LUẬN VĂN:
Mở rộng cho vay tiêu dùng tại ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam –
chi nhánh Hà Thành
LỜI MỞ ĐẦU
Năm 2008 là năm thứ 2 Việt Nam tham gia tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
và cũng là năm chứng kiến sự biến động mạnh mẽ trên thị trường tài chính tiền tệ trong
nước và quốc tế. Sự biến động này đã tác động mạnh đến đời sống nhân dân: lạm phát
tăng cao, giá dầu, giá vàng tăng kỷ lục,… lãi suất cũng liên tục biến động mạnh trong
năm. Không chỉ ảnh hưởng đến đời sống nhân dân, hệ thống Ngân hàng cũng chịu rất
nhiều tác động xấu, cụ thể nhất là khả năng thanh khoản của các Ngân hàng, tạo ra sức ép
tăng lãi suất huy động. Lãi suất cơ bản tăng lên đến 14%, lãi suất huy động của các ngân
hàng có lúc lên đến mức cao kỷ lục 21%, nhưng lại giảm mạnh vào các tháng cuối năm,
tháng 12 lãi suất cơ bản chỉ còn 8,5%.
Năm 2008 cũng là năm cạnh tranh trên thị trường dịch vụ ngân hàng diễn ra quyết
liệt hơn với nhiều loại hình sản phẩm dịch vụ mới được các ngân hàng triển khai cung
cấp tới khách hàng. Các ngân hàng có vốn Nhà nước tập trung phát triển theo hướng
thành lập các tập đoàn tài chính, trong khi các ngân hàng thương mại cổ phần có quy mô
trung bình và nhỏ tập trung định hướng phát triển ngân hàng bán lẻ với các đối tượng
khách hàng chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ và khách hàng cá nhân. Vì vậy có thể
nhận thấy trên thị trường dịch vụ ngân hàng năm qua sôi động hơn với việc các ngân
hàng đẩy mạnh các hoạt động ngân hàng bán lẻ. Khách hàng có thêm nhiều lựa chọn sử
dụng những tiện ích ngân hàng để thanh toán cho những chi phí trong cuộc sống hàng
ngày như tiền điện, nước, điện thoại, internet, mua sắm tại một số siêu thị…
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Hà Thành cũng không nằm
ngoài xu hướng phát triển chung của thị trường. Ngay từ những ngày đầu thành lập chi
nhánh cũng đã xác định cạnh tranh phát triển cho vay tiêu dùng sẽ là hướng đi mới giúp
chi nhánh phân tán rủi ro và nâng cao khả năng hội nhập. Tuy đã bước đầu hình thành và
tổ chức hoạt động theo thông lệ của các NHTM hiện đại trên thế giới, theo đó các hoạt
động bán lẻ được quan tâm chỉ đạo và kiểm soát một cách bài bản nhưng trong bối cảnh
nền kinh tế đương đầu với những khó khăn thách thức, hoạt động tín dụng tiêu dùng của
BIDV gặp không ít khó khăn.
Xuất phát từ lý do đó, em chọn đề tài “ Mở rộng cho vay tiêu dùng tại ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam – chi nhánh Hà Thành” làm đề tài cho chuyên đề tốt
nghiệp của mình.
Ngoài Lời mở đầu và Kết luận, chuyên đề gồm có ba Chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về mở rộng cho vay tiêu dùng của Ngân hàng thương
mại.
Chương 2: Thực trạng mở rộng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam chi nhánh Hà Thành.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Hà Thành.
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ MỞ RỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG -
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1. Tổng quan về cho vay tiêu dùng (CVTD) của Ngân hàng thương mại
(NHTM).
1.1.1. Khái niệm.
Cho vay là một mặt của hoạt động tín dụng ngân hàng, thông qua hoạt động cho
vay ngân hàng thực hiện điều hoà vốn trong nền kinh tế thông qua hình thức phân phối
nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi huy động được từ trong xã hội để đáp ứng nhu cầu về phục
vụ sản xuất kinh doanh và đời sống. Hoạt động cho vay của ngân hàng bắt nguồn từ nhu
cầu của nền kinh tế thị trường, khi mà một số cá nhân, tổ chức cần vốn để thực hiện hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình, trong khi đó một số cá nhân tổ chức khác lại tạm
thời dư thừa một lượng vốn nhất định trong một thời gian cụ thể. Chính vì vậy, ngân
hàng với vai trò là người trung gian đã đứng ra huy động vốn từ những cá nhân, doanh
nghiệp có nguồn vốn nhàn rỗi rồi thực hiện nghiệp vụ cho vay đối với những cá nhân,
doanh nghiệp khác đang cần vốn và hưởng lợi từ khoản chênh lệch lãi suất.
Cùng với thời gian, hoạt động tín dụng của các ngân hàng đã thay đổi đáng kể, nếu
như trước đây các NHTM chỉ giới hạn phạm vi hoạt động của mình chủ yếu cho Nhà
nước và các doanh nghiệp lớn vay thì giờ đây hoạt động cho vay tiêu dùng ngày càng
được mở rộng. Xuất phát từ mối quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng, thông qua mối
quan hệ này ngân hàng thấy được từ cả phía người sản xuất lẫn người tiêu dùng: các nhà
sản xuất cần có sự hỗ trợ để tiêu thụ hàng hóa, còn người tiêu dùng thì cần nguồn tài trợ
cho những nhu cầu tài chính của mình trong trường hợp mức thu nhập của họ không đủ
để có một cuộc sống đầy đủ ở thời điểm hiện tại. Từ đó, nghiệp vụ cho vay tiêu dùng
chính thức được ra đời và ngày càng phát triển theo xu thế chung của nền kinh tế thế giới.
Vậy CVTD là gì?
Cho vay tiêu dùng được hiểu là hình thức tài trợ cho mục đích chi tiêu của cá
nhân, hộ gia đình. Các khoản cho vay tiêu dùng là nguồn tài trợ chính, quan trọng giúp
người tiêu dùng có thể trang trải các nhu cầu của cuộc sống như nhà cửa, phương tiện đi
lại, tiện nghi sinh hoạt, học tập, y tế, du lịch… trước khi họ có đủ khả năng về tài chính
để hưởng thụ.
Định nghĩa này nhằm phân biệt với các sản phẩm cho vay khác của ngân hàng
như: cho vay các doanh nghiệp vừa và nhở, cho vay đầu tư… Có thể thấy do đối tượng
CVTD hướng đến là tất cả người dân có thu nhập trong xã hội nên phạm vi rất rộng và thị
trường còn rất tiềm năng, hứa hẹn đem lại nhiều khoản lợi nhuận cao cho ngân hàng.
Chính vì vậy, hoạt động CVTD ngày càng được các NHTM chú trọng và phát triển.
1.1.2. Đặc điểm của cho vay tiêu dùng.
CVTD của ngân hàng nhằm tài trợ cho các nhu cầu tiêu dùng của cá nhân và hộ
gia đình. Khác với cho vay kinh doanh, ở đây người vay sử dụng tiền vay vào mục đích
không sinh lời, nguồn trả nợ độc lập so với sử dụng tiền vay, vì vậy CVTD có những đặc
điểm như sau:
1.1.2.1. Các sản phẩm CVTD rất phong phú vì khách hàng vay vốn rất đa dạng và mục
đích sử dụng vốn linh hoạt.
Như đã nói ở trên, do đối tượng của CVTD hướng đến là tất cả người dân có thu
nhập trong xã hội, mà tùy theo hoàn cảnh, thu nhập, và mong muốn của mỗi người mà
mục đích vay vốn của họ là hoàn toàn khác nhau. Những khách hàng là cá nhân, có thu
nhập cao trong xã hội thì nhu cầu tiêu dùng của họ khác hoàn toàn với những cá nhân có
thu nhập thấp, trung bình. Hoặc tùy vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi người, có người có
những nhu cầu về nhà ở, về những vật dụng xa xỉ, về những phương tiện đi lại có giá trị
cao như ô tô, xe máy… nhưng cũng có những người vay với mục đích đi du học hoặc để
trang trải các nhu cầu chi tiêu cho y tế… Chính vì vậy sản phẩm CVTD cũng phải đa
dạng và phong phú, nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu tiêu dùng của mọi người dân, mọi tầng
lớp trong xã hội.
1.1.2.2. Giá trị mỗi món vay nhỏ nhưng khối lượng các món vay lớn.
Tùy thuộc vào mục đích sử dụng và thu nhập hàng tháng của khách hàng mà giá
trị các khoản vay thường khác nhau. Tuy nhiên có một điểm chung là giá trị các khoản
vay này thường rất nhỏ so với các khoản vay cho hoạt động sản xuất kinh doanh do đây
là khoản vay phục vụ cho mục đích tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình, thêm vào đó, giá
trị của hàng hóa tiêu dùng thường không quá lớn hoặc khách hàng vay vốn đã có sự tích
lũy từ trước đối với những nhu cầu của mình…
Trong điều kiện hiện nay, khi xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu tiêu dùng của
người dân cũng theo đó đi lên, người tiêu dùng sẽ vay nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu của
bản thân, gia đình do không phải ai cũng có khả năng chi trả cho nhưng nhu cầu tiêu
dùng của mình bằng nguồn thu nhập trong thời điểm hiện tại. Điều này dẫn đến số lượng
khách hàng có nhu cầu vay vốn là rất đông khiến tổng quy mô CVTD trở nên rất lớn.
1.1.2.3. CVTD thường có rủi ro cao hơn các khoản cho vay trong lĩnh vực hoạt động sản
xuất kinh doanh.
Do nguồn trả nợ của CVTD độc lập với khoản vay, chủ yếu là từ thu nhập của
người đi vay, mà nguồn thu nhập này có thể thay đổi nhanh chóng tùy theo tình trạng
công việc, tình hình kinh tế chung hay tình hình sức khỏe của họ Thêm vào đó, việc
thẩm định và quyết định cho vay đối với một khoản CVTD cũng thường gặp khó khăn do
vấn đề thông tin không đầy đủ hoặc thiếu tính chính xác. Các thông tin cá nhân đưa ra
thường không rõ ràng và minh bạch như các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, việc
thẩm định xác minh cũng gặp nhiều khó khăn… Ngày nay, để hạn chế bớt rủi ro, trong
hầu hết các khoản CVTD ngân hàng đều đòi hỏi phải có đảm bảo bằng tài sản.
1.1.2.4. Các khoản CVTD thường có lãi suất cao.
Điều này xuất phát từ việc các khoản CVTD có chi phí và rủi ro cao nhất trong các
loại cho vay của ngân hàng. CVTD thường nhạy cảm theo chu kỳ, khi nền kinh tế phát
triển, người dân có thu nhập cao, nhu cầu về tiêu dùng của họ cũng tăng lên do họ thấy
lạc quan về tương lai, ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào suy thoái đại bộ phận dân cư đều
có xu hướng thắt chặt tiêu dùng, tiết kiệm nhiều hơn chi tiêu. Mặt khác, người tiêu dùng
thường ít nhạy cảm với lãi suất, họ quan tâm đến khoản tiền phải trả hàng tháng hơn là
mức lãi suất ghi trong hợp đồng.
1.1.2.5. Thời hạn trong CVTD khá đa dạng, cả ngắn, trung và dài hạn.
Thời hạn CVTD còn tùy thuộc vào mục đích vay vốn, giá trị mỗi khoản vay, thu
nhập hàng tháng của khách hàng và thỏa thuận giữa khách hàng và ngân hàng trong hợp
đồng tín dụng. Nếu khách hàng vay vốn với mục đích mua nhà, bất động sản, ô tô… thì
giá trị các khoản vay thường lớn, thời hạn trả nợ thường dài, ngược lại nếu là các khoản
vay nhỏ hơn như vay để sửa nhà, mua xe máy… thì thời hạn trả nợ thường ngắn hơn.
1.1.3. Các hình thức CVTD.
1.1.3.1. Căn cứ vào phương thức hoàn trả.
Căn cứ vào tiêu chí này, CVTD được chia ra làm hai loại là CVTD trả góp và
CVTD phi trả góp.
a. Cho vay tiêu dùng trả góp.
Là loại CVTD trong đó người đi vay phải trả cho ngân hàng (bao gồm cả tiền gốc
và lãi) làm nhiều lần, theo từng kỳ hạn nhất định trong thời hạn cho vay. Hình thức này
thường áp dụng đối với những khoản vay lớn và thời hạn cho vay dài. Ví dụ: vay để mua
nhà, bất động sản, mua ô tô… Với loại cho vay này, thông thường có ba phương pháp trả
góp phổ biến:
Phương pháp gộp
Theo phương thức này thì vốn gốc và lãi được tính gộp và chia đều cho các kỳ hạn
trả nợ theo công thức sau:
n
IC
T
Với:
niCI
Trong đó: T: số tiền phải trả nợ cho ngân hàng khi đến kỳ hạn.
C: vốn gốc.
I: số lãi vay khách hàng phải trả cho ngân hàng.
n: số kỳ hạn trả nợ.
i: lãi suất cho vay mỗi kỳ hạn.
Phương pháp lãi đơn.
Theo phương pháp này, vốn gốc được thanh toán đều nhau giữa các kỳ hạn, còn
tiền lại được tính theo số dư nợ còn lại, theo công thức sau:
)()( kTLTvkT
Trong đó:
n
C
Tv
Với: T(k): số tiền thanh toán ở kỳ k.
Tv : vốn gốc phải thanh toán ở mỗi kỳ hạn.
C : vốn gốc.
TL(k) : Lãi khách hàng phải trả trong kỳ hạn k.
i : lãi suất cho vay mỗi kỳ hạn.
Phương pháp hiện giá.
Theo phương pháp này, số tiền thanh toán mỗi kỳ hạn (bao gồm cả gốc và lãi) bằng nhau
theo công thức sau đây:
1)1(
)1(
n
n
i
iiC
T
b. Cho vay tiêu dùng phi trả góp (hay còn gọi là CVTD trả một lần).
Là loại CVTD mà trong đó khách hàng chỉ thanh toán cho ngân hàng một lần khi
đến hạn. Theo phương thức này, việc thanh toán tiền gốc và lãi được thực hiện bằng một
trong các phương thức sau đây:
Tiền gốc (C) và tiền lãi (Cn) được thanh toán một lần vào cuối thời hạn cho vay :
niCCn
Tiền gốc (C) được thanh toán vào cuối kỳ hạn, còn tiền lãi cuối kỳ (Ck) được thanh
toán đều đặn theo từng kỳ hạn. Trong đó:
iCCk
1.1.3.2. Căn cứ vào nguồn gốc của khoản vay.
a. Cho vay tiêu dùng trực tiếp.
Là hình thức khách hàng trực tiếp vay tiền từ ngân hàng để phục vụ cho mục đích
tiêu dùng của mình.
Cho vay trả theo định kỳ: Là phương thức trong đó khách hàng vay và trả trực tiếp
với ngân hàng với mức trả và thời hạn trả được quy định khi cho vay. Với hình thức này,
tiền vay có thể được cấp bằng tiền mặt hoặc chuyển thẳng vào tài khoản cá nhân của
khách hàng, đồng thời ghi Nợ tài khoản cho vay.
Thấu chi: Là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi vượt
trên số tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời
gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
Thẻ tín dụng: Là nghiệp vụ tín dụng, trong đó ngân hàng phát hành thẻ cho những
khách hàng có tài khoản ở ngân hàng, có đủ điều kiện được cấp thẻ và ấn định mức giới
hạn tín dụng tối đa mà người đó có thể được phép sử dụng.
b. Cho vay tiêu dùng gián tiếp.
Hiện nay, phần lớn các hoạt động cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp,
nhưng bên cạnh đó, các ngân hàng cũng phát triển một số hình thức cho vay gián tiếp
như:
Hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian:
Ngân hàng
Trung gian:
Tổ, đội, hội,
nhóm.
Khách hàng
(thường là nông
dân, người buôn
bán nhỏ).
(4)
(3)
(2)
(1)
(1) Phân tích tín dụng trước khi cho vay
(2) Ngân hàng phát tiền vay trực tiếp cho khách hàng
(3) Các tổ chức trung gian thu nợ hộ cho ngân hàng
Ngân hàng cho vay qua các tổ chức trung gian như các Hội nông dân, Hội phụ nữ,
Hội cựu chiến binh, Hội thanh niên, sinh viên… Các Hội này thường có mục đích hoạt
động với các thành viên khác nhau nhưng chủ yếu đều tập trung vào các mục đích xã hội
như giúp người dân xóa đói giảm nghèo, các khoản vay trợ cấp để phát triển kinh tế, giúp
người nông dân làm giàu…
Hình thức cho vay thông qua người bán lẻ:
(1) Ngân hàng ký hợp đồng tín dụng với người vay (khách hàng)
(2) Người vay mua hàng (nguyên liệu cho sản xuất, nuôi trồng, thiết
bị….)
(3) Người bán tập trung các hoá đơn bán hàng gửi lên ngân hàng đề
nghị thanh toán. Sau đó ngân hàng thu nợ của khách hàng.
Ngân hàng
Người vay
Người bán lẻ
(3)
(1)
(2)
Cho vay bằng hình thức này sẽ hạn chế việc người vay sử dụng tiền vay sai mục
đích. Tuy nhiên nên thường xuyên kiểm tra, giám sát, tránh trường hợp các nhà bán lẻ có
thể lợi dụng để bán hàng kém chất lượng với giá đắt cho người vay vốn.
1.1.3.3. Căn cứ vào mục đích vay.
a. Cho vay tiêu dùng cư trú.
CVTD cư trú là các khoản vay nhằm mục đích phục vụ nhu cầu xây dựng, mua
sắm hoặc cải tạo nhà ở của cá nhân, hộ gia đình. Đặc điểm của khoản vay này là thời gian
dài và quy mô tương đối lớn.
b. Cho vay tiêu dùng không cư trú.
Đây là khoản CVTD phục vụ các nhu cầu cải thiện đời sống như mua sắm phương
tiện, đồ dùng, du lich, học hành hoặc giải trí… Đặc điểm của các khoản vay này là quy
mô nhỏ, thời gian ngắn.
1.1.3.4. Căn cứ vào hình thức đảm bảo tiền vay.
a. Cho vay cầm cố.
Cho vay cầm cố là hình thức ngân hàng cho khách hàng vay tiền và giữ tài sản của
khách hàng để đảm bảo thực hiện các nghĩa vụ của khách hàng trong hợp đồng cầm cố.
Số tiền vay sẽ dựa vào nhu cầu của khách hàng, tài sản đảm bảo, khả năng trả nợ của
khách hàng và mức cho vay tối đa của ngân hàng.
b. Cho vay cầm cố lương, thu nhập.
Đây là hình thức cho vay chủ yếu được áp dụng cho những khách hàng có việc
làm và thu nhập ổn định, ngoài việc trang trải cho cuộc sống hàng ngày vẫn tích lũy được
một khoản để trả nợ. Số tiền cho vay được quyết định dựa trên nhu cầu vay (có mục đích
sử dụng rõ ràng), thu nhập ròng thường xuyên của khách hàng, mức cho vay tối đa của
ngân hàng. Khi nhận tiền vay khách hàng phải cam kết nếu không trả được nợ khi đến
hạn (thường là quá 3 kỳ trả nợ), ngân hàng có quyền nhận lương của khách hàng để thu
nợ.
c. Cho vay có đảm bảo bằng tài sản hình thành từ tiền vay.
Hình thức này áp dụng chủ yếu đối với tài sản có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài
như: Cho vay sửa chữa, mua nhà, mua quyền sử dụng đất, cho vay mua sắm phương tiện
đi lại… Mức cho vay của ngân hàng trong hình thức này phụ thuộc vào tình hình tài
chính, khả năng trả nợ của khách hàng, giá trị tài sản mua sắm, mức tối đa thường từ 50-
60% giá trị tài sản mua sắm.
1.1.3.5. Căn cứ vào loại tài sản được tài trợ.
a. Cho vay tài trợ bất động sản.
Hình thức cho vay này áp dụng đối với những khách hàng có nhu cầu vay để phục
vụ mục đích mua mới hoặc sửa chữa nhà ở, căn hộ và trong một số trường hợp bao gồm
cả đất đai. Quy mô của các khoản vay này thường lớn, thời hạn dài nhất trong danh mục
cho vay của ngân hàng (khoảng từ 15 đến 25 hoặc 30 năm), do đó loại hình này thường
chữa những nguy cơ rủi ro đáng kể. Các khoản cho vay này thường phải đi kèm với tài
sản đảm bảo nhằm hạn chế rủi ro cho ngân hàng.
b. Cho vay tài trợ hàng tiêu dùng lâu bền.
Hàng tiêu dùng lâu bền là những mặt hàng có thời gian sử dụng lâu dài như ô tô,
xe máy… Đặc điểm của loại hình cho vay này là quy mô thường không lớn, thời gian trả
nợ nhanh, tài sản đảm bảo có thể là tài sản được hình thành từ tiền vay.
c. Tài trợ nhu cầu tiêu dùng khác.
Loại hình cho vay này áp dụng đối với những khách hàng vay vốn với mục đích tài trợ
các nhu cầu như đi học, chữa bệnh, ma chay, cưới hỏi… đối với các khoản vay này yếu
tố quyết định có cho vay hay không chủ yếu là dựa vào thu nhập của khách hàng vì giá trị
các món vay thường là khá nhỏ.
1.2 Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại.
1.2.1. Khái niệm mở rộng cho vay tiêu dùng.
Mặc dù hệ thống ngân hàng đã hình thành và phát triển từ rất lâu nhưng chỉ mới từ
đầu thế kỷ 20 các nhà ngân hàng mới thấy rõ được tầm quan trọng của hoạt động cho vay
tiêu dùng. Trước đó, đa số các ngân hàng không chú trọng phát triển mảng sản phẩm này
vì họ cho rằng đây là những khoản vay nhỏ, lẻ tẻ, rủi ro lại cao, lợi nhuận thấp… họ chủ
yếu tập trung vào mảng cho vay doanh nghiệp với những dự án đầu tư lớn, nhằm kỳ vọng
một nguồn lợi nhuận khổng lồ trong tương lai. Tuy nhiên, trong khoảng mấy chục năm
trở lại đây, đứng trước những thay đổi lớn của nền kinh tế, đối mặt với sự cạnh tranh
khốc liệt, các ngân hàng muốn tồn tại và phát triển trên thị trường buộc phải nâng cao sức
cạnh tranh với các ngân hàng khác thông qua việc mở rộng và phát triển các sản phẩm
dịch vụ của mình. Thêm vào đó, nền kinh tế phát triển, nhu cầu tiêu dùng của người dân
cũng tăng theo. Chính vì vậy, mở rộng và phát triển CVTD là hành động cần thiết và tất
yếu của các NHTM.
Một cách chung nhất thì mở rộng CVTD là quá trình tăng lên về mọi mặt của hoạt
động CVTD trong một thời kỳ nhất định Trong đó bao gồm cả tăng thêm về quy mô,
sản lượng và chất lượng của sản phẩm đó. Nói một cách đơn giản, mở rộng CVTD là sự
đáp ứng các yêu cầu ngày càng tăng của khách hàng về quy mô, chất lượng, thủ tục…
các khoản vay một cách tốt nhất.
Từ định nghĩa trên ta có thể rút ra một số vấn đề như sau:
Mở rộng CVTD là sự gia tăng về số lượng và quy mô của các khoản vay. Điều đó thể
hiện sự phát triển của nền kinh tế cũng như sự phát triển của hệ thống ngân hàng thông
qua số liệu thống kê hàng năm.
Mở rộng CVTD cũng đề cập đến vấn đề chất lượng tín dụng. Ngân hàng phải đảm
bảo kiểm soát sao cho số vốn vay ấy được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả nhất.
Tránh trường hợp một số kẻ xấu lợi dụng vốn vay ngân hàng để làm những việc không
đúng mục đích, gây nên những tổn thất cho ngân hàng nói riêng và cho toàn bộ nền kinh
tế nói chung. Tiến hành các biện pháp mở rộng tín dụng luôn phải đi đôi với việc tiến
hành các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng.
Luôn luôn có nhiều phương pháp mở rộng hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động
CVTD nói riêng: mở rộng quan hệ tín dụng với nhiều đối tượng khách hàng, triển khai
thêm các hình thức cho vay mới tùy theo từng đối tượng và điều kiện cụ thể, đơn giản
hóa quy trình thủ tục tín dụng, nâng cao chuyên môn và ý thức trách nhiệm của các cán
bộ tín dụng…
1.2.2. Sự cần thiết của việc mở rộng CVTD.
Nền kinh tế phát triển kéo theo nó là một loạt những hoạt động, những dịch vụ
mới hình thành và phát triển… một trong số đó là hoạt động tiêu dùng của dân cư. Nếu
như trước đây người dân quan niệm chỉ cần “ăn no, mặc ấm” là đủ thì giờ đây, khi thu
nhập và đời sống tăng lên, họ quan tâm nhiều hơn đến “ăn ngon, mặc đẹp”. Tuy nhiên,
không phải ai cũng có điều kiện và khả năng tạo dựng cho mình một cuộc sống sung túc
đầy đủ ngay trong hôm nay, nhất là thế hệ sinh viên mới ra trường, những người mới đi
làm, họ có tri thức, có một công việc ổn định với thu nhập khá… nhưng cái họ thiếu là
thời gian tích lũy. Nắm được nhu cầu này, các tổ chức tín dụng mà điển hình là các
NHTM đã cung cấp những khoản CVTD dưới nhiều hình thức và quy mô khác nhau,
nhằm mang lại cho khách hàng một cuộc sống tiện nghi hơn mà không phải chờ đợi lâu.
Hiện nay, trong xu hướng hội nhập quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân
hàng liên doanh, ngân hàng nhà nước, ngân hàng cổ phần… đang cạnh tranh mạnh mẽ
các sản phẩm CVTD nhằm thu hút đối tượng là khách hàng cá nhân. CVTD đang trở
thành mảng tín dụng có nhiều tiềm năng.
Như chúng ra đã biết, huy động và cho vay là hai hoạt động chủ yếu chiếm vai trò
quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của NHTM. Huy động vốn là nghiệp vụ sống
còn của NHTM, một NHTM không thể tồn tại và phát triển nếu nguồn vốn huy động bị
ngưng trệ. Tuy nhiên ngân hàng huy động được nhiều vốn mà không cho vay thì cũng
không thể tồn tại. Trong điều kiện hiện nay, khi cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng
đang diễn ra ngày càng gay gắt khiến cho thị trường vay của ngân hàng bị giảm sút, chính
vì vậy các NH cần phải cố gắng hơn nữa trong hoạt động mở rộng CVTD.
Có thể thấy rõ sự cần thiết của việc mở rộng CVTD thông qua lợi ích mang lại
của nó đối với NHTM.
1.2.2.1. CVTD giúp NHTM mở rộng quan hệ với khách hàng, từ đó làm tăng khả năng
huy động các loại tiền gửi từ dân cư cho ngân hàng.
Do trước đây hoạt động cho vay của NHTM gần như chỉ bó hẹp trong phạm vi các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nên số lượng người dân biết đến hoạt động của ngân
hàng cũng không nhiều, đại đa số chỉ là những doanh nhân thành đạt, lãnh đạo, cán bộ
cấp cao… chính vì vậy, người dân vẫn còn e dè khi nhắc đến ngân hàng và đại đa số mọi
người đều thích tích trữ tiền mặt tại nhà hơn là gửi tiết kiệm vào ngân hàng, điều này làm
ngân hàng mất đi một lượng vốn lớn trong dân cư và làm tắc nghẽn dòng tiền của cả nền
kinh tế. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, CVTD đã trở thành một hoạt động quan
trọng không thể thiếu của NHTM, CVTD được mở rộng tạo điều kiện cho các NHTM có
nhiều cơ hội tiếp xúc quan hệ với các đối tượng khách hàng khác nhau. Chính điều này
đã làm ngân hàng và người dân gần gũi nhau hơn, tạo niềm tin về ngân hàng trong lòng
người dân, nhờ đó lượng tiền gửi huy động được từ trong dân cư của ngân hàng cũng
tăng lên đáng kể. Thông thường khi đã có lòng tin với một khách hàng nào đấy thường
khách hàng cá nhân sẽ trung thành với ngân hàng đó vì tâm lí ngại thay đổi, vì thế tăng
thêm một khách hàng cũng là tăng thêm lợi nhuận tiềm năng. Thêm vào đó, ngân hàng
cũng có thể thấu hiểu hơn những nhu cầu và mong muốn của khách hàng, từ đó đưa ra
những sản phẩm dịch vụ thích hợp trong tương lai.
1.2.2.2. CVTD tạo điều kiện cho ngân hàng đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, từ đó
tăng lợi nhuận và phân tán rủi ro.
Cùng với sự phát triển kinh tế, vai trò của các NHTM đối với nền kinh tế - xã hội
ngày càng được khẳng định. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, khi ngày càng có nhiều
ngân hàng mới được thành lập, bao gồm cả các ngân hàng nhà nước, ngân hàng thương
mại cổ phần, ngân hàng ngoài quốc doanh, ngân hàng quốc tế… thì sự cạnh tranh gay gắt
là điều không thể tránh khỏi. Chỉ cần hôm nay ngân hàng A ra một sản phẩm gì đó thì
gần như ngay lập tức ngân hàng B, C, D… cũng cho ra mắt những sản phẩm tương tự với
tên gọi khác nhau Chính vì vậy muốn tồn tại và phát triển trong điều kiện khắc nghiệt
như vậy đòi hỏi các ngân hàng phải không ngừng đổi mới, tìm tòi và đưa ra những sản
phẩm mới phù hợp với nhu cầu của khách hàng, đem lại lợi ích cho ngân hàng. Do đối
tượng của CVTD là một lượng lớn dân cư, mà không phải ai cũng có nhu cầu và nguyện
vọng giống nhau: người cần vốn để mua nhà, người cần vốn để mua xe, người cần vốn để
đi du học, khám chữa bệnh… nên dựa vào đó các NHTM có thể đưa ra rất nhiều những
sản phẩm dịch vụ khác nhau phù hợp với nhu cầu của từng loại đối tượng, lợi nhuận cũng
nhờ đó mà tăng lên. Thêm vào đó, các khoản CVTD thường đem lại lợi nhuận lớn do
mức lãi suất tính trên các khoản cho vay tiêu dùng cao. Tại những nước kinh tế phát triển,
CVTD là hoạt động đem lại thu nhập lớn cho ngân hàng.
Một nguyên tắc đặt ra cho ngân hàng là “tránh bỏ nhiều trứng vào cùng một giỏ”.
Tức là nếu không đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh, một khi rủi ra xảy ra thì ngân
hàng rất khó chống đỡ, có thể dẫn tới sụp đổ khiến cả hệ thống bị ảnh hưởng vì hoạt động
của ngân hàng mang tính hệ thống cao. Điển hình là cuộc khủng hoảng tín dụng xuất phát
từ việc cho vay dưới chuẩn tại Mỹ trong năm 2008 vừa qua đã gây ra những thiệt hại
không nhỏ đối với nền kinh tế Mỹ nói chung và nền kinh tế thế giới nói riêng. Thực tế
cho thấy nếu xét riêng từng khoản CVTD thì loại hình cho vay này có rủi ro lớn do có
khả năng khách hàng không trả được nợ. Tuy nhiên do mỗi khoản CVTD có giá trị tương
đối nhỏ nên nếu xét trên toàn cục của các khoản CVTD thì rủi ro cũng không còn là một
vấn đề lớn. Mặt khác, CVTD đang được coi là một hoạt động mang lại lợi nhuận cao nhất
cho các NHTM, do đó mở rộng CVTD là một hướng đi an toàn và đẩy triển vọng sinh lời
của ngân hàng.
1.2.2.3. CVTD có tác dụng nâng cao đời sống của người dân, từ đó góp phần thúc đẩy
sản xuất kinh doanh phát triển.
Nền kinh tế phát triển mạnh đồng nghĩa với việc nhu cầu tiêu dùng của người dân
cũng tăng cao. Tuy nhiên như đã nói ở trên, không phải ai cũng đủ điều kiện để tạo lập
cho mình một cuộc sống tiện nghi đầy đủ ngay hôm nay, lúc này CVTD là giải pháp tối
ưu, giúp người dân có thể sử dụng những đồng tiền trong tương lai của mình để chi tiêu
tại thời điểm hiện tại. Một cuộc sống đầy đủ tiện nghi có thể giúp cho chúng ta có tinh
thần thoải mái, trí tuệ minh mẫn để hoàn thành tốt công việc, nhờ đó mà năng suất hiệu
quả làm việc cũng cao hơn.
Mặt khác, nhu cầu tiêu dùng của người dân cũng góp phần kích thích các hoạt
động sản xuất kinh doanh phát triển. Khi người dân có tiền, họ sẽ tiêu dùng nhiều hàng
hóa hơn, các doanh nghiệp bán được hàng cũng sẽ có vốn để quay vòng, tiếp tục hoạt
động sản xuất kinh doanh, nhờ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Ngược lại, khi không
có tiền, người dân sẽ thắt chặt chi tiêu, các doanh nghiệp không tiêu thụ được hàng,
không có vốn để quay vòng, sản xuất bị ngưng trệ, kéo theo nền kinh tế đi xuống.
Tóm lại, mở rộng CVTD rất cần thiết, giúp các NHTM mở rộng quan hệ với
khách hàng, từ đó làm tăng khả năng huy động các loại tiền gửi từ dân cư, đa dạng hóa
sản phẩm, từ đó tăng lợi nhuận và phân tán rủi ro. CVTD không chỉ đóng vai trò quan
trọng đối với ngân hàng mà nó còn góp phần cải thiện đời sống của người dân, góp phần
vào việc kích thích tiêu dùng một cách trực tiếp, kích thích đầu tư một cách gián tiếp,
cũng tức là góp phần làm tăng sức sản xuất của nền kinh tế, giúp xã hội ngày càng giàu
mạnh.
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá mở rộng CVTD của NHTM.
1.2.3.1. Chỉ tiêu về số lượt khách hàng giao dịch với ngân hàng
Khi ngân hàng có sự tập trung vào việc mở rộng CVTD, ngân hàng sẽ có biện pháp
để thu hút khách hàng đến với mình, sẻ dụng các sản phẩm tín dụng của mình. Ngân hàng
càng thực hiện tốt việc mở rộng CVTD bao nhiêu thì số lượng khách hàng giao dịch sẽ
tăng lên bấy nhiêu.
Số lượng khách hàng: Là tổng số khách hàng thực hiện giao dịch với ngân hàng. trong
hoạt động CVTD, số lượng khách hàng thể hiện số các khoản vay tiêu dùng mà ngân
hàng cấp cho khách hàng.
Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng về số lượng khách hàng tuyệt đối
Mức tăng, giảm số lượng khách hàng= Số lượng khách hàng năm (t)- Số lượng
khách hàng năm (t-1)
Ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho phép ngân hàng đánh giá việc mở rộng quy mô và đối
tượng khách hàng tại ngân hàng.
Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng khách hàng tương đối
Giá trị tăng trưởng khách
hàng tương đối
=
Mức tăng giảm số lượng khách hàng . 100%
Số lượng khách hàng VTD năm (t-1)
Chỉ tiêu số lượt khách hàng: là số lần khách hàng đến giao dịch với ngân hàng trong
một năm. Trong hoạt động CVTD, số lượt khách hàng thể hiện số lần khách hàng đến
ngân hàng thực hiện vay tiêu dùng. Khi số lượt khách hàng tăng lên thể hiện hoạt động
CVTD của ngân hàng được mở rộng, đồng thời cũng cho biết sự tin tưởng của khách
hàng đối với ngân hàng.
Chỉ tiêu phản ánh cơ cấu khách hàng vay tiêu dùng
Tỷ trọng khách hàng là
cá nhân VTD
=
Số lượng khách hàng VTD là cá nhân . 100%
Tổng số khách hàng VTD
1.2.3.2. Chỉ tiêu phản ánh doanh số CVTD
Doanh số CVTD : Là tổng số tiền ngân hàng CVTD trong kỳ, nó phản ánh một cách
khí quát nhất về hoạt động tín dụng của ngân hàng theo một thời kỳ nhất định, thường
tính theo năm tài chính.
Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng doanh số CVTD tuyệt đối : Chỉ tiêu này được tính
bằng hiệu số giữa tổng doanh số CVTD năm nay (t) và tổng doanh số CVTD năm trước
(t-1)
Giá trị tăng trư
ởng
doanh số tuyệt đối
=
Tổng doanh số CVTD năm
(t)
-
Tổng doanh số CVTD
năm (t-1)
Ý nghĩa : Chỉ tiêu này cho biết doanh số CVTD năm (t) tăng so với năm(t-1) về số
tuyệt đối là bao nhiêu. Khi chỉ tiêu này tăng lên, tức là số tiền mà ngân hàng cung cấp
cho khách hàng để tiêu dùng cũng tăng lên, thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của khách hàng, từ
đó nó cũng thể hiện hoạt động CVTD của ngân hàng đã được mở rộng.
Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng doanh số tương đối : Chỉ tiêu này được tính bằng tỷ
lệ % của thương số giữa giá trị tăng trưởng doanh số CVTD tuyệt đối với tổng doanh số
CVTD năm (t-1).
Giá trị tăng trưởng
doanh số tương đối
=
Giá trị tăng trưởng doanh số tuyệt đối . 100%
Tổng doanh số CVTD năm (t-1)
Ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết tốc độ tăng trưởng doanh số của hoạt động CVTD
năm (t) so với năm (t-1). Khi chỉ tiêu này tăng lên, thể hiện rằng doanh số CVTD qua các
năm của ngân hàng đã tăng lên về số tương đối.
Chỉ tiêu phản ánh tăng trưởng về tỷ trọng:
Tæng doanh sè CV TD . 100%
Tû träng =
Tæng doanh sè ho¹ t ®éng cho vay
Ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết doanh số của hoạt động CVTD chiếm tỷ trọng bao
nhiêu trong tổng doanh số của hoạt động cho vay của ngân hàng. Khi tỷ trọng của CVTD
tăng lên qua các năm, chứng tỏ rằng hoạt động CVTD đã được mở rộng.
1.2.3.3. Chỉ tiêu phản ánh dư nợ CVTD
Dư nợ CVTD:
Dư nợ tín dụng phản ánh số tiền mà khách hàng đang nợ ngân hàng tại một thời
điểm, nên chỉ tiêu này là một con số thời điểm. Căn cứ vào mức dư nợ và tỷ lệ dư nợ có
thể cho ta biết ngân hàng có thực hiện mở rộng tín dụng hay không. Bởi khi ngân hàng
thực hiện chính sách mở rộng tín dụng thì dư nợ tín dụng thường ở mức cao. Tuy nhiên
để có thể đánh giá chính xác việc mở rộng tín dụng của ngân hàng, phải kết hơp giữa chỉ
tiêu dư nợ tín dụng với chỉ tiêu danh số cho vay của ngân hàng
Dư nợ CVTD =
Dư nợ CVTD
năm (t-1)
+
Doanh số CVTD
năm (t)
-
Doanh số thu
nợ CVTD
năm (t)
Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng dư nợ tuyệt đối : Được tính bằng hiệu số giữa tổng
dư nợ CVTD năm (t) với tổng dư nợ CVTD năm (t-1).
Giá trị tăng trư
ởng
dư nợ tuyệt đối
=
Tổng dư nợ CVTD
năm (t)
-
Tổng dư nợ CVTD
năm (t-1)
Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng dư nợ tương đối: Được tính bằng % thương số giữa
giá trị tăng trưởng dư nợ tuyệt đối với tổng dư nợ CVTD nămg (t-1)
Giá trị tăng trưởng
dư nợ CVTD tương đối
=
Giá trị tăng trưởng dư nợ tuyệt đối . 100%
Tổng dư nợ CVTD năm (t-1)
Ý nghĩa: chỉ tiêu này cho biết tốc do dọ tăng trưởng dư nợ CVTD năm (t) so với
năm (t-1).
Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng về tỷ trọng
Tæng d nî CVTD . 100%
Tû träng =
Tæng d nî cña ho¹t ®éng tÝn dông
Ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết dư nợ của hoạt động CVTD chiếm tỷ trọng bao
nhiêu trong tổng dư nợ tín dụng của ngân hàng hoặc so với toàn ngành ở cùng thời kỳ.
1.2.3.4. Chỉ tiêu phản ánh sự mở rộng loại hình CVTD
Thể hiện ở mức tăng số sản phẩm
Mức tăng số sản phẩm
năm (t)
=
Số sản phẩm CVTD
năm (t)
-
Số sản phẩm CVTD
năm (t-1)
Ý nghĩa: Chỉ tiêu này phản ánh cách thức mà Ngân hàng cung cấp dịch vụ CVTD
cho khách hàng.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng mở rộng CVTD của NHTM.
1.3.1. Nhân tố khách quan.
1.3.1.1. Môi trường kinh tế.
Nền kinh tế là một thể thống nhất, bao gồm nhiều yếu tố liên quan chặt chẽ đến
nhau, bổ sung hỗ trợ nhau không thể tách rời. Bất kỳ sự biến động của một hoạt động
kinh tế nào đó cũng đều ảnh hưởng đến việc sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực còn
lại. Hơn nữa, hoạt động của các NHTM có thể được coi là chiếc cầu nối giữa các lĩnh vực
khác nhau của nền kinh tế. Vì vậy sự ổn định hay bất ổn, sự tăng trưởng nhanh hay chậm
của nền kinh tế sẽ tác động mạnh mẽ tới hoạt động của ngân hàng. Khi nền kinh tế phát
triển nhanh sẽ thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, thu nhập của người dân tăng cao
kéo theo đó là nhu cầu tiêu dùng cũng tăng lên. Ngược lại, nếu nền kinh tế suy thoái kéo
theo hoạt động sản xuất kinh doanh bị ngưng trệ, nhu cầu tiêu dùng của người dân giảm,
thêm vào đó sẽ gây mất lòng tin của người dân đối với ngân hàng, hoạt động của ngân
hàng cũng sẽ vì thế mà gặp khó khăn.
1.3.1.2. Môi trường văn hóa xã hội.
Thái độ, thói quen tiêu dùng: Có tác động đáng kể đến CVTD, cụ thể là quyết định
của người tiêu dùng. Ở Việt Nam, người dân có thói quen sử dụng tiền mặt hơn là sử
dụng các hình thức thanh toán qua tài khoản thanh toán. Vì vậy mà rất khó khăn trong
việc phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt
Trình độ dân trí: Là nhân tố ảnh hưởng chủ yếu đến quyết định sử dụng các dịch vụ,
sản phẩm của ngân hàng. Ở những nước phát triển, trình độ dân trí cao, người ta chủ yếu
thanh toán qua ngân hàng vì nó tiện lợi và đảm bảo an toàn. Ở Việt Nam thì người dân lại
chưa có thói quen này, cũng có thể do trình độ dân trí mà cũng có thể do lối làm ăn nhỏ lẻ
của người dân.
Yếu tố xã hội: Như quy mô dân số, mật độ dân cư, tháp dân số, kết cấu dân số, trật tự
an toàn xã hội,… ảnh hưởng trực tiếp tới mối quan hệ cho vay giữa ngân hàng với khách
hàng. Thông thường nơi nào tập trung nhiều những người có địa vị xã hội thì mới có cơ
hội phát triển mạnh CVTD vì họ có thu nhập cao và ổn định, họ cũng nhận thức được
những tiện lợi mà CVTD mang lại. Còn nơi nào tập trung những người lao động chân tay
thì khó phát triển CVTD vì những người này thường cú xu hướng tích trữ tiền tại ngân
hàng, vì vậy đây được xem là nguồn cung tín dụng không những đối với tín dụng thương
mại mà còn đối với CVTD.
1.3.1.3. Môi trường pháp lý.
Ngân hàng là một trong những ngành kinh tế chịu sự giám sát, quản lý chặt chẽ
của luật pháp và các cơ quan chức năng của Chính phủ. Hoạt động của ngân hàng được
điều chỉnh bởi các quy định của Ngân hàng Nhà nước, luật các tổ chức tín dụng, luật dân
sự và các quy định khác. Khi những văn bản pháp luật, các quy định rõ ràng, đầy đủ,
đồng bộ và ổn định sẽ là hành lang pháp lý vững chắc, góp phần vào sự cạnh tranh lành
mạnh giữa các ngân hàng trong hoạt động cho vay. Mặt khác cũng sẽ khuyến khích đầu
tư trong nước, gọi vốn từ nước ngoài, từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển
Ngược lại khi những quy định của luật pháp không rõ ràng, không đồng bộ, kịp
thời, không ổn định sẽ làm cho khả năng mở rộng CVTD bị giảm sút.
1.3.1.4. Môi trường công nghệ.
Ngân hàng là một trong những ngành kinh tế chịu sự giám sát, quản lý chặt chẽ
của luật pháp và các cơ quan chức năng của Chính phủ. Hoạt động của ngân hàng được
điều chỉnh bởi các quy định của Ngân hàng Nhà nước, luật các tổ chức tín dụng, luật dân
sự và các quy định khác. Khi những văn bản pháp luật, các quy định rõ ràng, đầy đủ,
đồng bộ và ổn định sẽ là hành lang pháp lý vững chắc, góp phần vào sự cạnh tranh lành
mạnh giữa các ngân hàng trong hoạt động cho vay. Mặt khác cũng sẽ khuyến khích đầu
tư trong nước, gọi vốn từ nước ngoài, từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
1.3.1.5. Khách hàng vay vốn.
Đạo đức của người vay là một yếu tố rất quan trọng quyết định đến hành vi trả nợ
của khách hàng, nó được đánh giá dựa trên năng lực pháp lý là độ tín nhiệm của khách
hàng. Khách hàng phải có năng lực pháp lý để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng
trong quan hệ tín dụng. Mức tín nhiệm của khách hàng liên quan đến sự sẵn lòng và thiện
chí thực hiện đúng hợp đồng. Cả hai yếu tố này đều rất quan trọng, các ngân hàng phải
quan tâm đến nó khi cấp tín dụng và mở rộng nó vì nớ trực tiếp quyết định đến hiệu quả
của một món vay, đến rủi ro của ngân hàng. Mặt khác, nhu cầu của khách hàng là yếu tố
quyết định các hình thức CVTD của NHTM, nó là nền tảng, là căn cứ để xây dựng các
chiến lược phát triển sản phẩm phù hợp. Nghiên cứu nhu cầu của khách hàng để đưa ra
những sản phẩm phù hợp cho từng giai đoạn sẽ giúp ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn.
1.3.2. Các nhân tố chủ quan.
1.3.2.1. Chính sách tín dụng.
Chính sách tín dụng bao gồm các yếu tố như hạn mức cho vay đối với khách hàng,
kỳ hạn của các khoản tín dụng, lãi suất cho vay và mực lệ phí, các loại hình cho vay được
thực hiện, sự đảm bảo khả năng thanh toán nợ của khách hàng… tất cả các yếu tố trên
đều tác động mạnh mẽ đến hoạt động CVTD của ngân hàng. Nếu một chính sách tín
dụng đúng đắn, phù hợp, linh hoạt, đáp ứng được đầy đủ các nhu cầu của khách hàng thì
sẽ thu hút được nhiều đối tượng khách hàng đến vay vốn, đem lại nguồn thu nhập cao
cho ngân hàng. Ngược lại, nếu một chính sách tín dụng quá cứng nhắc, không hợp lý,
không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng thì ngân hàng sẽ không thể thực hiện được
mục tiêu mở rộng quy mô tín dụng của mình. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, sự cạnh
tranh ngân hàng là rất gay gắt, chính vì vậy các ngân hàng nên nỗ lực hơn nữa, đưa ra
những chính sách tín dụng phù hợp nhất đối với từng loại đối tượng khách hàng, có như
vậy ngân hàng mới có thể tồn tại và phát triển bền vứng.
1.3.2.2. Quy trình cấp tín dụng.
Quy trình cấp tín dụng là các bước cần thiết phải thực hiện bao gồm từ khi nhận
hồ sơ vay, phân tích, thẩm định, giải ngân, thu nợ, đảm bảo an toàn vốn tín dụng… được
tiến hành từ khi bắt đầu phân tích nhu cầu cho đến khi thu hồi cả vốn lẫn lãi. Sự kết hợp
nhịp nhàng trong các bước sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng phát hiện kịp thời những yếu
tố bất thường của khoản tín dụng để có biện pháp can thiệp kịp thời, nhằm hạn chế tối đa
rủi ro có thể xảy ra. Mặt khác, một quy trình tín dụng hợp lý, nhanh gọn, không quá phức
tạp, rườm rà cũng là một yếu tố quan trọng góp phần thu hút khách hàng.
1.3.2.3. Thông tin tín dụng.
Trong nền kinh tế thị trường, thông tin là một yếu tố rất quan trọng, ai nắm bắt
được thông tin một cách nhanh chóng, chính xác thì đó là kẻ chiến thắng. Hoạt động tín
dụng của ngân hàng cũng vậy, ngân hàng nào nắm bắt được nhiều thông tin về tình hình
kinh tế, xã hội, các chính sách pháp luật mới, nhu cầu của nhân dân… để có thể đưa ra
những sản phẩm mới, phù hợp thì sẽ thu được hiệu quả cao. Yêu cầu về thông tin là
thông tin phải nhanh chóng, kịp thời, chính xác và đầy đủ, thông thường thì một ngân
hàng thường nhận được rất nhiều thông tin, thậm chí có những thông tin rất mơ hồ,
không cụ thể, chính vì vậy, các ngân hàng phải biết phân tích và chọn lọc thông tin một
cách hiệu quả nhất nhằm loại bỏ những thông tin sai lệch tránh gây ra những sai lầm đáng
tiếc.
1.3.2.4. Tình hình huy động vốn.
Vốn được đánh giá trên hai yếu tố là quy mô của nguồn vốn huy động và chi phí
huy động vốn. Khi quy mô vốn huy động lớn thì ngân hàng càng có khả năng đáp ứng tốt
cho nhu cầu kinh doanh của mình và với chi phí hợp lý thì ngân hàng có điều kiện cho
vay ra với lãi suất cạnh tranh. Điều này sẽ tốt cho việc mở rộng và phát triển hoạt động
CVTD cả về mặt chất và lượng.
1.3.2.5. Công tác tổ chức của ngân hàng.
Một ngân hàng có cơ cấu tổ chức và nội quy làm việc hợp lý sẽ tạo ra bầu không
khí làm việc hăng hái nhiệt tình trong tổ chức. Từ đó, động viên được nhân viên ngân
hàng trung thành và cống hiến vì sự phát triển của ngân hàng hơn.
1.3.2.6. Chất lượng nhân sự và cơ sở vật chất.
Chất lượng nhân sự thể hiện ở trình độ nghiệp vụ cũng như khả năng giao tiếp,
đạo đức cán bộ tín dụng. Cán bộ tín dụng chính là hình ảnh của ngân hàng dưới con mắt
của khách hàng. chính vì vậy, chất lượng của con người sẽ quyết định đến chất lượng sản
phẩm, từ đó quyết định đến uy tín, hình ảnh của ngân hàng, vị thế của ngân hàng trên thị
trường.
Thêm vào đó, việc trang bị đầy đủ các thiết bị tiên tiến, phù hợp với phạm vi, quy
mô hoạt động phục vụ kịp thời các yêu cầu của khách hàng, tạo sự thuận tiện, thoải mái
cho quá trình giao dịch giữa ngân hàng với khách hàng, từ đó giúp ngân hàng tăng khả
năng cạnh tranh, thu hút được nhiều khách hàng hơn.
1.3.2.7. Hoạt động quảng cáo, marketing của ngân hàng.
Đây cũng là một yếu tố rất quan trọng nhằm quảng bá hình ảnh của ngân hàng đến
với khách hàng, nhất là trong điều kiện hiện nay, thời đại thông tin và công nghệ đang
bùng nổ thì những hoạt động này là không thể thiếu. Một mẩu quảng cáo hay, một chính