Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

TIỂU LUẬN: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (628.55 KB, 83 trang )













TIỂU LUẬN:

Một số giải pháp nâng cao hiệu
quả hoạt động của khu công
nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam











Lời nói đầu

Để thúc đẩy nhanh quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới,


trong xu thế quốc tế hoá đời sống ngày càng mạnh mẽ. Việt Nam cũng như
các nước đang phát triển khác phải tìm kiếm con đường để thu hút vốn đầu tư,
đặc biệt là nguồn vốn từ các nước tư bản phát triển, và đó là một trong những
tác nhân chủ yếu làm nảy sinh loại hình kinh tế mới: khu công nghiệp, khu chế
xuất.
Cho đến nay, loại hình khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung đã được
nhiều nước trên thế giới ứng dụng thành công. Với kinh nghiệm của các nước
đi trước và phân tích tình hình thực tế của Việt Nam, Đảng và nhà nước ta đã
quyết định cho xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Việc phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất là một con đường thích
hợp, một hướng đi đúng đắn, mang tính tất yếu trong sự nghiệp phát triển kinh
tế của nước ta. Vì phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất sẽ mang lại lợi
ích to lớn, tác động không nhỏ đến đầu tư sản xuất công nghiệp, đẩy mạnh
xuất khẩu và tiêu dùng trong nước, làm cho thu nhập quốc dân tăng nhanh và
vững chắc. Đồng thời trong các khu công nghiệp việc phân nhóm các nhà máy
được tiến hành một cách có hệ thống, việc bảo vệ môi trường được đảm bảo.
Đây là lợi ích cơ bản và lâu dài đối với một nước đang phát triển như nước ta,
góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
Trong những năm qua, phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất đã đem
lại thành công bước đầu, tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều yếu kém,
vạch ra những vấn đề còn tồn tại bất cập là việc làm cần thiết để khu công
nghiệp, khu chế xuất tiếp tục phát triển ổn định vững chắc trong những điều
kiện của Việt Nam.
Do tầm quan trọng của vấn đề phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất
em đã đi sâu vào nghiên cứu đề tài " Một số giải pháp nâng cao hiệu quả
hoạt động của khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam"





Nội dung của đề tài này được chia thành ba phần chính:
Phần I: Tầm quan trọng của việc phát triển các khu công nghiệp,
khu chế xuất ở Việt Nam.
Phần II: Tình hình phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất ở
Việt Nam và những vấn đề còn tồn tại.
Phần III: Giải pháp để phát triển hiệu quả hoạt động của
khu công nghiệp, khu chế xuất.
























Chương I
Tầm quan trọng của việc phát triển các khu công nghiệp, khu chế
xuất ở Việt Nam

I. Khu công nghiệp, khu chế xuất là gì ?
Khu công nghiệp, khu chế xuất là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên
sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp,
có danh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống. Trong khu công
nghiệp, khu chế xuất có doanh nghiệp chế xuất.
Khu chế xuất là một khu công nghiệp tập trung sản xuất hàng xuất khẩu
và thực hiện các dịch vụ liên quan đến sản xuất và xuất khẩu. Khu chế xuất là
một khu khép kín có ranh giới địa lý được xác định, biệt lập với các vùng lãnh
thổ ngoài khu chế xuất bằng hệ thống tường rào khu chế xuất, được hưởng chế
độ ưu đãi về nhiều mặt: nhập khẩu nguyên vật liệu, thuế, công ty được cung
cấp cơ sở hạ tầng tốt và các điều kiện khác để người sản xuất kinh doanh ở
đây có lợi nhuận cao nhất
Khu công nghiệp và khu chế xuất khác nhau ở chỗ:
+ Khu chế xuất xây dựng để thu hút các đơn vị sản xuất sản phẩm xuất
khẩu, còn khu công nghiệp được mở ra với tất cả các ngành công nghiệp, kể cả
sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu thụ trong nước. Do vậy khu công nghiệp có
thể bao gồm cả doanh nghiệp chế xuất.
+ Các công ty 100% vốn trong nước có thể được vào khu công nghiệp,
khác với khu chế xuất chỉ liên kết với các công ty vốn nước ngoài
+ Các công ty sản xuất kinh doanh trong khu công nghiệp sẽ được hưởng
một số ưu đãi nhất định. Trong đó, đặc biệt ưu đãi đối với những hãng sản
xuất hàng xuất khẩu, do đó những hãng này mà nằm trong khu công nghiệp sẽ
được hưởng ưu đãi như trong khu chế xuất và cũng sẽ được hưởng ưu đãi
trong khu công nghiệp
Khu công nghiệp là một hình thức tổ chức không gian lãnh thổ công

nghiệp luôn gắn liền phát triển công nghiệp với xây dựng kết cấu hạ tầng và



hình thành mạng lưới đô thị, phân bố dân cư hợp lý. Do đó việc phân bố công
nghiệp phải đảm bảo các điều kiện sau:
- Có khả năng xây dựng kết cấu hạ tầng thuận lợi, có hiệu quả, có đất để
mở rộng và nếu có thể liên kết thành các cụm công nghiệp. Quy mô khu công
nghiệp và quy mô xí nghiệp công nghiệp phải phù hợp với đặc điểm công
nghệ chính gắn với điêù kiện kết cấu hạ tầng
- Có khả năng cung cấp nguyên vật liệu trong nước hoặc nhập khẩu
tương đối thuận lợi, có cự ly vận chuyển thích hợp
- Có nhiệm vụ tiêu thụ sản phẩm
- Có khả năng đáp ứng nhu cầu lao động cả về số lượng và chất lượng
với chi phí tiền lương thích hợp
- Tiết kiệm tối đa đất nông nghiệp, đặc biệt đất trồng lúa, nhằm giữ
được an toàn lương thực cho quốc gia trong chiến lược dài hạn
- Kết hợp chặt chẽ việc phát triển các khu công nghiệp với quy hoạch
đô thị, phân bố dân cư
- Phát triển công nghiệp gắn với đảm bảo an ninh quốc phòng
Do vậy việc lựa chọn vị trí để xây dựng các khu công nghiệp là rất quan
trọng vì nó vừa đảm bảo thuận lợi cho việc phát triển kinh tế trong giai đoạn
trước mắt, đồng thời làm cơ sở xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng cần thiết
nhằm phát triển mạnh và có hiệu quả các khu công nghiệp cho giai đoạn sau.
Việc xây dựng các khu công nghiệp đòi hỏi phải phát huy được thế mạnh, tiềm
năng kinh tế của từng vùng.
Còn đối với khu chế xuất mặc dù quy chế khu chế xuất ở từng nước có
quy định cụ thể khác nhau. Song những đặc trưng sau đây được coi là đặc
điểm của một khu chế xuất điển hình.
- Nhập khẩu tự do nguyên vật liệu và không hạn chế về số lượng. Đây

là một ưu đãi đặc biệt so với sản xuất trong nước. Mặt khác các công ty trong
khu chế xuất cũng phải nộp thuế doanh thu, thuế xuất khẩu cho những mặt
hàng họ sản xuất ra và xuất khẩu. Hơn nữa để khuyến khích mối liên hệ phát
triển giữa các hãng trong khu chế xuất với nền kinh tế trong nước, nếu những



hãng này mua nguyên vật liệu trong nước họ sẽ nhận được một số sự hỗ trợ
khác. Tuy nhiên những hàng hoá sản xuất trong khu chế xuất không được bán
trong nội địa, chỉ khi hàng hoá này bị người nước ngoài từ chối thì có thể được
đem bán trong nội địa.
- Những hãng trong khu chế xuất thường được cung cấp thủ tục hải
quan nhanh chóng cho việc nhập vật liệu và xuất khẩu hàng hoá. Một bộ phận
làm trung gian giữa Chính phủ và hãng được thành lập để giảm chi phí không
cần thiết cho hãng này. Hơn nữa họ còn được miễn thực hiện nhiều quy định,
mà những quy định này được áp dụng trong nước như: hạn chế những hãng,
công ty sở hữu bởi nước ngoài, hạn chế người nước ngoài chuyển lợi nhuận về
nước, hạn chế người nước ngoài quản lý, kiểm soát điều hành kĩ thuật trong
công ty.
- Những hãng trong khu chế xuất được sử dụng cơ sở hạ tầng tốt như:
đường xá, điện thoại, điện tín Hơn nữa họ còn được trợ cấp trong sử dụng
một số yếu tố như: tỉ lệ thuế, điện nước rất thấp.
Nghiên cứu và áp dụng thành công mô hình kinh tế này sẽ góp phần
to lớn trong việc phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam nói
riêng và phát triển nền kinh tế đất nước nói chung trong quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.

II. Tại sao phải hình thành và phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất?

Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, được Đại hội

đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng nêu lên chỉ có thể đạt được bằng con
đường phát triển và dịch chuyển cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, trong đó việc phát triển khu công nghiệp, khu chế
xuất có ý nghĩa vô cùng quan trọng
1, Việc phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam sẽ góp
phần thu hút đầu tư, đẩy mạnh xuất khẩu góp phần thục hiện mục tiêu
tăng trưởng.



Trong cuộc đua tranh phát triển kinh tế hiện nay, vấn đề tăng trưởng
nhanh và lâu bền đang đặt ra gay gắt đối với các quốc gia, đặt biệt là đối với
nước ta. Nếu không thực hiện được mục tiêu này thì nước ta sẽ tụt hậu rất xa
so với các nước phát triển. Việc sử dụng vốn nước ngoài để phát triển là sự
cần thiết, là cách thông minh để rút ngắn thời gian tích luỹ. Khu công nghiệp,
khu chế xuất góp phần quan trọng cho việc tăng thu ngoại tệ và tăng trưởng
kinh tế của đất nước.
Khu công nghiệp, khu chế xuất với những ưu đãi đặc biệt so với sản xuất
trong nước đã trở thành môi trường hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, từ đó
giúp cho nước chủ nhà có thêm vốn đầu tư, tiếp cận kĩ thuật và công nghệ
mới. Theo Ngân hàng Thế giới, các dự án thực hiện trong khu chế xuất hầu hết
do các nhà đầu tư nước ngoài hoặc do các liên doanh với nước ngoài thực hiện
(khoảng 43% các dự án do đầu tư trong nước thực hiện, 24% do liên doanh
với nước ngoài và 33% do các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện). Do vậy khu
công nghiệp, khu chế xuất đã đóng góp đáng kể trong việc thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI)
Ví dụ: ở Đài Loan và Malaixia, trong những năm đầu phát triển, khu
công nghiệp, khu chế xuất đã thu hút khoảng 60% số vốn FDI.
Khu công nghiệp, khu chế xuất góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu
ngoại tệ do việc phát triển sản xuất hàng xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. Ví

dụ như Malaixia, giá trị xuất khẩu từ khu chế xuất chiếm 30% trong tổng giá
trị xuất khẩu các sản phẩm chế biến, ở Mêhicô là 50% và giá trị mới tạo ra ở
các khu chế xuất nói chung là khoảng 25%. Trong đó có tới 70% là chi phí về
lao động, 30% còn lại là chi phí về thuê nhà, tiện nghi giao thông, dịch vụ vì
thuế thu nhập ròng về ngoại tệ từ khu chế xuất chỉ khoảng 15-20% giá trị xuất
khẩu. Tuy nhiên đó cũng là một con số đáng kể đối với những nước đang khan
hiếm ngoại tệ.
2, Khu công nghiệp, khu chế xuất tạo thêm công ăn việc làm:
Việc tăng công ăn việc làm là hệ quả trực tiếp và tất yếu của việc phát
triển khu công nghiệp, khu chế xuất. Theo kết quả điều tra của Ngân hàng Thế
giới, đến nay tổng số việc làm chỉ tính riêng trong các khu chế xuất đã lên tới



4-5 triệu chỗ (con số này tăng nhanh so với thập kỷ 80 là 500.000 chỗ). Trong
đó, Châu á là nơi tạo nhiều việc làm nhất, chiếm tới 76,59% tổng số chỗ.
Việt Nam là nước đông dân, tốc độ tăng dân số là khá cao so với các
nước trong khu vực. Về thực chất, Việt Nam vẫn là một nền kinh tế nông
nghiệp có tỉ lệ nửa thất nghiệp cao. Thêm vào đó, số người thất nghiệp ở đô thị
ngày càng tăng và chủ yếu là những người vừa đến tuổi lao động, do dan số
tăng nhanh so với các thập kỷ trước. Vì vậy vấn đề tạo thêm công ăn việc làm
cũng là mục tiêu quan trọng trong những năm tới và phát triển khu công
nghiệp, khu chế xuất chính là một biện pháp để tăng thêm việc làm.
3, Khu công nghiệp, khu chế xuất sẽ tạo ra mối liên hệ ngược tác
động trở lại nền kinh tế.
Việc phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất sẽ tạo ra mối liên hệ
ngược, thúc đẩy sự phát triển của các khu vực kinh tế khác. Bởi vì, thông qua
sử dụng nguyên vật liệu trong nước và các dịch vụ gia công chế biến sản phẩm
cho khu công nghiệp, khu chế xuất từ đó thúc đẩy các ngành kinh tế khác và
nền kinh tế cùng phát triển. Việt Nam cũng hi vọng tác dụng này sẽ phát huy

khi chúng ta phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất. Bởi vì Việt Nam là một
đất nước phong phú về lao động và tài nguyên rừng, biển, khoáng sản đó là
một tiềm năng để cung cấp nguyên liệu cho các khu công nghiệp, khu chế
xuất.
ở một số nước tỉ lệ vật liệu trong nước cung cấp cho khu công nghiệp,
khu chế xuất khá cao. ở Hàn quốc tỉ lệ này tăng từ 3% năm 1971 lên 34% năm
1979 và duy trì từ đó đến nay. Thông qua dịch vụ lắp ráp và chế biến sản
phẩm cho khu công nghiệp, khu chế xuất số lao động tăng đáng kể. ở Hàn
Quốc, năm 1985, số lao động này chiếm tới 25,7% trong đó đặc biệt là dịch vụ
dệt, may số lao động chiếm tới 61% trong tổng số lao động của ngành.
Và một yếu tố quan trọng là thông qua phát triển khu công nghiệp, khu
chế xuất chúng ta hi vọng sẽ tiếp xúc với khoa học kĩ thuật hiện đại, học hỏi
phương thức quản lý tiên tiến, nâng cao trình độ lành nghề của công nhân. khu
công nghiệp, khu chế xuất còn cho phép khắc phục dược những yếu kém và
kết cấu cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội trên những vùng rộng lớn của đất nước.



Mặc dù chúng ta đang có chương trình triển khai trên quy mô lớn việc xây
dựng kết cấu hạ tầng này nhưng việc triển khai nó trong thực tế đòi hỏi chúng
ta những nguồn vốn hết sức lớn, cần thời gian dài và một quá trình tổ chức
phức tạp. Khu công nghiệp, khu chế xuất là một địa bàn nhỏ hẹp có thể tập
trung mọi điều kiện cần thiết để nâng cấp cơ sở hạ tầng của nó nhanh chóng
đạt đến trình độ cao mà các doanh nghiệp thường đòi hỏi.
Việc xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất sẽ đưa các doanh
nghiệp trong nước tập trung thành những trung tâm để dễ bề quản lý. Đồng
thời trong các khu công nghiệp việc phân nhóm các nhà máy được tiến hành
một cách có hệ thống do đó việc đảm bảo môi trường được đảm bảo.
Khu công nghiệp, khu chế xuất nếu được xây dựng thành công sẽ trở
thành một mô hình kinh tế năng động có hiệu quả cao. Nơi đây sẽ đào tạo các

cán bộ kĩ thuật ,cán bộ quản lý có trình độ cao, đủ sức vươn xa hơn ra thị
trường thế giới. Khu công nghiệp, khu chế xuất có tác dụng như một bước đột
phá về cách làm ăn mới,một tấm gương cho nhiều doanh nghiệp rút kinh
nghiệm tạo nên sức hút với cả bên ngoài và với cả bên trong góp phần tăng
trưởng nhanh cho nền kinh tế.
Phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất là một đòi hỏi khách quan, một
bước đi cần thiết và có nhiều tác dụng thực tiễn.
III. Các điều kiện cần thiết để hình thành và phát triển khu công nghiệp,
khu chế xuất .
1, Sự phù hợp của khu công nghiệp đó với quy hoạch phát triển hệ
thống khu công nghiệp trong phạm vi cả nước, kế hoạch phát triển ngành kinh
tế kĩ thuật cũng như quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của các địa phương.
Khi xây dựng các khu công nghiệp cần xem xét các phương hướng mặt
hàng sản xuất chủ yếu trong khu công nghiệp đó có phù họp với định hướng
phát triển ngành kinh tế-kĩ thuật tương ứng hay không, kể cả định hướng thị
trường tiêu thụ sản phẩm, bắt buộc phải xuất khẩu toàn bộ sản phẩm hay được
phép tiêu thụ một tỷ lệ nhất định tại thị trường Việt Nam.



Vai trò và vị trí của khu công nghiệp trong quy hoạch phát triển kinh tế-
xã hội của địa phương là yếu tố hết sức quan trọnh khi quyết định thành lập,
bao gồm việc tạo ra năng lực cơ sở hạ tầng mới ở địa phương, hình thành các
khu dân cư mới và yêu cầu giải quyết các vấn đề phát sinh.
Việc thành lập các khu công nghiệp phải phù hợp với định hướng phát
triển công nghệ của các ngành kinh tế-kĩ thuật, kể cả yêu cầu phát triển công
nghệ, kĩ thuật cao, hiện đại đối với một số ngành mũi nhọn.
2, Các dự án thành lập khu công nghiệp phải thể hiện đầy đủ các yêu
cầu và có giải pháp khả thi trong việc phát triển và kinh doanh cơ sở hạ tầng,
trước hết là cơ sở hạ tầng kĩ thuật như giao thông, cấp điện, cấp nước, thông

tin liên lạc, thoát nước và xử lý nước thải.
Khi xem xét cơ sở hạ tầng khu công nghiệp cần tính toán đầy đủ khả
năng cung cấp từ bên ngoài, các đầu mối kĩ thuật, nhu cầu đầu tư và khả năng
thực hiện, Trong khu công nghiệp, yếu tố này thường bị bỏ qua hoặc xem xét
sơ sài trong khi nó đóng vai trò hết sức quan trọng, nhiều khi là quyết dịnh
đảm bảo cơ sở hạ tầng tối thiểu cho hoạt động của khu công nghiệp.
Trong điều kiện cơ sở hạ tầng xã hội còn nghèo nàn như tình trạng chung
hiên nay, khi quyết định thành lập khu công nghiệp có nghĩa là sẽ tập trung
hàng vạn, thậm chí hàng chục vạn lao động vào một địa bàn chật hẹp nên việc
giải quyết toàn diện, đồng bộ các yếu tố liên quan đến đời sống của số lao
động này cùng với gia đình họ là yếu tố hết sức quan trọng bao gồm nhà ở với
các điều kiện và phương thức thực hiện hợp lý hệ thống thương nghiệp đi lại
Bao trùm lên toàn bộ vấn đề phát triển cơ sở hạ tầng khu công nghiệp
phải xác định được nhu cầu tổng vốn đầu tư và phương thức tổ chức thực hiện.
Doanh nghiệp xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, dù đó
là doanh nghiệp Việt Nam hay doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài, phải
đóng vai trò chủ đạo trong việc khâu nối đồng bộ hoá các khâu có liên quan để
đảm bảo vận hành khu công nghiệp có hiệu quả.



3, Yếu tố cực kỳ quan trọng, quyết định nhất khi xem xét thành lập các
khu công nghiệp là kế hoạch vận động các nhà đầu tư trong và ngoài nước
vào khu công nghiệp.
Trong số các khu công nghiệp được quyết định thành lập, một số khu
công nghiệp kể cả liên doanh với nước ngoài đã xây dựng cơ sở hạ tầng tương
đối hoàn chỉnh đồng bộ và tương đối hiện đại song vẫn chưa thu hút được
nhiều nhà đầu tư vào. Điều này, ngoài các yếu tố chung của môi đầu tư của đất
nước, còn có phần do chủ quan của doanh nghiệp xây dựng và kinh doanh cơ
sở hạ tầng và nếu kéo dài tình trạng không thu hút được các nhà đầu tư thì sẽ

gây thiệt hại cho các doanh nghiệp kinh doanh cơ sở hạ tầng nói riêng và đất
nước nói chung.
Trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp kinh doanh cơ sở hạ tầng đưa ra
giá cho thuê đất lại quá cao so với mức giá của các dự án ngoài khu công
nghiệp ở gần đó. Ngoài ra trong nhiều trường hợp họ còn áp dụng phương
thức trả tiền thuê lại đất một lần cho thơì gian quá dài, thậm chí đến 50 năm
nên làm cho nhiều nhà đầu tư ngần ngại khi quyết định đầu tư vào khu công
nghiệp.
Tóm lại, việc hình thành các khu công nghiệp mà mục tiêu cuối cùng là
các xí nghiệp sản xuất công nghiệp cùng với cơ sở hạ tầng hiện đại, bảo vệ
môi trường trong sạch là quá trình lâu dài, phức tạp. Khi ra quyết định thành
lập các khu công nghiệp đó, nếu xét kĩ các vấn đề nêu trên thì cơ bản sẽ tránh
được nhiều rủi ro, tránh được lãng phí đầu tư có thể xảy ra.

IV. Những nhân tố tác động đến sự hình thành và phát triển của khu công
nghiệp, khu chế xuất

1, Các yếu tố bên trong:
1.1.Vị trí địa lý:



Trong 10 yếu tố thành công của khu công nghiệp, khu chế xuất của hiệp
hội các khu chế xuất thế giới đã tổng kết thì có hai yếu tố thuộc về yếu tố địa
lý và điều kiện tự nhiên. Đó là:
Gần các tuyến giao thông đường bộ, đường hàng không, đường biển.
Có nguồn cung cấp nguyên vật liệu và lao động.
Rõ ràng việc xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất ở các khu vực
này sẽ tạn dụng được đầu vào sẵn có, làm giảm chi phí vận chuyển, có điều
kiện mở rộng trong điều kiện khu công nghiệp thành công.

1.2. Vị trí kinh tế xã hội:
Các trung tâm đô thị vừa là trung tâm kinh tế, vừa là trung tâm chính trị.
Do đó sẽ là nơi tập trung nhiều ngành sản xuất, cơ sở vật chất kĩ thuật tốt, đội
ngũ lao động có trình độ cao, chuyên môn giỏi. Do vậy hiện nay ở nước ta các
khu công nghiệp, khu chế xuất chủ yếu tập chung ở các thành phố lớn để tận
dụng các diều kiện sẵn có, giảm rủi ro cho các nhà đầu tư, tạo sức hấp dẫn các
nhà đầu tư.
1.3. Kết cấu hạ tầng:
Đây là yếu tố (xuất phát điểm) có ảnh hưởng rất lớn đến việc thu hút vốn
đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất.
Với các nhà đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng mối quan tâm là vị trí thì với
các nhà đầu tư sản xuất kinh doanh lại là kết cấu hạ tầng. Kết cấu hạ tầng:
điện, nước, công trình công cộng khác đường xá, cầu cống Tác động trực
tiếp đến giá thuê đất, ảnh hưởng đến tâm lý đầu tư.
1.4. Khả năng vốn đầu tư.
ở các nước trên thế giới vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thường chủ
yếu là vốn nhà nước. Những năm ngần đây ở nước ta đã huy động được nguồn
vốn liên doanh khá lớn chủ yếu do phương thức BOT, BTO, BT vốn nước
ngoài. thường chiếm 70% vốn pháp định , bên Việt Nam góp 30% thường là
giá trị sử dụng đất.



Khuyến khích phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất trong những
năm gần đây nhà nước đã áp dụng nhiều chính sách vĩ mô và có hỗ trợ trong
việc vay tín dụng, tạo các quỹ hỗ trợ đầu tư
1.5. Thị trường trong nước.
Đối với các công ty nước ngoài, mục tiêu đầu tư vào các khu công
nghiệp, khu chế xuất là tận dụng thị trường nước chủ nhà, đưa nguồn vốn và
hoạt động sinh lợi tránh tình trạng ứ đọng vốn, đồng thời có thể tận dụng được

nguồn tài nguyên nhân công rẻ cộng với thị trường rộng lớn.
Nghiên cứu thị trưòng là một trong các hạng mục phải xem xét trong quá
trình lập dự án nghiên cứukhả thi.
2. Các yếu tố bên ngoài:
2.1. Vốn đầu tư nước ngoài.
Trong khi các nước đang phát triển gặp phải tình trạng thiếu vốn thì các
công ty xuyên quốc gia đang có nguồn vốn lớn mong muốn có một môi trường
đầu tư có lợi nhất song không phải bất kỳ đâu họ cũng bỏ vốn vào đầu tư.
2.2. Yếu tố thị trường.
Các sản phẩm chế xuất bán ra trên thị trường giá cả. Do đó đối với các
nhà sản xuất chiến lược thị trường, mở rộng thị trường là những vấn đề có tính
quyết định.
2.3. Yếu tố chính trị.
Quan hệ chính trị tốt đẹp sẽ là dấu hiệu tốt cho việc mở rộng quan hệ hợp
tác kinh tế. Thông thường những tác động này thể hiện ở:
Việc giành cho các nước kém phát triển điều kiện ưu đãi về vốn đặc
biệt là vốn ODA, các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc các khoản cho vay
ưu đãi.
- Tạo điều kiện xuất nhập khẩu nguyên vật liệu, sản phẩm, thiết bị công
nghệ.
- Ký kết các hiệp ước thương mại giữa các Chính phủ cho phép các tổ
chức kinh tế, cá nhân, các đơn vị kinh tế đầu tư sang nước kia.




Sơ đồ biểu hiện các nhân tố tác động đến việc phát triển khu công
nghiệp.




















V . Quy chế quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất:

1. Những quy định chung.
Nghị định 36/CP của Chính phủ về thành lập quản lý các khu công
nghiệp, khu chế xuất.
Điều 1 có ghi " Nhà nước bảo hộ, khuyến khích, đối xử bình đẳng, tạo
điều kiện thuận lợi cho các tổ chức kinh tế, cá nhân, các tổ chức nghiên cứu
khoa học, đào tạo trong nước và nước ngoài đầu tư vào các khu công nghiệp,
Vị
trí
địa

Vị

trí
kinh
tế

hội
Kết
cấu
hạ
tầng
Khả
năng
vốn
đầu

Khả
năng

thị
trườn
g
trong
nước
Vốn
đầu

nước
ngoài

Các
yếu

tố
chính
trị
Thị
trườn
g
nước
ngoài
Các yếu tố cơ
b
ản

Yếu tố bên
ngoài

Yếu tố bên
trong




khu chế xuất, khu công nghệ cao(gọi chung là khu công nghiệp, trừ trường
hợp có quy định riêng cho từng loại khu).
Điều 3 " Đối tượng áp dụng của luật khu công nghiệp bao gồm:
Nhà đầu tư trong nước.
Nhà đầu tư ngoài nước.
Doanh nghiệp Việt Nam thuộc các thành phần kinh tế.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Nhà đầu tư là người Việt Nam định cư ở nước ngoài và là người nước
ngoài thường trú ở Việt Nam.

Các tổ chức nghiên cứu khoa học, đào tạo, các tổ chức hành chính sự
nghiệp, quản lý nhà nước có liên quan.
Điều 5: Trong luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
"Khu công nghệ cao" là khu tập trung các đơn vị gồm công ty phát triển
khu công nghệ cao quản lý cung cấp các hạ tầng kĩ thuật và các tiện ích phục
vụ cho phát triển khu công nghệ cao, các đơn vị hoạt động phục vụ cho hoạt
động phát triển khu công nghệ cao bao gồm nghiên cứu- triển khai khoa học-
công nghệ, đào tạo, các doanh nghiệp công nghiệp kĩ thuật cao và các doanh
nghiệp dịch vụ có liên quan. Khu công nghệ cao có ranh giới địa lý xác định,
có khu dân cư riêng, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định
thành lập.
" Công ty phát triển khu công nghiệp" là công ty được thành lập và hoạt
động theo quy định của luật này phục vụ cho phát triển khu công nghiệp, khu
chế xuất, khu công nghệ cao.
" Doanh nghiệp khu chế xuất" là doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng
xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ chuyên cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt
động xuất khẩu trong khu chế xuất.
" Doanh nghiệp khu công nghiệp" là doanh nghiệp được thành lập và
hoạt động trong khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, gồm công
ty phát triển khu công nghiệp, doanh nghiệp sản xuất.



" Doanh nghiệp sản xuất khu công nghiệp" là doanh nghiệp sản xuất
hàng công nghiệp, được thành lập và hoạt động trong khu công nghiệp.
" Doanh nghiệp dịch vụ khu công nghiệp" là doanh nghiệp được thành
lập trong khu công nghiệp, thực hiện dịch vụ các công trình kết cấu hạ tầng,
dịch vụ sản xuất công nghiệp và các dịch vụ khác.
" Công nghệ kĩ thuật cao" là ngành công nghiệp sử dụng công nghệ cao
để sản xuất ra sản phẩm kĩ thuật cao.

2. Quản lý nhà nước về khu công nghiệp.
Điều 54 ghi "Nội dung quản lý nhà nước về khu công nghiệp, khu chế
xuất, khu công nghệ cao bao gồm:
1, _ Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển.
2, _ Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật.
3, _ Hướng dẫn các ngành, các địa phương trong việc thực hiện các hoạt
động khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao.
4, _ Cấp, thu hồi giấy phép, giấy đăng kí các loại.
5, _ Tổ chức bộ máy, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ.
6, _ Quy định việc phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong
việc quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao.
7, _ Thúc đẩy, kiểm tra, thanh tra, giám sát các hoạt động khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao.
Điều 55 " Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về khu công nghiệp,
khu chế xuất, khu công nghệ cao.
Giúp Chính phủ quản lý nhà nước các khu công nghiệp bao gồm cơ quan
quản lý nhà nước về khu công nghiệp.
Cơ quan quản lý khu công nghiệp cấp trung ương.
Cơ quan quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh.
Cơ quan quản lý khu công nghệ cao.
Điều 57: Chính phủ quy định cụ thể quan hệ công tác trong quản lý nhà
nước về khu công nghiệp giữa các bộ, ngành, uỷ ban nhân dân cấp tỉnh với cơ



quan quản lý khu công nghiệp cấp trung ương và cơ quan quản lý khu công
nghiệp cấp tỉnh, cơ quan quản lý khu công nghệ cao.
Điều 58: Cơ quan quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh là cơ quan quản lý
trực tiếp các khu công nghiệp trong phạm vi địa lý hành chính của một tỉnh do
Thủ tướng Chính phủ thành lập, có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn sau:

1. Cụ thể hoá và hướng dãn thực hiện các quy định trong các văn bản
quy phạm pháp luật.
2. Xây dựng và tổng hợp kế hoạch hàng năm phát triển khu công nghiệp
trình các cơ quan có thẩm quyền, tổ chức chỉ đạo thực hiện kế hoạch này.
3. Chủ trì tổ chức kiểm tra định kỳ để đánh giá tình hình thực hiện các
quy định của quyết định cho phép đầu tư, đánh giá hoạt động của doanh
nghiệp khu công nghiệp nhằm hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, giải
quyết những vấn đề phát sinh, thực hiện đúng quy định của quyết định cho
phép đầu tư và quy định của pháp luật
4. Thẩm định và cấp quyết định cho phép đầu tư cho các nhà đầu tư kinh
doanh đầu tư vào khu công nghiệp theo quy định của Chính phủ.
5. Thực hiện các nội dung quản lý, cấp giấy đăng ký thuê lại đất (cấp
đồng thời với quyết định cho phép đầu tư ), quản lý hoạt động xuất nhập khẩu,
quản lý thương mại, quản lý xây dựng theo quy hoạch chi tiết và thực hiện các
thủ tục hành chính nhà nước liên quan đến đầu tư, xây dựng, đấu thầu, quản lý
lao động và một số nội dung quản lý nhà nước khác do Chính phủ quy định.
6. Phối hợp công tác với các cơ chuyên ngành ngân hàng, hải quan,
thuế vụ, bưu điện, công an, bảo hiểm và các cơ quan chuyên ngành cần thiết
khác tổ chức thực hiện giải quyết tại chỗ các phát sinh có liên quan đến chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan này.
7. Thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công nhân và đào tạo
nguồn nhân lực cho khu công nghiệp.
8. Bảo đảm thực hiện các hoạt động, theo đúnh pháp luật và các quy
định áp dụng cho khu công nghiệp và bảo hộ người lao động và tài sản trong
khu công nghiệp không bị xâm phạm.



Điều 59: Cơ quan quản lý khu công nghệ cao là cơ quan quản lý nhà
nước một khu công nghệ cao do Thủ tướng Chính phủ thành lập, thực hiện

chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn như cơ quan quản lý khu công nghiệp cấp
tỉnh quy định tại điều 58 luật này và các quy định như sau:
1. Được nhà nước giao đất để phát triển khu công nghệ cao và thống
nhất quản lý trong khu công nghệ cao.
2. Giải quyết những vấn đề liên quan đến quy hoạch và đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng, nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ, đào tạo và bồi dưỡng
nhân lực, quản lý các loại dịch vụ liên quan đến hoạt động khu công nghệ cao.
3.Phối hợp với uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong việc quy hoạch, hỗ trợ
vốn đầu tư xây dựng khu dân cư, các cơ sở khácphục vụ đời sống người lao
động làm việc trong khu công nghệ cao và quản lý các cơ sở này, đến khi có
đủ điều kiện giao cho cơ quan quản lý hành chính địa phương quản lý theo
quy định hiện hành.

VI. Kinh nghiệm đầu tư phát triển và quản lý
khu công nghiệp, khu chế xuất ở một số nước Đông á.

* Khu công nghiệp, khu chế xuất được hình thành ở Châu Âu,
Châu Mỹ, Châu Phi và một số tiểu khu vực khác. Trong phần này ,
xin chỉ đề cập đến khu công nghiệp, khu chế xuất ở một số nước
Đông á.

1. Từ những thành tựu của các nước đi trước:
1.1- Đài Loan.
Trong hơn ba thập kỷ qua, thế giới đã chứng kiến và theo dõi sự xuất
hiện và phát triển với tốc độ cao đến chóng mặt của "các con rồng Châu á"
trong đó Đài Loan được coi là hiện tượng đặc thù.
Đài Loan thuộc loại hình kinh tế hải đảo đất chật người đông, tài nguyên
nghèo nàn (Diện tích khoảng 3600km2, chủ yếu là đồi núi, dân số 21,5 triệu




người, mức độ phụ thuộc kinh tế trong nước vào hoạt động ngoại thương rất
lớn. Chính phủ Đài Loan hiểu rằng họ không thể dựa vào phát triển nông ngư
nghiệp mà phải chọn cho mình một phương thức thích hợp khác để phát triển
kinh tế và họ đã chọn phương thức phát triển công nghiệp nhất là ngành công
nghiệp nhẹ, sản xuất hàng xuất khẩu sử dụng nhiều lao động.
Như vậy ngay từ đầu Đài Loan đã xác định được vai trò quan trọng của
khu công nghiệp, khu chế xuất trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước
mình. Việc Đài Loan tập trung các xí nghiệp công nghiệp vào các khu công
nghiệp đã mang lại nhiều lợi ích.
Thứ nhất, trong khu đất dành cho xây dựng khu công nghiệp có thể chủ
động xây dựng hạ tầng kĩ thuật theo tiêu chuẩn quốc tế. Điều này khiến cho
nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước sẵn sàng đầu tư và xây dựng nhà máy
sản xuất hàng xuất khẩu.
Thứ hai, nhờ bố trí sản xuất tập trung nên việc tổ chức sản xuất (như
cung cấp điện nước, vân tải nguyên, nhiên vật liệu cho sản xuất và sản phẩm,
xử lý nước thải ) cũng thuận lợi hơn tạo điều kiện trực tiếp cho việc giảm tối
đa chi phí của các xí nghiệp.

Sau cùng nhờ có khu công nghiệp nên đã giảm dần và tiến tới chấm dứt
xây dựng nhà máy riêng lẻ, phân tán trong nội thành, nội thị hoặc chiếm đất
nông nghiệp, ngư nghiệp đặc dụng để xây dựng nhà máy, góp phần sử dụng
hiệu quả quỹ đất nông nghiệp với vốn eo hẹp của Đài Loan, các khu công
nghiệp thường được bố trí tại những vùng đất cằn cỗi hoặc lấn biển.
Một ví dụ minh hoạ điển hình cho ích lợi của việc xây dựng khu công
nghiệp, khu chế xuất là vào những năm 60-70 người ta đã chuyển 192,3 ha đất
nông nghiệp (chủ yếu là đất trồng mía) để xây dựng ba khu công nghiệp: Cao
Hùng, Nam Tử, Đài Trung.
Hãy thử phân tích:
- Nếu trồng mía, mỗi ha cho thu hoạch 1,4 triệu USD/ năm, và tạo việc

làm cho 40 lao động. Như vậy 192,3 ha trồng mía đã tạo ra 269,22 triệu USD/
năm và tạo ra việc làm cho 7500-8000 lao động.



- Khi chuyển 192,3 ha khu chế xuất, hiệu quả sử dụng đất tăng vọt chỉ
tính trong 3 quí đầu năm 1995, ba KCX đã đạt tổng kim ngạch xuất khẩu
61,136 tỷ USD, nhập khẩu 32,363 tỷ USD, xuất siêu 28,773 tỷ USD, thu hút
95000 lao động. Đại bộ phận giá trị hàng xuất khẩu là được sản xuất trong các
khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao.
Trong 30 năm qua, hoạt động của các khu công nghiệp, khu chế xuất và
khu công nghệ cao đã đóng vai trò rất quan trọng đối với tiến trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế Đài Loan, phân bố
rộng khắp hầu như huyện nào cũng có khu công nghiệp. Mỗi khu công nghiệp
là hạt nhân thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh trong vùng.
Trong đó đặc biệt là khu công nghệ cao Hsinchu, khu công nghệ cao này
đã đạt được những kết quả rất đa dạng, góp phần nâng cao năng lực công nghệ
nội sinh và phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao của Đài Loan.
Đây là một mẫu hình gần gũi với những quan điểm xây dựng khu công nghệ
cao Hoà Lạc của ta.
Khu công nghệ cao Hsinchu được bắt đầu xây dựng vào năm 1980 theo
quyết định của Chính Phủ Đài Loan, do Uỷ ban khoa học nhà nước Đài Loan
chuẩn bị tổ chức triển khai. Khu nằm cách Đài Bắc 80 km về phía Tây Bắc,
trên diện tích quy hoạch là 2.100 ha, cách sân bay quốc tế Đài Bắc gần 80 km
đường bộ, có 2 đường cao tốc dẫn tới khu. Khu được xây dựng phát triển theo
3 giai đoạn: giai đoạn 1 trên diện tích 270 ha, giai đoạn 2 mở thêm 110 ha,
hiện nay đang triển khai phát triển giai đoạn 3 trên diện tích 170 ha.
Từ lúc chỉ có 59 công ty tham gia đầu tư vào năm 1986, sau 10 năm
(đến cuối năm 1995) số công ty gia nhập khu đạt 180. Trong 5 năm 1991-1995
tốc độ các công ty gia nhập khu tăng trung bình hàng năm là 8,33%. Đến cuối

năm 1995 có 42.257 người làm việc tại khu so với 8.276 người năm 1986 tăng
hơn 5 lần. Trong 5 năm 1991-1995 tốc độ tăng nhân lực trung bình trong khu
là 13,8%. Điều đáng lưu ý là các công ty của Đài Loan chủ yếu là các công ty
vừa và nhỏ với số nhân viên trung bình của một công ty là 235. Ngay ở lĩnh
vực phát triển nhất là mạch tích hợp, số nhân viên trung bình của một công ty
cũng chỉ khoảng 400 người.



Cơ cấu nhân lực trong khu năm 1995, 1,23% có trình độ Ph.D (521
người), 11,44% cao học (4837 người), 18,58% đại học (7852 người), 22,77%
trung cấp (9624 người) và 37,89% phổ thông. Với tỷ lệ 31,5% nhân viên có
bằng đại học trở lên rõ ràng ở đây đội ngũ trí thức Đài Loan được tập trung
với mật độ rất cao. Tuổi bình quân toàn khu năm 1995 là 30,1 trong đó số
người từ 20 đến 39 tuổi chiếm 85,8%. Điều này rất phù hợp với một khu mới
được thành lập để thu hút các nhà khoa học trẻ. Tuy nhiên tuổi bình quân cán
bộ quản lý khá cao (khoảng 45 tuổi).
Sau 15 năm hoạt động, khu đã thu được những kết quả vượt mong đợi
của Chính Phủ Đài Loan. Như một đầu tàu thúc đẩy sự phát triển chung của
Đài Loan, lưu lượng trao đổi hàng hoá năm 1995 giữa khu Hsinchu với thế
giới bên ngoài đạt tới 857.234 tấn, trong đó nhập khẩu 257.874 tấn và xuất
khẩu 599.360 tấn. Năm 1995 các công ty trong khu bán ra khối lượng hàng
hoá và dịch vụ với tổng doanh số đạt 10.940 tỷ USD, bằng 3,6% tổng thu nhập
nội địa của Đài Loan và chiếm tới 30% tổng doanh số thực hiện từ khi thành
lập. Doanh số trung bình các hãng trong thời kì 1991-1995 là 35,8 triệu USD,
gấp 1,73 lần mức vốn trung bình của các công ty. Doanh số bình quân trên đầu
người trong khu năm 1995 là 258.890 USD, gấp 18 lần GDP trên đầu người
của Đài Loan. Trung bình trong thời kỳ 1991-1995 doanh số bình quân trên
đầu người trong khu đạt trên 177 ngàn USD. Tốc độ tăng dân số trung bình
hàng năm trong 5 năm 1991-1995 là 35,99% gấp hơn 5 lần tốc độ tăng trưởng

kinh tế của Đài Loan nói chung.
Về chuyển giao sáng tạo công nghệ, ở khu các sáng chế được đưa vào áp
dụng với quy mô lớn. Chỉ tính riêng 3 năm 1991-1993 có 673 sáng chế của
các công ty nước ngoài được đưa vào áp dụng. Đặc biệt tỉ trọng các sáng chế
thuộc lĩnh vực mạch tích hợp và thiết bị ngoại vi máy tính đã được đưa vào áp
dụng rất cao, tương ứng là 82% và 97%.
Do đầu tư có trọng điểm vào lĩnh vực công nghệ hiện đại, khu đã dẫn
đầu trong lĩnh vực công nghệ thông tin và giúp Đài Loan vươn nhanh trên thị
trường thế giới.
1.4- Thái Lan:



ý tưởng xây dựng các khu công nghiệp ở Thái Lan được hình thành từ 40
năm trước. Đến nay ở Thái Lan đã có khoảng 440 khu công nghiệp đang hoạt
động, tất cả các khu công nghiệp này đều được phân chia theo các vùng khác
nhau nhưng tựu chung đều nằm dưới sự quản lý của Cục công nghiệp Thái
Lan (gọi tắt là IEAT).
Về tổ chức quản lý: Trước đây các nhà đầu tư vào Thái Lan tự mua đất
để xây dựng nhà máy, tuy nhiên điều này khiến cho nhà nước không thể trực
tiếp quản lý được, nhất là về mặt bảo vệ môi trường. Năm 1972 IEAT được
thành lập với các chức năng chính sau:
- Điều tra xây dựng kế hoạch, thiếp lập và xây dựng các khu công
nghiệp.
- Cấp giấy phép đầu tư.
- Quy định ngành nghề và quy mô của cơ sở công nghiệp sẽ được cấp
giấy phép đầu tư vào khu công nghiệp
- Quản lý các nhà đầu tư trong khu công nghiệp (bao gồm các hoạt động
sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu, dịch vụ ) quản lý sử dụng đất và tuân
thủ các quy định (bao gồm cả công việc liên quan đến vệ sinh, y tế, ảnh hưởng

môi trường)
- Quy định giá mua bán cho thuê động sản và bất động sản.
- Phát hành ngân phiếu hoặc các loại tín phiếu khác nhằm mục đích đầu
tư.
Tổ chức hệ thống của IEAT gọn tập trung và trực tiếp nên công việc luôn
được giải quyết một cách nhanh chóng và thuận tiện.
Chính sách đối với xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng, nhà nước
không ưu đãi cho vay vốn. Tuy nhiên nhà nước đứng ra bảo lãnh cho các công
ty nhà nước vay mà không phải thế chấp. Mọi ưu tiên đều có thể dành cho các
doanh nghiệp trong khu công nghiệp. Bên cạnh các ưu đãi trong đó, khu chế
xuất còn được hưởng các ưu đãi khác như được miễn hoàn toàn thuế nhập
khẩu máy móc thiết bị và nguyên liệu sản xuất, miễn hoàn toàn các loại thuế
khác như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế phụ thu.



Dịch vụ "một cửa": mọi khách hàng đều muốn đầu tư vào khu công
nghiệp chỉ cần đến IEAT là đầy đủ các thông tin cần thiết. Họ sẽ giới thiệu
mạng lưới khu công nghiệp, ngành nghề khuyến khích đầu tư, vị trí các khu
công nghiệp, các vốn đãi, các thủ tục cần thiết. Sau một ngày được hướng dẫn
chu đáo và làm song thủ tục, một tuần sau họ có thể nhận được giấy phép và
có thể bắt tay ngay vào xây dựng nhà xưởng. Trường hợp ở xa có thể thông
qua Internet để tìm hiểu khu công nghiệp mình quan tâm, lô đất mình lựa chọn
sau đó Fax cho IEAT. Nếu được chấp nhận sẽ đến Bangkok để ký hợp đồng.
Mặc dù có quy định chế độ một cửa nhưng IEAT luôn đặt ra nhiệm vụ tự hoàn
thiện để giải quyết nhanh chóng yêu cầu của khách hàng. Bởi vì "một cửa"
nhưng nhà đầu tư phải chờ đợi lâu cũng có nghĩa là "nhiều cửa". Từ đó IEAT
tự khẳng định vị trí và vai trò của mình trong việc thu hút đầu tư và hoàn
thành nhiệm vụ phát triển công nghiệp cân bằng của Thái Lan.
Môi trường một trong năm mục tiêu xây dựng khu công nghiệp Thái Lan

là đảm bảo môi trường trong sạch. Thái Lan đưa ra nguyên tắc cân bằng-
người gây ô nhiễm môi phải đền bù thiệt hại. Do vậy khi thành lập khu công
nghiệp phải có dự án thiết kế xây dựng một hệ thống xử lý nước thải và được
cơ quan có thẩm quyền về môi trường xem xét và phê duyệt. Mọi chất thải
phải được xử lý và giải phóng một cách triệt để, nhà đầu tư phải tự chi trả chi
phí xử lý nước thải, nước thải qua xử lý để làm lạnh nhà máy điện và tưới cây
trong KCN. Vì vậy khu công nghiệp Thái Lan luôn được đánh giá là khu công
nghiệp xanh và sạch đẹp.
1.5- Malaixia:
Khi giành được độc lập năm 1963, Liên bang Malaixia là một quốc gia
xuất khẩu hàng tiêu dùng thành đạt với mức thuế từ thấp đến vừa phải, hầu
như không có hạn chế về số lượng, và có những người lãnh đạo tin tưởng vào
thương mại tự do và cạnh tranh, Nền kinh tế được xây dựng trên một diện tích
rộng lớn quanh các cảng tự do Singapore và Penang và đã trở thành cơ sở hạ
tầng tuyệt vời. Singapore trở nên một gia đình công nghiệp hùng mạnh và tách
ra khỏi Malaixia năm 1965. Trong khi đó thể chế cảng tự do của Penang
nhanh chóng mất hiệu lực do hậu quả của chính sách bảo hộ ban đầu rất nhu



nhược của liên bang dành cho các ngành công nghiệp mới. Chứng kiến sự
thành công của công nghiệp chế biến ở Singapore và Hồng Công và ở các khu
chế xuất ở Đài Loan(Trung Quốc), và mong muốn được chia sẻ sự thịnh
vượng trong xuất khẩu và công ăn việc làm, các nhà lãnh đạo Penang đã cố
gắng rất nhiều để thành lập các EPZ (Expoet Proccessing Zone) ở Malaixia.
Năm 1971, liên bang đã ban hành luật về khu thương mại tự do kêu gọi các c
Tuy nhiên, trong 15 năm đầu tiên (từ 1972-1987), Malaixia tách riêng
các khu chế xuất khỏi phần còn lại của nền kinh tế và bỏ qua các mối liên hệ
giữa khu chế xuất và kinh tế trong cả nước. Nhà nước trở nên tích cực hơn
trong việc phát triển các ngành công nghiệp mới, tăng cường bảo hộ bằng thuế

quan và phổ biến các loại thuế này.
Việc miễn thuế chỉ được cho phép như là ngoại lệ cho tận khi có những
cải cách vào cuối những năm 1980 và cũng như ở hầu hết các nước, các mối
liên hệ ngược giữa khu chế xuất và nền kinh tế không bao giờ có hiệu quả.
Một hệ thống hàng nhập kho (kho hàng chế biến có giấy phép được thử
nghiệm năm 1975 như là phương án đối lập với khu chế xuất, song có rất ít
thành công vì môi trường chính sách bên ngoài khu chế xuất khó có thể cải
thiện và rất khó có thể buộc người ta thực hiện việc dự phòng khi sản xuất
phân tán. Tuy nhiên hệ thống này vẫn tiếp tục phát triển và ngày nay có 151
công ty sử dụng hệ thống hàng nhập kho với 75.000 công nhân, các công ty ở
khu thương mại tự do có khoảng 104.000 công nhân.
Năm 1987, Malaixia bắt đầu một chiến lược công nghiệp mới, trong đó
những khu chế xuất đã thành công và những đòi hỏi của chúng được thoả mãn
như là những nguyên tắc chỉ đạo để tăng trưởng. Các khu chế xuất được liên
kết ngày càng chặt chẽ với phần còn lại của nền kinh tế , phần phải cung cấp
ngày càng nhiều các sản phẩm đầu vào cho các xí nghiệp mới của nước ngoài
và các liên doanh. Các trở ngại nhân tạo được tháo dỡ, và một hệ thống cấp
vốn cho xuất khẩu kiểu Triều Tiên được hình thành như một bộ phận của
chiến lược này. Theo hệ thống mới, các nhà cung cấp nội địa trong hệ thống
xuất khẩu sẽ được tài trợ trước khi đưa hàng lên tàu. Các mục tiêu trọng tâm là
đẩy mạnh đầu tư nước ngoài và phát triển một nền công nghiệp địa phương có



sức cạnh tranh quốc tế. Các ngành chế xuất, bao gồm cả các cơ sở ở khu chế
xuất đã đạt được mức tăng trưởng đáng ngạc nhiên trong cơ cấu chính sách
mới. Xuất khẩu từ khu chế xuất đã tăng từ 14% trong tổng xuất khẩu của cả
nước năm 1982 lên tới khoảng 24% năm 1990.
1.2- Trung Quốc:
Trong hai thập kỷ qua, điểm đáng chú ý nhất trong toàn bộ bức tranh

kinh tế của Trung Quốc là việc phát triển kinh tế và công nghệ trong đó khu
phát triển kinh tế, các khu khai thác phát triển kinh tế và công nghệ. Trong đó
khu phát triển kinh tế và công nghệ Quảng Châu- GETDD (Viết tắt của Guang
Zhou Economic and Technologycal Development Distric) là một trong những
khu khai thác cấp nhà nước đầu tiên được phê chuẩn ở Trung Quốc.
Ngày 28/12/1984 GETDD được khởi công xây dựng, đây là khu kinh tế
có mô hình "hướng ngoại" theo phương châm "lấy công nghiệp hiện đại thu
hút vốn nước ngoài,và thu hút ngoại tệ làm chính, tất cả nhằm phát triển công
nghệ mới và công nghệ cao.
Nằm ở trung tâm phát triển Quảng Châu- Hồng Công- Ma Cao cách
trung tâm thành phố Quảng Châu 32 km, cách Thẩm Quyến 120 km, cách sân
bay quốc tế Bạch Vân 35 phút đi bằng ô tô và theo đường biển, cách Hồng
Công 60 hải lý GETDD có các đường cao tốc tiêu chuẩn quốc tế chạy kề bên
đường cao tốc Quảng Châu- Thẩm Quyến. Các cảng trong khu có khả năng
tiếp nhận những tàu có tải trọng lớn trong đó cảng Container Hoàng Phố là
cảng lớn nhất vùng Hoa Nam.
GETDD được quy hoạch xây dựng trên diện tích 30 km2 chia làm 4 khu
vực. Tính đến năm 1995 GETDD đã hoàn thành giai đoạn I trên diện tích 6,6
km2 với hệ thống hạ tầng và tiện ích công cộng chất lượng cao. Hệ thống giao
thông hoàn chỉnh khả năng cung cấp điện trên 125 triệu kwh/ năm cấp nước
70 nghìn m3/ngày, hệ thống xử lý nước thải có công suất 30 nghìn m3/ngày,
tổng đài viễn thông 16 nghìn số.
GETDD có môi trường sạch và đẹp 30% diện tích toàn khu là các thảm
cây xanh, có cỏ và hoa trong khu đó có trường học hiện đại, nhà trẻ, bệnh viện

×