Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Các biện pháp hình thành và phát triển thị trường chứng khoán phát sinh ở việt nam trong điều kiện hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 88 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TÀI CHÍNH
HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
NGUYỄN THỊ THANH HOA
CÁC BIỆN PHÁP HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN PHÁI SINH
Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
HÀ NỘI – 2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TÀI CHÍNH
HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
NGUYỄN THỊ THANH HOA
CÁC BIỆN PHÁP HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN PHÁI SINH
Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY
Chuyên ngành: Kinh tế Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học:
TS. Nguyễn Hoài Lê
HÀ NỘI - 2011
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học,
độc lập của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và
có nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
NGUYỄN THỊ THANH HOA
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
UBCKNN Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
TTCK Thị trường chứng khoán
TTCKPS Thị trường chứng khoán phái sinh
CCPS Công cụ phái sinh


CKPS Chứng khoán phái sinh
NHTM Ngân hàng thương mại
TCTD Tổ chức tín dụng
SGDCK Sở giao dịch chứng khoán
TTLKCK Trung tâm lưu ký chứng khoán
HOSE Sở giao dịch chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh
HNX Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Số hiệu bảng,
biểu đồ
Tên bảng, biểu đồ Trang
Bảng 2.1
Quy mô hoạt động của TTCK Việt Nam đến
31/12/2010
29
Bảng 2.2 Giá trị công cụ tài chính phái sinh của một số
NHTM Việt Nam giai đoạn 2008 – 2009
42
Biểu đồ 2.1 Giá trị vốn hóa thị trường chứng khoán giai đoạn
2006 - 2010
28
Biểu đồ 2.2 Tỷ lệ doanh thu các sản phẩm phái sinh trên tổng
doanh thu của các NHTM Việt Nam
41
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Số hiệu sơ đồ Tên Sơ đồ Trang
Sơ đồ 3.1 Các giai đoạn triển khai TTCKPS tại HOSE
69
Sơ đồ 3.2 Dự kiến mô hình tổ chức quản lý thị trường giao
dịch thứ cấp cho CKPS tại HOSE

70
Sơ đồ 3.3 Quy trình giao dịch CKPS tại HOSE 72
LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã vận hành được 10 năm, và sự ra
đời của thị trường chứng khoán (TTCK) là biểu tượng đánh dấu một sự phát
triển mới của nền kinh tế Việt Nam, đồng thời cũng là một tác nhân quan
trọng thu hút sự quan tâm của nhà đầu tư trong và ngoài nước, tạo ra một
kênh dẫn vốn trung và dài hạn, hỗ trợ bổ sung cho kênh dẫn vốn ngắn hạn qua
hệ thống các tổ chức tín dụng, thúc đẩy nền kinh tế phát triển cũng như quá
trình hội nhập kinh tế, xã hội của Việt Nam.
Cùng với sự phát triển của TTCK, ở Việt Nam cũng đã hình thành thị
trường giao dịch các sản phẩm phái sinh và đang ngày càng khẳng định vai
trò quan trọng đối với việc thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế - xã hội. Các
công cụ chứng khoán phái sinh (CKPS) đã xuất hiện như hợp đồng hoán đổi
(swap), hợp đồng kỳ hạn (forward), quyền mua chứng khoán, quyền chọn
ngoại tệ đã được các ngân hàng triển khai và có xu hướng phát triển mạnh
mẽ. Mục tiêu quan trọng của việc hình thành và phát triển các công cụ CKPS
là phòng ngừa rủi ro. Bên cạnh đó CKPS đã được sử dụng một cách rộng rãi
nhằm tìm kiếm lợi nhuận và thực hiện các hoạt động đầu cơ.
Trên thực tế, thị trường giao dịch các loại công cụ phái sinh cũng đã
được xây dựng ở một mức độ nhất định, cụ thể là được xem như một trong
những hoạt động nghiệp vụ của hệ thống Ngân hàng thương mại (NHTM),
các tổ chức tài chính và trong thời gian gần đây đã được mở rộng đến các
doanh nghiệp và cá nhân. Hoạt động giao dịch công cụ phái sinh ngày càng
phát triển nhằm đáp ứng yêu cầu của các chủ thể trong nền kinh tế, nhất là các
NHTM, tổ chức tài chính, tín dụng và các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập
khẩu. Tuy nhiên, hoạt động giao dịch các công cụ CKPS vẫn mang tính tự
phát, tự do thiếu khung pháp lý điều chỉnh và không có sự giám sát của các cơ
quan quản lý Nhà nước, điều đó dẫn đến nhiều rủi ro với cả bên cung cấp và
bên mua các hợp đồng phái sinh, đồng thời có thể ảnh hưởng đến toàn bộ

TTCK nếu xảy ra đổ vỡ hoặc lừa đảo. Vì vậy đòi hỏi phải có một TTCKPS
chính thức, có sự quản lý của Nhà nước để đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ thể tham gia là một tất yếu khách quan.
Trước đòi hỏi khách quan của nền kinh tế và cũng nhằm thực hiện mục
tiêu hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường, việc nghiên cứu, đề
xuất các biện pháp nhằm xây dựng và phát triển TTCKPS ở Việt Nam đã trở
nên cấp bách.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên em đã quyết định chọn
đề tài: “Các biện pháp hình thành và phát triển thị trường chứng khoán
phái sinh ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay” để làm luận văn tốt nghiệp.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương.
Chương I: Tổng quan về chứng khoán phái sinh và thị trường chứng
khoán phái sinh.
Chương II: Thực trạng thị trường chứng khoán ở Việt Nam và các
điều kiện hình thành, phát triển thị trường chứng khoán phái sinh ở Việt
Nam.
Chương III: Các biện pháp hình thành và phát triển thị trường phái
sinh ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ CHỨNG KHOÁN PHÁI SINH VÀ
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN PHÁI SINH
1.1. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI CÔNG CỤ PHÁI SINH
1.1.1. Khái niệm chứng khoán phái sinh
Chứng khoán phái sinh là những công cụ được phát hành trên cơ sở những
công cụ đă có như cổ phiếu, trái phiếu, hàng hóa, tiền tệ, lãi suất và các chỉ số thị
trường nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc
tạo lợi nhuận. Hợp đồng tương lai, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn và
hợp đồng hoán đổi là những loại công cụ phái sinh phổ biến nhất.
Khác với chứng khoán vốn (cổ phiếu), hay chứng khoán nợ (trái phiếu),
các công cụ phái sinh còn được gọi là “chứng khoán điều kiện” không xác

nhận quyền chủ sở hữu hay quyền chủ nợ đối với tổ chức phát hành, mà xác
nhận các quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia như quyền ưu tiên, quyền
lựa chọn mua hay bán tài sản, quyền được thực hiện một cam kết hay nghĩa
vụ phải thực hiện cam kết đó. Do các công cụ phái sinh chỉ là các hợp đồng,
nên bất cứ cái gì cũng có thể được sử dụng để làm công cụ cơ sở. Thậm chí
các công cụ phái sinh có thể dựa trên những dữ liệu về thời tiết, như lượng
mưa hoặc số ngày nắng ở một vùng cụ thể.
1.1.2. Các loại công cụ phái sinh chủ yếu
1.1.2.1. Căn cứ vào phương thức giao dịch trên thị trường
Căn cứ vào phương thức giao dịch trên thị trường, người ta chia các
công cụ phái sinh thành 2 nhóm:
- Các CCPS không chính thức: là những công cụ được giao dịch (và
thỏa thuận mang tính cá nhân) một cách trực tiếp giữa hai bên, mua và bán,
mà không thông qua một Sở giao dịch hay định chế trung gian nào. Các
CCPS được giao dịch nhiều trên không chính thức thường là các hợp đồng
hoán đổi, hợp đồng kỳ hạn… Ngoài ra, một số CCPS khác cũng có thể được
giao dịch trên thị trường không chính thức như quyền chọn…
- Các CCPS niêm yết: là các công cụ được giao dịch thông qua các
Sở giao dịch các CCPS chuyên biệt hoặc các Sở giao dịch khác. Các Sở giao
dịch CCPS đóng vai trò là một trung gian trong tất cả các giao dịch, thu một
khoản ký quỹ ban đầu từ cả 2 phía giao dịch như một khoản bảo đảm. Các
CCPS được giao dịch chủ yếu trên các Sở giao dịch gồm: hợp đồng tương lai,
quyền chọn… Ngoài ra, một số CCPS cũng có thể được giao dịch trên các Sở
giao dịch.
1.1.2.2. Căn cứ theo các điều kiện hợp đồng
Công cụ phái sinh gồm một số loại chủ yếu sau:
a. Hợp đồng kỳ hạn (Forward)
Hợp đồng kỳ hạn là một thỏa thuận trong đó một người mua và một
người bán chấp thuận thực hiện một giao dịch hàng hóa với khối lượng xác
định, tại một thời điểm xác định trong tương lai với một mức giá được ấn định

vào ngày hôm nay.
b. Hợp đồng tương lai (Future)
Hợp đồng tương lai là một hợp đồng được chuẩn hóa, và được giao
dịch trên sở giao dịch. Đó là một thỏa thuận pháp lý chắc chắn giữa một
người mua (hoặc người bán) và một Sở giao dịch có uy tín hoặc trung tâm
thanh toán của Sở giao dịch đó, tại đó người mua (bán) đồng ý sẽ nhận (hoặc
giao) một loại tài sản gốc nhất định, tại một thời hạn xác định trong tương lai
theo một mức giá đã định trước. Thời hạn được ấn định theo đó các bên phải
tiến hành giao dịch được gọi là thời hạn thanh toán hay thời hạn giao nhận.
Mức giá theo đó các bên thỏa thuận giao dịch trong tương lai được gọi là giá
hợp đồng tương lai. Mức giá của tài sản gốc vào ngày giao hàng được gọi là
mức giá thanh toán bù trừ. Chức năng kinh tế cơ bản của các thị trường hợp
đồng tương lai là cung cấp một cơ hội cho những người tham gia thị trường
để phòng ngừa rủi ro về những biến động giá bất lợi.
Một số hợp đồng tương lai tài chính chủ yếu gồm có: Hợp đồng tương
lai chỉ số cổ phiếu; Hợp đồng tương lai lãi suất dài hạn; Hợp đồng tương lai
lãi suất ngắn hạn; Hợp đồng tương lai ngoại hối…
c. Hợp đồng quyền chọn (Option)
Một quyền chọn là một hợp đồng cho phép người nắm giữ nó được quyền
mua (nếu là quyền chọn mua) hoặc được quyền bán (nếu là quyền chọn bán) một
khối lượng nhất định tài sản gốc tại một mức giá xác định và trong một thời hạn
nhất định. Điểm chính trong hợp đồng quyền chọn đó là người nắm giữ có một
quyền, nhưng không phải là một nghĩa vụ bắt buộc. Điều này làm cho hợp đồng
quyền chọn khác biệt với hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng tương lai, khi mà người
nắm giữ có nghĩa vụ bắt buộc phải mua hoặc bán tài sản gốc.
Các tài sản gốc của quyền chọn có thể là cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái
phiếu, chỉ số trái phiếu, thương phẩm, tiền tệ hay hợp đồng tương lai.
Ngoài ra, khi đề cập đến quyền chọn chúng ta cũng phải kể đến một số
công cụ có các đặc điểm tương tự quyền chọn như: Quyền mua cổ phần;
Chứng quyền.

d. Hợp đồng hoán đổi (Swap)
Hoán đổi là hợp đồng thỏa thuận riêng giữa hai công ty để trao đổi tài
sản cơ sở trong tương lai theo cách thức được định sẵn. Hợp đồng hoán đổi
đầu tiên được giao dịch năm 1981, và đến nay đó là một công cụ phái sinh
được giao dịch với tỷ trọng lớn nhất trong số các công cụ phái sinh. Có rất
nhiều dạng hợp đồng hoán đổi như hoán đổi lãi suất, hoán đổi tiền tệ, hoán
đổi vốn, hoán đổi hàng hóa, nhưng hai loại hoán đổi lãi suất và hoán đổi tiền
tệ là phổ biết nhất.
1.1.2.3. Căn cứ vào tài sản cơ sở
Căn cứ vào tài sản cơ sở người ta chia các CCPS thành:
• CCPS hàng hóa: là các CCPS có tài sản cơ sở là các hàng hóa như:
cà phê, ngô, yến mạch, đậu nành, lúa mì, dầu thô… Các CCPS hàng hóa ban
đầu được hình thành với mục đích quản lý rủi ro, nhưng ngày nay chúng phát
triển phổ biến như là một công cụ đầu tư. Hầu hết các giao dịch trên thị
trường phái sinh hàng hóa là của những người không có nhu cầu đối với bản
thân hàng hóa đó. Họ chỉ đầu cơ dựa trên xu hướng biến động giá của các
hàng hóa, và hy vọng kiếm được tiền nếu giá biến động theo chiều hướng họ
dự báo.
• CCPS tài chính: là các CCPS có tài sản cơ sở là các công cụ tài
chính như: cổ phiếu, trái phiếu, lãi suất, tiền tệ, các chỉ số thị trường… Chính
những sự biến động về giá cả trên TTCK, lãi suất và tỷ giá hối đoái dẫn đến
ra đời các công cụ để quản lý rủi ro đó là các công cụ phái sinh tài chính.
CCPS đưa ra những bảo đảm chống lại những biến động bất lợi, hoặc làm
giảm bớt mức độ rủi ro trên TTCK, thị trường tiền tệ. Bên cạnh đó CCPS
cũng mang lại những cơ hội kiếm lời cho những người sẵn sàng chấp nhận rủi
ro. Trong các CCPS tài chính người ta lại chia ra CCPS sinh tiền tệ, CCPS
chứng khoán.
- CCPS tiền tệ: là các công cụ có tài sản cơ sở là các sản phẩm của thị
trường tiền tệ. Có thể kể ra một số công cụ phái sinh tiền tệ điển hình như:
hợp đồng hoán đổi lãi suất, hợp đồng hoán đổi tiền tệ, hợp động tương lai

ngoại hối, hợp đồng quyền chọn ngoại hối…
- CCPS chứng khoán: là các công cụ có tài sản cơ sở là các sản phẩm
của thị trường chứng khoán. Có thể kể ra một số công cụ phái sinh chứng
khoán chủ yếu như: hợp đồng tương lai chỉ số cổ phiếu, quyền chọn cổ phiếu,
quyền chọn trái phiếu, quyền chọn chỉ số cổ phiếu,…
1.2. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN PHÁI SINH
1.2.1. Khái niệm
Thị trường các chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành và mua đi
bán lại các chứng từ tài chính, như quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp
đồng quyền chọn.
1.2.2. Hoạt động của thị trường chứng khoán phái sinh
TTCKPS được hiểu như là sân chơi cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp
và các nhà tạo lập thị trường. Thực tế cho thấy, ở tất cả các nước khi mà thị
trường chứng khoán phát triển đạt đến tầm nhất định thì TTCKPS mới được
ra đời và chính thức đi vào hoạt động, lý do là bởi tính chuyên nghiệp và mức
độ phức tạp của thị trường. Ở bất kỳ thị trường nào, dù là thị trường vàng, bất
động sản, đô la hay chứng khoán cũng luôn tồn tại dưới hai hình thức: đó là
thị trường chính thức (hay còn gọi là thị trường giao dịch tập trung, thị trường
giao dịch tại Sở) và thị trường không chính thức (hay còn gọi là thị trường
OTC), và TTCKPS cũng vậy. Để tìm hiểu rõ về hoạt động của TTCKPS,
chúng ta cùng đi tìm hiểu về sự khác biệt về phương thức giao dịch, thành
viên giao dịch, công cụ phái sinh, các nhà tạo lập thị trường.
1.2.2.1. Về phương thức giao dịch
TTCKPS không chính thức là thị trường mà ở đó người mua và người
bán trực tiếp gặp nhau, trao đổi và mua bán, nghĩa là các bên tham gia giao
dịch không cần đến Sở hay phải thông qua bất kỳ một trung gian nào. Bên
mua và bên bán tự tìm đến nhau, tự do trao đổi, thỏa thuận và đi đến quyết
định mua bán cuối cùng. Nhìn chung, các bên mua bán tự thỏa thuận và ký
kết hợp đồng, không có điều khoản bắt buộc phải ký quỹ.
Còn TTCKPS giao dịch tại Sở là thị trường mà các hoạt động mua bán

công cụ phái sinh đều thông qua Sở Giao dịch (trực tiếp đến Sở hoặc thông
qua giao dịch trực tuyến). Sở đóng vai trò như là một tổ chức trung gian trong
tất cả các hoạt động mua bán, yêu cầu 2 bên mua bán trước khi tiến hành hoạt
động mua bán phải ký quỹ tại Sở như một điều kiện bảo đảm giữa 2 bên. Ở
thị trường này, ký quỹ là một quy định bắt buộc đối với các bên sau khi hợp
đồng được ký kết. Cơ chế ký quỹ được duy trì ở hai mức, đó là mức ký quỹ
ban đầu và mức ký quỹ duy trì. Mức ký quỹ ban đầu là mức ký quỹ được quy
định bắt buộc các bên phải thực hiện ký quỹ, tùy thuộc vào giá trị hợp đồng
ký kết mà Sở yêu cầu mức ký quỹ ban đầu các bên phải thực hiện là bao
nhiêu. Mức ký quỹ duy trì là mức ký quỹ tối thiểu mà các bên cần phải có
trước những biến động của giá trên thị trường. Nếu giá trị thị trường biến
động bất lợi cho bên mua hay bên bán, mà sau khi thực hiện bù trừ, mức ký
quỹ của họ bị giảm xuống thấp hơn mức ký quỹ duy trì, thì lập tức Sở sẽ yêu
cầu họ phải thực hiện lệnh ký quỹ bổ sung. Cũng cần lưu ý là ký quỹ ở đây có
thể là tiền, hoặc cũng có thể là các chứng khoán niêm yết trên thị trường
chứng khoán tập trung, tùy thuộc vào quy định pháp luật của mỗi quốc gia.
1.2.2.2. Về hàng hóa giao dịch
Ở TTCKPS không chính thức, các CCPS thường được sử dụng như:
hợp đồng hoán đổi, hợp đồng cam kết về tỷ lệ lãi suất kỳ hạn và hợp đồng
quyền chọn. Các điều khoản ghi trong hợp đồng không phải tuân thủ theo
chuẩn mực nào cả, và cũng không bị chi phối hay giám sát của điều luật nào
khác, mà ngược lại rất linh hoạt, dựa vào nhu cầu và thỏa thuận của chính
những người tham gia ký kết hợp đồng. Đây là điểm khác biệt cơ bản so với
TTCKPS tập trung. TTCKPS không chính thức ngày nay đang ngày càng
phát triển lớn mạnh.
Còn ở TTCKPS giao dịch tại Sở, CCPS được giao dịch phổ biến trên
thị trường là hợp đồng quyền chọn và hợp đồng tương lai. Hợp đồng giao
dịch tại Sở với các điều khoản ghi trong đó được chuẩn hóa về chất lượng
(thứ hạng), về thời gian, địa điểm, phương thức, quy mô hợp đồng…, và chịu
sự chi phối của các quy định tại Sở, hệ thống luật pháp.

1.2.2.3. Về thành viên giao dịch
Ở TTCKPS không chính thức các thành viên giao dịch chính là những
nhà đầu tư trực tiếp tham gia thực hiện giao dịch, họ không phải qua bất kỳ
trung gian nào. Còn ở TTCKPS giao dịch tại Sở thì lại khác, thành viên giao
dịch trên thị trường thường gồm có hai loại chính: thứ nhất, là thành viên giao
dịch với tư cách là chính chủ (là các nhà tạo lập thị trường và tự doanh); thứ
hai là thành viên giao dịch với tư cách là đại diện cho khách hàng (cá nhân
hoặc các định chế trong và ngoài nước). Ở TTCKPS giao dịch tại Sở, các nhà
tạo lập thị trường đóng vai trò rất quan trọng, gần như đóng vai trò quyết định
đến sự thành công hay thất bại của thị trường. Các nhà tạo lập thị trường có
thể là cá nhân hoặc tổ chức thực hiện đăng ký với Sở tham gia thị trường với
tư cách là nhà tạo lập thị trường. Và với tư cách này họ thường được hưởng
các ưu đãi đặc biệt như về thuế, điều kiện giao dịch…
1.2.3. Cấu trúc thị trường
1.2.3.1. Hệ thống pháp luật
Bất kỳ một thị trường hoạt động có tổ chức nào cũng đòi hỏi phải có hệ
thống các quy định, luật pháp cụ thể, rõ ràng và chặt chẽ, nhằm mục tiêu giúp
hoạt động của thị trường được diễn ra một cách công bằng, công khai, minh
bạch, để những bên mua hay bên bán trên thị trường có thể hoàn toàn yên tâm
cho những hoạt động giao dịch của họ. Họ được pháp luật bảo vệ cũng như
buộc phải tuân thủ những quy định của pháp luật.
Hệ thống luật pháp điều chỉnh liên quan đến các hoạt động trên
TTCKPS bao gồm các quy định về thể chế, cấu trúc thị trường, tổ chức vận
hành thị trường, thanh toán bù trừ. Ngoài ra, trong luật cũng cần có quy định
rõ vị trí, thẩm quyền của cơ quan quản lý trực tiếp thị trường có trách nhiệm
trong việc duy trì một TTCKPS an toàn, trật tự, công bằng và văn minh.
TTCKPS giao dịch tại Sở là thị trường của những hợp đồng được
chuẩn hóa. Chuẩn hóa ở đây được hiểu là chuẩn hóa về chất lượng, phương
thức, thời gian, địa điểm, quy mô hợp đồng…, ai là người đề ra những chuẩn
hóa đó, không ai khác chính là cơ quan quản lý và những điều đó được ghi rõ

ở trong luật và những quy định của Sở.
1.2.3.2. Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng đóng vai trò đặc biệt quan trọng trên TTCKPS. Cơ sở hạ
tầng tốt sẽ giúp các hoạt động giao dịch được diễn ra suôn sẻ và đem đến sự
thuận tiện cho các bên. Nếu như thời kỳ đầu phát triển của TTCKPS, các bên
tham gia mua bán phải tiến hành bằng cách la ó lên để tìm gặp những đối tác
mua bán thì ngày nay cơ sở hạ tầng đã phát triển vượt bậc, thay vì bằng cách
trên, họ có thể ngồi nhà online hay gọi điện thoại để mua bán thông qua người
môi giới (người trung gian) tại Sở hay còn được gọi là giao dịch trực tuyến.
Và các lệnh mua bán của họ sẽ được hiển thị trên bảng điện tử trực tuyến.
Nếu như họ đang ở vị thế mua trên thị trường, thông qua bảng điện tử
họ cũng có thể biết được tình hình giá bán và khối lượng bán trên thị trường
ra sao. Các hoạt động ký quỹ, bù trừ và thanh toán cũng được tiến hành bằng
công nghệ tin học hiện đại, giúp các hoạt động được diễn ra nhanh chóng và
đạt độ chính xác cao.
1.2.3.3. Hệ thống tạo lập thị trường
Hệ thống tạo lập thị trường bao gồm các cá nhân hay tổ chức đăng ký
là thành viên tại Sở. Và chỉ có TTCKPS giao dịch tại Sở mới có hệ thống các
nhà tạo lập thị trường, họ đóng vai trò quan trọng, không thể thiếu trong sự
thành công của TTCKPS. Đã có rất nhiều thị trường chỉ có thể có được những
thành công trong giao dịch, cũng như tạo ra bước ngoặt trong lịch sử phát
triển của thị trường khi có sự xuất hiện của các nhà tạo lập thị trường. Hình
thức giao dịch của các nhà tạo lập thị trường có thể là tham gia đấu giá mở
trên thị trường hay giao dịch tại sàn. Họ tham gia vào thị trường với tư cách là
những người giúp bình ổn thị trường. Các nhà tạo lập thị trường giao dịch tại
sàn, họ còn chịu sự chi phối, chỉ định về giá, khối lượng thực hiện giao dịch
tại Sở. Chính vai trò đặc biệt quan trọng của hệ thống các nhà tạo lập thị
trường, nên ở các nước đều có những quy định ưu tiên cho các đối tượng này,
ưu tiên ở đây có thể là ưu tiên về điều kiện giao dịch, về nghĩa vụ đóng thuế,
họ sẽ chỉ phải đóng thuế với mức ưu đãi hơn so với các đối tượng khác.

1.3. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN PHÁI SINH
1.3.1. Hệ thống luật pháp
Lịch sử TTCKPS đã hình thành từ hàng trăm năm trước đây. Ban đầu
chỉ là các hình thức tổ chức thị trường hết sức sơ khai, thường là mang tính tự
phát, thiếu sự chặt chẽ trong quản lý. TTCKPS ban đầu hình thành dưới hình
thức là thị trường phi tập trung, mang nhiều tính tự phát. Nghĩa là các CCPS
được mua bán, chuyển nhượng ở nhiều địa điểm phân tán, quy mô giao dịch
nhỏ, diễn ra dưới hình thức hội họp, câu lạc bộ, phòng trà, quán cà phê. Hầu
hết việc mua bán CCPS diễn ra trực tiếp giữa người mua và người bán. Các
giao dịch thực hiện dựa trên các thỏa thuận, và quá trình thanh toán tiền và
chứng khoán giữa các bên được thực hiện thông qua việc chuyển giao vật
chất. Quá trình giao dịch này được tiến hành thủ công trong điều kiện quy mô
thị trường còn nhỏ, số lượng người sở hữu tham gia chưa nhiều. Các bên tham
gia giao dịch chỉ bị ràng buộc bởi những điều khoản của chính họ đặt ra mà
được ghi trong hợp đồng ký kết, ngoài ra họ không phải chịu bất kỳ một loại
hình pháp lý nào khác ràng buộc hay chi phối. Cũng chính vì các phương thức
thanh toán và giao dịch hoàn toàn thủ công, mất nhiều thời gian thực hiện như
vậy nên đã phát sinh rất nhiều rủi ro như rủi ro về thanh toán, rủi ro về mất
mát, hư hỏng chứng khoán, rủi ro đối tác…
Trải qua quá trình phát triển đầy thăng trầm, TTCKPS không còn mang
tính tự phát và tự do như trước nữa, nó đã trở thành một thể chế tài chính bậc
cao được tổ chức hết sức chặt chẽ. Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế
đã dẫn đến yêu cầu về một mô hình TTCKPS hiện đại có khả năng xử lý an
toàn một khối lượng giao dịch khổng lồ trong khi vẫn đảm bảo được thời gian
thanh toán nhanh chóng. Để tổ chức một TTCKPS như vậy đòi hỏi phải có
một hệ thống luật pháp đồng bộ, phù hợp và cần thiết để đảm bảo các mục
tiêu cơ bản sau:
- Bảo vệ người đầu tư: Về mặt nguyên tắc, việc điều hành và giám
sát TTCK phải đảm bảo bảo vệ cho tất cả hệ thống thị trường, bảo vệ mọi đối

tượng tham gia thị trường, từ người phát hành, người kinh doanh trung gian,
người cung cấp các dịch vụ hỗ trợ và người đầu tư… Nhưng người đầu tư là
một bộ phận chiếm tỷ trọng lớn trong số các đối tượng tham gia thị trường, họ
là một bộ phận quan trọng nhất và cũng nhạy cảm nhất của thị trường, dễ bị
xâm phạm lợi ích nhất, dễ bị thiệt hại nhất và cần phải được chú trọng bảo vệ
hàng đầu. Chính vì vậy, tất cả các nước đều đặt mục tiêu bảo vệ người đầu tư
lên hàng đầu.
Các nhà đầu tư cần phải được bảo vệ không bị xâm phạm bởi các hoạt
động gian lận, lừa đảo, thao túng giá, nội gián, tung tin đồn sai sự thật, phong
tỏa thông tin, thiếu trung thực, công bằng… Yêu cầu công bố thông tin đầy
đủ, trung thực, kịp thời và công bằng là một trong những yếu tố quan trọng để
bảo vệ người đầu tư trên thị trường.
- Đảm bảo thị trường công bằng, ổn định và hiệu quả: Tính ổn định
của thị trường được đảm bảo trên cơ sở đảm bảo tính tin cậy, công bằng,
công khai và hiệu quả của thị trường. Với mục tiêu “ổn định” thị trường, nhà
nước phải tạo một thị trường có kỷ luật, trật tự, an toàn, không đổ bể, ít rủi ro
thì nhà nước cần phải xác định cho phép những đối tượng nào được tham gia
thị trường, tiêu chuẩn tham gia thị trường, xác định được phải quản lý cái gì
và giám sát cái gì để đảm bảo sự an toàn, ngăn chặn những hành vi lạm dụng,
phá hoại thị trường, khuyến khích các thành viên tham gia thị trường phải có
thái độ xây dựng thị trường.
- Đảm bảo sự phát triển của thị trường: Tạo môi trường, điều kiện
để thị trường phát triển toàn diện, có thể cạnh tranh, thích ứng với mọi thay
đổi thực tiễn. Với chức năng “phát triển”, nhà nước phải tạo động lực thúc
đẩy thị trường, các đối tượng tham gia thị trường. Nếu vai trò “duy trì ổn
định” tập trung vào việc giám sát thị trường, thì vai trò “phát triển” cần tập
trung vào việc phát triển hàng hóa, các loại hình công cụ cho thị trường,
phương tiện thị trường, chất lượng dịch vụ thị trường…
- Giảm rủi ro hệ thống: TTCK là một bộ phận của thị trường tài chính,
là nơi giao lưu các nguồn vốn của toàn xã hội, gắn bó hữu cơ trong sự phát triển

đồng bộ của hệ thống tài chính tiền tệ quốc gia và các lĩnh vực khác trong xã hội.
Chính vì vậy, rủi ro của nó ảnh hưởng, tác động đến toàn hệ thống tài chính tiền
tệ và kinh tế - xã hội. Có thể chỉ cần tác động tâm lý tiêu cực của một vài người
đầu tư sẽ dẫn đến sụt giá chứng khoán không cứu vãn nổi, hoặc ngược lại, dẫn
đến nhiều hệ quả xấu. Có thể chỉ do một công ty chứng khoán gặp rủi ro thanh
toán sẽ dẫn đến ảnh hưởng hàng loạt và lây lan toàn bộ thị trường. Hơn nữa,
TTCK là một hệ thống mở, có mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp đến toàn bộ hệ
thống thị trường tài chính và nền kinh tế - xã hội nói chung, thậm chí mang tính
toàn cầu, có thể coi nó là một mắt xích quan trọng trong chuỗi hệ thống kinh tế -
xã hội, nên ảnh hưởng lây lan rất rộng.
Mặc dù không thể mong đợi Nhà nước có thể ngăn chặn được những đổ
vỡ tài chính của các tổ chức trung gian thị trường, nhưng cần phải đảm bảo
giảm thiểu tối đa những rủi ro đổ vỡ tài chính như đặt ra các quy định về vốn
tối thiểu và các quy tắc cẩn trọng đối với các tổ chức này. Mặt khác, khi có
những rủi ro tài chính xảy ra, Nhà nước cần phải có biện pháp giảm thiểu
những tác động lây lan, cô lập hóa rủi ro trong phạm vi một tổ chức. Nếu có
sự cố xảy ra, các tổ chức phải tuân thủ các quy định quản lý để đảm bảo tránh
mất mát cho khách hàng, các đối tác kinh doanh và đổ vỡ dây chuyền.
1.3.2. Môi trường kinh tế và sự phát triển của hệ thống thị trường tài chính
TTCKPS là một bộ phận quan trọng, không thể thiếu của một nền kinh
tế phát triển, là một thị trường tài chính bậc cao trong hệ thống thị trường tài
chính. Một nền kinh tế “khỏe” hay “yếu” đều ảnh hưởng trực tiếp đến TTCK
nói chung và TTCKPS nói riêng. Kinh nghiệm các nước cho thấy, TTCKPS
ra đời, hình thành và phát triển khi và chỉ khi mà nền kinh tế, thị trường tài
chính của quốc gia đó đã có bề dầy phát triển và đã đạt đến trình độ phát triển
nhất định. Bởi sự phức tạp cũng như những đòi hỏi ở trình độ cao trong cấu
trúc của thị trường, bao gồm một hệ thống luật pháp đầy đủ và đồng bộ, cơ sở
hạ tầng với những phần mềm, hệ thống thiết bị tối tân, hiện đại, với các nhà
tạo lập thị trường đủ tiềm năng, năng lực cũng như kinh nghiệm.
Khi nói đến môi trường kinh tế của một quốc gia nào đó là người ta đề

cập đến tình hình thu nhập quốc dân của quốc gia đó, hay tốc độ tăng trưởng
kinh tế, chu kỳ tăng trưởng kinh tế, tình hình lạm phát, việc làm, vai trò của
Chính phủ trong việc ổn định kinh tế vĩ mô… Việc Chính phủ tạo ra và duy
trì môi trường kinh tế vĩ mô ổn định là điều kiện tất yếu, cần phải đảm bảo
cho cơ chế giá cả không bị bóp méo và có điều kiện ổn định, thuận lợi về tài
chính và tiền tệ. TTCKPS hay bất kỳ một thị trường nào trong hệ thống các
thị trường tài chính sẽ không thể tồn tại, phát triển, hoạt động có hiệu quả khi
môi trường kinh tế của quốc gia đó có nhiều bất ổn, tốc độ tăng trưởng kinh tế
trì trệ, lạm phát leo thang… bởi tất cả những yếu tố đó có mối quan hệ với
nhau chặt chẽ, chi phối lẫn nhau và ảnh hưởng, tác động một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp đến các thị trường tài chính, trong đó có TTCKPS.
Còn nói đến sự phát triển của hệ thống thị trường tài chính, là người ta
nói đến sự phát triển của một loạt các nhân tố sau: các thị trường tài chính,
các công cụ tài chính, các tổ chức tài chính và cơ sở hạ tầng tài chính mà
trong đó quan trọng nhất là phần mềm tin học.
1.3.3. Vai trò của các định chế tài chính tham gia vào thị trường: tạo
lập thị trường và phòng ngừa rủi ro
Định chế tài chính là một doanh nghiệp mà tài sản chủ yếu của nó là
các tài sản tài chính hay còn gọi là các hình thức trái quyền như: cổ phiếu, trái
phiếu và khoản cho vay. Định chế tài chính cho khách hàng vay hoặc mua
chứng khoán trên thị trường tài chính. Những định chế tài chính chủ yếu xuất
hiện trong TTCKPS phải kể đến như là: NHTM, công ty tài chính, công ty
chứng khoán, công ty tư vấn tài chính, công ty quản lý quỹ và các quỹ đầu tư,
các tổ chức định mức tín nhiệm…
Như vậy, ta thấy rằng các tổ chức định chế tài chính tham gia vào
TTCKPS đóng vai trò quan trọng trong việc tạo lập thị trường, cũng có nghĩa
là các tổ chức định chế tài chính này có tác động mạnh đến TTCKPS và có ý
nghĩa quyết định lớn đến thành công của thị trường. Các tổ chức định chế tài
chính được coi như những chuyên gia trên thị trường, có nhiệm vụ duy trì
lệnh mua, lệnh bán với các mức giá để đảm bảo thị trường phát triển ổn định,

hay nói cách khác là họ tham gia trên thị trường có nhiệm vụ bình ổn thị
trường, không để thị trường quá mất cân bằng giữa cung và cầu. Trên
TTCKPS, các định chế tài chính còn có vai trò trong việc phòng ngừa và giảm
thiểu rủi ro. Bởi họ tập hợp các khoản tiền phân tán của nhiều nhà đầu tư nhỏ
và phân bổ một cách có hiệu quả vào nhiều danh mục khác nhau, do đó giảm
thấp rủi ro cho các nhà đầu tư.
Để một định chế tài chính hoàn thành tốt “bổn phận” của mình trên thị
trường thì bản thân định chế đó cũng phải tự trang bị cho mình đủ các yêu cầu
như: quy mô cũng như năng lực về vốn, chất lượng của nguồn nhân lực, trình
độ - năng lực của những người đứng đầu, kinh nghiệm quản lý, cơ sở hạ tầng
công nghệ thông tin…, trong đó, yếu tố quan trọng nhất, có ý nghĩa tiên quyết
là con người và vốn. Nếu đảm bảo được hai yếu tố này thì tất yếu sẽ đáp ứng
được các điều kiện khác.
Bên cạnh vai trò của các định chế tài chính trong nước, chúng ta còn phải
kể đến vài trò của các định chế nước ngoài. Trong xu thế hội nhập hiện nay, thị
trường tài chính của bất kỳ quốc gia nào cũng phải “mở cửa” để các nhân tố có
tính chất nước ngoài gia nhập vào, đó là một tất yếu. Các định chế tài chính nước
ngoài, họ luôn là đối thủ “nặng ký” trong môi trường cạnh tranh đối với các định
chế tài chính trong nước, bởi họ luôn là những người có bề dầy kinh nghiệm
trong quản lý cũng như trong hoạt động nghiệp vụ, họ có tiềm lực về tài chính
hùng mạnh…, nên họ có vai trò, ảnh hưởng lớn trong nhiệm vụ duy trì sự ổn
định của thị trường, tạo lập thị trường, phòng ngừa ngăn chặn các rủi ro có thể có
cho thị trường tài chính nói chung và TTCKPS nói riêng.
1.3.4. Các nhân tố khác
Ngoài các nhân tố trên, còn có rất nhiều các nhân tố khác tác động, ảnh
hưởng đến sự hình thành và phát triển của TTCKPS. Mà trước tiên, ta phải kể
đến là nhân tố con người – nguồn nhân lực. Trong mọi hoạt động, con người
luôn là nhân tố mang tính quyết định, then chốt. Như chúng ta đã nói
TTCKPS là thị trường tài chính bậc cao, thị trường của những giao dịch đẳng
cấp, hiện đại. Vậy thì nguồn nhân lực làm trong môi trường đó cũng phải đạt

được trình độ nhất định trong tất cả các vị trí: điều hành, quản lý thị trường;
tham gia giao dịch trên thị trường; cung cấp các dịch vụ trên thị trường và tạo
lập thị trường.
Ngoài ra, yếu tố về cơ sở hạ tầng vật chất cũng đặc biệt có ý nghĩa đối
với sự hình thành và phát triển của TTCKPS. Cơ sở vật chất hạ tầng kỹ thuật
ở đây muốn nói đến chủ yếu là công nghệ thông tin hiện đại trong giao dịch
và thanh toán bù trừ. Một số TTCKPS ra đời sau thường có xu hướng áp dụng
những tiến bộ của khoa học công nghệ trong các hoạt động giao dịch và thanh
toán bù trừ, nhập khẩu những phần mềm giao dịch.
1.4. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
1.4.1. Kinh nghiệm hình thành và phát triển thị trường chứng khoán
phái sinh
1.4.1.1. Thị trường chứng khoán phái sinh Mỹ
TTCKPS Mỹ đã có bề dày lịch sử 160 năm, bắt đầu bằng sự ra đời của
thị trường hợp đồng tương lai hàng hóa Chicago Board of Trade (CBT) năm
1848, Chicago Mercantile Exchange (CME) năm 1898. Sau đấy là một loạt
các thị trường hợp đồng tương lai và quyền chọn được ra đời. Hiện tại, có 6
thị trường quyền chọn đăng ký hoạt động với U.S. Securities and Exchange
Commision (SEC) và 12 thị trường hợp đồng tương lai chịu sự giám quản của
Commodity Futures Trading Commission (CFTC). Hàng hóa trên thị trường
phái sinh rất phong phú, đa dạng và ngày càng mang tính sáng tạo và phức
tạp. Chứng khoán cơ sở của hợp đồng tương lai và quyền chọn mới đầu ở
dạng hàng hóa vật chất gồm các sản phẩm nông nghiệp như bơ, trứng, bột mỳ,
gạo…; các hàng hóa nguyên liệu, năng lượng như dầu thô, điện, cao su…; các
loại kim loại quý như sắt, thép, vàng, bạc… sau đến các sản phẩm tài chính
như cổ phiếu, trái phiếu, lãi suất, tiền tệ… Mới đây nhất là các sản phẩm trừu
tượng như chỉ số biến động giá của quyền chọn được chọn làm chứng khoán
cơ sở cho một loại hợp đồng quyền chọn trên CBT hoặc là các hợp đồng
tương lai đối với thời tiết ở một số vùng đang được giao dịch trên CME.
Phương thức giao dịch cũng được thay đổi, từ việc các giao dịch được

thực hiện trực tiếp tại sở giao dịch sang hình thức giao dịch điện tử trực tuyến,
theo đó, số lượng các nhà giao dịch trong và ngoài nước tham gia thị trường
gia tăng nhanh chóng.
Trước xu thế toàn cầu hóa và sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa
các thị trường nội địa và nước ngoài dẫn tới nhu cầu hợp tác, sáp nhập giữa
các thị trường. Ưu điểm của việc hợp tác, sáp nhập thể hiện qua việc các bên
đối tác có thể khai thác lợi thế của nhau về thị trường, công nghệ, năng lực
nghiên cứu sáng tạo, nhân lực… từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh và đa
dạng hóa sản phẩm.
Xét về tổng thể, các thị trường hoạt động trong khuôn khổ của hệ thống
luật hai cấp: luật liên bang và các quy định của các tổ chức tự quản như sở
giao dịch, hiệp hội các công ty chứng khoán, hiệp hội các nhà giao dịch hợp
đồng tương lai… đồng thời chịu sự giám quản của hai tổ chức trực thuộc
Quốc hội là SEC và CFTC.
SEC là một tổ chức độc lập trực thuộc Quốc hội, bắt đầu hoạt động
năm 1934 theo Luật chứng khoán liên bang. Hiện tại SEC quản lý tất cả các
đối tượng tham gia trên thị trường OTC, TTCK vốn, thị trường quyền chọn và
hợp đồng tương lai đối với chỉ số và chứng khoán vốn. CFTC được Quốc hội
thành lập năm 1974 với nhiệm vụ quản lý thị trường hợp đồng tương lai và
quyền chọn đối với hàng hóa. Các sở có giao dịch hợp đồng tương lai chứng
khoán vốn hoặc phải chịu sự quản lý trực tiếp của SEC và chỉ cần đăng ký với
CFTC, hoặc chịu sự giám sát trực tiếp của CFTC và chỉ cần đăng ký với SEC.
Tìm hiểu để học hỏi những ưu điểm của hình thức tổ chức và cơ chế
vận hành của một thị trường đã phát triển đối với các nước đi sau là điều rất
quan trọng. Ở Việt Nam đang có sẵn TTCK vốn nên luận văn tập trung tìm
hiểu hoạt động của một Sở CKPS của Mỹ, trong đó chủ yếu giao dịch các sản
phẩm phái sinh đối với chứng khoán vốn.
Sở Giao dịch quyền chọn Chicago:
Chicago Board Options Exchange (CBOE) là TTCK quyền chọn đầu
tiên ở Mỹ, thành lập năm 1973, hoạt động theo Luật chứng khoán Liên bang

và chịu sự giám sát của SEC. Gần 40 năm qua, CBOE không ngừng phát
triển, đến năm 2005 CBOE là Sở Giao dịch có thị phần dẫn đầu thị trường
quyền chọn tại Mỹ, chiếm một phần ba thị trường với 31,8%.
Sản phẩm: Các sản phẩm phái sinh trên CBOE rất phong phú và đa dạng
bao gồm: quyền chọn cổ phiếu; quyền chọn chỉ số cổ phiếu; quyền chọn
ETFs/HOLDS; quyền chọn của các hợp đồng tương lai; quyền chọn lãi suất;…
Sáng tạo sản phẩm mới: CBOE dẫn đầu toàn thị trường về sự sáng tạo
ra các sản phẩm mới trong lĩnh vực quyền chọn. Một trong những sản phẩm
thành công nhất trong lịch sử CBOE là quyền chọn đối với VIX (CBOE
Volatility Index), được bình chọn là sản phẩm phái sinh mang tính sáng tạo
nhất. VIX được tính theo sự thay đổi giá của quyền chọn S&P 500 và được
coi là thước đo tâm lý của nhà đầu tư đối với sự biến động thị trường. Kết
thúc 2007, khối lượng hợp đồng quyền chọn VIX tăng 363% so với năm
2006, đạt 2,3 triệu hợp đồng được giao dịch trong năm, vươn lên đứng thứ hai
trong nhóm sản phẩm quyền chọn chỉ số của CBOE.
Hệ thống giao dịch: Các sản phẩm niêm yết trên CBOE, CFX và CBSX
được giao dịch thông qua phương thức giao dịch trực tuyến giữa các nhà giao
dịch và giao dịch điện tử thông qua hệ thống giao dịch CBOEdirect.
Hệ thống tạo lập thị trường: Hệ thống các nhà tạo lập thị trường
(Market Makers) của CBOE cũng rất đa dạng bao gồm các tổ chức/cá nhân
đăng ký là thành viên của Sở và có hoạt dộng giao dịch tự doanh.
Mở rộng quy mô, thay đổi cơ cấu tổ chức: Không chỉ dựng lại ở việc đa
dạng hóa các sản phẩm quyền chọn – sản phẩm truyền thống, mà CBOE còn mở
rộng quy mô của minh bằng việc thành lập hai sở giao dịch The CBOE Futures
Exchange, LLC (CFE) và CBOE Stock Exchange (CBSX). Trong đó CFE tập
trung vào lĩnh vực hợp đồng tương lai đối với các chỉ số biến động giá, còn
CBSX hiện đang giao dịch các sản phẩm ETFs và 3.100 cổ phiếu có tính thanh
khoản cao nhất của NYSE, AMEX, NASDAQ và trên thị trường OTC.
Những hoạt động khác: Đào tạo kiến thức quyền chọn cho các nhà đầu
tư được CBOE chú trọng. Học viện quyền chọn (The Options Institute) được

thành lập năm 1985 và mỗi năm tổ chức hàng trăm khóa học về quyền chọn
trên toàn thế giới, đào tạo hàng nghìn nhà đầu tư, môi giới cũng như các đối
tượng khác.
Tóm lại, sự thành công trong lĩnh vực quyền chọn của CBOE là sự hội
tụ của nhiều yếu tố nội lực, trong đó có năng lực sáng tạo sản phẩm; công tác
đào tạo kiến thức quyền chọn và hướng công chúng tới sản phẩm; hệ thống
giao dịch mang nhiều tiện ích cho người sử dụng đi kèm với các chính sách
ưu đãi khuyến khích mạng lưới các nhà tạo lập thị trường.
Tuy nhiên việc bán khống và nợ tín dụng dưới chuẩn đã đẩy Mỹ và các
nước rơi vào cuộc đại khủng hoảng năm 2008 và đầu năm 2009. Việc Chính
phủ Mỹ không kiểm soát nghiêm ngặt TTCKPS đã làm cho TTCKPS Mỹ
năm 2008 phát triển quá mạnh, quá lớn vượt quá tầm kiểm soát gây hiệu quả
nghiêm trọng cho nền kinh tế, tài chính.
1.4.1.2. Thị trường chứng khoán phái sinh Hàn Quốc
Hàn Quốc bắt đầu có TTCKPS vào năm 1996, trải qua 10 năm chuẩn bị
về cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, phổ cập rộng rãi kiến thức về chứng khoán
phái sinh cho những người hành nghề và công chúng đầu tư để xây dựng
thành công TTCKPS.
Năm 1996, TTCKPS Hàn Quốc chính thức ra đời với sản phẩm đầu tiên
là Hợp đồng tương lai KOSPI 200. Hiện nay, Hàn Quốc có 14 sản phẩm phái
sinh (13 sản phẩm phái sinh tài chính + 1 sản phẩm phái sinh hàng hóa) trên thị
trường niêm yết. Các sản phẩm phái sinh tài chính tập trung vào lĩnh vực cổ
phiếu, lãi suất, tiền tệ, bao gồm các sản phẩm hợp đồng tương lai về cổ phiếu,
chỉ số cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ, và các sản phẩm quyền chọn cổ phiếu, chỉ số
cổ phiếu, quyền chọn hợp đồng tương lai trái phiếu. Trong 14 sản phẩm phái
sinh được phát triển, chỉ có 4 sản phẩm phái sinh tài chính là có tính thanh
khoản cao trên thị trường: hợp đồng tương lai và quyền chọn liên quan tới cổ
phiếu, hợp đồng tương lai lãi suất và hợp đồng tương lai tiền tệ.
Hàn Quốc hiện là một trong những thị trường quyền chọn và hợp đồng
tương lai chỉ số cổ phiếu sôi động nhất trên thế giới, với ba sản phẩm thành

công nhất là Hợp đồng tương lai chỉ số KOSPI 200 (ra đời năm 1996), Quyền
chọn chỉ số KOSPI 200 (1997), Hợp đồng tương lai trái phiếu KTB 3 năm
(1999). Hàn Quốc đứng thứ 1 trong 10 sở giao dịch hợp đồng tương lai trên
thế giới xét về tổng khối lượng giao dịch (gần 2500 triệu hợp đồng).
Sự thành công trong xây dựng TTCKPS tại Hàn Quốc là do một số
yếu tố sau:
(1) Xây dựng cơ chế luật pháp chặt chẽ và có các ưu đãi nhất định ban
đầu đối với những thành viên tham gia thị trường. Ví dụ, đối với các nhà tạo
lập thị trường đưa ra các ưu đãi về thuế, không giới hạn về vị thế giao dịch
trên thị trường.
(2) Tạo dựng cơ sở hạ tầng hiện đại cho thị trường phái sinh, đáp ứng
yêu cầu giao dịch khớp lệnh nhanh chóng. Đưa giao dịch trực tuyến vào áp
dụng ngay từ ban đầu thành lập thị trường. Công nghệ tin học của hệ thống
giao dịch được coi là một trong những yếu tố then chốt quyết định thành công
của thị trường vì giao dịch công cụ phái sinh đòi hỏi các giao dịch phải được
khớp liên tục, với tốc độ cao. Hàn Quốc tự xây dựng hệ thống giao dịch trên
TTCKPS dựa trên phần mềm trong nước, điều này giúp Hàn Quốc chủ động
trong khâu duy trì, vận hành và sửa chữa hệ thống giao dịch khi cần thiết.
(3) Cơ chế ký quỹ của giao dịch chứng khoán phái sinh được xây dựng
chặt chẽ, nhằm ngăn ngừa rủi ro thanh toán: có 2 mức ký quỹ đối với giao
dịch hợp đồng tương lai: mức ký quỹ ban đầu và mức ký quỹ duy trì.
(4)Mở các khóa đào tạo bồi dưỡng và nâng cao trình độ cho các nhân
viên CTCK, quỹ đầu tư và mở các khóa phổ cập kiến thức về chứng khoán
phái sinh cho công chúng đầu tư (do Sở GDCK Hàn Quốc, Cơ quan giám sát
tài chính SFC phối hợp với các công ty chứng khoán, các quỹ đầu tư).

×