sơ vay vốn. Nắm được tình
hình một cách chắc chắn với một ý thức trách nhiệm cao là chìa khoá tốt nhất giúp
cán bộ tín dụng quản lý chặt chẽ khoản vay từ đó hạn chế được rủi ro từ phía khách
hàng một cách cao nhất.

Tuy nhiên không phải lúc nào cho vay ra được là thu hồi nợ được đúng hạn. Mà
vẫn có những khoản vay quá hạn doanh nghiệp chưa trả được hoặc khó trả được do
mất khả năng thanh toán, do thua lỗ thì Ngân hàng phải nhanh chóng tìm biện pháp
thích hợp để có thể thu hồi được nợ. Việc xử lý món vay như thế phải trên nguyên tắc



là tận dụng lượng tiền mặt sẵn có, buộc doanh nghiệp bán sản phẩm hay cung cấp
dịch vụ ở mức giá hợp lý để tạo ra nhu cầu có khả năng thanh toán bằng tiền mặt và
nhất là vẫn tận dụng được tài sản có của doanh nghiệp, tìm cách chuyển hoá tài sản
đó thành tiền mặt tạo nguồn trả nợ cho Ngân hàng.
Nói chung, trong hoạt động tín dụng nhất là tín dụng DNNVV không tránh khỏi
rủi ro phát sinh nợ xấu. Do đó không thể phê phán cán bộ tín dụng về tất cả các quyết
định cho vay mà họ đã đưa ra. Mà bản thân cán bộ tín dụng phải kiểm tra thường
xuyên hoạt động của các doanh nghiệp để sớm nhận ra những dấu hiệu báo động dẫn
đến, đề ra biện pháp khắc phục kịp thời. Điều này đặc biệt phải được các Ngân hàng
thương mại quan tâm đến bởi vì DNNVV hiện nay là đối tượng khách hàng lớn của
Ngân hàng, quan tâm đến DNNVV không những tăng được doanh số cho vay mà còn
đa dạng hoá loại hình khách hàng và làm phong phú sản phẩm tín dụng của Ngân
hàng thương mại.
1.3 Sự cần thiết phải mở rộng tín dụng với DNNVV và một số nhân tố ảnh
hưởng đến việc mở rộng đó
1.3.1 Sự cần thiết phải mở rộng tín dụng với DNNVV ở Ngân hàng thương
mại
Nền kinh tế của một quốc gia là do tổng thể các doanh nghiệp lớn, nhỏ tạo
thành. Phần đông các doanh nghiệp lớn trưởng thành phát triển từ các DNNVV,
thông qua liên kết các DNNVV. Quy luật đi từ nhỏ tới lớn là con đường tất yếu về sự
phát triển bền vững mang tính phổ biến của đại đa số các doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường và trong đó quy mô DNNVV làm cho nền kinh tế của mỗi nước
khắc phục được tính đơn điệu, xơ cứng, tạo nên tính đa dạng, phong phú linh hoạt

vừa đáp ứng xu hướng phát triển đi lên lẫn những biến đổi nhanh chóng của thị
trường trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, đảm bảo
tính hiệu quả chung của toàn bộ nền kinh tế.
Để công nghiệp hoá hiện đại hoá không thể không có các doanh nghiệp quy mô
lớn, vốn nhiều, kỹ thuật hiện đại làm nòng cốt trong từng ngành nhằm tạo ra sức
mạnh để có thể cạnh tranh thắng lợi trên thị trường quốc tế. Ngoài việc xây dựng các
doanh nghiệp lớn thật cần thiết, chúng ta còn phải thực hiện biện pháp tăng khả năng



tích tụ và tập trung của DNNVV, tạo điều kiện nhanh chóng vươn lên trở thành
doanh nghiệp lớn. Sự kết hợp các loại quy mô doanh nghiệp trong từng ngành cũng
như trong toàn nền kinh tế. Trong đó nhấn mạnh đến phát triển DNNVV là phù hợp
với xu thế chung và thích hợp với xuất phát điểm về kinh tế xã hội ở nước ta hiện
nay.
Tuy nhiên, hiện nay vốn để đầu tư thành lập doanh nghiệp cũng như để mở
rộng, phát triển sản xuất đang là một trong những khó khăn căn bản của các DNNVV
ở Việt Nam. Thực sự, các DNNVV ở Việt Nam đang có nhu cầu bức xúc về vốn để
thành lập và phát triển doanh nghiệp, lo lắng là làm sao vay được vốn vừa sức chi trả,
tìm được người tư vấn giúp họ có thể tìm được chỗ vay vốn thích hợp và có thể làm
để trả được vốn cả gốc lẫn lãi. Theo đánh giá của Bộ kế hoạch và đầu tư, mặc dù số
lượng DNNVV chiếm tới 91 - 97% trong tổng số doanh nghiệp của cả nước, song
tổng vốn cho sản xuất kinh doanh mới chỉ bằng 30% so với tổng vốn của các doanh
nghiệp trong cả nước. Điều này phản ánh mức độ thu hút vốn vào sản xuất kinh
doanh của các DNNVV còn thấp và hầu hết các DNNVV đều gặp khó khăn thiếu
vốn để sản xuất và mở rộng sản xuất.
Theo kết quả của các tổ chức quốc tế tại Hội nghị cấp cao lần thứ II ( tại Hà nội
ngày 21/11/2000 ): tình trạng thiếu vốn chiếm 20% - 40% tổng số DNNVV. Chủ đầu
tư ít vốn, thiếu vốn, nhưng lại rất khó vay vốn để đầu tư và phát triển kinh doanh.
Theo những số liệu gần đây của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương thì đại

đa số các DNNVV ở Việt Nam có mức vốn rất thấp: 75% số doanh nghiệp có mức
vốn dưới 50 triệu đồng. Thực tế là các DNNVV ở Việt Nam không được tiếp cận
nhiều với những khoản vay ngắn hạn và hầu như không được vay dài hạn. Hiện nay
chỉ có khoảng 1/3 số doanh nghiệp nhỏ vay được vốn để bổ sung cho số vốn tự có ít
ỏi của mình. Trong số đó, chỉ có một số doanh nghiệp tiếp cận được nguồn tín dụng
chính thức qua các Ngân hàng ( chỉ có khoảng 20% doanh nghiệp vay tín dụng từ
ngân hàng ), còn đại đa số ( 80% ) thường dựa vào thị trường tài chính, chọn giải
pháp huy động vốn trong gia đình, họ hàng, bạn bè và sử dụng tín dụng thương mại
của đối tác kinh doanh ( mua chậm trả ). Rất nhiều chủ DNNVV cho rằng, tốc độ
tăng trưởng và khả năng cạnh tranh của họ bị hạn chế lớn do không có khả năng tiếp
cận được nguồn vốn tín dụng cũng như do chi phí vay vốn quá cao. Thiếu vốn, các



doanh nghiệp này không những bị ảnh hưởng tới quy mô, công nghệ sản xuất ngay từ
khi mới thành lập, mà khi đi vào hoạt động, khả năng bảo trì, thay thế máy móc, mua
nguyên vật liệu và dịch vụ, khả năng hiện đại hoá và mở rộng sản xuất cũng bị hạn
chế cực lớn.
Các doanh nghiệp mới thành lập rất khó vay vốn trong trường hợp họ mới thành
lập lần đầu, thiếu vốn và sẵn sàng vay vốn ngân hàng với bất cứ giá nào, ngân hàng
không giám mạnh dạn cho vay vì không biết năng lực của họ thế nào. Trong khi luật
chỉ cho phép Ngân hàng được cho vay tối đa 50% trị giá dự án, các doanh nghiệp lại
muốn vay vượt số này thì rất khó. Bởi thế tự lực phần lớn về vốn là hiện trạng của
phần nhiều doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ hiện nay. Việc vay vốn Ngân hàng là
rất hiếm: Chỉ có 4/95 công ty tài trợ cho kinh doanh thông qua một khoản vay trong 6
tháng đầu sau khi đăng ký thành lập doanh nghiệp
Như vậy, để phát triển được DNNVV thì các ngân hàng thương mại phải cung
cấp đủ vốn cho các doanh nghiệp, phải tạo điều kiện thuận lợi để các DNNVV đến
vay vốn ở các ngân hàng thương mại. Mặc dù cho vay các DNNVV dễ gặp rủi ro hơn
nhưng DNNVV là một trong những nhân tố bảo đảm sự ổn định và bền vững của nền

kinh tế, tăng trưởng kinh tế tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, khai thác và
tận dụng có hiệu quả tiềm năng của vốn, tay nghề và những nguồn vốn còn tiềm ẩn
trong dân cư, góp phần phân bố công bố công nghiệp trên các địa bàn khác nhau.
Như vậy, DNNVV góp phần to lớn đến phát triển kinh tế ở nước ta mà lại cần vốn
còn các Ngân hàng thương mại lại có vốn. Vậy thì việc mở rộng tín dụng đối với các
DNNVV ở các Ngân hàng thương mại vào thời điểm này là rất cần thiết và phù hợp
với quy luật chung.
1.3.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng cho vay đối với DNNVV ở
các Ngân hàng thương mại
Việc tìm ra các nhân tố ảnh hưởng tới việc mở rộng tín dụng đối với các
DNNVV là điều rất có ý nghĩa, để từ đó tìm ra các giải pháp nhằm tháo gỡ những
khó khăn để thực hiện mục tiêu chung của Ngân hàng thương mại là mở rộng quy mô
tín dụng an toàn và hiệu quả.



Có thể chia các nhân tố ảnh hưởng thành hai nhóm : Các nhân tố khách quan và
nhân tố chủ quan
1.3.2.1 Các nhân tố khách quan
 Nhân tố kinh tế:
Như chúng ta đã biết nền kinh tế là một hệ thống bao gồm nhiều hoạt động kinh
tế có quan hệ biện chứng, ràng buộc lẫn nhau bất kỳ một sự biến động của hoạt động
kinh tế nào đó cũng sẽ gây ảnh hưởng đến việc sản xuất kinh doanh của các lĩnh vực
còn lại. Hơn nữa hoạt động của Ngân hàng thương mại chịu sự ảnh hướng rất nhiều
của biến động kinh tế. Đặc biệt là hoạt động tín dụng Ngân hàng là hoạt động nhạy
cảm nhất, do vậy sự biến động của nền kinh tế sẽ tác động mạnh mẽ tới hoạt động tín
dụng Ngân hàng đối với doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng.
Thật vậy, khi nền kinh tế ở tình trạng hưng thịnh, tốc độ tăng trưởng cao và ổn
định, môi trường kinh doanh ít biến động thì nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp tăng
lên, nhiều khi môi trường đầu tư hấp dẫn các doanh nghiệp làm ăn tốt thường có nhu

cầu mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm kiếm thêm lợi nhuận. Do vậy hoạt
động tín dụng Ngân hàng có cơ hội phát triển và ngược lại tín dụng ngân hàng sẽ bị
thu hẹp, hoặc chí ít thì cũng không thể phát triển được. Thực tế đã có nhiều doanh
nghiệp Việt nam đang trong tình trạng khốn đốn vì môi trường kinh doanh không ổn
định, thậm chí nhiều doanh nghiệp đã bị phá sản và không trả được nợ ngân hàng và
cũng không được ngân hàng cho vay tiếp. Điều đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt
động tín dụng Ngân hàng.
 Nhân tố xã hội như:
Niềm tin tưởng lẫn nhau, tình hình trật tự an ninh và an toàn xã hội, trình độ
dân trí ảnh hưởng trực tiếp tới tác nhân chính tham gia vào quan hệ tín dụng Ngân
hàng đó là Ngân hàng và khách hàng. Thật vậy, nếu một nơi nào đó trật tự an ninh
không đảm bảo, an toàn xã hội kém sẽ gây ra tâm lý không yên tâm cho các chủ đầu
tư. Do đó, nhu cầu vay vốn cũng hạn chế, ảnh hưởng đến việc mở rộng tín dụng của
các Ngân hàng. Ngược lại, nơi nào có trật tự an ninh tốt, ít tệ nạn xã hội sẽ an toàn
cho hoạt động đầu tư. Điều đó sẽ khuyến khích các chủ đầu tư mở rộng quy mô hoạt



động của mình. Như vậy nhu cầu vay vốn tăng lên tín dụng Ngân hàng có cơ hội
phát triển.
 Nhân tố pháp lý:
Trong nền kinh tế thị trường, mọi thành phần kinh tế đều có quyền tự chủ về
hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng phải đảm bảo trong khuân khổ pháp luật. Hoạt
động tín dụng Ngân hàng cũng vậy, phải tuân theo mọi quy định của ngân hàng Nhà
nước, luật các tổ chức tín dụng, luật dân sự và các quy định khác. Nếu các quy định
không đồng bộ, không ổn định và có nhiều “ kẽ hở ” thì sẽ rất khó khăn cho Ngân
hàng trong các hoạt động nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Bởi vì Ngân
hàng không có một căn cứ pháp lý rõ ràng, đầy đủ, để hoạt động. Ngược lại những
văn bản pháp luật, những quy định đồng bộ sẽ là một hành lang pháp lý vững chắc,
góp phần vào sự cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng trong hạt động tín dụng.

Và đó là cơ sở pháp lý để Ngân hàng giải quyết các khiếu nại, tố cáo khi có tranh
chấp xảy ra trong hoạt động tín dụng. Điều đó giúp cho hoạt động tín dụng có thể mở
rộng một cách hiệu quả.
1.3.2.2 Các nhân tố chủ quan
Việc mở rộng tín dụng đối với các DNNVV không chỉ chịu tác động bởi các
nhân tố bên ngoài mà còn chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi các nhân tố bên trong như:
Chính sách và thể lệ tín dụng, thông tin tín dụng, tình hình huy động vốn, công tác tổ
chức của ngân hàng và chính bản thân các DNNVV.
 Thứ nhất về chính sách tín dụng :
Đó là các yếu tố giới hạn mức cho vay với khách hàng, kỳ hạn của khoản tín
dụng, lãi suất cho vay tất cả các yếu tố đó tác động trực tiếp tới việc mở rộng tín
dụng. Nếu như có một chính sách tín dụng linh hoạt đáp ứng được nhu cầu đa dạng
của khách hàng về vốn thì Ngân hàng đó sẽ thành công trong việc thực hiện mục tiêu
mở rộng tín dụng và đảm bảo được chất lượng tín dụng và ngược lại.
Trong cơ chế thị trường sự cạnh tranh gay gắt xảy ra giữa các Ngân hàng trong
việc thu hút khách hàng thì một chính sách tín dụng đúng đắn linh hoạt là hết sức
quan trọng.
 Thứ hai về quy trình tín dụng:



Sự tôn trọng và kết hợp nhịp nhàng các bước trong quy trình sẽ tạo điều kiện
cho ngân hàng phát hiện kịp thời các khuyết điểm, nắm được diễn biến các khoản tín
dụng để có biện pháp điều chỉnh, can thiệp kịp thời, sớm ngăn ngừa hạn chế rủi ro có
thể xảy ra. Nhưng không phải nhất nhất một cách cứng nhắc theo từng công đoạn đó.
Phải linh hoạt trong từng trường hợp để bảo vệ lợi ích cho cả Ngân hàng, khách hàng
và xã hội. Điều đó sẽ gây cảm tình với khách hàng và ngày càng thu hút được nhiều
khách hàng.
 Thứ ba về thông tin tín dụng:
Trong nền kinh tế thị trường, ai nắm bắt được nhiều thông tin chính xác, kịp

thời hơn, người đó sẽ chiến thắng trong cạnh tranh. Trong hoạt động tín dụng thì chất
lượng thông tin lại đóng góp một vai trò hết sức quan trọng. Bởi thông tin có chính
xác, có đầy đủ và kịp thời thì chất lượng tín dụng mới được đảm bảo. Đã có rất nhiều
khoản tín dụng gặp rủi ro vì chất lượng thông tin không tốt.
Do đó, việc nắm bắt thông tin tín dụng đầy đủ, chính xác không những đảm bảo
được chất luợng tín dụng mà còn có thể phát hiện ra nhu cầu vay vốn của khách
hàng.
Ngoài những nhân tố trên đây còn rất nhiều nhân tố khác như: Công tác tổ chức
bộ máy Ngân hàng, tình hình huy động vốn và chất lượng cơ sở vật chất thiết
bị đều ảnh hưởng đến mục tiêu mở rộng tín dụng với DNNVV tại các Ngân hàng.
Do vậy, để thực sự thực hiện được điều này thì Ngân hàng phải tìm ra những giải
pháp cho riêng mình đồng thời phải học hỏi từ các nước khác trong và ngoài khu vực.
Có như vậy công tác mở rộng tín dụng mới thực sự hiệu quả và có ý nghĩa.
1.4 Một số kinh nghiệm trong việc mở rộng tín dụng đối với DNNVV ở một
số nước
Khai thác và huy động hợp lý các nguồn vốn luôn là nhiệm vụ trung tâm, ưu
tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển doanh nghiệp nói chung, DNNVV nói riêng.
Việc mở rộng tín dụng của các Ngân hàng và việc huy động vốn của các DNNVV
tồn tại và phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau, phụ thuộc vào trình độ phát triển
của hệ thống tài chính Ngân hàng và chính sách kinh tế của mỗi nước. Mỗi nước



thường áp dụng các chính sách hỗ trợ huy động vốn khác nhau đối với doanh nghiệp
nhằm giúp doanh nghiệp tăng cường khả năng tiếp cận các nguồn vốn.
1.4.1 Kinh nghiệm ở một số nước trong vấn đề mở rộng tín dụng đối với
DNNVV :
Tại nhiều nước trong đó có Nhật Bản và các nước Châu á láng giềng khác đánh
giá cao vai trò của DNNVV trong quá trình phát triển kinh tế của họ. Xét theo quan
điểm thúc đẩy kinh tế thị trường thì tất cả những nước này đều khuyến khích phát

triển các DNNVV ngay từ giai đoạn đầu.
 ở nước Đức
Khu vực DNNVV đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế nó tạo ra gần
50 % GDP, chiếm hơn hẳn doanh thu chịu thuế của doanh nghiệp, cung cấp các loại
hàng hoá và dịch vụ đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng trong và ngoài
nước. Để đạt được điều đó Chính phủ Đức đã áp dụng hàng loạt chính sách và
chương trình thúc đẩy DNNVV.
Do phần lớn các DNNVV không đủ tài sản thế chấp để có thể nhận được khoản
tín dụng lớn bên cạnh các khoản tín dụng ưu đãi nên ở Đức còn phát triển khá phổ
biến các tổ chức bảo lãnh tín dụng. Những tổ chức này được thành lập bắt đầu hoạt
động từ những năm 90 với sự hợp tác chặt chẽ của các Phòng thương mại, Hiệp hội
doanh nghiệp, Ngân hàng và chính quyền liên bang. Nguyên tắc hoạt động cơ bản là
vì khách hàng. DNNVV nhận được khoản vay từ Ngân hàng với sự bảo lãnh của một
tổ chức bảo lãnh tín dụng. Với cơ chế và chính sách này các DNNVV ở Đức đã khắc
phục nhiều khó khăn trong huy động vốn đồng thời các Ngân hàng thì lại cho vay ra
được với sự đảm bảo chắc chắn.
 Đối với Đài loan lại có sự khác biệt
Ngay trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế Đài loan đã áp dụng nhiều biện pháp
chính sách khuyến khích phát triển DNNVV trong một số ngành sản xuất như: Nhựa,
dệt, kính, xi măng, gỗ. Hiện nay số lượng DNNVV ở Đài loan chiếm khoảng 96%
tổng số doanh nghiệp. Chúng tạo ra khoảng 40% sản lượng công nghiệp, hơn 50%
giá trị xuất khẩu và chiếm hơn 70% chỗ làm việc. Để đạt được thành tựu đó Đài loan
đã giành nhiều nỗ lực trong việc xây dựng và thực thi chính sách mở rộng tín dụng



cho các DNNVV. Cho đến nay, rất nhiều Ngân hàng quốc doanh và tư nhân ở Đài
loan đứng ra tài trợ cho các DNNVV.
Đồng thời nhận thức được sự khó khăn của các DNNVV việc thế chấp tài sản
vay vốn ngân hàng năm 1974, Đài loan đã thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng. Ngoài ra

Đài loan còn áp dụng nhiều biện pháp khác như: Giảm lãi suất đối với khoản vay
phục vụ mục đích sản xuất, mời các chuyên gia đến giúp DNNVV nhằm tối ưu hoá
cơ cấu vốn và tăng cường các điều kiện vay vốn.
 ở Malaysia
Trong kế hoạch tổng thể lần thức hai của Malaysia ( 1991 - 2000 ) đã khẳng
định rõ vai trò của các DNNVV trong công cuộc hiện đại hoá đất nước. Do vậy,
trong thời kỳ này Chính phủ đã thông qua chương trình hỗ trợ các DNNVV như: Các
chương trình về thị trường và hỗ trợ kỹ thuật, chương trình cho vay ưu đãi, chương
trình công nghệ thông tin mục đích của chương trình này là nhằm giúp các
DNNVV có một lượng vốn cần thiết để thúc đẩy tự động hoá và hiện đại hoá, để cải
tiến chất lượng và phát triển cơ sở hạ tầng trong các ngành sản xuất phụ tùng ô tô,
linh kiện điện tử, máy móc Có được cơ sở hạ tầng tốt thì hoạt động của các doanh
nghiệp ở đây cao lên nhiều. Để từ đó ngân hàng tích cực mở rộng cho vay đối với
DNNVV mà không ngại về điều kiện ban đầu.


 ở Nhật bản
Các chính sách về DNNVV được hình thành từ những năm 1950 trong đó giành
một sự chú ý đặc biệt đối việc mở rộng tín dụng cho DNNVV nhằm giúp các doanh
nghiệp tháo gỡ khó khăn, cản trở việc tăng vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh
như khả năng tiếp cận tín dụng thấp, thiếu sự đảm bảo về vay vốn các biện pháp hỗ
trợ này đã thực hiện thông qua hệ thống hỗ trợ tín dụng và các tổ chức tài chính công
cộng phục vụ DNNVV. Hệ thống hỗ trợ tín dụng giúp cho các DNNVV tiếp cận
được với nguồn vốn tín dụng tạo điều kiện cho họ vay vốn của tổ chức tín dụng tư
nhân thông qua sự bảo lãnh của Hiệp hội bảo lãnh tín dụng trên cơ sở hợp đồng bảo
lãnh. Ngoài ra, còn có ba tổ chức tài chính công cộng khác đó là: Công ty tài chính



DNNVV, Công ty tài chính nhân dân và Ngân hàng Shokochulin do Chính phủ đầu

tư thành lập toàn bộ hay một phần nhằm mở rộng cho vay đối với DNNVV.
Với những kinh nghiệm trên, mặc dù Đức, Đài loan, Malaysia, Nhật bản có sự
chênh lệc nhau về trình độ phát triển kinh tế, song Chính phủ các nước này đều dành
sự quan tâm đặc biệt trong chính sách mở rộng cho vay đối với các DNNVV. Thực tế
đã, chứng tỏ sự thành công của các chính sách này. Vì vậy, đây có thể là những bài
học kinh nghiệm hay mô hình chính sách mà Việt nam có thể tham khảo, vận dụng
để tìm ra những giải pháp thích hợp giúp các DNNVV phát triển hơn nữa, đặc biệt là
trong bối cảnh Việt nam đang tham gia thực hiện đầy đủ các cam kết của AFTA
trong vài năm tới.
1.4.2 Những bài học rút ra ở các nước đối với Việt Nam
Quy mô của nền kinh tế cũng như của các DNNVV Việt Nam còn bé nhỏ hơn
rất nhiều so với các nước trên. Hơn nữa ở Việt Nam lấy kinh tế Nhà nước làm vai trò
chủ đạo, các DNNN còn được hưởng đặc quyền so với các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh mà chủ yếu là DNNVV. Do đó, khi thực hiện những chính sách hỗ trợ nói
chung cũng như chính sách hỗ trợ tài chính nói riêng đối với DNNVV chúng ta còn
phải thận trọng để vừa có hiệu quả, vừa tạo ra sự bình đẳng giữa các loại hình doanh
nghiệp. Có thể tổng kết một số nội dung sau:
 Thứ nhất: Chính phủ cần khẩn trương xúc tiến thành lập cục phát triển DNNVV
để tạo điều kiện đưa ra các chương trình trợ giúp, điều phối, hướng dẫn và kiểm tra
tình hình trợ giúp các doanh nghiệp phát triển.
 Thứ hai: Cần phải bảo đảm cho khu vực DNNVV ngoài quốc doanh thực sự
được bình đẳng với các doanh nghiệp quốc doanh khi vay vốn ngân hàng. Nhà nước
cần khuyến khích các Ngân hàng có ưu đãi nhất định cho các DNNVV vay vốn, hoặc
ít nhất cũng có sự bình đẳng về mặt thủ tục, thời gian vay, lượng vốn vay và lãi suất
vay giữa các DNNVV với các doanh nghiệp lớn, giữa các DNNN và doanh nghiệp
ngoài quốc doanh. Các Ngân hàng thương mại nên thành lập những kênh tài chính
riêng cho các DNNVV nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp này tiếp
cận với các hoạt động tín dụng của Ngân hàng.

×