MỤC LỤC
A. Phần mở đầu...............................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài............................................................................................1
2. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu.............................................................1
3. Mục tiêu nghiên cứu......................................................................................1
B. Phần nội dung............................................................................................2
Chương I: Phân tích những luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về cách
mạng giải phóng dân tộc...................................................................................2
1.1. Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc..........................................2
1.2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường
vô sản................................................................................................................. 2
1.3. Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng
Sản lãnh đạo.......................................................................................................3
1.4. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc.....4
1.5. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ đơng, sáng tạo
và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vơ sản chính quốc..................5
1.6. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường
cách mạng bạo lực.............................................................................................6
Chương II: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạnh giải phóng dân
tộc trong giai đoạn nước ta hiện nay..................................................................7
2.1. Thành tựu cho cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam trong quá
khứ..................................................................................................................... 7
2.2. Vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay....................................8
2.2.1. Tình hình nước ta và thế giới hiện nay .............................................8
2.2.2. Những phương pháp, chính sách áp dụng của Đảng ta.....................9
2.2.2.1. Kiên định con đường độc lập gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.......9
2.2.2.2. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng đáp
ứng với nhu cầu và nhiệm vụ trong thời kỳ lịch sử đổi mới...............................10
2.2.2.3. Không ngừng củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc
và đoàn kết quốc tế............................................................................................11
2.3. Thành tựu đã đạt được khi Đảng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về cách mạng giải phóng dân tộc trong giai đoạn hiện nay................................14
2.4. Khó khăn và thách thức gặp phải...........................................................19
2.5. Phương pháp khắc phục khó khăn.........................................................20
C. Kết luận......................................................................................................21
Tài liệu tham khảo.............................................................................................24
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc cũng là giải phóng
giai cấp, giải phóng con người chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ
Chí Minh, đây cũng là vấn đề cơ bản của đường lối cách mạng Việt Nam. Tư tưởng
Hồ Chí Minh vừa là sự kết hợp tinh hoa văn hóa dân tộc và trí tuệ thời đại, vừa thể
hiện tinh thần độc lập, tự chủ sáng tạo của người trong việc vận dụng những nguyên
lý phổ biến của Chủ nghĩa Mác-Lênin vào hồn cảnh Việt Nam. Chính vì vậy, tư
tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
con người được coi là bước phát triển mới học thuyết Mác-Lênin về cách mạng thuộc
địa ở thời điểm các dân tộc bị áp bức vùng lên đấu tranh cho độc lập, tự do. Do đó, ta
thấy được đây là nội dung rất đáng quan tâm, cần thiết làm và hiểu rõ tư tưởng này
của Hồ Chí Minh.
2. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu:
Tiểu luận được nghiên cứu trong hơn một nửa thời gian học mơn Tư tưởng Hồ
Chí Minh. Nội dung nghiên cứu chủ yếu của đề tài là tư tưởng Hồ Chí Minh về cách
mạng giải phóng dân tộc để hiểu rõ hơn luận điểm này trong hệ tư tưởng Hồ Chí
Minh, và luận điểm này đóng góp như thế nào đối với kho tàng lý luận Chủ nghĩa
Mác-Lênin.
Tiểu luận được dựa trên phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp trừu
tượng hóa khoa học, phương pháp thống kê, logic, lịch sử. Cơ sơ phương pháp luận:
Bảo đảm sự thống nhất, nguyên tắc tính đảng, và tính khoa học. Quan điểm thực tiễn
và nguyên tắc lý luận gắn liền thực tiễn. Quan điểm lịch sử cụ thể. Quan điểm toàn
diện và hệ thống. Quan điểm kế thừa và phát triển. Kết hợp nghiên cứu tác phẩm với
thực tiễn chỉ đạo cách mạng của Hổ Chí Minh.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, thực chất là vấn đề đấu tranh để
giải phóng các dân tộc thuộc địa. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh
về cách mạng giải phóng dân tộc: Đó là con đường cách mạng vơ sản, đi từ cách
1
mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Phân tích làm rõ
những luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về vấn đề này.
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: PHÂN TÍCH NHỮNG LUẬN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ
MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHĨNG DÂN TỘC.
1.1. Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc.
Nếu như ở các nước tư bản chủ nghĩa phải tiến hành các cuộc đấu tranh giai
cấp thì ở các nước thuộc địa phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc nhằm
đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và thiết lập chính
quyền của nhân dân. Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước, Người tin theo
Lênin, quốc tế thứ 3 vì quốc tế thứ 3 có chủ trương giải phóng dân tộc bị áp bức.
Người xác định mục tiêu cấp thiết ở cách mạng thuộc địa chưa phải là giành quyền lợi
riêng biệt ở mỗi giai cấp mà là quyền lợi chung của toàn dân tộc . Phù hợp với xu thế
của thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc, đáp ứng nguyện
vọng độc lập, tự do của quần chúng nhân dân.
1.2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con
đường vô sản.
Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực
tiễnViệt Nam qua các chặng đường gian nan thử thách, Hồ Chí Minh luôn luôn khẳng
định một chân lý là: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào
khác là cách mạng vô sản.
Phát huy truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc, tận mắt chứng kiến
cảnh nước mất nhà tan, nhân dân đói khổ lầm than, ngày 5-6-1911, người thanh niên
yêu nước Nguyễn Tất Thành ra đi tìm con đường cứu nước mới cho dân tộc. Mang
trong mình khát vọng giải phóng dân tộc, qua nhiều năm bơn ba ở nước ngồi,
Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm ra con đường cách mạng
đúng đắn - con đường cách mạng vô sản. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc, khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” Nguyễn
2
Ái Quốc lựa chọn con đường cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường Cách
mạng Tháng Mười Nga (1917), bởi theo Người: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách
mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng
cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật”
Cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, tức là độc
lập dân tộc đi tới Chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết, là tiền đề
đi tới Chủ nghĩa xã hội. Không giành được độc lập dân tộc sẽ khơng có gì hết. Độc
lập dân tộc thể hiện ở chỗ giành và giữ chính quyền dân chủ nhân dân, chuẩn bị tiền
đề đi lên Chủ nghĩa xã hội. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc,
tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. Chủ nghĩa xã hội là hạnh phúc, tự do.
Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, do Đảng và Hồ Chí Minh lãnh đạo đã
mở ra một thời đại mới cho dân tộc Việt Nam - thời đại độc lập dân tộc gắn liền với
Chủ nghĩa xã hội. Kiên trì với con đường đã lựa chọn, trải qua 30 năm trường kỳ
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, với tinh thần “thà hy sinh
tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định khơng chịu làm nơ lệ”, “khơng
có gì q hơn độc lập, tự do”; trên cơ sở đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng, với
sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến
lược chiến tranh của thực dân, đế quốc, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
1.3. Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng
Cộng sản lãnh đạo.
Đây là một sáng tạo của Hồ Chí Minh về lý luận cách mạng giải phóng dân
tộc. Hồ Chí Minh cho rằng, “Cách mệnh trước hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có
vững cách mệnh mới thành cơng...”. Đảng đó phải được xây dựng theo ngun tắc
Đảng kiểu mới của V.I.Lênin, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhiệm vụ
lãnh đạo của Đảng Cộng sản là: Xác định mục tiêu của cách mạng, xây dựng đường
lối cách mạng giải phóng dân tộc; thơng qua cương lĩnh, tổ chức vận động, tập hợp
các lực lượng cách mạng, xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất.
Thực tiễn phong phú cách mạng Việt Nam chứng minh rằng, sự lãnh đạo đúng
đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng
3
Việt Nam. Đồng thời, chính trong q trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã được tôi
luyện, thử thách và không ngừng trưởng thành, dày dạn kinh nghiệm để ngày càng
xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, xứng đáng với sự tin cậy của
nhân dân; qua đó, khẳng định một chân lý, “ở Việt Nam khơng có một lực lượng
chính trị nào khác, ngồi Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh
nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách cam
go để đưa dân tộc đến bến bờ vinh quang, hạnh phúc”.
1.4. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm tồn dân tộc.
Năm 1924, Hồ Chí Minh đã nghĩ đến một cuộc khởi nghĩa vũ trang toàn dân.
Người cho rằng: "Để có cơ thắng lợi, một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đơng Dương
phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn.
Cuộc khởi nghĩa phải được chuẩn bị trong quần chúng. Hồ Chí Minh nghiêm khắc
phê phán việc lấy ám sát cá nhân và bạo động làm phương thức hành động hoặc xúi
dân bạo động mà không bày cách tổ chức; hoặc làm cho dân quen ỷ lại, mà quên tính
tự cường. Người khẳng định “cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ khơng phải
việc một hai người”.
Người phân tích: “Dân tộc cách mệnh chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, công,
nông, thương đều nhất trí chống lại cường quyền. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai
trò của nhân dân trong khởi nghĩa vũ trang. Người coi sức mạnh vĩ đại và năng lực
sáng tạo vô tận của quần chúng là then chốt bảo đảm thắng lợi. Trong cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng, Người xác địng lực lượng cách mạng bao gồm toàn dân
tộc: Đảng phải tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, nông dân, dân cáy, tiểu
thương… đi vào phe giai cấp vô sản; với bộ phận phú nông, địa chủ, tư bản Việt Nam
mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì cho ho đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt
phản cách mạng thì phải lật đổ.
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của quần chúng nhân dân trong khởi
nghĩa vũ trang. Người coi sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo vô tận của quần chúng
là nhân tố then chốt bảo đảm thắng lợi.
4
Đánh giá cao vai trò, sứ mệnh của giai cấp nơng dân, nhưng Hồ Chí Minh ln
khẳng định, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng và Đảng phải lãnh đạo
xây dựng khối liên minh công - nơng làm nịng cốt cho Mặt trận Dân tộc thống nhất.
Hồ Chí Minh chủ trương vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam,
những người dân mất nước, đang phải chịu thân phận nô lệ, tham gia vào Mặt trận
Dân tộc thống nhất, nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc vào cuộc đấu tranh
giành độc lập, tự do. Đây là luận điểm rất mới, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối
với cách mạng thế giới, đặc biệt là phong trào giải phóng dân tộc.
1.5. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng
tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vơ sản chính quốc.
Đầu thế kỷ XX, trong phong trào Cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm
xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách
mạng vơ sản ở chính quốc. Quan điểm này vơ hình trung đã làm giảm tính chủ động,
sáng tạo của các phong trào cách mạng ở thuộc địa. Phát biểu tại Đại hội V Quốc tế
cộng sản (tháng 6-1924), Hồ Chí Minh đã phân tích: “Vận mệnh của giai cấp vô sản
thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc
địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa”; “nọc độc và sức
sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa”, nếu khinh
thường cách mạng ở thuộc địa tức là “muốn đánh chết rắn đằn đi”.
Vận dụng cơng thức của Mác: “Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải là
sự nghiệp của bản thân giai cấp cơng nhân”, Hồ Chí Minh đã đi tới luận
điểm: “Cơng cuộc giải phóng anh em (tức nhân dân thuộc địa) chỉ có thể thực hiện
được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”.
Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế
quốc và do đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc,
năm 1924, Hồ Chí Minh cho rằng: Cách mạng thuộc địa không những không phụ
thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước.
5
Khẳng định vị trí và vai trị của cách mạng giải phóng thuộc địa trong mối
quan hệ với cách mạng chính quốc, Hồ Chí Minh cho rằng: “Trong khi thủ tiêu một
trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể
giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hồn
tồn”.
1.6. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường
cách mạng bạo lực.
Các thế lực đế quốc sử dụng bạo lực để xâm lược và thống trị thuộc địa, đàn áp
dã man các phong trào yêu nước. Chế độ thực dân, tự bản thân đã là một hành động
bạo lực của kẻ mạnh nhằm vào kẻ yếu. Chưa đè bẹp được ý chí xâm lược của chúng
thì chưa thể thắng lợi hồn tồn. Vì thế con đường để giành và giữ độc lập là con
đường cách mạng bạo lực.
Hình thức của bạo lực cách mạng bao gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh
vũ trang, nhưng phải "tùy tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu tranh
cách mạng thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang
và đấu tranh chính trị để giành thắng lợi cho cách Mạng".
Để chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang, Hồ Chí Minh cùng với Trung ương
Đảng chỉ đạo xây dựng căn cứ địa, đào tạo, huấn luyện cán bộ, xây dựng các tổ chức
chính trị của quần chúng, lập ra các đội du kích vũ trang, chủ động đón thời cơ, chớp
thời cơ, phát động Tổng khởi nghĩa Tháng Tám và chỉ trong vòng 10 ngày đã giành
được chính quyền trong cả nước.
Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ, những thành tựu to lớn và rất quan trọng của sự nghiệp đổi mới
ở nước ta đã chứng minh tính khoa học đúng đắn, tính cách mạng sáng tạo của tư
tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng con người.
6
Tư tưởng bạo lực cách mạng và tư tưởng nhân đạo hịa bình thống nhất biện
chúng với nhau trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người chủ trương yêu nước, thương
dân, u chuộng hịa bình, tự do cơng lý, tranh thủ hịa bình giải quyết xung đột,
nhưng khi khơng thể tránh khỏi chiến tranh thì phải kiên quyết tiến hành chiến tranh,
kiên quyết dùng bạo lực cách mạng, dùng khởi ngĩa và chiến tranh cách mạng để
giành, giữ và bảo vệ hịa bình, vì độc lập tự do.
CHƯƠNG II: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG
GIẢI PHĨNG DÂN TỘC TRONG GIAI ĐOẠN NƯỚC TA HIỆN NAY.
2.1.Thành tựu cho cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam trong quá
khứ
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và 30 năm chiến tranh cách mạng Việt
Nam (1945-1975) đã chứng minh tinh thần độc lập, tự chủ, tính khoa học, tính cách
mạng và sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường giải phóng dân tộc ở Việt
Nam, soi đường cho dân tộc Việt Nam tiến lên, cùng nhân loại biến thế kỷ XX thành
một thế kỉ giải trừ chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 : mặc dù chiến lược giải phóng dân
tộc được thể hiện trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã bị phủ nhận trong
một thời gian dài và bị thay bằng một chiến lược đấu tranh giai cấp của Luận cương
chính trị tháng 10-1930, nhưng nó đã được khẳng định trở lại trong thời kì trực tiếp
vận động cứu nước-1945, đặc biệt trong hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành trung
ương Đảng( tháng 5-1941).
Thắng lợi của 30 năm chiến tranh cách mạng 1945-1975: nắm vững tư tưởng
cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh, cả dân tộc Việt Nam đã tiến hành hai
cuộc kháng chiến chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới suốt 30 năm. Giành thắng lợi
trong cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ
làm xoay chuyển cục diện chiến tranh và tạo cơ sở thực lực về quân sự cho cuộc dấu
tranh ngoại giao tại hội nghị Giơnevơ, kết thúc cuộc kháng chiến.
Giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
7
Những thắng lợi chiến lược của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX chứng
tỏ hùng hồn về giá trị khoa học và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng
giải phóng dân tộc.
2.2. Vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
2.2.1. Tình hình nước ta và thế giới hiện nay.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta bước xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội ở nước ta. Thắng lợi trọng của công cuộc đổi mới đã đưa đất nước ra khỏi tình
trạng khủng hoảng và tạo đà để nước ta bước vào giai đoạn đẩy mạnh cơng nghiệp
hố, hiện đại hố trên tinh thần kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII của Đảng khẳng định: “Đổi mới không phải là thay đổi mục
tiêu xã hội chủ nghĩa mà là quan niệm đúng đắn hơn về chủ nghĩa xã hội và thực hiện
mục tiêu ấy bằng những hình thức, bước đi và biện pháp phù hợp”. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX (tháng 4-2001) của Đảng đã phát triển thêm và cụ thể hoá hơn
những nội dung của đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam với những
bước đi, hình thức để đạt được mục tiêu cụ thể hơn. Đó là: “Xây dựng chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả
các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ
quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính
chất q độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh
giữa cái mới và cái cũ. Từ Đại hội VIII của Đảng năm 1996, đất nước ta đã chuyển
sang chặng đường mới đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, phấn đấu đến năm
2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp.. Với những quan điểm đổi mới có
nguyên tắc đúng đắn, ngày càng phát triển và cụ thể hơn về mục tiêu, con đường,
bước đi, hình thức… của cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, Đảng ta đã tạo những động lực trí tuệ và niềm tin mới ngày càng vững chắc
cho cả dân tộc ta, chung sức chung lịng đưa sự nghiệp cách mạng tới thắng lợi hồn
tồn.
Tóm lại: trong công cuộc đổi mới hiện nay, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc, chúng ta phải biết khơi dậy sức
8
mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn động lực mạnh mẽ để xây
dựng và bảo vệ đất nước, nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên lập trường giai
cấp công nhân, chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, giải quyết tốt mối quan
hệ giữa các dân tộc anh em và trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
2.2.2. Những phương pháp, chính sách áp dụng của Đảng ta.
2.2.2.1. Kiên định con đường độc lập gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng tháng Mười Nga đã đi vào lịch sử với tính chất là thành quả của
chủ nghĩa xã hội, là biểu tượng sáng ngời của thời đại hiện nay. Với cuộc cách mạng
này, lần đầu tiên những mong ước về xã hội cơng bằng và bình đẳng của đơng đảo
cơng nhân, nơng dân và trí thức đã trở thành hiện thực.
Cách mạng Việt Nam ngày nay vẫn tiếp tục khẳng định con đường phát triển
đất nước, hội nhập quốc tế cũng như công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa tiếp tục kiên định con đường mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã lựa chọn: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đại hội XII của Đảng tiếp
tục khẳng định: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, Nhân dân
và chế độ xã hội chủ nghĩa”.
Trong những thời điểm phong trào xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và
cơng nhân quốc tế có sự khủng hoảng, chế độ xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ,
Đảng ta vẫn kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với xã hội chủ nghĩa, vẫn
vững vàng lãnh đạo Nhân dân ta thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới. Cùng với
những biến đổi sâu sắc của tình hình thế giới và trong nước, với tinh thần nhìn thẳng
vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật, Đảng ta kiên quyết khắc phục
những khuyết điểm, sai lầm, thiếu sót trong q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.
Cùng với những biến đổi sâu sắc của tình hình thế giới và trong nước, với tinh
thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật, Đảng ta kiên
quyết khắc phục những khuyết điểm, sai lầm, thiếu sót trong quá trình xây dựng chủ
9
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Với tư cách là một Đảng cầm quyền chân chính, trong bất
kỳ hồn cảnh nào, Đảng luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời
khơng ngừng tiếp thu có chọn lọc những giá trị của nền văn minh nhân loại để hiện
thực hóa con đường cách mạng mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhân dân ta đã
lựa chọn.
2.2.2.2. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng đáp
ứng với nhu cầu và nhiệm vụ trong thời kỳ lịch sử đổi mới.
Để củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng u cầu tình hình mới, Bộ Chính trị
u cầu các cấp ủy, tổ chức đảng nghiêm túc rút kinh nghiệm và đề ra các giải pháp
cụ thể khắc phục các hạn chế:
Thứ nhất, đổi mới và thực hiện có hiệu quả cơng tác giáo dục chính trị, tư
tưởng, phát huy tính tự giác, tinh thần trách nhiệm, thường xuyên tự học tập, tự
nghiên cứu để nâng cao trình độ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức của đội ngũ
cán bộ, đảng viên, cấp ủy viên. Tăng cường công tác tư tưởng, định hướng dư luận xã
hội trong các hoạt động của Đảng, chính quyền, đồn thể, nhất là sinh hoạt chi bộ.
Đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng
lý luận chính trị, nghiệp vụ cơng tác đảng và bồi dưỡng đảng viên mới.
Thứ hai, triển khai, tổ chức thực hiện có hiệu quả các nghị quyết của Trung
ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, các quy định về trách nhiệm nêu gương; kịp thời
phát hiện, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
trong cán bộ, đảng viên. Tổ chức các đợt sinh hoạt chuyên đề xây dựng Đảng về đạo
đức gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, góp
phần xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất
đạo đức trong sáng, thực sự tiên phong, gương mẫu và có dũng khí trong đấu tranh tự
phê bình và phê bình.
10
Thứ ba, tiếp tục củng cố, kiện tồn mơ hình tổ chức cơ sở đảng gắn với việc
sắp xếp, tinh gọn bộ máy. Hồn thiện mơ hình tổ chức đảng trực thuộc đảng ủy xã,
phường, thị trấn; mơ hình tổ chức đảng trong các loại hình doanh nghiệp, cơ quan,
đơn vị sự nghiệp theo ngành, địa phương một cách hợp lý. Không tổ chức chi bộ cơ
quan xã, phường, thị trấn; đưa đảng viên công tác ở xã, phường, thị trấn về sinh hoạt
đảng tại các chi bộ khu dân cư. Đẩy mạnh xây dựng tổ chức đảng trong các đơn vị
kinh tế ngoài khu vực kinh tế nhà nước. Nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên; quan
tâm công tác tạo nguồn kết nạp đảng viên, nhất là ở thôn, tổ dân phố và trong các
doanh nghiệp.
Thứ tư, tổ chức cơ sở đảng phải coi trọng công tác dân vận; nắm chắc tình hình
tư tưởng của nhân dân, nhất là ở những địa bàn trọng điểm về an ninh trật tự; khi có nảy
sinh tình huống phức tạp về trật tự, an ninh, có biện pháp tuyên truyền, vận động,
thuyết phục, xử lý kịp thời nhằm ổn định tình hình ngay từ cơ sở. Thực hiện nền nếp
việc người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp định kỳ đối thoại, tiếp xúc với đảng
viên, nhân dân; cấp ủy viên các cấp dự sinh hoạt chi bộ hằng tháng. Phát huy vai trị của
Mặt trận Tổ quốc, các đồn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia xây dựng Đảng,
xây dựng chính quyền. Thực hiện tốt việc giải quyết đơn, thư phản ánh của nhân dân
đối với tổ chức đảng, đảng viên theo quy định.
2.2.2.3. Không ngừng củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc
và đoàn kết quốc tế
Đại đoàn kết toàn dân có ý nghĩa hết sức quan trọng trong bối cảnh đất nước
đang chuyển mình mạnh mẽ để đón nhận những cơ hội cùng thách thức lớn của quá
trình hội nhập ngày một sâu, rộng. Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc, đồn kết khơng
chỉ tạo nên sức mạnh mà cịn là vấn đề có ý nghĩa quyết định tới việc sống còn, thành
bại, được mất trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc bao
gồm tất cả các giai cấp, tầng lớp, lực lượng, đảng phái, các dân tộc, các tôn giáo, các
cá nhân yêu nước, người Việt Nam ở nước ngoài, kể cả những người đã lầm đường
lạc lối nhưng đã biết hối cải trở về với nhân dân. Nói cách khác, khối đại đoàn kết
11
toàn dân tộc bao gồm “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hịa bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ”.
Đồn kết làm ra sức mạnh “Đoàn kết, đoàn kết, đại đồn kết
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”
Chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở thống nhất lợi ích quốc gia dân
tộc với quyền lợi cơ bản của các giai tầng; nịng cốt khối đại đồn kết tồn dân tộc là
liên minh cơng - nơng - trí dưới sự lãnh đạo của Đảng. Do đó, cần giải quyết hài hịa
lợi ích giữa các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo, dân cư ở các vùng
miền khác nhau. Phát huy mặt tương đồng, hóa giải điểm khác biệt.
Để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc: thứ nhất, cần tuyên truyền,
vận động nhân dân; thứ hai, phải chăm lo xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh; thứ 3 về Nhà nước, Đảng phải làm cho Nhà nước thật sự là của dân,
do dân, vì dân. Coi đồn kết là lẽ sống, đạo lý của Đảng, của dân tộc ta trong dựng
nước và giữ nước, mỗi cán bộ, đảng viên phải coi đồn kết là một đức tính cơ bản của
người cách mạng.
Nguyên tắc của đại đoàn kết toàn dân tộc: thứ nhất là tin vào dân, dựa vào dân
vì lợi ích của dân để đồn kết tồn dân, phát động các phong trào thi đua yêu nước
trong lao động, học tập, sản xuất và chiến đấu.Thứ hai, đoàn kết lâu dài, rộng rãi, chặt
chẽ, tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo.Thứ ba, đồn kết trên cơ sở hiệp thương, dân chủ,
chân thành, thẳng thắn, thân ái; đoàn kết gắn với đấu tranh, tự phê bình và phê bình.
Thứ tư, đồn kết trên cơ sở kế thừa truyền thống yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết của
dân tộc. Phải có lịng khoan dung, độ lượng với con người, trân trọng “phần thiện”, dù
nhỏ nhất ở mỗi con người để tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng.
Để tăng cường củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc hiện nay,
cần thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp cụ thể như sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, người đứng
đầu và cả hệ thống chính trị trong lãnh đạo, củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn
dân tộc hiện nay.
12
Thứ hai, nâng cao chất lượng các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu
nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; chăm lo và bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính
đáng của đồn viên, hội viên và các giai tầng, các giới trong toàn dân tộc.
Thứ ba, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đa dạng
hóa các hình thức tập hợp nhân dân và tập trung hướng mạnh các hoạt động về cơ sở.
Thứ tư, tăng cường công tác dân vận của chính quyền các cấp. Tích cực phối
hợp giữa chính quyền các cấp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị
- xã hội làm công tác dân vận.
Thứ năm, kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, phá hoại,
chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thực hiện tốt các giải pháp trên sẽ góp phần tăng cường sức mạnh khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh,
đảm bảo thế và lực cho đất nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa trong tình hình mới.
Vai trị của đồn kết quốc tế: Thứ nhất,thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt
Nam. Thực hiện đoàn kết quốc tế để tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự đồng
tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
của các trào lưu cách mạng thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp cho cách mạng
chiến thắng kẻ thù. Thứ hai, thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm góp phần cùng nhân dân
thế giới thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của thời đại. Bởi vì chúng ta
khơng chỉ chiến đấu vì độc lập, tự do của đất nước mình mà cịn vì độc lập, tự do của
các nước khác, không chỉ bảo vệ những lợi ích sống cịn của dân tộc mình mà cịn vì
những mục tiêu cao cả của thời đại là hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa
xã hội. Để làm được như vậy, phải kiên quyết đấu tranh chống lại mọi biểu hiện của
chủ nghĩa dân tộc vị kỷ và mọi thứ chủ nghĩa cơ hội khác.
Nguyên tắc đoàn kết quốc tế dựa trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có
lý, có tình: “có lý” là phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin, phải xuất phát từ lợi ích chung của cách mạng thế giới; “có tình” là sự thông
13
cảm, tơn trọng lẫn nhau trên tinh thần, tình cảm của những người cùng chung lý
tưởng, cùng chung mục tiêu đấu tranh. Cùng với đó là cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực tự
cường. Trong đấu tranh cách mạng, Hồ Chí Minh ln nêu cao khẩu hiệu “Tự lực
cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”, “muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải
tự giúp lấy mình đã”. Người chỉ rõ, muốn tranh thủ được sự ủng hộ của quốc tế, Đảng
phải có đường lối độc lập, tự chủ và đúng đắn. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và
kháng chiến chống thực dân Pháp của Việt Nam là thắng lợi của đường lối đúng đắn
và sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đại đồn kết dân tộc là yếu tố nội sinh có ý nghĩa quyết định. Đại đoàn kết dân
tộc nhằm tạo lực và thế để vươn ra bên ngoài; ngược lại, mở cửa, hội nhập quốc tế
nhằm làm cho lực và thế trong nước ngày càng tăng lên. Thực hiện đại đoàn kết dân
tộc gắn liền với đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại sẽ
là ngọn nguồn tạo lên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam theo tư tưởng Hồ
Chí Minh.
2.3. Thành tựu đã đạt được khi Đảng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về cách mạng giải phóng dân tộc trong giai đoạn hiện nay
Hiện nay, tư tưởng của Người vẫn soi sáng con đường đi lên của cách mạng
Việt Nam. Để thực hiện mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam: dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh, vấn đề quan trọng nhất được Đảng Cộng sản Việt Nam
xác định là: Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội chỉ có thể có được nếu Đảng và nhân dân ta giải quyết thành công
hàng loạt vấn đề trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, đối nội và
đối ngoại theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trung thành với con đường Hồ Chí Minh
đã vạch ra. Đảng ta khẳng định trong bất kỳ tình huống nào, cũng phải giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đề phòng và chống nguy cơ chệch hướng xã hội
chủ nghĩa.
Cụ thể, mục tiêu trên đã được Đảng và nhà nước thể hiện rõ trong cơng cuộc
phịng chống dịch Covid-19 vừa qua.
14
Không giống với các thách thức mà cách mạng Việt Nam phải đối mặt trong
lịch sử 90 năm qua, đại dịch COVID-19 là một cuộc chiến cam go với rất nhiều khác
biệt. Cùng với nhân loại, đất nước ta đứng trước một kẻ địch gần như vơ hình, bất
định và khôn lường. Một kẻ địch khiến cho cả thế giới ngừng trệ, tác động đến tuyệt
đại đa số các quốc gia và vùng lãnh thổ, và ngay cả những quốc gia hùng cường nhất
cũng phải rúng động. Đây đó trên thế giới, lãnh đạo các quốc gia lúng túng, chính trị
nội bộ chia rẽ, chỉ trích và cơng kích lẫn nhau, hệ thống y tế bị đánh sập, lòng dân xáo
động. Quan hệ quốc tế bị tác động nhiều chiều khi các quốc gia đều phải lo cho mình
trước và cạnh tranh nước lớn có thêm biểu hiện phức tạp.
Giữa cơn xáo động tồn cầu đó, cái tên Việt Nam một lần nữa xuất hiện như
một biểu tượng chiến thắng đầy cảm xúc. Một đất nước với sức mạnh kinh tế ở mức
trung bình thấp, độ mở cao, song đã làm thế giới ngỡ ngàng với số lượng người mắc
bệnh thấp, tỷ lệ chữa khỏi rất cao với những ca rất nghiêm trọng. Chưa hết, thế giới
còn ngỡ ngàng trước niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo
của Chính phủ, trước sự đồn kết trên dưới một lòng, trước lòng yêu nước nồng nàn,
nghĩa đồng bào sắt son của dân tộc Việt Nam. Cộng đồng quốc tế cảm động trước
những nghĩa cử cao đẹp của một dân tộc tuy cịn khó khăn nhưng dốc lịng mình để
hỗ trợ cho bạn bè, đối tác; cảm phục trước tinh thần trách nhiệm phất cao ngọn cờ
đoàn kết ASEAN, hợp tác đa phương, kết nối các quốc gia để cùng nhau vượt qua đại
dịch thế kỷ. 50-60 năm rồi, kể từ khi Việt Nam là “lương tri của nhân loại”, nay một
Việt Nam hiện thân cho chính nghĩa và nhân văn lại rạng ngời đến vậy trong tâm
khảm nhân dân thế giới. Những người bạn nước ngoài ở Việt Nam giương cao tấm
biển “Cảm ơn nghĩa cử của các bạn, cảm ơn sự hy sinh, cảm ơn sự tử tế, cảm ơn lòng
nhân từ” và “với sức mạnh của các bạn, chúng tơi khơng sợ gì nữa”. Truyền thông
quốc tế, bạn bè năm châu đã cố gắng phân tích tìm ngun nhân thành cơng của Việt
Nam, pháo đài sừng sững vững chãi trong cơn sóng thần đại dịch.
Ngun nhân thành cơng thật ra khơng mới, đó là các bài học kinh điển của
cách mạng Việt Nam. Đó là sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng ta – một Đảng do Chủ
tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, luôn kiên định mục tiêu tối thượng, xuyên
15
suốt là “tất cả vì nhân dân”. Đó là đường lối đúng đắn, tư duy khoa học, trên cơ sở
biết mình, biết người, biết thời, biết thế, biết lực. Đó là sức mạnh đại đồn kết vơ
địch, là lịng u nước nồng nàn, truyền thống nhân nghĩa quý báu của dân tộc Việt
Nam. Đó là tinh thần trách nhiệm cao cả của một quốc gia thủy chung, tình nghĩa đối
với bạn bè, đối tác. Những bài học này đều xuất phát từ các giá trị quý báu trong tư
tưởng và phong cách Hồ Chí Minh.
Trước hết, là bài học lấy dân làm gốc. Có thể nói, đặt vấn đề lợi ích dân tộc
lên trên hết không chỉ là một sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện đặc thù Việt Nam. Đây còn là sự phát triển vượt
bậc so với truyền thống chính trị Việt Nam bởi Người đã thực sự biến “dân vi bản”
trở thành “dân làm chủ”. Với tầm nhìn xa và trí tuệ siêu việt, Người nhận thức sâu
sắc lợi ích của nhân dân là cao nhất, đồng thời chỉ có phục vụ lợi ích của nhân dân
thì Đảng mới huy động được sức mạnh tồn dân để thực hiện mục tiêu cách mạng
thành công, giữ vững vai trị lãnh đạo của Đảng. Do đó, Người đã khẳng định: “Có
dân là có tất cả”, tin ở dân, dựa vào dân, tập hợp và phát huy sức mạnh của toàn dân
là nguyên tắc cơ bản trong chiến lược cách mạng của Người. Trọn cuộc đời mình,
Người ln kiên định một mục đích: “Tơi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột
bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Đây cũng chính là sự
hịa quyện cao nhất lợi ích của dân tộc và lợi ích của giai cấp mà tồn Đảng, tồn dân
ln hướng tới.
Trong ứng phó với đại dịch COVID-19, mặc dù là quốc gia đối mặt với đại
dịch từ rất sớm, song Đảng ta cũng sớm xác định ngay từ đầu chủ trương “tất cả vì
sức khỏe, tính mạng của nhân dân”. Chính vì vậy, dù lúc đầu phải đối mặt với một số
khó khăn từ cả đối nội và đối ngoại, song thực tiễn đã chứng minh việc sớm minh
định mục tiêu “vì sức khỏe nhân dân” đã đem lại những lợi thế to lớn mang tính
quyết định đối với cơng cuộc phòng, chống đại dịch ở nước ta.
Thứ hai, tư tưởng của Người về đại đoàn kết dân tộc và huy động sức mạnh
toàn dân. Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Người căn dặn “Để giành lấy thắng lợi trọn
16
vẹn trong cuộc chiến đấu khổng lồ này, cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo
dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của nhân dân”. Khẩu hiệu “Đồn kết, đồn
kết, đại đồn kết; thành cơng, thành cơng, đại thành cơng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh
là sự tổng kết súc tích về tư tưởng đại đồn kết của Người, một chân lý làm nên mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong đại dịch COVID-19, với mục tiêu “vì nhân dân”, Đảng ta đã nhận được
sự ủng hộ tuyệt đối của toàn dân, của đồng bào ở xa Tổ quốc. Sức mạnh đại đoàn kết
dân tộc trong cuộc chiến chống đại dịch COVID-19 thể hiện ở sự đồng tâm nhất trí
từ trên xuống dưới, ở sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, ở sự tận tâm tận lực của
các lực lượng tham gia chống dịch, ở sự ủng hộ của nhân dân trước các biện pháp
của Chính phủ, ở sự ủng hộ tài lực, vật lực của các tầng lớp nhân dân, từ cụ già, cháu
bé đến các tập đồn hàng đầu quốc gia. Chính vì vậy, mặc dù Việt Nam chưa phải là
nước phát triển, tiềm lực vừa phải, nhưng đã có được “lực lượng vĩ đại” để chiến
thắng đại dịch.
Thứ ba là tấm lịng nhân văn cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cơ sở của sức
mạnh nhân văn truyền thống của dân tộc Việt Nam là các giá trị văn hóa và lịch sử
Việt Nam, có thể cơ đọng lại là truyền thống u hịa bình, kiên cường bất khuất
nhưng hịa hiếu, nêu cao độc lập, tự do nhưng sẵn sàng kết giao, vì nhân dân.
Xuất phát từ tư tưởng nhân văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong cuộc chiến
chống đại dịch COVID-19, Đảng ta đã nêu cao tinh thần vì con người, chăm lo cả về
sức khỏe, tính mạng và đời sống nhân dân. Sự chăm sóc chữa trị hết lịng đối với các
bệnh nhân dương tính, người Việt cũng như người nước ngoài; những khu cách ly
đảm bảo đủ tiện nghi; những gói cứu trợ quan tâm đến người lao động, thất nghiệp,
yếu thế… là nỗ lực rất lớn của Đảng để “không một ai bị bỏ lại phía sau”. Chính tinh
thần nhân văn trong lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Chính phủ đã tạo cảm hứng cho
những nghĩa cử cao đẹp trong toàn xã hội, khiến cho thế giới khâm phục, ngạc nhiên.
CNN, hãng thông tấn hàng đầu của Mỹ và thế giới, nhận xét “việc này tuyệt vời đến
mức khó tin” với sáng kiến ATM gạo của Việt Nam. Những người nước ngoài ở Việt
17
Nam bày tỏ “Cảm ơn nghĩa cử của các bạn, cảm ơn sự hy sinh, cảm ơn sự tử tế, cảm
ơn lòng nhân từ” và “với sức mạnh của các bạn, chúng tơi khơng sợ gì nữa”.
Thứ tư, tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết, trách nhiệm quốc tế. Cùng với việc nêu
cao tinh thần độc lập, tự chủ, Hồ Chí Minh cũng khẳng định cách mạng Việt Nam là
một bộ phận của cách mạng thế giới. Người luôn kết hợp nhuần nhuyễn giữa lợi ích
dân tộc với nghĩa vụ quốc tế, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách
mạng vơ sản ở chính quốc. Ngay từ rất sớm, Người tham gia thành lập Hội liên hiệp
thuộc địa ở Pháp, hoạt động không mệt mỏi để tăng cường tình đồn kết chiến đấu
giữa giai cấp vô sản các nước và các dân tộc thuộc địa. Bên cạnh việc tranh thủ sự
giúp đỡ quốc tế cho dân tộc mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln kiên trì hồn thành tốt
và phù hợp nghĩa vụ quốc tế, coi “giúp bạn là tự giúp mình”, nhất là với cách mạng
Lào và cách mạng Campuchia.
Phát huy tinh thần đoàn kết quốc tế của Người, trong đại dịch COVID-19,
Việt Nam nổi lên như một “hình mẫu thành cơng” khơng chỉ với việc chặn đứng dịch
ở trong nước, mà còn với sự thể hiện trách nhiệm cao đối với bạn bè quốc tế. Cộng
đồng quốc tế cảm động trước những nghĩa cử cao đẹp của một dân tộc tuy cịn khó
khăn, nhưng sẵn sàng hỗ trợ cho bạn bè, đối tác; cảm phục trước tinh thần trách
nhiệm phất cao ngọn cờ đoàn kết ASEAN, hợp tác đa phương, kết nối các quốc gia
để cùng nhau vượt qua đại dịch thế kỷ.
Thứ năm, phong cách làm việc sát sao, quên mình vì nhân dân. Sinh thời, Chủ
tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời về việc tận tâm, tận lực đối với sự nghiệp
cách mạng, phục vụ nhân dân. Năm 1951, Người nói “Đảng Lao động Việt Nam là
Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nghĩa là những người thợ thuyền,
dân cày và lao động trí óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận
lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân”. Các thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam,
ngay từ Cách mạng Tháng Tám chỉ với 5000 đảng viên, là đều dựa trên sự tận tâm,
tận lực đó của đội ngũ cán bộ, đảng viên và toàn thể dân tộc Việt Nam.
Trong đại dịch COVID-19, tinh thần phụng sự nhân dân thể hiện rõ nét trong
những hành động xứng danh người cộng sản, từ Lời kêu gọi, những dặn dò thấu tận
18
tâm can đồng bào của người đứng đầu Đảng và Nhà nước, đến những chỉ đạo sát sao
đêm ngày của Thủ tướng Chính phủ, trong những chỉ thị, hành động sát cánh cùng
nhân dân của Bộ Chính trị, các Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, lãnh đạo Chính
phủ cho đến lãnh đạo các bộ, ngành địa phương. Sự tận tâm, tận lực thể hiện ở những
hy sinh lặng thầm mà lớn lao trên tuyến đầu của các lực lượng y tế, quân đội, công
an; ở những chuyến bay đi vào tâm dịch; ở những hoạt động thắm tình đồng bào để
cứu trợ khó khăn về cuộc sống. Có thể nói, tinh thần phụng sự của đội ngũ cán bộ,
đảng viên trong đại dịch COVID-19 đã củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng
ta.
Các khía cạnh nói trên mới chỉ phần nào phân tích các giá trị quý báu của tư
tưởng, phong cách Hồ Chí Minh trong cuộc chiến phòng, chống đại dịch hiện nay.
Dẫu hiện tại cuộc chiến còn chưa ngã ngũ, nhưng với niềm tin to lớn vào sức mạnh
đại đoàn kết của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhất định Việt Nam sẽ chiến
thắng đại dịch. Điều còn quan trọng hơn, đó là thắng lợi này một lần nữa khẳng định
vai trị lãnh đạo duy nhất của một Đảng vì nhân dân mà chiến đấu và phụng sự.
Thắng lợi này cũng khẳng định sức mạnh đại đoàn kết của dân tộc ta, một dân tộc
giàu lòng yêu nước, nhân nghĩa và anh hùng. Thắng lợi này cũng khẳng định vị thế
của Việt Nam – một quốc gia nhân văn đầy trách nhiệm, tích cực chung tay cùng
nhân loại.
2.4.Khó khăn và thách thức gặp phải
Hiện nay tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến rất phức tạp, tác
động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức. Hịa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế,
cách mạng khoa học- cơng nghệ, kinh tế tri thức tiếp tục được đẩy mạnh. Châu á
Thái Bình Dương trong đó có khu vực Đơng Nam Á đã trở thành một cộng đồng,
tiếp tục là trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa - kinh tế - chính trị chiến lược
ngày càng quan trọng; đồng thời đây cũng là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa
một số nước lớn, có nhiều nhân tố bất ổn; tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển đảo
trong khu vực và trên Biển Đơng cịn diễn ra gay gắt.
19
Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín
quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII của Đảng ta đã khẳng định,ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan
trọng trong sự nghiệp phát triển, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta. Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước đã đạt được
những thành tựu tolớn và có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã
hộivà bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa… Tuy nhiên vẫn cịn nhiều khó khăn, thách
thức. Bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra vẫn còn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn
về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ “diễn biến hịa
bình” của thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thối về tư tưởng,
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong
một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; sự tồn tại và những diễn biến
phức tạp của tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí
2.5.Phương pháp khắc phục khó khăn
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chúng ta cần nghiên cứu, vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và
quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhằm tạo ra những nguồn lực mới, đưa
sự nghiệp đổi mới vững bước tiến lên. Phải khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu
nước và tinh thần dân tộc, tạo điều kiện và phát huymọinguồn lực để xây dựng và
bảo vệ đất nước, trước hết phải xác định rõ các nguồn lực vàphát huy tối đa các
nguồn nội lực. Nội lực, hiểu một cách toàn diện, bao gồm con người, trí tuệ, truyền
thống dân tộc, truyền thống cách mạng, đất đai, tài nguyên, vốn liếng… nhưng tựu
trung lại, yếu tố quan trọng nhất, quyết định nhất vẫn là nguồn lực con người với tất
cả sức mạnh thể chất và tinh thần của nó. Chủ nghĩa yêu nước là nguồn lực mạnh mẽ
nhất, trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh thần yêu nước ấy đã được phát huy cao độ, biến
thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng vô song, đưa đến mọi thắng lợi của dân tộc ta.
20
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc, chúng ta cần thực hiện tốt những nội dung
sau:
Một là, kiên định con đường độc lập dân tộcgắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong
bất kỳ điều kiện và hoàn cảnh nào cũng phải giữ vững được nền độc lập hoàn toàn,
độc lập thực sự của đất nước.
Hai là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng đáp ứng với yêu
cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ lịch sử mới. Trước hết là mỗi đảng viên tự nâng cao
trình độ nhận thức chính trị và chun mơn, trau dồi , rèn luyện đạo đức để xứng
đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Ba là, tăng cường, củng cố khối đại đồn kết tồn dân mà nịng cốt là liên minh
cơng-nơng-trí, trên cơ sở phát huy tinh thần tự lực, tự cường, “đem tài dân, sức dân
để làm lợi cho dân”.
Bốn là, trong bối cảnh hiện nay phải đặt lợi ích quốc gia-dân tộc lên trên hết; kiên
định độc lập tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình
đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
C. KẾT LUẬN
Những sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
phản ánh nguyện vọng được sống trong độc lập, tự do và công bằng, bình đẳng của
khơng chỉ dân tộc Việt Nam mà cịn là ý chí, nguyện vọng của mọi dân tộc bị áp
bức, bóc lột trên thế giới, như Hồ Chí Minh đã khẳng định: “tất cả các dân tộc trên
thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng
và quyền tự do” Có thể nói, giải phóng dân tộc là nguyện vọng cháy bỏng hơn bất cứ
yêu cầu nào khác. Nó là điều kiện tiên quyết cho mọi quyền tự do, dân chủ của con
người.
21
Điều đặc biệt cần lưu ý, sáng tạo của Hồ Chí Minh khơng chỉ là người xây
dựng cơ sở lý luận cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc của Việt Nam mà
còn là người tổ chức và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Trong quá
trình tổ chức và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam, Hồ Chí
Minh đã thể hiện trách nhiệm của người đứng đầu. Người tổ chức vừa kháng chiến,
vừa kiến quốc với tinh thần “các vua Hùng đã có cơng dựng nước, Bác cháu ta phải
cùng nhau giữ lấy nước”. Kháng chiến đi đôi với kiến quốc, đấu tranh đi đôi với xây
dựng, cùng một lúc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là nét độc đáo của cách mạng
Việt Nam mang dấu ấn Hồ Chí Minh. Người xác định, kháng chiến trường kỳ gian
khổ, phức tạp, khó khăn, nhưng nhất định thắng lợi. Lý luận của Hồ Chí Minh về
cách mạng giải phóng dân tộc vốn đã sáng tạo nhưng lại ngày càng sáng tạo hơn vì
đã đi vào thực tiễn, được làm phong phú bởi thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 cũng như thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ xâm lược của nhân dân Việt Nam.
Thực tiễn lãnh đạo toàn dân tộc đấu tranh giành độc lập và kháng chiến chống
chiến tranh xâm lược đã làm phong phú thêm lý luận của Người về cách mạng và
chiến tranh giải phóng. Từ đó, có thể khẳng định, những cống hiến sáng tạo của Hồ
Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, cả thực tiễn và lý luận đã bổ sung cho
kho tàng lý luận cách mạng thế giới, kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin cũng
như truyền thống dựng nước và giữ nước đầy tự hào của dân tộc Việt Nam.
Những sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
mang tính thời đại thể hiện đậm nét ở chỗ, nó đã tác động sâu sắc đến phong trào
giải phóng dân tộc trên thế giới. Nếu như thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm
1945 đã thức tỉnh các dân tộc trên thế giới về quyền tự do, độc lập của mỗi dân tộc,
thì thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, với đỉnh cao là
chiến thắng Điện Biên Phủ đã làm “chấn động địa cầu”, thức tỉnh các dân tộc ở châu
Á, châu Phi và châu Mỹ - Latinh vùng lên đánh đuổi thực dân, đế quốc, giành độc
lập dân tộc.
22
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã kiên định con đường cách mạng
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn là: độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, kiên
trì mục tiêu: “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”. Hiện nay, tư tưởng của Người vẫn soi
sáng con đường đi lên của cách mạng Việt Nam. Để thực hiện mục tiêu xây dựng
một nước Việt Nam: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vấn đề
quan trọng nhất được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là: Kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.
Để đạt được điều đó, hơn lúc nào hết, chúng ta cần phải nắm chắc hạt nhân tư
tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng con người, nắm vững phương
thức giải quyết mối quan hệ dân tộc - con người trên cơ sở nhận thức chính xác đặc
điểm của dân tộc và sự vận động, phát triển của thời đại. Chỉ có như vậy, chúng ta
mới thành cơng trong nhiệm vụ đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống để giải
quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Đó cũng là một trong những điều kiện quan
trọng nhất bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hiện tại và tương
lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. (truy cập 9/12/2020).
2. (truy cập 9/12/2020).
3. (truy cập 8/12/2020).
4. (truy cập 8/12/2020).
23
5. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Chương V, Trang 68 – 90, 163 - 200
6. (truy cập 8/12/2020).
7.báo
điện
tử
Đảng
Cộng
Sản
Việt
Nam
mục
tư
tưởng
văn
hóa:
(truy cập 6/12/2020).
8. (truy cập 6/12/2020).
9. (truy cập 6/12/2020).
24