Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TỔNG QUAN VỀ VƯỜN QUỐC GIA TRÀM CHIM potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (987.97 KB, 21 trang )

ĐỀ TÀI BÁO CÁO
VƯỜN QUỐC GIA TRÀM CHIM
MỤC LỤC
1 Giới thiệu chung 3
2 Đa dạng sinh học 7
3 III. Hoạt động bảo tồn 17
4 IV. Những khó khăn và thách thức 18
LỜI MỞ ĐẦU
Nằm ở vùng Đông Nam châu Á với diện tích khoảng 330.541 km
2
, Việt Nam là
một trong 16 nước có tính đa dạng sinh học cao trên thế giới (Bộ Nông nghiệp và
phát triển nông thôn, 2002- Chiến lược quốc gia quản lý hệ thống khu bảo tồn của
Việt Nam 2002-2010). Đặc điểm về vị trí địa lý, khí hậu của Việt Nam đã góp
phần tạo nên sự đa dạng về hệ sinh thái và các loài sinh vật. Về mặt địa sinh học,
Việt Nam là giao điểm của các hệ động, thực vật thuộc vùng Ấn Độ - Miến Điện,
Nam Trung Quốc và Inđo-Malaysia. Các đặc điểm trên đã tạo cho nơi đây trở
thành một trong những khu vực có tính đa dạng sinh học (ĐDSH) cao của thế giới,
với khoảng 10% số loài sinh vật, trong khi chỉ chiếm 1% diện tích đất liền của thế
giới (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2002-Báo cáo quốc gia về các khu
bảo tồn và Phát triển kinh tế).
Đa dạng sinh học có vai trò rất quan trọng đối với việc duy trì các chu trình tự
nhiên và cân bằng sinh thái. Đó là cơ sở của sự sống còn và thịnh vượng của loài
người và sự bền vững của thiên nhiên trên trái đất. Theo ước tính giá trị của tài
nguyên đa dạng sinh học toàn cầu cung cấp cho con người là 33.000 tỷ đô la mỗi
năm (Constan Za et al-1997). Đối với Việt Nam nguồn tài nguyên đa dạng sinh
học trong các ngành Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Thủy sản hàng năm cung cấp cho
đất nước khoảng 2 tỷ đô la (Kế hoạch hành động đa dạng sinh học của Việt Nam-
1995).
Vì thế để tìm hiểu sâu hơn về đa dạng sinh học thì lớp ĐHKHMT11 chúng tôi
chọn địa điểm khảo sát là Vườn quốc gia Tràm Chim.


PHẦN I:TỔNG QUAN VỀ VƯỜN QUỐC GIA TRÀM CHIM
1 Giới thiệu chung
Vị trí: miền Nam Việt Nam
Tọa độ: 10°40′ – 10°47′ vĩ bắc, 105°26′ - 105°36′ Đông
Diện tích: 7.313 ha
Thành lập 1985
1. Vị trí địa lý
Vườn Quốc Gia Tràm Chim nằm trong vùng Đồng Tháp Mười, thuộc huyện Tam
Nông, tỉnh Đồng Tháp. Tọa độ địa lý 10
0
40’ – 10
0
47’ vĩ Bắc, 105
0
26’ -
105
0
36’Đông với tổng diện tích 7.313 ha nằm trong địa giới của 5 xã (Phú Đức,
Phú Hiệp, Phú Thành B, Phú Thọ, Tân Công Sinh) và Thị trấn Tràm Chim, với số
dân trong vùng là 30.000 người. Là một khu đất ngập nước, được xếp trong hệ
thống rừng đặc dụng của Việt Nam.
2. Lịch sử hình thành
- Năm 1985, Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp thành lập Công Ty Nông Lâm Ngư
Trường Tràm Chim với mục đích là trồng tràm, khai thác thủy sản, và vừa giữ lại
được một phần hình ảnh của Đồng Tháp Mười xa xưa.
- Năm 1986, loài sếu đầu đỏ (chim Hạc) được phát hiện ở Tràm Chim. Năm 1991
Tràm Chim trở thành khu Bảo Tồn Thiên Nhiên Tràm Chim cấp tỉnh, nhằm bảo
tồn loài sếu đầu đỏ (Grus antigone sharpii).
- Năm 1994, Tràm Chim trở thành Khu bảo tồn thiên nhiên cấp Quốc Gia, theo
Quyết định số 47/TTg ngày 02 tháng 02 năm 1994 của Thủ tướng Chính Phủ.

- Năm 1998, khu Khu bảo tồn thiên nhiên Tràm Chim trở thành Vườn Quốc gia
Tràm Chim theo Quyết định số 253/1998/QĐ-TTg, ngày 29/12/1998 của Thủ
tướng Chính phủ với mục tiêu:
+ Bảo tồn hệ sinh thái đất ngập nước điển hình của vùng Đồng bằng sông Cửu
Long thành một mẫu chuẩn quốc gia về hệ sinh thái đất ngập nước vùng lụt kín
Đồng Tháp Mười.
+ Bảo tồn những giá trị độc đáo về văn hóa, lịch sử và nghiên cứu, khai thác hợp
lý hệ sinh thái của vùng vì lợi ích quốc gia và đóng góp vào việc bảo vệ môi
trường sinh thái chung của vùng Đông Nam Á.
- Ngày 2/2/2012 Tràm Chim được công nhận thành khu Ramsar thứ 4 của Việt
Nam là khu 2000 trên thế giới
3. Điều kiện tự nhiên
3.1Địa hình
Nhìn chung là thấp trũng, nơi cao nhất là 2,3 m, nơi thấp nhất là 0,4 m (so với mực
nước biển Tây Nam Bộ).
- Những vùng đất trũng chiếm 152 ha
- Những vùng gò cao chiếm 194 ha
- Vùng phẳng chiếm 5858 ha
3.2Khí hậu thủy văn
- Nhiệt độ: nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 27
o
C, nhiệt độ thấp hơn khoảng
1-2
o
C vào cuối mùa khô (từ tháng 12 đến tháng 2) và tăng lên khoảng 1- 2
o
C vào
các tháng cuối mùa khô, đầu mùa mưa (từ tháng 4 đến tháng 6). Nhiệt độ cao nhất
là 37
o

C vào tháng 4 và thấp nhất là khoảng 16
o
C.
- Độ ẩm: Độ ẩm trung bình hàng năm duy trì trong khoảng 82-83%. Độ ẩm cao
nhất có thể lên đến 100% và thấp nhất là 35-40%.
- Chế độ gió: Từ tháng 5 đến tháng 11, hướng gió thịnh hành ở vùng này là
hướng Tây- Nam, tốc độ gió trung bình là 3m/s mang theo nhiều hơi nước và gây
mưa. Từ tháng 12 đến tháng 4 có gió Đông- Bắc, tốc độ gió trung bình khoảng
2m/s. Bảo hầu như không ảnh hưởng đến Tràm Chim và vì thế, gió với tốc độ lớn
trong cơn mưa chưa từng xảy ra.
- Lượng mưa: Lượng mưa phân bố theo mùa rõ rệt, trung bình khoảng 1.650
mm/năm. Mùa mưa tập trung vào tháng 5 đến tháng 11, hơn 90% lượng mưa tập
trung vào khoảng thời gian này. Trong khi đó tháng 1, 2, 3 lại là những tháng khô
hạn nhất, thời tiết hầu như không có mưa. Số ngày mưa trung bình đo được tại
VQG Tràm Chim khoảng 110-160 ngày/năm.
- Chế độ thủy văn: VQG Tràm Chim chịu ảnh hưởng thủy văn của vùng châu thổ
sông Mekong nhận nguồn nước trực tiếp từ sông MeKong thông qua hệ thống
kinh thủy lợi (kênh Hồng Ngự–Long An, Đồng Tiến, An Hòa và Phú Hiệp) tràn
vào nội đồng và bị ngập lũ hàng năm từ tháng 8 đến tháng 12. Vườn quốc gia
Tràm Chim được chia thành 5 vùng quản lý khác nhau (A1-A5), mỗi khu vực
được bao bọc xung quanh bởi hệ thống kênh và đê với tổng chiều dài lên đến 59
km. Mực nước bên trong vườn quốc gia được điều tiết thông qua hệ thống cống và
cửa xả nằm ở các bờ bao xung quanh. Hiện nay, để giảm rủi ro do lửa vào mùa
khô, mực nước bên trong vườn quốc gia luôn được giữ ở mức cao hơn những điều
kiện trong quá khứ. Thành phần thực vật, phân bố và tốc độ sinh trưởng đã bị ảnh
hưởng bởi những tác động này.
3.3Các nhóm đất chính
VQG Tràm Chim có những nhóm đất chính sau đây:
- Nhóm đất cát cổ (Aeric Tropaquults), được hình thành thông qua quá trình phong
hóa trầm tích Pleistocene chiếm diện tích khoảng 154ha

- Đất xám điển hình (Typic Tropaquults), khoảng 476ha
- Đất xám đọng mùn (Humic Tropaquults), 274ha
- Các nhóm đất dốc tụ trên nền trầm tích Proluvi chiếm diện tích 1.559ha
- Các nhóm đất phù sa có nền phèn: Trầm tích sông - biển (amQiv
2-3
) chồng lên
lớp trầm tích đầm lầy – biển (bmQiv
2-3
) hình thành những vạt đất phù sa có tầng
sinh phèn (sulfidic) (sulfic Tropaquents, sufnic Tropaquepts, sunfic Hydraquents)
và đất phù sa có tầng phèn (sulfuric) chứa các khoáng jarosite.
- Đất phèn hoạt động (Sulfaquepts), hình thành từ nền trầm tích đầm lầy biển
(bmQiv
2-3
) với diện tích khoảng 355 ha, phân bố nhiều nhất tại khu A5. Độ chua
của đất: pH chỉ khoảng từ 2,0 – 3,2.
2 Đa dạng sinh học
1. Đa dạng hệ sinh thái thực vật ở vườn quốc gia Tràm Chim
Với các yếu tố tự nhiên: trầm tích, địa mạo, và đặc tính đất khá đa dạng, từ đất
xám, phát triển trên nền trầm tích cổ Pleistocen, đến những nhóm đất phù sa mới
và đất phèn phát triển trên trầm tích trẻ Holocen đã góp phần làm đa dạng các
quần xã thực vật tự nhiên. Kết quả khảo sát từ 2005–2006 ghi nhận được ở Vườn
Quốc gia Tràm Chim - huyện Tam Nông - tỉnh Đồng Tháp có 130 loài thực vật,
phân bố đơn thuần cũng như xen kẻ với nhau tạo thành 6 quần xã thực vật đặc
trưng: Sen-súng, lúa ma, mồm mốc, cỏ ống, năng, tràm.
1.1Quần xã sen – súng:
Hội đoàn sen – súng (Nelumbium nelumbo – Nymphaea spp.) chủ yếu trên các
vùng đầm lầy ngập nước quanh năm, dọc theo khu trũng thấp của dòng sông cổ,
chiếm diện tích khoảng 158 ha.
Những loài chim thường gặp: le hôi (Tachybaptus raficollis), le khoang cổ

(Nettapus coromandelianus), vịt trời (Anas poecilorhyncha), trích cổ, trích ré, gà
lôi nước (Hydrophasianus chirurgus), gà nước vằn (Rallus striatus), cuốc ngực
nâu (Porzana fusca), mòng két (Anas crecca), bói cá (Ceryle rudis)
 Sen:
Đặc điểm:
Họ Sen (Nelumbonaceae) là một họ thực vật có hoa chỉ có một chi duy nhất là
Nelumbo và có hai loài là sen hồng (Nelumbo nucifera) và sen trắng (Nelumbo
lutea). Từ Nelumbo có nguồn gốc từ tiếng Sri Lanka nelum, để chỉ các loài sen.
- Các loài trong chi Nelumbo có hoa rất giống với các loài hoa súng trong họ
Nymphaeaceae (họ Súng). Lá của các loài sen có thể phân biệt được với lá của các
loài trong họ Nymphaeaceae, do lá sen có hình khiên (lá tròn), trong khi đó
Nymphaeaceae có vết khía hình chữ V đặc trưng từ mép lá vào tâm của lá. Quả ở
trung tâm chứa các hạt của các loài cũng có đặc trưng phân biệt và được gọi là bát
sen.
- Thân rễ của sen hồng mọc trong các lớp bùn trong ao hay sông, hồ còn các lá thì
nổi ngay trên mặt nước. Các thân già có nhiều gai nhỏ. Hoa thường mọc trên các
thân to và nhô cao vài xentimet phía trên mặt nước. Thông thường sen có thể cao
tới 1,5 m và có thể phát triển các thân rễ bò theo chiều ngang tới 3 m, một vài
nguồn chưa kiểm chứng được cho biết nó có thể cao tới trên 5 m. Lá to với đường
kính tới 60 cm, trong khi các bông hoa to nhất có thể có đường kính tới 20 cm.
- Có nhiều giống sen được trồng, với màu hoa dao động từ màu trắng như tuyết tới
màu vàng hay hồng nhạt. Nó có thể chịu được rét tới khu vực 5 theo phân loại của
USDA. Loài cây này có thể trồng bằng hạt hay thân rễ.
 Súng:
Đặc điểm
Chi Súng (danh pháp khoa học: Nymphaea) là một chi chứa các loài thực vật thủy
sinh thuộc họ Súng (Nymphaeaceae). Tên gọi thông thường của các loài trong chi
này, được chia sẻ cùng với một số chi khác trong họ này, là súng. Các lá của chi
Nymphaea có vết khía chữ V nối từ mép lá tới cuống lá ở khu vực trung tâm. Chi
này có khoảng 50 loài, với sự phân bố rộng khắp thế giới.

- Súng là loài cây sống lâu năm, mọc hoang dại trong ao, mương, kênh, rạch, láng
nước, bàu trũng khắp mọi khu vực của Việt Nam. Vùng Đồng Tháp Mười có
nhiều bông súng nhất Việt Nam. Hiện tại, việc khai thác loài hoa này còn tự phát,
chưa có quy hoạch. Tuy nhiên các loài cây này có khả năng tái sinh mạnh. Chưa
thấy tài liệu nào thống kê tại Việt Nam có bao nhiêu loài súng, mặc dù có một số
tài liệu nói rằng có khoảng 5 loài. Trong một số tài liệu có nhắc tới súng lam
(Nymphaea stellata = Nymphaea nouchali), súng đỏ (Nymphaea rubra), súng
trắng (Nymphaea lotus = Nymphaea pubescens)
1.2 Quần xã Tràm
Rừng tràm (Melaleuca leucadendra L.) là thảm thực vật thân gỗ có diện tích
lớn nhất, diện tích khoảng 1.826 ha. Do tác động con người, hầu hết những cánh
rừng tràm nguyên sinh đã biến mất và hiện nay chỉ còn lại là những cánh rừng
tràm trồng, thuộc loài Melaleuca cajuputi (họ Myrtaceae), nhưng do được bảo tồn
nhiều năm nên có những cụm tràm phân bố theo kiểu tự nhiên. Hai kiểu phân bố
được ghi nhận: tập trung (khoảng 1.826 ha) và tràm phân tán.
Tràm phân tán có sự hiện diện thảm cỏ xen kẽ gồm các loài Năng ống (Eleocharis
dulcis), Cỏ Mồm (Ischaemum rugosum và I. indicum), hoàng đầu Ấn (Xyris
indica), Nhĩ Cán Vàng (Utricularia aurea), Cỏ Ống (Panicum repens), Súng
(Nymphaea lotus), Cú Muỗi (Caprimulgusmaeruru), chèo Bẻo (Dicrurus
macrocercus), Hút Mật (Aethopiga siparaja), Vành Khuyên (Zosterops
palpebrosa), Chim Sẻ (Carpodacus erythrinus), Én (Apus affinis), Rẻ Quạt
(Rhipidura albicollis), Chích Chòe (Lucustella lanceolata)
Những loài chim thường gặp: Cò Trắng (Egretta garzetta), Cò Bợ (Ardeola
bacclus), Cò Lửa (Ixobrychus sinensis), Cò Lép, Vạc (Nycticorax nycticorax),
Diệc Lửa (Ardea purpurea), Diệc Xám (Ardea cinerea), Điêng Điểng (Anhinga
ảnh chụp tại
đài quan sát
melanogaster), cồng cộc (Pharacrocoraxniger), Tu Hú, Cú Ngói (Streptopelia
Tranquebarica), Cú Cườm (Caprimulgusmaerurus), Cú (Tyto Capensis).
Đặc điểm:

- Tràm (Melaleuca leucadendra L.) là cây gỗ lâu năm, cao tới 2–30 m, lớp vỏ cây
dễ tróc
- Lá của chúng là thường xanh, mọc so le, hình trứng hay mũi mác, dài 1-25 cm
và rộng 0,5-7 cm, mép lá nhẵn, màu xanh lục sẫm hay xanh xám.
- Cây ra hoa hàng năm từ tháng 1 đến tháng 5, nở rộ từ tháng 3 đến tháng 4, hoa
mọc thành cụm dày dặc dọc theo thân, mỗi hoa với các cánh hoa nhỏ và một chùm
nhị mọc dày dặc; màu hoa từ trắng tới hồng, đỏ, vàng nhạt hay ánh lục. Hoa tràm
thụ phấn nhờ ong và côn trùng. Mùa hoa tràm rộ cũng là mùa xuất hiện ong mật tự
nhiên và cũng là thời điểm thường xảy ra những vụ cháy rừng do sự bất cẩn của
những người dân vào Vườn thu mật ong.
- Quả là dạng quả nang nhỏ chứa nhiều hạt nhỏ.
Do đặc điểm của rừng tràm như trên, nên các cơ quan quản lý Vườn cần có những
biện pháp chống cháy rừng vào thời điểm lượng rơi trên sàn rừng cao vào mùa khô.
1.3 Quần xã Mồm mốc
Đồng Cỏ Mồm (Ischaemum spp.); chiếm diện tích khá nhỏ so với các cộng
đồng thực vật khác, khoảng 41,8 ha. Bao gồm mồm đơn thuần và quần xã mồm -
Cỏ Ống (Ischaemum spp Panicum repens). Phân bố hiện diện chủ yếu trên
những dải liếp, bờ đất có địa hình cao cục bộ trong một vùng địa hình thấp.
Những loài chim thường gặp: Cồng Cộc (Pharacrocoraxniger), Chiền Chiện
(Prinia flaviventris), Cò Bợ (Ardeola bacclus), Cò Lửa (Ixobrychus sinensis), Cút
nhỏ (Turnix syluatica), Diệc Lửa (Ardea purpurea), Diệc Xám (Ardea cinerea),
Cú (Tyto capensis), Giang Sen (Mycteria leucocephala), Già Đãy (Leptoptilos
dubius).
Đặc điểm:
- Hình dáng : Cỏ đứng hay bò ở gốc, cao 0,3 - 1,2m, thường phân nhánh ở gốc với
các thân hơi dẹt, mềm, ruột đỏ tím.
- Lá: Lá hình mũi mác, đầu nhọn, gốc hình tim, lá dài 10 - 25 cm, rộng 1 cm,
phiến phẳng và cứng, trơn hay có lông mềm, mép bén, bẹ lá mảnh, tròn ở gốc, trơn
hay có lông, mép lá ngắn hay gần như không có.
- Hoa: Hoa tạo thành cụm gồm 2 - 3 chùm thẳng, dài 5 - 12 cm. Gié cao 4-8 cm;

gié hoa cao 3,5 - 6 mm, vàng, lông gai dài bằng 1 - 2 lần gié hoa.
- Trái: Trái hình xoan thuôn, hơi dẹt.
- Mồm mốc sinh trưởng tốt trong môi trường nước. Cây ra hoa 2 đợt: đợt 1 từ
tháng 5 đến tháng 7, rộ vào tháng 6; đợt 2 từ tháng 11.
- Nơi sống: Mọc hoang ở Ấn Ðộ, Myanma, Nam Trung Hoa, Campuchia, Lào,
thường gặp ở ven đường bờ nước tại vùng đồng bằng và Trung du Việt Nam, phổ
biến ở Đồng Tháp, đây là loài cỏ lâu năm của các vùng đầm lầy, đất thấp, có thời
kỳ ngập nước ngọt không dài, mức độ ngập ít nhưng đất ẩm gần như quanh năm,
phát triển tốt trên loại đất khá mầu mỡ và sâu như các bãi phù sa bồi ven sông, loài
cỏ này có khả năng chịu mặn nên cũng thường tạo nên các đám cỏ rộng ở các bãi
đất cát ẩm ven biển hay phía sau các vùng rừng sát nam Việt Nam, trổ hoa vào
tháng 12 - 2 dương lịch.
1.4 Quần xã năng
Đồng cỏ Năng chiếm diện tích khoảng 2.968 ha, tạo thành một trong những
thảm cỏ rộng lớn; bao gồm đồng cỏ Năng kim (Eleocharis atropurpurea) - đây là
bãi ăn của loài chim Sếu- khoảng 235 ha, Năng ống (Eleocharis dulcis), 1.277 ha,
và hợp với các loài khác tạo thành các quần xã thực vật: Năng Kim – Năng ống,
vài nơi xuất hiện của hoàng đầu Ấn (Xyris indica); Năng Kim - Cỏ Ống (E.
atropurpurea – P. repens); Năng ống - Cỏ Ống (E. dulcis – P.repens), khoảng 937
ha; Năng ống - Cỏ Ống – Lúa Ma (E. dulcis - P. repens – O.rufipogon), 443 ha;
Năng ống - Cỏ Ống - Cỏ Chỉ (E. dulcis - P. repens–C.dactylon),khoảng72ha.
Những nơi có địa hình thấp và ngập nước quanh năm thì xen lẫn trong quần xã
Năng là những loài thực vật thủy sinh như Nhĩ Cán Vàng (Utricularia aurea),
Súng Ma (Nymphaea indicum), Rong Đuôi Chồn (Ceratophyllum demersum).
Những loài chim thường gặp: Sếu (Grus antigone), Cò Trắng (Egretta
garzetta), Cò Bợ (Ardeola bacclus), Trích Cồ, Trích Đất, Vịt Trời (Anas
poecilorhyncha), Le Khoang Cổ (Nettapus coromandelianus), Diệc Lửa (Ardea
purpurea), Diệc Xám (Ardea cinerea), Cò Lửa (Ixobrychus sinensis), Cò Lép.
Đặc điểm:
Chi Cỏ năng (danh pháp khoa học: Eleocharis) là một chi thực vật, bao gồm

khoảng 200-250 loài trong họ Cói (Cyperaceae). Chúng được gọi chung là (cỏ/củ)
năn(g).
Nói chung, cỏ năng là các loài cỏ dại có thân đặc, thường sống thủy sinh. Chúng có
các lá bị suy giảm xung quanh phần gốc của thân; những cái trông giống như lá trên thực
tế là thân nhưng chúng thực hiện phần lớn các chức năng quang hợp cho cây. Một số loài
có thân luôn luôn mọc ngầm dưới nước. Các loài này có xu hướng sử dụng cơ chế cố
định cacbon C3. Các hoa mọc thành các bông con tụ tập dày. Phần lớn các loài mọc lên
từ các thân rễ, và vài loài có thân củ. Phần lớn các loài trông khá giống nhau, với một
cụm hoa ở trên đầu của phần thân đơn. Eleocharis được tìm thấy khắp mọi nơi trên thế
giới. Một trong những loài được biết đến nhiều nhất là cỏ năng ống (Eleocharis dulcis).
 Năng ống, năng ngọt (Eleocharis dulcis (Burm.f.) Hensch.)
- Cỏ nhiều năm, có thân rễ (có khi có củ nhỏ hình cầu dẹp bên dưới). Thân hình
trụ, cao 0,4 - 1,5 m, rộng 3 - 5 mm, có màng ngăn ngang. Lá tiêu giảm, còn bẹ
ngắn. Bông chét hình trụ, dài 1,5 - 6 cm, bằng hoặc rộng hơn thân, có nhiều hoa,
vảy hình chữ nhật hay tam giác, có một gân giữa nổi rõ và nhiều gân bên, màu nâu
nhạt, xếp sát bên. Bao hoa 6 - 8 mảnh, bằng hay dài gấp đôi quả, có lông cứng
hướng xuống. Quả hình trứng ngược hay bầu dục, dẹp, hai mặt lồi, đầu nhụy xẻ 2 -
3. Năng ống ra hoa quả từ tháng 3 - 12.
Cỏ năng ống (Eleocharis
dulcis)
- Vào mùa lũ thân năng ống có thể dài ra nhiều mét. Cây thường mọc thuần
trên đất phèn hoặc gặp rải rác trong kênh nước phèn. Loài này thường gặp trong
nước ngọt, lợ cho đến mặn. Điều đó chứng tỏ loài năng ống có biên độ sinh thái về
độ mặn rộng. Năng ống khi sống trong môi trường nước hoặc nơi có độ ẩm cao,
cây sinh trưởng tốt, thân cây to và rất dài có khi dài từ 2-4m.
 Năng kim (Eleocharis ochrostachys Steud.)
- Cỏ nhiều năm, có thân rễ và có củ nhỏ. Thân mảnh, hình trụ hay hơi có cạnh,
mọc thành bụi thưa, cao 20 - 60 cm, to 2 - 3 mm. Lá tiêu giảm, còn bẹ. Bông chét
hình trụ hay hơi có cạnh, dài 0,5 - 2 cm, rộng 3 - 4 mm, ít hay nhiều hoa, vảy có
hình gần chữ nhật, hơi bầu, dài 4 - 5 mm, rộng 2 - 3,5 mm, đỉnh tù, đáy hơi lượn

và lồi, 2 cạnh bên gần song song, một gân giữa nổi rõ, màu nâu. Bao hoa 5 - 7
mảnh, dài gấp 2 - 3 lần quả, phía trên có lông cứng hướng xuống. Quả hình trứng
ngược hay bầu dục rộng, dẹp, 2 mặt lồi, dài 1,5 - 2 mm, rộng 1 - 1,5 mm, có gân
dọc, màu vàng; góc vòi nhụy hình tháp; đầu nhụy xẻ 3. Mùa ra hoa, quả tháng 9 -
11. Cây mọc nhiều ở Đồng Tháp, ruộng nhiều phèn ở vùng Tràm Chim, Đức Hòa,
đất ẩm, lầy.
- Cây năng kim bắt đầu cho củ vào đầu mùa khô (tháng 1) cho đến tháng 5 thì
cây tàn lụi. Trong thời gian cây cho củ thì Sếu đầu đỏ bắt đầu về vì củ năng kim là
thức ăn chủ yếu của sếu.
- Khi cây tàn lụi thì sếu cũng rời khỏi nơi đây. Vì vậy muốn duy trì số lượng sếu về
VQG hàng năm thì cần có những biện pháp phát triển bền vững cây năng kim này.
1.5 Quần xã Cỏ Ống
Đồng Cỏ Ống (Panicum repens); Cỏ Ống phân bố trên một diện rộng, chiếm
diện tích khoảng 958,4 ha, ở dạng đơn thuần với mật độ lên đến 98% hoặc cùng
xuất hiện với các loài thực vật thân thảo khác: Cỏ Ống - Cỏ Xã (Panicum repens -
Cymbopogon citratus), khoảng 23 ha, chủ yếu trên đất giồng cổ; Cỏ Ống – Lúa
Ma (Panicum repens – Oryza rufipogon), khoảng 268 ha; Cỏ Ống - Cỏ Chỉ
(Panicum repens – Cynodon dactylon), khoảng 50 ha; Cỏ Ống – mai dương
(Panicum repens – Mimosa pigra), khoảng 86 ha, đây là khu quần xã Cỏ Ống bị
mai dương (Mimosa pigra) xâm hại.
Những loài chim thường gặp: Công Đất (Houbaropsis bengalensis), Chiền
Chiện (Prinia flaviventris), Sơn Ca (Alauda gulgula), Sẻ Bụi (Saxicola caprata),
Trảu Đầu Hung (Merops superciliosus), Cú (Tyto capensis), Trích, Cò (Ardeola
bacclus), Giang Sen (Mycteria leucocephala), Già Đãy (Leptoptilos dubius),
Chích Đầm Lầy (Locustella certhiola).
Đặc điểm:
- Hình dáng: Cỏ đa niên, căn hành, mọc bò giống củ gừng, vàng dợt, có vảy, đầu
nhọn như cựa gà lúc còn non, thân bọng, dài 1,2m, bò và mang rễ gốc, thẳng đứng
ở trên, tròn, khía rãnh mang các lông dài 5 - 7cm.
- Lá: Lá đơn mọc cách, hình mũi mác hẹp, đầu nhọn tròn hay hình kim ở đáy.

Cứng, thẳng không lông, trừ rìa lông ở bẹ và chân lá; màu xanh mốc ở mặt trên,
xanh đậm ở mặt dưới.
- Hoa: Hoa hợp thành chùm tụ tán thẳng đứng ở ngọn, hẹp, phân nhánh không
đều, cao 7 - 20cm, gié hoa xanh rồi trắng, cao 3mm.
- Nơi sống: Cỏ ống phân bố rộng rãi ở khắp các vùng nhiệt đới, là loại cây ưa cát
(Arenophile) và đầm lầy, thườøng gặp từ các vùng ven biển đến núi cao 1100%m,
đây là loại cây có khả năng chịu mặn giỏi, chịu được phèn và có khả năng chịu
được lũ lụt nên thường tạo thành những bãi cỏ tốt ở ven các cửa sông, cả trên đất
rừng sát, ưa đất cát hay phù sa cát, kể cả các đụn cát ven biển có độ ẩm cao, trên
đất thịt nặng, nơi thường úng nước lâu ngày thì ít thấy cỏ mọc, trổ hoa vào tháng 5
- 7 dương lịch
1.6 Quần xã Lúa Ma
Đồng Lúa Ma (Oryza rufipogon); phân bố khá rộng, chiếm diện tích khoảng
824 ha. Tuy nhiên, cánh đồng Lúa Ma (Oryza rufipogon) đơn thuần có diện tích
khá nhỏ, khoảng 33 ha, diện tích còn lại có sự hiện diện của Lúa Ma là sự kết hợp
với những loài thực vật khác tạo thành những quần xã thực vật đặc trưng cho vùng
đất ngập nước: Lúa Ma - Cỏ Ống (O. rufipogon – Panicum repens), khoảng 544
ha; Lúa Ma - Cỏ Bắc (Oryza rufipogon - Leersia hexandra), khoảng 160 ha; Lúa
Ma - Cỏ Ống - Cỏ Chỉ (O. rufipogon – P. repens – C. dactylon), khoảng 83 ha.
Hầu như tất cả các loài chim trong Tràm Chim đều thích với đồng Lúa Ma, kể cả
Sếu đầu đỏ, sinh cảnh này đa dạng sinh học rất cao.
Đặc điểm:
Lúa ma (Oryza rufipogon Griff): cỏ sống nhiều năm, có thân nằm rồi đứng, dài 1,5
- 4 m, thân to 4 - 6 mm, lóng dài 10 cm. Lá có phiến dài 20 cm, rộng 1 cm; mép lá
có rìa lông. Cụm hoa đứng cao 10 - 15 cm; gié hoa màu vàng nâu dài 7 - 9,5 mm,
rộng 1,8 - 1,9 mm, có lông gai dài đến 11 cm. Lá, thân cho trâu ăn, hạt là thức ăn
cho chim. Mọc ở dựa rạch, ven bờ mương, ruộng nước sâu. Cây phân bố rộng rãi
khắp Nam bộ, rất nhiều ở Đồng Tháp. Vào mùa mưa (mùa lũ), thân cây vươn dài
theo mực nước dâng cao (ngoi lên theo nước ngập).
- Lúa ma hoặc lúa trời, xưa mọc hoang ở các vùng đầm lầy, nay thì ven các bờ

kinh rạch ở ĐBSCL hầu như chỗ nào cũng có, trừ vùng ngập mặn. Lúa ma sống
được cả trong mùa nước và mùa khô nhờ cái thân ngầm của nó còn vùi ở trong
đất, mưa xuống lại mọc lên. Lúa ma sinh trưởng tốt trong mùa lũ. Cây ra hoa từ
tháng 10 đến tháng 12. Điều đó cho thấy sự ra hoa của lúa ma trùng với mùa mưa.
- Hạt lúa ma rất dễ rụng; vào khoảng cuối tháng Chín đầu tháng Mười, khi hạt vừa
chuyển màu vàng thì bắt đầu rụng.
- Lúa ma có đặc điểm kỳ lạ, lũ lên nhanh lóng lúa sẽ co bóp lại cho thân dài thêm,
lúc này lóng lúa lẹp kép, còn khi lũ nhỏ hay nước lên chậm lóng lúa ngắn và co lại
có hình tròn.
- Lúa ma không phải là cây được sử dụng trực tiếp bởi con người, nhưng nó là
thức ăn cho gia súc và các loài chim. Vì vậy, nên chăng chúng ta đốt để tránh hiện
tượng cháy hay nên khai thác sinh khối sinh học để tăng nguồn lợi về chăn nuôi và
sự đa dạng loài hoặc đốt thì đốt những bộ phận nào và vào thời điểm nào? Thân,
lá, hoa, quả hay chỉ những phần gốc để cải thiện bề mặt đất? Bởi vì hạt là thức ăn
của chim nếu không có hạt thì cũng sẽ không có chim hiện diện.
2. Đa dạng hệ sinh thái động vật ở vườn quốc gia Tràm Chim
Đây là nơi cư trú của trên 100 loài động vật có xương sống, 40 loài cá và 147 loài
chim nước. Trong đó, có 13 loài chim quý hiếm của thế giới. Đặc biệt là Sếu đầu
đỏ (Grus Antigone) hay Sếu cổ trụi được Hội Bảo Vệ Hạc Quốc Tế (ICF) cùng
nhiều tổ chức quốc tế khác bảo vệ.
Vườn Quốc Gia Tràm Chim còn có 16 loài chim quí hiếm sinh sống và được bảo
vệ như : Sếu đầu đỏ, Già đẫy lớn, Già đẫy Java,Cò quắm đầu đen, Cò Thìa, Đại
bàng đen, Te vàng, Choi Choi lưng đen, Ngang cánh trắng, Điêng Điểng, Cò
Trắng Trung Quốc, Diệc Sumatra, Bồ Nông Chân xám, Giang Sen, Nhạn ốc và
Công Đất. Trong số các loài chim quí hiếm có 42% loài sử dụng đầm lầy nước
ngọt, 10% sử dụng đồng cỏ, 48% còn lại sử dụng rừng ngập nước, các con kênh,
cây, bụi rậm và sử dụng tổng hợp.
Tại Vườn Quốc Gia Tràm Chim, quần thể chim nước phần lớn di cư, trú đông
trong suốt mùa đông. Đặc biệt là quần thể của loài Sếu cổ trụi thường xuyên di trú
đến kiếm ăn trong vườn vào mùa khô. Cuối tháng 4/2009 đã có trên 80 con về

Vườn Quốc Gia Tràm Chim,. Các loài chim đang thích nghi với sinh cảnh ở đây.
Hầu hết các loài chim đều thích nghi với sinh cảnh cây Lúa Ma (kể cả Sếu đầu
đỏ), do cây Lúa Ma đa dạng sinh học rất cao và rất nhạy cảm với các loài chim.
Mỗi loài chim quí đều có hàng trăm con, số lượng nhiều nhất vẫn là cò. Vườn
Quốc Gia Tràm Chim thường xuyên được bảo vệ nghiêm ngặt, gìn giữ các loài
chim quí này.
Hiện nay, có thêm 16 loài chim quí khác đang được bảo tồn. Ngoài Sếu đầu đỏ,
các loài chim Ô Tác, Điêng Điểng, Già Đẫy, Giang Sen và Rồng Rộc bị đe dọa
tuyệt chủng trên toàn cầu nhưng chúng vẫn về sinh sống và đang được bảo vệ .
Đáng chú ý là sự xuất hiện của một số loài chim mới xuất như : Le Khoang Cổ,
Nhát Hoa và Gà Lôi…
2.1 Chim nước
Có 231 loài, với 32 loài quý hiếm: công đất, giang sen, cò ốc, … đặc biệt là sếu
đầu đỏ
2.2 Thủy sản
Có 130 loài cá ( chiếm 40 % số loài của ĐBSCL, khảo sát của WWF )174 loài
thực vật nổi; 110 loài động vật nổi; 23 loài động vật đáy cùng các loài lưỡng cư,
bò sát khác…
2.3 Lưỡng cư
Lưỡng cư và bò sát khoảng 44 loài.
3 III. Hoạt động bảo tồn
 Quản lý thủy văn: xây dựng 6 cống điều tiết nước ở khu A1, A2.
 Xây dựng đê bao cống, đập.
 Đo mực nước hang ngày tại các điểm thước nước
 Theo dõi sự sinh trưởng và phát triển của các loài chim trong vườn.
 Thực hiện ngiên cứu khoa học, kết hợp với các tổ chức các quỹ bảo trợ thế
giới,…
 Kiểm soát các loài ngoại lai.
 Hợp tác và chia sẽ tài nguyên.
 Tuyên truyền lớp bảo vệ môi trường.

 Phòng chống cháy rừng:
Do diện tích cả vườn quốc gia tương đối rộng lớn nên công tác tổ chức quản lý
vá bảo tồn đa dạng sinh học là công việc cấp thiết và chuẩn bị chu đáo. Ở vườn
quốc gia tràm chim đã hoạt động được nhiều phương pháp đáng kể để bảo vệ
tính đa dạng của vườn quốc gia đặt biệt là công tác phòng cháy chữa cháy:
 Xây dựng 19 trạm bảo vệ, các biển báo và 4 đài quan sát.
 Tuần tra bảo vệ các lớp biểu bì dễ cháy vào mùa khô.
 Đốt cỏ chủ động vào mùa khô ( đốt bỏ từ 500 – 800 ha vào mùa khô
hằng năm )
 Xử phạt các hành vi vi phạm vào rừng.
 Trang bị dụng cụ máy móc, thiết bị chữa cháy.
4 IV. Những khó khăn và thách thức
Bên cạnh sự hấp dẫn độc đáo của VQG Tràm Chim về cảnh quan tự nhiên và
đa dạng sinh học thì hiện nay, Vườn quốc gia đang gặp phải những thách thức
lớn đến từ nhiều phía:
1. Ảnh hưởng do khai thác.
Đa số nguời dân sống xung quanh VQG Tràm Chim là những nông dân nghèo,
mưu sinh chủ yếu bằng việc khai thác nguồn lợi từ Vườn quốc gia. Chế độ bảo vệ
nghiêm ngặt trong nhiều năm qua đã dẫn tới xung đột gay gắt giữa Vườn quốc gia
và cộng đồng cư dân. Mặt dù hằng năm lãnh đạo của vườn đã xem xét và cho phép
một ít người dân được phép khai thác hợp lý ở vườn nhưng người dân vẫn thiếu ý
thức làm ảnh hưởng tới sự đa dạng sinh học ở vườn, Vườn quốc gia cũng đã
không tránh được sự khai thác qúa mức của con người, dẫn đến sự suy kiệt tài
nguyên như cá, củi, cỏ, Người dân "đột nhập" vào vuờn cũng thường xảy ra. Chỉ
cần đi thuyền vào hái hoa sen, ngó sen, và hoa súng. Họ còn dùng xung điện khai
thác thủy sản, sử dụng hóa chất để bẫy chuột, cua ốc
2. Ảnh hưởng của nguồn nước.
Do sự phát triển hệ thống kênh đào rộng khắp và những thay đổi của sông
Mêkông, dẫn đến chế độ thủy văn toàn vùng Đồng Tháp Mười đã thay đổi, làm
thu hẹp diện tích đồng cỏ năng, ảnh hưởng đến nguồn thức ăn của sếu đầu đỏ, dẫn

đến mật độ cá thể của loài chim này bị giảm hàng năm. Việc quản lý mực nước
trong vườn hiện nay rất khó khăn; bởi lẽ: nếu giữ mực nước thấp quá thì dễ dẫn
đến cháy rừng; còn nếu giữ mực nước cao liên tục, rừng tràm khó cháy nhưng cây
cỏ năng bị ngập nước sẽ không có củ để dẫn dụ đàn sếu.
Ngoài ra, việc đào ao nuôi tôm, cá và trồng lúa của nguời dân ở xung quanh
VQG cũng có thể ảnh huởng đến nguồn nuớc của vùng do nuớc rò rĩ từ bên ngòai
vào trong vườn, đồng thời cũng ảnh hưởng đến sinh hoạt của lòai chim nơi đây.
3. Cháy rừng
Cháy rừng luôn là vấn đề rất đuợc quan tâm, bởi hậu quả của nó rất nghiêm
trọng: những cánh đồng cỏ bị suy thoái, kéo theo cảnh quan sinh thái bị phá vỡ,
mất nguồn thức ăn, ảnh hưởng đến cuộc sống tự nhiên của rất nhiều loài động thực
vật. Đó cũng là nguyên nhân làm giảm mạnh nhiều loài chim quý hiếm ở Tràm
Chim trong đó có loài siếu đầu đỏ và một số loài đặc hữu khác.
4. Sự xâm lấn của các loài ngoại lai.
Vườn quốc gia Tràm Chim đang bị đe dọa nghiêm trọng bởi sự xâm lấn của cây
mai dương (Mimosa pigra) - một loài thực vật được Liên minh Quốc tế Bảo tồn
Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) xếp trong 100 loài ngoại lai xâm hại nguy hiểm nhất
thế giới. Đồng thời, VQG còn phát hiện sự xâm nhập của ốc bưu vàng, và lục bình
Nếu kiểm soát không chặt chẽ thì toàn bộ Vườn quốc gia sẽ bị loài này xâm lấn
triệt để, sự đa dạng sinh học sẽ mất đi hoàn toàn.
5. Du lịch sinh thái.
Vấn đề phát triển du lịch sinh thái ở VQG Tràm Chim là vấn đề cần quan tâm,
cần phải làm sao cho vừa mang lại lợi ích cho cộng đồng, đóng góp cho bảo tồn
mà không gây tác hại lên hệ sinh thái.
Nếu phát triển du lịch không bền vững có thể gây ra các tác động tiêu cực tới
môi trường như: tác động đến cảnh quan, đến động thực vật đặc biệt là Sếu đầu
đỏ, tới nguồn nước và môi trường của vườn quốc gia.
PHẦN 2: KHẢO SÁT
MỤC TIÊU:
- ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ ĐA DẠNG SINH HỌC

- HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ VÀ CON NGƯỜI ẢNH HƯỞNG ĐẾN VQG TRÀM
CHIM
ĐA DẠNG SINH HỌC
Vườn quốc gia Tràm Chim thuộc kiểu hệ sinh thá: Đất ngập nước

×