Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

TIỂU LUẬN: Tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (886.74 KB, 87 trang )

TIỂU LUẬN:
Tăng cường huy động vốn tại
Ngân hàng Nông nghiệp và phát
triển nông thôn Hà Nội


LỜI MỞ ĐẦU
Trong q trình tồn cầu hóa, nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây
có những bước chuyển mình mạnh mẽ. Cùng với sự biến đổi của cả nước, ngành
ngân hàng cũng đang tự khẳng định vị thế của mình với cơng cuộc phát triển của đất
nước. Sau gần 2 thập kỷ đổi mới, hệ thống ngân hàng đã tạo lập được rất nhiều cơ sở
vững chắc để tiếp tục thể hiện vai trò quan trọng, cống hiến vào sự nghiệp chung của
cả nước.
Nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây đạt được tốc độ tăng trưởng
cao nhưng nền kinh tế khơng ổn định đó là cơn bão khủng hoảng lan rộng trong nền
kinh tế tồn cầu khiến cho Việt Nam khơng tránh khỏi những ảnh hưởng của nó.
Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nơng nghiệp vì thế sự phát triển của các
ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong sự phát triển của đất nước. NHNo đã góp
phần rất lớn để đưa ngành nơng nghiệp nước ta có sự phát triển vượt bậc. Để có được
vốn cung cấp cho ngành nơng nghiệp nói riêng và tồn xã hội nói chung thì ngân
hàng phải tăng cường hoạt động huy động vốn để đáp ứng nhu cầu về vốn ngày càng
cao của đất nước, để từ đó đảm bảo khả năng thanh tốn, phát triển các hoạt động đầu
tư và cho vay, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của chính ngân hàng.
Trong thời gian vừa qua, NHNo nói chung và NHNo Hà Nội nói riêng đã đạt
được một số thành cơng đáng khích lệ trong cơng tác huy động vốn. Quy mô vốn huy
động ngày càng mở rộng qua các năm góp phần đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho các
doanh nghiệp, các hộ gia đình phát triển họat động sản xuất, kinh doanh. Nền kinh tế
Việt Nam đang trong giai đoạn tăng trưởng, hội nhập nên vai trò của vốn càng trở nên
quan trọng.



Nhận thức được tầm quan trọng họat động huy động vốn, nghiên cứu thực
trạng huy động vốn của NHNo Hà Nội. Sau một thời gian thực tập tại phòng Kế
Hoạch Tổng Hợp của NHNo Hà Nội với sự hướng dẫn của dẫn của T.S. Cao Ý Nhi,
em đã chọn và nghiên cứu đề tài “Tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội ”.
Đề tài gồm có kết cầu gồm có 3 phần
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động huy động vốn tại NHTM
Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại NHNo Hà Nội
Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại NHNo Hà Nội

NỘI DUNG
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG HUY
ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về NHTM và họat động cơ bản của NHTM
1.1.1. Khái niệm về NHTM
Ngân hàng là một tổ chức tài chính trung gian, kinh doanh tiền tệ dưới hình
thức huy động, cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Là tổ chức thu hút tiết
kiệm lớn nhất, đóng vai trị người thủ quỹ cho tồn xã hội. Lịch sử hình thành và phát


triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hóa.
Căn cứ vào mục đích hoạt động và tính chất, Luật Ngân hàng của Pháp năm
1941 đã quy định “Ngân hàng là những xí nghiệp hay cơ sở thường xuyên nhận của
công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho
chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính”.
Ở mỗi nước khác nhau, thì quan niệm của họ về Ngân hàng cũng khác nhau.
Mặc dù có rất nhiều các định nghĩa khác nhau nhưng chúng ta có thể thấy là các
NHTM đều có chung một tính chất đó là : nhận tiền gửi khơng kỳ hạn, tiền gửi có kỳ
hạn và nhận tiền ký thác để sử dụng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, thanh toán và
các dịch vụ kinh doanh khác nhau của ngân hàng.

Luật tổ chức tín dụng của Việt Nam quy định tại điều 20 khoản mục 2:
“ Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân
hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt
đơng, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân
hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng
khác”.
Tại khoản mục 7 của điều 20 luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam quy
định: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng
với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và
cung ứng các dịch vụ thanh tốn”.
NHTM là một định chế tài chính thực hiện chức năng kinh doanh tiền tê. Dù
dưới bất kỳ hình thức nào, các NHTM ln ln đặ lợi nhuận của mình lên đầu tiên.


Để đạt được điều đó, cơng cụ duy nhất mà các ngân hàng phải có đó chính là vốn.
1.1.2. Hoạt động cơ bản của NHTM.
1.1.1.1. Hoạt động huy động vốn.
NHTM kinh doanh một loại hàng hóa đặt biết đó chính là tiền tệ. Để có thể
kinh doanh được mặt hàng này phát luật có quy định rõ, để thành lập được NHTM
phải có một lượng vốn nhất định. Đó chính là loại vốn ngân hàng sử dụng lâu dài,
thường dùng để mua sắm trang thiết bị, cơ sở hạn tầng. Vốn này cịn có thể được Nhà
nước cấp hoặc do các thành viên đóng góp. Ngồi ra, vốn do ngân hàng sở hữu nó
cịn bao gồm cả vốn vổ sung trong quá trình họat động của ngân hàng như là vốn bổ
sung do phát hành thêm cổ phần, lợi nhuận không chia…, các quỹ của ngân hàng như
là quỹ dự phòng, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, …. Và nguồn vay nợ có thể chuyển
đổi thành cổ phần. Tuy nhiên trong ngân hàng vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng rất nhỏ
cho nên ngân hàng kinh doanh phần lớn dựa trên số vốn huy động. Ngân hàng sẽ huy
động được vốn từ các tổ chức, doanh nghiệp, dân cư.
Ngân hàng huy động vốn dưới 2 hình thức đó là huy động tiền gửi và vay
tiền.

Huy động tiền gửi: tiền gửi của khách hàng chính là nguồn tài nguyên quan
trọng nhất của NHTM. Nó chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng.
Chính vì thế, trong bối cảnh kinh tế thị trường như hiện nay, cạnh tranh để có thể huy
động được nhiều vốn với chất lượng ngày càng cao địi hỏi ngân hàng phải đưa và các
loại hình huy động phong phú hấp dẫn đối với người đi gửi tiền. NHTM thực hiện rất
nhiều các hình thức huy động tiền gửi để phù hợp với mục đích của từng khách hàng


mà ngân hàng hướng tới: tiền gửi thanh toán, tiền gửi co kỳ hạn của các doanh nghiệp,
các TCXH, tiền gửi tiết kiệm của dân cư và tiền gửi của các ngân hàng khác.
Nguồn đi vay: Khi mà tiền gửi không đủ để đáp ứng được nhu cầu cấp bách
của các ngân hàng thì các ngân hàng sẽ phải vay mượn thêm để đáp ứng khả năng chi
trả, thanh toán. Lúc đó, ngân hàng có thể vay NHNN, vay các TCTD khác, vay trên
thị trường vốn.
1.1.1.2.

Hoạt động đầu tư cho vay

Hoạt động đầu tư cho vay chính là hoạt động sử dụng vốn của NHTM. Nó là
hoạt động cơ bản, đặc trưng mang tính truyền thống. Hoạt động này mang lại nguồn
thu nhập chủ yếu cho NHTM. Với số tiền mà ngân hàng huy động được, ngân hàng
tiến hành dự trữ tiền mặt để dảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc ( tỷ lệ này do NHNN quy
định ) của NHNN và đáp ứng khả năng thanh toán cho ngân hàng. Sau đó ngân hàng
với tiến hành cho vay và đầu tư.
+ Nghiệp vụ cho vay: cho vay là một quan hệ kinh tế, trong đó chủ thể này
chuyển giao quyền sử dụng một lượng giá trị ( có thể bằng tiền hoặc bằng hiện vật )
cho một chủ thể khác trong một khoảng thời gian nhất định, sau khoảng thời gian đó,
chủ thể đi vay phải trả cho chủ thể cho vay một khoản lớn hơn ban đầu phần dơi ra
người ta gọi là lãi cịn phần ban đầu thì gọi là gốc. Cho vay là hoạt động cơ bản nhất
của NHTM, nó đem lại phần thu nhập cho ngân hàng nhưng cũng chứa đựng nhiều

rủi ro nhất và đưa đến cho ngân hàng nhiều tổn thất nếu rủi ro xảy ra. Chính vì thế, để
đảm bảo an tồn và khả năng sinh lời thì các NHTM đề thực hiện các nguyên tắc sau:


Thứ nhất: Khách hàng phải cam kết với ngân hàng trả cả gốc lẫn lãi trong
khoảng thời gian xác định. Điều này rất quan trọng vì các khoản ngân hàng cho vay
hầu hết là các nguồn mà ngân hàng huy động được nên chính bản thân ngân hàng
cũng phải trả gốc và lãi trong thời gian xác định. Điều này để đảm bảo cho sự tồn tại
và phát triển của ngân hàng.
Thứ hai: khách hàng phải cam kết sử dụng số tiền mà khách hàng đã vay
ngân hàng đúng vào mục đích và khách hàng đã ký kết trong hợp đồng. Điều này sẽ
giúp cho ngân hàng dễ dàng quản lý các khoản cho vay hơn. Nếu ngân hàng thấy
khách hàng sử dụng khơng đúng mục đích hoặc trái với mục đích hoặc trái với quy
định của pháp luật thì ngân hàng phải xem xét và có cách giải quyết để tránh được rủi
ro nhất cho mình.
Thứ ba: ngân hàng tài trợ dựa trên phương án hoặc dự án có hiệu quả. Khách
hàng phải chứng minh rằng số vốn mà mình vay ngân hàng sử dụng có hiệu quả và
ngân hàng có khả năng thu hồi lại được vốn. Ngân hàng sẽ tiền hành thu thập thơng
tin, phân tích, thẩm định và xem xét phương án, dự án có hiệu quả hay không. Nếu
ngân hàng thấy dự án không khả thi thì ngân hàng địi hỏi người vay phải có tài sản
đảm bảo khi vay ngân hàng.
+ Hoạt động đầu tư: Ngân hàng thường nắm giữ chứng khoán. Chứng khoán
của một ngân hàng là các tài sản có mang lại thu nhập quan trọng cho ngân hàng đó.
Vì chứng khốn có tính lỏng cao nên ngân hàng thường nắm giữ chứng khốn với
mục đích đảm bảo thanh khoản, đa dạng hóa tài sản và tất nhiều là đem lại lợi tức cho
ngân hàng. Lợi tức từ việc nắm giữ chứng khốn được thể hiện ở chỗ đó là lãi và
thặng dư vốn ( thặng dư vốn là phàn chênh lệch giữa giá mua vào và giá bán ra).


Ngân hàng thường chia chứng khoán thành 2 loại: chứng khoản có tính thanh khoản

và chứng khốn kém thanh khoản. Chứng khốn có tính thanh khoản cao thường là
các chứng khốn an tồn, dễ bán, dễ quy đổi thành tiền, ít giảm giá nên thường có tỷ
lệ sinh lời thấp. Cịn các chứng khốn kém thanh khoản là các chứng khốn có mức
rủi ro cao nên thường các chứng khốn đó sẽ có tỷ lệ sinh lời cao. Chính vì thế, ngân
hàng có thể dự trữ thứ cấp bằng các chứng khốn có tính thanh khoản co thay cho
tiền mặt. Vì chúng có thể đảm bảo được tính thanh khoản vừa tăng tỷ lệ lợi tức cho
ngân hàng. Đồng thời, các ngân hàng sẽ dựa vào tình hình tài chính của cơng ty mà
ngân hàng đầu tư vào chứng khốn kém thanh khoản để tăng thêm thu nhập.
1.1.1.3.

Hoạt động khác

Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính, trung gian thanh toán lớn nhất
hiện nay. Ngân hàng sẽ đứng giữa người mua và người bán để giúp cho quá trình
thanh tốn trở nên nhanh chóng, hiệu quả, và thơng qua đó ngân hàng cũng nhận
được một khoản thu dưới hình thức phí, hoa hồng. Các dịch vụ mà ngân hàng cung
cấp khơng chỉ trong một quốc gia mà cịn trên phạm vi thế giới. Nó có ý nghĩa vơ
cùng quan trọng giúp cho việc thanh tốn khơng chỉ trong nước mà cịn với nước
ngồi trở nên nhanh chóng, hiệu quả góp phần và việc thúc đẩy q trình phát triển
kinh tế đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO thì giao dịch với nước
ngồi càng nhiều. Ngân hàng là một doanh nghiệp chuyên cung cấp các dịch vụ cho
cơng chúng và các doanh nghiệp. Vì thế, thành công của ngân hàng phụ thuộc rất
nhiều vào năng lực xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu và thực hiện
các dịch vụ đó hiệu quả. Chính vì lẽ đó, ngày nay, các dịch vụ ngân hàng ngày càng
trở nên phong phú, tiện ích, đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng trong hoạt động sản


xuất kinh doanh cũng như tiêu dùng. So với các nước phát triển như Mỹ, Nhật, ….
Họ có hơn 1000 dịch vụ thì ở Việt Nam, các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp còn khá
nghèo nàn, chủ yếu là các dịch vụ mua bán ngoại tê, nhận tiền gửi, cho vay, bảo lãnh,

bao thanh toán, chuyển và nhận tiền, các dịch vụ tư vấn ủy thác và các dịch vụ đại lý.
Các ngân hàng cần phải đa dạng hóa các dịch vụ trung gian để là tăng thêm thu nhập
từ dịch vụ, tăng uy tín , khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
1.2. Nguồn vốn của Ngân hàng Thương mại.
Tiền tệ chính là đối tượng kinh doanh của NHTM. Do đó, vốn của NHTM
chủ yếu là vốn bằng tiền. NHTM kinh doanh phần lớn dựa trên số vốn mà ngân hàng
huy động được ( ngoài ra ngân hàng phải có một số vốn nhất định gọi là vồn pháp
định ). Với số vốn đó ngân hàng kinh doanh để trang trải chi phí huy động và tích lũy
để phục vụ sự phát triển của ngân hàng. Có nhiều hình thức sử dụng vốn với các mức
độ sinh lời và rủi ro khác nhau. Vì thế, tùy vào định hướng cũng như cách thức thực
hiện của từng đơn vị. Ngân hàng đã làm nhiệm vụ chuyển tiền từ tay người tiết kiệm
sang tay của những nhà đầu tư đang cần vốn để sản xuất kinh doanh để làm tăng
nhanh quá trình luân chuyển vốn từ người thừa vốn sang người thiếu vốn. Và như thế,
ngân hàng đã làm nhiệm vụ phục vụ và kích thích mọi hoạt động phát triển kinh tế.
Như vậy, nguồn vốn của Ngân hàng Thương mại là nhữing giá trị tiền tệ do
ngân hàng tự lập hoặc huy động được, dùng để cho vay và đầu tư hoặc thực hiện các
nghiệp vụ kinh doanh khác.
Nguồn vốn đóng vai trị quan trọng, quyết định sự sống cịn của các NHTM
nguồn vốn chính là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh của mình.
Quyết định đến quy mơ hoạt động tín dụng và các hoạt động dịch vụ khác của ngân


hàng; quyết định đến năng lực cạnh tranh và đảm bảo uy tín của ngân hàng ở trong
nước cũng như trên trường quốc tế. Cơ cấu của nguồn vốn của NHTM có thể chia
thành 4 nhịm cơ bản như nguồn vốn chủ sở hữu, nguồn vốn tiền gửi, nguồn đi vay và
các nguồn khác.
1.2.1. Nguồn vốn chủ sở hữu
Nguồn vốn chủ sở hữu là những giá trị tiền tệ ma NHTM tạo lập được, nó
thuộc sở hữu của ngân hàng. Nó chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng nguồn vốn của
ngân hàng, song nó lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi ngân hàng được thành lập.

Với chức năng bảo vệ, nguồn vốn này được coi như tài sản đảm bảo đối với lịng tin
của khách hàng. Nó duy trì khả năng thanh tốn trong trường hợp ngân hàng gặp thua
lỗ. Nó cịn là căn cứ quyết định khả năng, khối lượng huy động của ngân hàng, qua
đó quyết định đến năng lực và vị thế phát triển của một NHTM.


Nguồn vốn hình thành ban đầu.

Tùy theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn gốc hình thành vốn ban đầu
khác nhau. Một NHTM muốn bắt đầu hoạt động thì ngân hàng đó phải đáp ứng được
u cầu của NHNN về mức vốn pháp định. Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải
có để thành lập ngân hàng do pháp luật quy định. Nó khác với vốn điều lệ vì vốn điều
lệ là vốn do các cổ đơng đóng góp và được ghi vào điều lệ hoạt động của ngân hàng
và theo quy định tối thiểu nó phải bằng với vốn pháp định. Khi bước vào hoạt động vì
nguồn vốn này được ngân hàng thể hiện dưới dạng: văn phịng, trụ sở, trang thiết bị
máy móc, dự trữ, … và ngân hàng không được phép sử dụng vốn này chia lợi tức
cũng như trích lập quỹ phúc lợi khen thưởng.


Trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay, với sự gia tăng các loại hình ngân hàng,
vốn điều lệ cũng được hình thành tùy thuộc vào đặc trưng của từng hình thức sở hữu
theo nhiều cách rất khác nhau. Đối với các ngân hàng tư nhân, vốn điều lệ là vốn sở
hữu riêng của chính nó và được hình thành sau một q trình tích tụ, tập trung vốn.
Ngược lại, đối với các ngân hàng quốc doanh được phép hoạt động với số vốn ban
đầu do NHNN cấp. Vốn điều lệ của các NHCP thì do các cổ đơng đóng góp dưới hình
thức mua cổ phiếu, cịn đối với các ngân hàng liên doanh thì vồn điều lệ là sự góp
vốn của các ngân hàng bên trong và ngồi nước.


Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động.


Trong suốt quá trình hoạt động ngân hàng, vốn điều lệ khơng phải là cố định
mà nó có thể được bổ sung và tăng dần theo các hình thức: ngân sách nhà nước cấp
thêm, huy động thêm từ các cổ đông, lợi nhuận bổ sung, …. tùy thuộc vào điều kiện
cụ thể và tùy thuộc vào từng ngân hàng.


Cổ phần phát hành thêm, ngân sách nhà nước cấp thêm

Để mở rộng quy mô hoạt động, tăng cường khả năng chống đỡ các rủi ro,
tăng cường vốn NHTM cổ phần có thể huy động thêm bằng con đường phát hành
thêm cổ phiếu ( theo các phương thức có thể là phát hành thêm cổ phiếu thường hoặc
phát hành thêm cổ phiếu ưu đãi), các NHTM thuộc sở hữu của nhà nước thì có thể
xin chấp thêm vốn ngân sách, các ngân hàng tư nhân, liên doanh thì có thể cùng nhau
góp thêm vốn.


Lợi nhuận bổ sung.


Khi ngân hàng hoạt động hiệu quả và thu được lãi, chủ ngân hàng có xu
hướng gia tăng vốn chủ sở hữu bằng cách là chuyển một phần thu nhập rịng thành
vốn đầu tư. Tỷ lệ tích lũy này tùy thuộc vào khả năng hoạt động cũng như chính sách
gia tăng vốn của mỗi chủ ngân hàng khác nhau. Những ngân hàng lâu năm, thu nhập
ròng của họ lớn, nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận của họ sẽ cao hơn so với vốn của
chủ hình thành ban đầu.


Các quỹ


Ngồi vốn hình thành ban đầu, vốn bổ sung trong quá trình hoạt động, nguồn
vốn của ngân hàng do các quỹ tạo nên. Các quỹ được coi là nguồn vốn chủ sở hữu
của ngân hàng và hàng năm được ngân hàng bổ sung từ lợi nhuận ròng từ ngân hàng
này. Ngân hàng thì có rất nhiều quỹ nhưng tùy theo quy định của từng quốc gia, các
ngân hàng phải thực hiện lập các quỹ khác nhau. Thông thường các NHTM sẽ lập các
quỹ: quỹ dự phòng tổn thất, quỹ này dùng để bù đắp phần còn lại của những tổn thất,
thiệt hại về tài sản xảy ra trong quá trình hoạt động và nó được hình thành từ lợi
nhuận hàng năm; quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, nó được trích lập theo tỷ lệ phần
trăm nhất định trên tổng lợi nhuận ròng ( do pháp luật của từng nước quy định ) các
NHTM trích lập 5% lợi nhuận sau thi nộp thế thu nhập doanh nghiệp là luật của Việt
Nam, và mức tối đa của quỹ này không vượt quá mức vốn điều lệ thực có của
NHTM; quỹ đầu tư phát triển; quỹ bảo toàn vốn; …


Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành vốn cổ phần.

Các khoản vay trung và dài hạn của các NHTM có khả năng chuyển đổi
thành vốn cổ phần như trái phiếu có thể chuyển đổi có thể được coi là một bộ phận
của vốn chủ sở hữu của ngân hàng ( vốn bổ sung ) do chúng có một số đặc điểm như


sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa đất đai và có thể khơng hồn trả khi nó đến
hạn. Nguồn vốn này thực sự là một cơng cụ hữu hiệu đối với ngân hàng trong việc gia
tăng vốn chủ sở hữu trong khi đó khơng làm mất đi quyền kiểm sốt của các cổ đơng
hiện tại.
1.2.2. Nguồn tiền gửi
Nguồn tiền gửi của NHTM là giá trị tiền tệ mà các NHTM huy động được từ
các tổ chức và các cá nhân trong xã hội qua nghiệp vụ tiền gửi, thanh toán, các dịch
vụ kinh doanh khác và được dùng để làm vốn kinh doanh.
Bản chất của nguồn vốn này chính là tài sản thuộc các sở hữu khác nhau.

Ngân hàng chỉ có quyền sử dụng chứ khơng hề có quyền sở hữu và ngân hàng phải có
trách nhiệm hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi khi đến hạn đối với tiền gửi có kỳ hạn và
với tiền gửi khơng kỳ hạn thì ngân hàng phải có trách nhiệm hồn trả khi họ có nhu
cầu rút vốn. Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM.
Tiền gửi của khách hàng chiếm khoảng 60 – 70 % trong tổng nguồn tiền của ngân
hàng – nó chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn.
Để có được một lượng vốn lớn, để có được nguồn tiền chất lượng ngày càng
cao thì NHTM đã đưa ra và thực hiện với nhiều hình thức huy động khác nhau:


Tiền gửi thanh toán.

Tiền gửi thanh toán ( tiền gửi giao dịch hoặc tiền gửi thanh toán) là tiền của
các doanh nghiệp và các cá nhân gửi vào ngân hàng nhờ ngân hàng giữ và thanh toán
hộ. Trong phạm vi số dư cho phép thì các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá
nhân đều được ngân hàng thực hiện. Với nội dung chi trả như thế và việc sử dụng séc


để thanh tốn nên tài khoản tiền gửi khơng kỳ hạn cịn được gọi là tài khoản tiền gửi
thanh tốn hoặc tài khoản tiền gửi có thể phát hành séc.
Các khoản thu của các cá nhân, doanh nghiệp và các tổ chức đều có thể
nhập vào tiền gửi thanh tốn theo yêu cầu của họ. Lãi suất của tiền gửi thanh tốn rất
thấp ( cũng có thể bằng khơng) nhưng thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng
các dịch vụ của ngân hàng với một mức phí ưu đãi. Thủ tục mở tài khoản tiền gửi
thanh toán rất đơn giản và khách hàng chỉ sử dụng thanh toán trong phạm vi số dư
của mình. Một số ngân hàng cho khách hàng sử dụng tài khoản tiền gửi thanh toán
với tài khoản cho vay ( gọi là thấu chi – là chi trội trên số dư có tài khoản tiền gửi
thanh tốn )



Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, các TCXH.

Nhiều khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và các TCXH sẽ được chi trả
sau một thời gian xác định. Vì thế trong khoảng một thời gian nhất định các cá nhân,
tổ chức này có số tiền nhàn rỗi muốn gửi vào ngân hàng nhằm mục đích an tồn và
lợi nhuận. Tiền gửi thanh tốn tuy thuận lợi trong thanh tốn nhưng lãi suất nhận
được từ nó lại rất thấp. Để đáp ứng nhu cầu tăng thêm thu nhập của người gửi tiền
các ngân hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi có kỳ hạn. Đối với loại tiền gửi có kỳ hạn
thì các cá nhân, doanh nghiệp, TCXH sẽ khơng được sử dụng các hình thức thanh
tốn đối với tiền gửi thanh toán để áp dụng với loại tiền gửi này. Họ sẽ nhận lại được
khoản tiền mà họ gửi vào ban đầu ( gốc ) cộng với tiền lãi khi mà khoản tiền đó tới
thời gian đáo hạn, nếu khách hàng rút tiền đó trước hạn thì khách hàng có thể khơng
được hưởng lãi hoặc sẽ được hưởng lãi suất không kỳ hạn.


Tiền gửi tiết kiệm của dân cư.


Xét về bản chất đây là tiền cảc các tầng lớp dân cư tạm thời chưa sử dụng đến.
Họ gửi vào ngân hàng với mục đích tích lũy một cách an tồn và hưởng lãi từ số tiền
đó. Tiền gửi tiết kiệm là một dạng đặc biệt để tích lũy tiền tệ trong lĩnh vực tiêu dùng
cá nhâ. Trên thực tế, trong nền kinh tế hiện nay tiền gửi tiết kiệm của dân cư đã được
phát triển thành tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn. Tiền
gửi tiết kiệm có kì hạn là khoản tiền có sự thỏa thuận về thời hạn gửi và rút tiền, có
mức lãi suất cao hơn so với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ
hạn đã được ngân hàng đa dạng hóa thành thành nhiều kỳ hạn khác nhau với các mức
lãi suất tương ứng khác nhau nhằm thỏa mãn yêu cầu của mọi đối tương khách hàng.
Khoản tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là khoản tiền gửi tiết kiệm mà có thể rút ra bất
cứ lúc nào song nó có mức lãi suất thấp hơn so với tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn và nó
khơng được sử dụng các cơng cụ thanh tốn để chi trả cho người khác.

Hiện nay, nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các ngân hàng đều cố
gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách
mở rộng mạng lưới huy động và đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất thì
cạnh tranh và hấp dẫn. Nhận tiết kiệm bằng vàng, ngoại tê, và khách hàng có thể sử
dụng sổ tiết kiệm đó để thế chấp vay vốn.


Tiền gửi của các ngân hàng khác.

Để giảm thiểu chi phí dịch vụ, nhằm mục đích nhờ thanh tốn hộ và một số
mục đích khác thì các NHTM có thể gửi tiền tại ngân hàng khác để đỡ mất tiền phí
dịch vụ. Với hệ thống banknet và smartlink hiện nay việc gửi tiền ở ngân hàng khác
đã có quy mơ lớn hơn…


Tóm lại, nguồn tiền gửi là cơng cụ chính đối với hoạt động kinh doanh của
NHTM. Nó chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, giữ vai
trong vô cùng quan trọng trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Do phạm vi sử
dụng nguồn tiền gửi của các NHTM bị hạn chế so với vốn chủ sở hữu, nhưng nếu các
ngân hàng sử dụng tốt số vốn này thì khơng những nguồn lợi của ngân hàng được
tăng lên mà cịn tạo cho ngân hàng có uy tín ngày càng cao. Vì thế, sẽ tạo cho ngân
hàng mở rộng được vốn và góp phần mở rộng quy mơ hoạt động kinh doanh của ngân
hàng.
1.2.3. Nguồn vốn đi vay
Tiền gửi là nguồn vay quan trọng nhất của ngân hàng. Nhưng khi mà các
NHTM đã sử dụng hết vốn khả dụng mà vẫn không đủ được vốn để hoạt động thì các
NHTM sẽ phải đi vay vốn để bổ sung vào nguồn vốn để đảm bảo cho quá trình hoạt
động của mình. Vốn đi vay là quan hệ vay vốn giữa NHTM với NHNN hoặc giữa
NHTM với nhau, với các TCTD khác hoặc vay trên thị trường. Theo đối tượng vay,
tiền vay được chia thành ba loại bao gồm vay NHNN, vay các TCTD và vay trên thị

trường.


Vay Ngân hàng Nhà nước ( vay Ngân hàng Trung ương)

Vay NHNN là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả khi
NHTM thiếu hụt dự trữ, thiếu khả năng chi trả hoặc quá kẹt vốn. NHNN cho các
NHTM vay chủ yếu dưới hình thức là tái chiết khấu ( hoặc tái cấp vốn ). Các thương
phiếu đã được các ngân hàng chiết khấu trở thành tài sản của họ. Khi nào cần vốn,
ngân hàng sẽ mang những thương phiếu này đến NHNN để thực hiện việc tái chiết
khấu. Việc này sẽ làm cho lượng thương phiếu của các NHTM giảm đi và dự trữ về


tiền mặt hoặc tiền gửi tại NHNN tăng lên. NHNN điều hành việc vay mượn này rất
chặt chẽ. Trong trường hợp mà NHTM khơng có thương phiếu thì NHNN sẽ cho
NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức.


Vay các TCTD khác.

Đây là nguồn mà các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức
tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng do các NHTM trong q trình hoạt động
cũng có lục bị thiếu hụt dự trữ hoặc thiếu hụt tiền mặt. Vì thế các NHTM buộc phải
vay mượn các tổ chức tín dụng. Khi các TCTD đang có dự trữ nhiều hơn so với u
cầu thì có thể sẵn lịng cho các ngân hàng khác vay để tiềm kiếm lãi suất cao hơn.
Ngược lại, khi ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm
bao thanh toán. Nguồn vay mượn từ các ngân hàng khác là để dáp ứng nhu cầu dự trữ
và chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nguồn này còn dùng để bổ sung hoặc
thay thế cho nguồn vay mượn từ NHNN. Nguồn vốn đi vay này chiếm một tỷ trọng
nhỏ, không phải là kênh cung cấp vốn chính cho NHTM nhưng đóng vai trị vơ cùng

quan trọng trong nguồn vốn của NHTM. Nó chính là phao cứu sinh cuối cùng đối với
các ngân hàng, là yếu tố quan trọng đảm bảo sự phát triển thông suốt và liên tục của
các NHTM.


Vay trên thị trường vốn.

Bên cạnh việc vay NHNN, vay các TCTD khác thì các NHTM cịn có thể vay
trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn bằng cách phát hành các giấy nợ hay nói cách
khác là phát hành các chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu và trái phiếu. Thực chất nghiệp vụ
này là ngân hàng huy động vốn tiền tệ bằng cách phát hành các chứng từ có giá. Rất
nhiều các NHTM thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn dẫn đến không đáp ứng được


nhu cầu cho vay trung và dài hạn.
Khả năng huy động vốn của thị trường thông qua việc phát hành phiếu nợ
phụ thuộc vào 3 yếu tố:
Thứ nhất: Mức độ chấp nhận của nhân dân;
Thứ hai: NHNN có khuyến khích phát hành phiếu nợ hay không;
Thứ ba: hiệu quả của việc sử dụng vốn vay được.
Nguồn huy động này thì thường không cần tài sản đảm bảo. Các ngân hàng
lớn, uy tín thì mức độ ưa thích các cơng cụ tài chính của ngân hàng này đối với dân
chúng cũng cao. Trong khi đó, các ngân hàng nhỏ thường vay gián tiếp thông qua các
ngân hàng đại lý hoặc nhờ sự bảo lãnh của ngân hàng lớn.
1.2.4. Các nguồn khác
Trong q trình hoạt động, nguồn vốn của các NHTM cịn bao gồm cả nguồn
ủy thác, nguồn trong thanh toán và tiền khác.


Nguồn ủy thác:


Thông qua các nghiệp vụ đại lý của ngân hàng, thực hiện các dịch vụ ủy
thác như ủy thác cho vay, ủy thác đầu tư, ủy thác giải ngân, … các nguồn này tạo nên
một lượng vốn đáng kể trong quá trình thu, chi hộ khách hàng, làm đại lý cho các
TCTD khác, nhận và chuyển vốn cho khách hàng hay một dự án đầu tư.
Khi thực hiện các dịch vụ này, mạng lưới các NHTM được sử dụng như là
kênh dẫn vốn tới các mục tiêu. Do vậy, vốn được hình thành từ nguồn ủy thác khơng
mất chi phí.




Nguồn trong thanh toán:

NHTM cũng tạo được một khoản vốn gọi là vốn trong thanh toan trong quá
trình làm trung gian thanh tốn. Vốn trên tài khoản mở thư tín dụng ( L/C ), tài khoản
tiền gửi séc bảo chi, séc định mức và các khoản tiền phong tỏa do ngân hàng chấp
nhận các hối phiếu thương mại … Những ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong
đồng tài trợ có kết số dư từ tiền của các ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện
cho vay.


Tiền khác:

Bao gồm các khoản nợ chưa đến hạn thanh toán như lương chưa trả, thuế
chưa nộp….
1.3.

Hoạt động huy động vốn của NHTM


Như đã trình bày ở phần 1.2, nguồn vốn huy động là nguồn vốn chính, chiếm
tỷ trọng lớn nhất và chủ yếu nhất trong nguồn vốn của NHTM. Do đó, hoạt động huy
động vốn là hoạt động chính và có vai trị vơ cùng to lớn đối với sự phát triển của
ngân hàng. Một ngân hàng lớn và có uy tín là ngân hàng có nguồn vốn huy động dồi
dào.
1.3.1. Vai trò của vốn đối với ngân hàng.
Vốn là biểu hiện bằng tiền của tồn bộ tài sản hữu hình và vơ hình được đầu
tư vào hoạt động kinh doanh. Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào muốn hoạt động kinh
doanh thì đều phải có vốn, vì vốn phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng
kinh doanh. Với đặc thù là kinh doanh chủ yếu dựa trên đồng vốn vay mượn của
người khác. Nguồn vốn có vai trị vơ cùng quan trọng đối với sự sống cịn của


NHTM.


Vốn là cơ sở để các NHTM tổ chức mọi hoạt động kinh doanh.

Vốn là điều kiện bắt buộc đối với các NHTM để được phép hoạt động kinh
doanh. Nó là cơ sở để ngân hàng hoạt động kinh doanh và đảm bảo khả năng phát
triển lâu dài của các NHTM: trước hết, ngay khi bước vào hoạt động các ngân hàng
cần vốn để mua đất đai, xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị máy
móc…… và các điều kiện làm việc khác. Với hàng hóa đặc biệt mà ngân hàng kinh
doanh thì vốn khơng chỉ là phương tiện kinh doanh mà còn là đối tượng kinh doanh
chủ yếu của ngân hàng. Do đó, khi tiến hành hoạt động kinh doanh, ngân hàng không
thể chỉ dựa và nguồn vốn ban đầu mà phải thực hiện các nghiệp vụ huy động vốn từ
các nguồn khác nhau. Không những thế, quy mơ của ngân hàng cịn phụ thuộc rất
nhiều vào nguồn vốn của ngân hàng. Những ngân hàng có nhiều vốn hơn bao giờ
cũng sẽ có thế mạnh trong cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu của khách hàng tốt hơn, và dễ
dàng thâm nhập vào thị trường hơn. Ngoài nguồn vốn chủ sở hữu ban đầu là điều

kiện để ngân hàng được thành lập và hoạt động thì ngân hàng ln ln phải bổ sung
cho nguồn vốn của mình bằng các hoạt động huy động vốn của mình trong suốt thời
gian dài hoạt động.


Vốn quyết định quy mô của ngân hàng trong hoạt động tín dụng và các

hoạt động khác.
Vốn của ngân hàng có tính chất quyết định đến quy mô hoạt động của ngân
hàng. Thông thường, so với các ngân hàng lớn thì các ngân hàng nhỏ có quy mô hoạt
động nhỏ hơn, các khoản mục đầu tư và cho vay kém đa dạng hơn. Trong khi đó thì
các ngân hàng lớn họ có vốn lớn nên dễ dàng mở rộng phạm vi đầu tư cho vay, không
chỉ trên địa bàn mình mà cịn hướng ra ngồi khu vực và quốc tế. Những ngân hàng


có vốn lớn, họ sẽ dễ dàng hơn trong việc đa dạng hóa các kỳ hạn và lãi suất linh hoạt
của các khoản mục cho vay và đầu tư.
Vốn có tầm quan trọng lớn trong việc kinh doanh của ngân hàng. Trong nền
kinh tế với sự cạnh tranh của các ngân hàng rất gay gắt thì các ngân hàng khơng dự
đốn, điều chỉnh cơng tác huy động để duy trì nguồn vốn thì có thể bỏ qua nhiều cơ
hội để phát triển.


Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng.

Nguồn tiền gửi của dân cư và các tổ chức kinh tế phải hoàn trả cho họ khi có
yêu cầu nên ngân hàng phải thường xuyên đối mặt vứi nhu cầu rút tiền của khách
hàng. Khi mà vốn khả dụng của ngân hàng càng cao thì khả năng chi trả cho việc
thanh tốn của ngân hàng càng lớn. Do đó, loại trừ các nhân tố khác, khả năng thanh
toán của ngân hàng tỷ lệ thuận với vốn của ngân hàng.

Để được coi là có uy tín trên thị trường thì các NHTM phải đáp ứng tốt nhất,
nhanh nhất các yêu cầu của khách hàng trong đó có u cầu thanh tốn. Ngân hàng có
thể sẽ mất lòng tin của khách hàng và hơn nữa dễ bị lan truyền trong dân chúng dẫn
đến việc rút tiền hàng loạt khi mà ngân hàng không thể đáp ứng các yêu cầu của
khách hàng ngay ngay lập tức khi đó dẫn đến việc ngân hàng mất khả năng thanh
tốn, phá sản và có thể gây ra khủng hoảng tài chính.
Vì vậy, việc nâng cao hoạt động huy động vốn để tạo ra nguồn vốn lớn trong
ngân hàng đã gián tiếp nâng cao khả năng thanh toán cũng như uy tín ngân hàng.


Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng.

Năng lực cạnh tranh của mỗi ngân hàng đang là vấn đề cấp bách của các nhà
quản lý ngân hàng trong nền kinh tế hiện nay khi kinh doanh ngân hàng đang là một


lĩnh vực có tốc độ phát triển vượt bậc. Để có thể thu hút được khách hàng gửi tiền thì
ngân hàng phải có một tiềm lực tài chính mạnh và ổn định, tạo cho khách hàng lòng
tin an tâm khi gửi tiền vào ngân hàng. Tiềm lực tài chính mạnh được xây dựng trên
cơ sở nguồn vốn lớn. khi đó ngân hàng có điều kiện hơn trong việc mở rộng quan hệ
tín dụng đối với khách hàng. Vốn lớn làm tăng quyền chủ động về kỳ han, thời hạn,
quy mô, lãi suất nữa. Như vây thì các ngân hàng mở rộng quymô kinh doanh, tăng
doanh thu, bổ sung thêm nguồn vốn chủ sở hữu và cịn đa dạng hóa các danh mục đầu
tư….
Vốn có vai trị quyết định trong việc thực hiện các hoạt động kinh doanh của
ngân hàng. Ngân hàng luôn luôn phải nâng cao các hoạt động huy động vốn của mình
về cả số lượng và chất lượng để đảm bảo sự phát triển lâu dài.
1.3.2. Các hình thức huy động vốn.
Theo các tiêu thức khác nhau thì có thể phân các hình thức huy động vốn
thành các loại khác nhau:



Huy động vốn từ dân cư:

Ngân hàng huy động vốn từ dân cư thông qua tiết kiệm, mở và duy trì việc sử
dụng tài khoản tiền gửi của khách hàng. Trong nền kinh tế phát triển như hiện nay,
đời sống của dân cư ngày càng được nâng cao thì ngồi khoản tiền tiêu dùng các tầng
lớp dân cư cịn có các khoản thu khác tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng đến. Nhằm
mục đích an tồn và sinh lời, họ thường sử dụng các hình thức đầu tư như mua vàng,
ngoại tệ mạnh, … các hình thức này thường mang lại lợi nhuận cao nhưng rủi ro mà
chúng mang lại cũng rất cao. Do đó, trong đại bộ phận dân cư đều chọn hình thức gửi
tiền vào ngân hàng để đảm bảo được tính an tồn của vốn và mang lại lại nhuận từ


những khoản tiền đó. Vì thế ngân hàng huy động vốn từ dân cư thông qua tiết kiệm,
mở và duy trì việc sử dụng tài khoản tiền gửi khách hàng.


Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: đây là phần thu nhập của người dân

gửi vào ngân hàng nhằm mục tiêu an tồn và sinh lời. Sổ tiết kiệm khơng dùng để
thanh tốn được nhưng nó có thể dùng để thế chấp vay vồn ngân hàng nếu được ngân
hàng cho phép.
Theo kỳ hạn thì tiền gửi được chia ra tiết kiệm có kỳ hạn và tiết kiệm khơng
kỳ hạn. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn mang lại giá trị cốt lõi là sinh lời. Tiền gửi tiết
kiệm không kỳ hạn là hình thức mà người gửi có thể rút vốn ra bất kỳ lúc nào để
phục vụ nhu cầu sử dụng và hình thức này thì có lãi suất thấp.


Tài khoản tiền gửi cá nhân: đây là loại tài khoản tiền gửi để khách


hàng gửi vào ngân hàng những khoản tiền nhàn rỗi tạm thời chưa dùng đến nhằm
mục đích sinh lời hoặc để sử dụng làm các phương tiên thanh toán qua ngân hàng
như ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu …. Tùy vào thỏa thuận giữa ngân hàng và khách
hàng mà các tk này có thể có kỳ hạn hoặc không kỳ hạn và được thực hiện các giao
dịch thanh tốn thơng qua ngân hàng.
Từ nguồn này, ngân hàng có thể huy động vốn được khá lớn mà chi phí lại rất
thấp ( hầu như là khơng kỳ hạn nên ngân hàng chỉ phải trả lãi suất không kỳ hạn )
nên nó khơng ổn định khách hàng có thể gửi thêm và rút ra bất cứ khi nào. Nếu ngân
hàng sử dụng nguồn này quá nhiều thì nguy cơ trong rủi ro thanh tốn là rất cao. Cịn
ngược lại, nếu ngân hàng lại dự trữ nhiều thì lại quá lãng phí. Vì thế, để sử dụng
được nguồn này hiệu quả thì ngân hàng phải nghiên cứu để tìm ra được tỷ lệ phù hợp
trong việc sử dụng nguồn vốn này.




Huy động vốn từ tác TCKT

Đây là khoản tiền gửi của các TCKT trong quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh có khoản tiền nhàn rỗi chưa dùng đến và được gửi vào ngân hàng. Các khoản
tiền đó thường được gửi dưới 2 hình thức tiền gửi thanh tốn và tiền gửi có kỳ hạn


Tiền gửi thanh tốn: là khoản tiền gửi khơng kỳ hạn được dùng

để thanh tốn, chi trả mọt cách thường xuyên cho các hoạt động như mua bán hàng
hóa, dịch vụ phát sinh trong q trình sản xuất kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp,
tổ chức tín dung, tổ chức xã hội thì hình thức này rất an toàn và thuận tiện với khách
hàng là doanh nghiệp và các nhà kinh doanh.

Tiền gửi thanh toán thường được ngân hàng giữ trên hai loại đó là tài khoản
tiền gửi thanh toán và tài khoản tiền gửi vãng lai. Tài khoản thanh tốn thì dùng để
chi trả cho bên thứ 3 bằng sec hoặc chuyển khoản. Tài khoản vãng lai là tài khoản có
lúc dư nợ và có lúc dư có và được ngân hàng đáp ứng nhu cầu tín dung trong khoảng
thời gian nhất định.
Lãi suất của tiền gửi thanh tốn là rất thấp vì khách hàng có thể rút bất cứ lúc
nào nên ngân hàng phải dữ trữ để thanh tốn rất cao.


Tiền gửi có kỳ hạn: là khoản tiền mà khách hàng gửi ngân hàng

với sự thỏa thuận trước về thời gian rút tiền. Nguồn này có được chủ yếu do khách
hàng tích lũy và gửi với mục đích hưởng lãi. Đặc điểm của khoản tiền này là khơng
được dùng trong thanh tốn như tiền gửi thanh toán mà khách hàng sẽ rút khi đến hạn
và hưởng lãi suất cao nhưng nếu khách hàng mà rút khoản tiền đó trước hạn thì khách
hàng cũng phải chịu lãi suất rất thấp




Huy động vốn từ TCTC, TCTD:

Ngân hàng nhận mở và duy trì các tài khoản tiền gửi hoặc đi vay để huy động
vốn từ các TCTC, TCTD.
Trong thời gian hoạt động ngân hàng có thể phát sinh nhu cầu vay vốn do đã
sử dụng hết nguồn vốn nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về chi trả trong thanh
toán. Khi đó, ngân hàng phải vay vốn để bù đắp nhồn vốn thiếu hụt đó. Ngân hàng có
thể vay vốn để bù đắp nguồn vốn thiếu hụt đó và ngân hàng có thể vay từ NHNN,
TCTD, TCTC khác, nguồn khác…. ( đã được trình bày trong phần 1.2.3. )
Các nguồn vay vốn nói trên rất quan trọng vì nó đảm bảo khả năng hoạt động

của ngân hàng một cách bình thường.
1.4.

Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn.

Các doanh nghiệp muốn hoạt động tốt và phát triển thì khơng thể tách mình
ra khỏi mơi trường kinh tế, xã hội đó. Đối với NHTM là một trung gian tài chính thì
mối quan hệ giữa nó và các chủ thể còn lại trong nền kinh tế rất chặt chẽ.
Do đó các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động của NHTM là vô cùng phong
phú và được xem xét quan hai giác độ đó là nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan.
1.4.1. Các nhân tố chủ quan.
1.4.1.1. Trình độ công nghệ
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế tri thức địi hỏi ngân hàng phải ln
nâng cao trình độ cơng nghệ tin học của mình. Trình độ ngân hàng càng cao thì càng
có khả năng cung cấp nhiều dịch vụ tiện ích, phù hợp với nhu cầu của khách hàng, cơ


×