Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Xác định và phân chia tài sản chung là quyền sử dụng đất nông nghiệp của vợ chồng khi ly hôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.36 MB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

THỊ GẤM

XÁC ĐỊNH VÀ PHÂN CHIA TÀI SẢN CHUNG
LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP
CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

XÁC ĐỊNH VÀ PHÂN CHIA TÀI SẢN CHUNG
LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP
CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự
Định hướng ứng dụng
Mã số 60380103

Người hướng dẫn khoa học : TS. Lê Vĩnh Châu
Học viên
: Thị Gấm
Lớp
: Cao học Luật, Kiên Giang Khóa 2


TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu khoa học thực sự của
cá nhân, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Lê Vĩnh Châu.
Những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này trung thực và chưa
từng được cơng bố dưới bất kỳ hình thức nào.
Tơi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Tác giả

THỊ GẤM


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt

Từ được viết tắt

1

BLDS

Bộ luật Dân sự

2

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng Dân sự


3

Luật HN&GĐ

Luật Hơn nhân và gia đình

4

QSDĐ

Quyền sử dụng đất

5

TAND

Tịa án nhân dân

TTLT 01/2016

Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTCVKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 của Tòa án nhân
dân tối cao – Viện Kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ Tư
pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật
Hôn nhân và gia đình.

6


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. XÁC ĐỊNH QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP LÀ TÀI
SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG ............................................................................ 8
1.1. Căn cứ vào thời kỳ hôn nhân .......................................................................... 9
1.2. Căn cứ vào ý chí của vợ, chồng ..................................................................... 13
1.3. Căn cứ vào nguồn gốc của tài sản................................................................. 21
Kết luận Chương 1 .................................................................................................. 25
CHƯƠNG 2. PHÂN CHIA TÀI SẢN CHUNG LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
NÔNG NGHIỆP KHI VỢ CHỒNG LY HÔN ..................................................... 26
2.1. Chia theo sự thoả thuận của vợ chồng ......................................................... 26
2.2. Chia theo quyết định của Toà án .................................................................. 29
Kết luận Chương 2 .................................................................................................. 41
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 42
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đời sống hôn nhân của vợ chồng vô cùng phong phú và đa dạng, ở đó
khơng chỉ phát sinh quan hệ nhân thân mà còn tồn tại quan hệ tài sản giữa vợ và
chồng. Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định của Tịa
án có hiệu lực pháp luật. Ly hôn là mặt trái của kết hôn, việc giải quyết ly hôn và
hậu quả của việc ly hôn luôn mang đến những hệ lụy nhất định. Vấn đề được các
bên quan tâm và thường xảy ra tranh chấp khi ly hơn chính là giải quyết quyền lợi
của vợ, chồng.
Hiện nay, dưới sự tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, tính chất mối
quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình cũng có nhiều thay đổi. Vì vậy,
các quy định điều chỉnh chế độ tài sản của vợ chồng luôn được các nhà làm luật

quan tâm và xây dựng để trở thành một trong những chế định quan trọng nhất của
pháp luật hơn nhân và gia đình. Trong xã hội hiện đại, để bảo bảm đời sống chung
của gia đình và lợi ích thiết thực của bản thân mỗi thành viên trong gia đình, vợ
chồng có nhu cầu tham gia vào các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh và có
quyền, nghĩa vụ tài sản phát sinh từ các quan hệ đó. Lúc gia đình hạnh phúc, ranh
giới giữa tài sản chung và tài sản riêng ít người để ý và quan tâm. Khi tình cảm vợ
chồng rạn nứt, đổ vỡ, vợ chồng có quyền tự thỏa thuận việc chia tài sản của họ,
nhưng khi họ không thỏa thuận được thì việc vận dụng những quy định của pháp
luật hơn nhân và gia đình để giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng là điều cần
thiết để bảo đảm quyền và lợi ích của vợ hoặc chồng.
Xác định và phân chia tài sản chung của vợ chồng là vấn đề rất phức tạp khi
ly hôn, nhất là các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất nói chung và quyền
sử dụng đất nơng nghiệp nói riêng của vợ chồng. Trong thực tiễn giải quyết, nảy
sinh nhiều bất cập, như:
Thứ nhất, việc xác định quyền sử dụng đất nông nghiệp khi ly hôn là tài sản
chung hay tài sản riêng của vợ, chồng.
Thứ hai, tranh chấp về quyền sử dụng đất nơng nghiệp của vợ chồng khi ly
hơn có liên quan đến người thứ ba; vợ chồng có thỏa thuận về việc quyền sử dụng
đất nông nghiệp được tặng cho riêng là tài sản riêng, quyền sử dụng đất nông
nghiệp được tặng cho chung là tài sản chung nhưng ý chí của bên tặng cho khơng
thể hiện cụ thể trước thời điểm các bên tiến hành ly hôn.


2
Thứ ba, tranh chấp về việc xác định phần quyền sử dụng đất nông nghiệp của
vợ chồng trong trong khối tài sản chung của gia đình khi vợ chồng ly hơn; khó khăn
trong thu thập chứng cứ trong giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung là quyền
sử dụng đất nơng nghiệp.
Thứ tư, xác định có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất đối với đất
nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản của vợ, chồng khi ly hơn…

Thực tế, đã có một số cơng trình khoa học nghiên cứu chun sâu về phần
tài sản của vợ chồng, trong đó bao gồm các nghiên cứu về chia tài sản chung của
vợ chồng khi ly hơn. Tuy nhiên, số lượng cơng trình nghiên cứu chuyên sâu về
xác định, phân chia quyền sử dụng đất nông nghiệp là tài sản chung của vợ chồng
khi ly hơn chưa nhiều. Vì vậy, việc nghiên cứu phân tích để làm sáng tỏ những
quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình về xác định và chia tài sản chung là
quyền sử dụng đất nông nghiệp của vợ chồng khi ly hơn là một việc làm cần thiết,
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, giúp quá trình xác định và phân chia tài sản
của vợ chồng khi ly hôn được minh bạch, công tâm và khách quan, bảo vệ hài hịa
quyền và lợi ích hợp pháp giữa vợ, chồng và bên thứ ba liên quan (nếu có). Mặt
khác, điều này cịn góp phần hồn thiện các quy định của pháp luật tạo ra cách
hiểu thống nhất, đảm bảo quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, giúp hệ thống
Tịa án nói chung, trong đó có Tịa án nhân dân tỉnh Kiên Giang giải quyết một
cách kip thời và hiệu quả các tranh chấp phát sinh khi giải quyết yêu cầu chia tài
sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
Từ những lý do nêu trên tác giả chọn đề tài “Xác định và phân chia tài sản
chung là quyền sử dụng đất nông nghiệp của vợ chồng khi ly hôn” để thực hiện
Luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, trước những đòi hỏi khách quan của đời sống xã hội và đời sống vợ
chồng nói riêng đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, bài viết ở cấp độ khác nhau đề
cập đến vấn đề tranh chấp quyền sử dụng đất nói chung của vợ chồng khi ly hơn.
Cụ thể:
Giáo trình, sách chuyên khảo:
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2016), “Giáo trình Luật hơn
nhân gia đình Việt Nam”, Nxb Hồng Đức, Hội Luật gia Việt Nam. Các quy định
của pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn nói chung, chia quyền
sử dụng đất khi ly hơn nói riêng được phân tích, luận giải khá chi tiết, cụ thể trong



3
chương chấm dứt hôn nhân. Đây là nguồn tài liệu quan trọng giúp tác giả tham khảo
khi triển khai các vấn đề lý luận của đề tài. Tuy nhiên vì cơng trình được biên soạn
nhằm phục vụ việc giảng dạy trong các cơ sở đào tạo luật, do đó nhóm tác giả chỉ
tập trung nghiên cứu những vấn đề mang tính lý luận, khơng đánh giá thực tiễn, vì
vậy chưa chỉ ra bất cập, vướng mắc cũng như giải pháp hoàn thiện pháp luật. Với
việc nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật về xác định, phân chia
tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất nông nghiệp khi ly hôn, nên tác
giả cần thiết phải nghiên cứu cụ thể về thực tiễn áp dụng pháp luật, chỉ ra bất cập,
vướng mắc, đồng thời đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2018), “Sách tình huống
(bình luận bản án) Luật Hơn nhân và gia đình, Nxb Hồng Đức, Hội Luật gia Việt
Nam. Trong các cơng trình này, nhóm tác giả đã phân tích, bình luận, nêu quan
điểm cá nhân về các vụ việc xảy ra trên thực tế, đã có phán quyết của Toà án. Đây
là nguồn tài liệu tham khảo rất giá trị, giúp tác giả trong việc đánh giá thực tiễn
cũng như định hướng đề xuất giải pháp, kiến nghị của mình.
Luận án, luận văn:
Nguyễn Văn Cừ (2005), “Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân gia
đình Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. Cơng trình
này tập trung vào phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về chế độ tài sản của vợ chồng,
chỉ ra những vấn đề phát sinh trong các quy định về vấn đề này trong thực tế để từ đó
đề xuất các phương hướng quan trọng trong hoạt động áp dụng quy định của pháp
luật về chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật. Tuy nhiên, cơng trình được thực
hiện dựa trên quy định của Luật HN&GĐ 2000, nay khơng cịn hiệu lực, vì vậy tác
giả tiếp tục triển khai nghiên cứu đề tài của mình dựa trên Luật HN&GĐ 2014.
Nguyễn Thị Thanh Xuân (2011), “Pháp luật về giải quyết tranh chấp nhà ở và
quyền sử dụng đất khi ly hôn”. Cơng trình này tập trung vào các quy định pháp luật
về giải quyết tranh chấp nhà ở và quyền sử dụng đất khi ly hôn và thực tiễn áp dụng
trong thực tế. Đồng thời, chỉ rõ những điểm hạn chế về quá trình áp dụng trong thực
tiễn và phương hướng hồn thiện nhằm áp dụng có hiệu quả pháp luật về giải quyết

tranh chấp nhà ở và quyền sử dụng đất khi ly hôn.
Lương Hải Anh (2016), Giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ, chồng
khi ly hôn từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân quận ba đình, thành phố Hà Nội,
Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam - Học viện Khoa học xã hội, Luận văn
thạc sĩ Luật học. Cơng trình này đã nghiên cứu các quy định của luật thực định về


4
chế độ tài sản của vợ chồng, tìm hiểu thực tiễn áp dụng luật thực định để giải quyết
các tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng trong hoạt động xét xử của Tòa án, chỉ ra
các điểm bất cập, chưa cụ thể của pháp luật và từ đó đưa ra những nhận xét, kiến
nghị về hướng hoàn thiện pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng.
Đào Việt Long (2018), Áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp về quyền sử
dụng đất của vợ chồng khi ly hơn tại Tịa án nhân dân thành phố Sơn La, Trường
Đại học Luật Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học. Cơng trình này đã làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận và nội dung pháp luật thực định về việc giải quyết tranh chấp
quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn; thực tiễn thực thi pháp luật tranh chấp
quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn ở TAND thành phố Sơn La và kiến nghị
và đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về tranh chấp quyền sử
dụng đất của vợ chồng khi ly hôn trên địa bàn tỉnh Sơn La nói riêng.
Vũ Thị Hải Yến (2018), Giải quyết tranh chấp tài sản đầu tư chung vợ chồng
khi ly hôn từ thực tiễn xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành
phố Hà Nội, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam - Học viện Khoa học xã hội,
Luận văn thạc sĩ Luật học. Cơng trình đã nghiên cứu những vấn đề lý luận về chế
độ tài sản của vợ chồng như khái niệm, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của tài sản chung
của vợ chồng đối; khái niệm, đặc điểm tài sản đầu tư chung của vợ chồng; chia tài
sản đầu tư chung của vợ chồng khi ly hôn; khái niệm về giải quyết tranh chấp tài
sản đầu tư chung của vợ chồng khi ly hôn; khung pháp luật điều chỉnh vấn đề giải
quyết tranh chấp tài sản đầu tư chung của vợ chồng khi ly hơn. Từ đó, tác giả đã
đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản đầu tư chung

của vợ chồng thông qua hoạt động xét xử tại Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm,
Thành phố Hà Nội, qua đó chỉ ra những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân của hạn
chế trong áp dụng pháp luật.
Bài viết tạp chí:
Một số bài viết đăng trên các tạp chí chun ngành có thể kể đến như: Nguyễn
Phương Lan (2002), “Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hơn
nhân”, Tạp chí Luật học, số 6 (2002); Nguyễn Hồng Nam (2006),“Chia nhà đất khi
vợ chồng ly hơn”, Tạp chí Tịa án Nhân dân, số 06 (2006); Ngô Thị Hường (2008),
“Đăng ký quyền sở hữu tài sản và việc xác định tài sản chung, riêng của vợ chồng”,
Tạp chí Luật học, số 10 92008); Thu Hương, Duy Kiên (2013), “Một số vấn đề cơ
bản về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn theo luật hơn nhân và gia đình và
thực tiễn giải quyết (Kỳ I), Tạp chí Tịa án Nhân dân, số 05 (2003); “Một số vấn đề


5
cơ bản về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn theo luật hơn nhân và gia đình
và thực tiễn giải quyết (Kỳ II), Tạp chí Tịa án Nhân dân, số 06 (2003)… Các bài viết
này đã phân tích một vấn đề trong chế định chia tài sản chung vợ chồng. Tuy nhiên,
do tính chất của một bài viết nghiên cứu, các tác giả chỉ đề cập đến một khía cạnh
hoặc một trường hợp cụ thể liên quan đến việc chia tài sản chung của vợ chồng mà
không thể phân tích tồn diện các khía cạnh của chế định này.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập đến những vấn đề
pháp lý cơ bản, nguyên tắc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn trong
đó có quyền sử dụng đất, tuy nhiên quyền sử dụng đất nông nghiệp với những đặc
điểm pháp lý riêng được quy định tại Luật Đất đai như về phân loại, hạn mức, gia
hạn sử dụng, chuyển đổi mục đích sử dụng… lại chưa được nghiên cứu một cách
cụ thể, chi tiết với tư cách là một quyền tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn sẽ
được phân chia như thế nào. Do đó, việc nghiên cứu chuyên sâu phạm trù quy
định này sẽ tạo thuận lợi nhất định, giúp cho quá trình xác định và phân chia tài
sản chung của vợ chồng khi ly hôn được giải quyết nhanh chóng, bảo vệ hài hịa

lợi ích của các bên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích, làm rõ các quy định của pháp luật hiện hành về xác
định và phân chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất nông nghiệp khi
ly hôn, Luận văn phát hiện những bất cập và đưa ra kiến nghị nhằm bổ sung hoàn
thiện các quy định của pháp luật về xác định quyền sử dụng đất nông nghiệp là tài
sản chung của vợ chồng và phân chia tài sản này khi vợ chồng ly hôn
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
Thứ nhất, phân tích và làm rõ những vấn đề về cách xác định và phân chia tài
sản chung là quyền sử dụng đất nông nghiệp của vợ chồng khi ly hôn theo quy định
của pháp luật hơn nhân và gia đình hiện hành;
Thứ hai, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về xác định và phân chia tài
sản chung là quyền sử dụng đất nông nghiệp của vợ chồng khi ly hôn, chỉ ra bất
cập, vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật;
Thứ ba, đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về xác định và phân chia tài
sản chung là quyền sử dụng đất nông nghiệp của vợ chồng khi ly hôn, nhằm nâng
cao hiệu quả áp dụng quy định này trong thực tiễn.


6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Là những quy định của pháp luật cũng như thực tiễn
áp dụng pháp luật về xác định và phân chia tài sản chung là quyền sử dụng đất nông
nghiệp của vợ chồng khi ly hôn.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu dựa trên các quy định của pháp
luật Việt Nam về xác định và phân chia tài sản chung là quyền sử dụng đất nông
nghiệp của vợ chồng khi ly hôn. Cụ thể là quy định của pháp luật hơn nhân và gia
đình hiện hành, Luật Đất đai năm 2013 cũng như văn bản hướng dẫn cho các luật

này. Tuy nhiên, để làm rõ một số vấn đề pháp lý, luận văn có sử dụng pháp luật
Việt Nam trong các giai đoạn trước đây để so sánh, đối chiếu. Đồng thời, Luận văn
cũng đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật thông qua các bản án, quyết định giải
quyết ly hơn của Tồ án từ khi Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 có hiệu lực
(ngày 01/01/2015) đến nay và phạm vi khảo sát, đánh giá là trên toàn quốc.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phương pháp luận là duy vật biện chứng, duy vật lịch sử
trên cơ sở quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và tư tưởng Hồ Chí Minh, để xem
xét đánh giá thực trạng công tác giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ
chồng ly hôn tại Việt Nam trong những điều kiện cụ thể và các mối quan hệ khác.
Bên cạnh đó, Luận văn cịn vận dụng một số phương pháp nghiên cứu như:
Phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp bình luận án, phương
pháp tổng hợp… nhằm đưa ra được những thông tin, số liệu chính xác, những biện
pháp tối ưu phục vụ cho công tác nghiên cứu bám sát với nội dung đề tài và thực
tiễn đời sống. Cụ thể:
Phương pháp phân tích được tác giả sử dụng trong suốt luận văn để phân
tích nội dung của các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về xác định và phân
chia tài sản chung là quyền sử dụng đất nông nghiệp của vợ chồng khi ly hơn.
Đồng thời, tác giả cịn sử dụng phương pháp này trong việc phân tích những khó
khăn, vướng mắc của việc áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành khi giải
quyết các tranh chấp về xác định và phân chia tài sản chung là quyền sử dụng đất
nông nghiệp của vợ chồng khi ly hôn khi chế độ tài sản của vợ chồng là thỏa thuận
hoặc luật định. Từ đó, tác giả đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật
Việt Nam về vấn đề này.
Phương pháp so sánh được tác giả sử dụng trong cả Chương 1 và Chương 2
để so sánh, đối chiếu với các quy định liên quan nhằm làm rõ thêm về những quy


7
định về xác định và phân chia tài sản chung là quyền sử dụng đất nông nghiệp của

vợ chồng khi ly hôn giữa pháp luật Việt Nam hiện hành và pháp luật trước đây
nhằm làm rõ từng vấn đề bất cập.
Phương pháp bình luận án được tác giả sử dụng chủ yếu trong các tiểu mục
phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật tại Chương 1 và Chương 2 để từ đó thấy được
các vấn đề vướng mắc cịn tồn tại trong thực tiễn để từ đó đưa ra các giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật hiện hành.
Cuối cùng, phương pháp tổng hợp được tác giả sử dụng để hoàn thành Luận
văn trên cơ sở tập hợp các tài liệu đã thu tập được. Phương pháp này cũng được tác
giả sử dụng trong phần kết luận của từng chương và kết luận chung của Luận văn,
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Luận văn đã giải quyết vấn đề cơ bản của những quy định về xác định và
phân chia tài sản chung là quyền sử dụng đất nông nghiệp của vợ chồng khi ly hôn
và việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn.
Luận văn cũng góp phần đánh giá khách quan tồn diện về các quy định của
pháp luật và tác động đến xác định và phân chia tài sản chung là quyền sử dụng đất
nông nghiệp của vợ chồng khi ly hôn để từ đó đưa ra các kiến nghị góp phần hồn
thiện các quy định của pháp luật còn vướng mắc trong thực tiễn áp dụng về xác định và
phân chia tài sản chung là quyền sử dụng đất nông nghiệp của vợ chồng khi ly hơn.
Luận văn này có thể sử dụng để làm tài liệu tham khảo cho các Thẩm phán,
Thư ký, Luật sư… và sử dụng để học tập, nghiên cứu.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn bao gồm 02 chương, cụ thể như sau:
Chương 1. Xác định quyền sử dụng đất nông nghiệp là tài sản chung của vợ
chồng
Chương 2. Phân chia tài sản chung là quyền sử dụng đất nông nghiệp khi vợ
chồng ly hôn


8

CHƯƠNG 1
XÁC ĐỊNH QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP
LÀ TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và
thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp vợ chồng đã chia tài
sản chung trong thời kỳ hơn nhân và các bên khơng có thỏa thuận khác; tài sản mà
vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ
chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất1, được dùng để bảo
đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng. Do đó, việc chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận. Việc định đoạt tài sản
chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng trong những trường hợp sau
đây: (i) Bất động sản; (ii) Động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký
quyền sở hữu; (iii) Tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình. Trong
trường hợp khơng có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp
là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Đối với tài sản là QSDĐ, khoản 1 Điều 33 Luật HN&GĐ 2014 quy định:
“QSDĐ mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ
trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được
thơng qua giao dịch bằng tài sản riêng”. Từ quy định này có thể hiểu, QSDĐ nơng
nghiệp là tài sản chung của vợ chồng là QSDĐ nông nghiệp được xác lập quyền với
vợ hoặc chồng hoặc cả vợ và chồng trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp việc xác
lập quyền với vợ hoặc chồng được thực hiện dưới hình thức được thừa kế riêng,
được tặng cho riêng hoặc có được thơng qua giao dịch bằng tài sản riêng nếu vợ
hoặc chồng chưa có thỏa thuận nhập tài sản riêng vào tài sản chung hoặc không
chứng minh được đây là tài sản riêng của mình2.
Điều 12 Nghị định 126/2014/NĐ-CP quy định về vấn đề đăng ký tài sản chung
của vợ chồng. Theo đó, tài sản chung của vợ chồng phải đăng ký theo quy định tại
Điều 34 Luật HN&GĐ 2014 bao gồm QSDĐ, những tài sản khác mà pháp luật quy

định phải đăng ký quyền sử dụng, quyền sở hữu. Đối với tài sản chung của vợ chồng
Xem thêm Điều 210 BLDS 2015.
Nguyễn Chí Mạnh (2016), Tranh chấp về tài sản là quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn từ thực tiễn
giải quyết tại Tòa án nhân dân thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh, Viện Đại học Mở Hà Nội, Luận văn Thạc
sĩ Luật học, tr. 16.
1
2


9
đã được đăng ký và ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì vợ, chồng có quyền u cầu cơ
quan có thẩm quyền cấp đổi giấy chứng nhận quyền sở hữu, QSDĐ để ghi tên của cả
vợ và chồng. Quy định này được áp dụng đối với cả QSDĐ nông nghiệp.
Như vậy, có thể hiểu QSDĐ nơng nghiệp mà vợ hoặc chồng có quyền sử
dụng sau khi kết hơn trừ trường hợp được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc
sử dụng tài sản riêng để nhận chuyển nhượng QSDĐ nơng nghiệp thì đều được coi
là tài sản chung của vợ chồng. Theo đó, QSDĐ nơng nghiệp chung của vợ chồng
bao gồm:
- QSDĐ nơng nghiệp mà vợ chồng có được bằng thu nhập do lao động, hoạt
động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân.
- QSDĐ nông nghiệp mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng
cho chung.
- QSDĐ nông nghiệp mà cả vợ và chồng hoặc mỗi bên vợ hoặc chồng được
Nhà nước giao, kể cả giao khoán sau khi kết hôn;
- QSDĐ nông nghiệp mà cả vợ và chồng hoặc chỉ một bên vợ hoặc chồng
được Nhà nước cho thuê sau khi kết hôn;
- QSDĐ nông nghiệp mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.
-QSDĐ nông nghiệp mà các bên khơng chứng minh được đó là tài sản riêng.
Mặt khác, theo khoản 1 Điều 34 Luật HN&GĐ 2014 thì giấy chứng nhận

QSDĐ nơng nghiệp là tài sản chung của vợ chồng phải ghi tên cả vợ và chồng, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác. Đối với giấy chứng nhận QSDĐ nông nghiệp ghi
tên của cả hai vợ chồng, thì đó là tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên, có trường
hợp QSDĐ nơng nghiệp ghi tên hai vợ chồng, nhưng QSDĐ nông nghiệp không
phải là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất mà là tài sản thuộc sở hữu chung theo
phần thì thuộc sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự.
Theo quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 33 Luật HN&GĐ 2014, ngoài
việc căn cứ vào sự suy đốn pháp lý (khi khơng chứng minh được là tài sản riêng
thì xác định là tài sản chung) thì cịn có 03 căn cứ hình thành nên các loại tài sản
chung của vợ chồng, đó là (i) Căn cứ vào thời kỳ hôn nhân; (ii) Căn cứ vào ý chí
của vợ, chồng; (iii) Căn cứ vào nguồn gốc của tài sản.
1.1. Căn cứ vào thời kỳ hôn nhân
Trường hợp vợ chồng không lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận hoặc có
thỏa thuận về chế độ tài sản nhưng thỏa thuận này bị Tòa án tun bố vơ hiệu thì


10
chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định (Điều 7 Nghị định 126/2014). Theo chế
độ tài sản theo luật định, thời kỳ hôn nhân là một trong những căn cứ để xác định
QSDĐ nông nghiệp là tài sản chung của vợ chồng. Quy định này tương đồng với
Điều 1400 Bộ luật Dân sự Cộng hoà Pháp: “Chế độ cộng đồng tài sản được thiết
lập khi khơng có hơn ước hoặc khi vợ chồng tuyên bố kết hôn theo chế độ cộng
đồng tài sản”. Theo căn cứ này, QSDĐ nông nghiệp được xác định là tài sản chung
của vợ chồng nếu QSDĐ nông nghiệp này là tài sản do vợ, chồng tạo ra trong thời
kỳ hôn nhân. Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, được
tính từ ngày đăng ký kết hơn đến ngày chấm dứt hôn nhân (khoản 13 Điều 3 Luật
HN&GĐ 2014). Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 33 Luật HN&GĐ 2014 quy định cụ
thể: “QSDĐ mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng,
trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có
được thơng qua giao dịch bằng tài sản riêng”. Từ quy định này có thể hiểu, QSDĐ

nông nghiệp là tài sản chung của vợ chồng là QSDĐ nông nghiệp được xác lập
quyền với vợ hoặc chồng hoặc cả vợ và chồng trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường
hợp việc xác lập quyền với vợ hoặc chồng được thực hiện dưới hình thức được thừa
kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thơng qua giao dịch bằng tài sản riêng
nếu vợ hoặc chồng chưa có thỏa thuận nhập tài sản riêng vào tài sản chung hoặc
không chứng minh được đây là tài sản riêng của mình3.
Điều 12 Nghị định 126/2014/NĐ-CP quy định về vấn đề đăng ký tài sản
chung của vợ chồng. Theo đó, tài sản chung của vợ chồng là QSDĐ nông nghiệp
phải đăng ký theo quy định tại Điều 34 Luật HN&GĐ 2014. Đối với QSDĐ nông
nghiệp là tài sản chung của vợ chồng nhưng đã được đăng ký và ghi tên một bên vợ
hoặc chồng thì vợ, chồng có quyền u cầu cơ quan có thẩm quyền cấp đổi giấy
chứng nhận quyền sở hữu, QSDĐ để ghi tên của cả vợ và chồng.
Với quy định trên, trong thực tế, phát sinh các bất cập, vướng mắc sau:
Thứ nhất, về cách xác định tài sản “có trước khi kết hơn” là tài sản “có trong
thực tế” hay “có về mặt pháp lý trước khi kết hơn?
Nếu tài sản “có” trên góc độ pháp lý (tức đã hoàn tất đã được cấp Giấy
Chứng nhận QSDĐ nơng nghiệp hợp pháp) thì việc xác định đó là tài sản riêng của
vợ (chồng) khơng có gì để tranh cãi. Vấn đề khó khăn là trường hợp tài sản “có”
trong thực tế nhưng chưa hồn tất thủ tục để “có” về mặt pháp lý.
3

Nguyễn Chí Mạnh (2016), tlđd (2), tr. 16.


11
Thứ hai, xác định QSDĐ nông nghiệp được tạo lập trong thời gian một bên
vợ, chồng “bị tuyên bố là đã chết” là tài sản chung hay tài sản riêng của vợ, chồng
người bị tuyên bố là đã chết trở về?
Xác định thời điểm vợ (chồng) chết hoặc bị Tòa án tuyên bố đã là chết là một
trong những thời điểm chấm dứt thời kỳ hôn nhân. Thực tế xảy ra trường hợp vợ

(chồng) bị Tòa án tuyên bố là đã chết mà trở về và chồng (vợ) chưa kết hơn với
người khác thì thời kỳ hơn nhân được tính như thế nào và có ảnh hưởng đến việc
xác định QSDĐ nông nghiệp là tài sản riêng, tài sản chung của vợ chồng hay
khơng? Vẫn cịn nhiều lúng túng trong thực tiễn giải quyết trường hợp này.
Điều 67 Luật HN&GĐ 2014 quy định: “Khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ tuyên
bố một người là đã chết mà vợ hoặc chồng của người đó chưa kết hơn với người khác
thì quan hệ hôn nhân được khôi phục kể từ thời điểm kết hôn” (khoản 1) và “Trong
trường hợp hôn nhân được khơi phục thì quan hệ tài sản được khơi phục kể từ thời
điểm quyết định của Tòa án hủy bỏ tuyên bố chồng, vợ là đã chết có hiệu lực. Tài sản
do vợ, chồng có được kể từ thời điểm quyết định của Tòa án về việc tuyên bố chồng,
vợ là đã chết có hiệu lực đến khi quyết định hủy bỏ tuyên bố chồng, vợ đã chết có
hiệu lực là tài sản riêng của người đó” (điểm a khoản 2). Do đó, nếu QSDĐ đất nơng
nghiệp là tài sản được tạo ra trong khoảng thời gian này thì được xác định là tài sản
riêng của vợ (chồng) đó. Quy định này là phù hợp, giúp việc xác định QSDĐ nông
nghiệp là tài sản riêng của vợ chồng được thuận lợi và công bằng hơn4. Bởi lẽ, xét
đến cùng thì trong khoảng thời gian bị tuyên bố là đã chết đó bên cịn lại khơng có sự
đóng góp trong việc tạo lập tài sản là QSDĐ nông nghiệp này.
Thứ ba, trường hợp vợ chồng xây dựng nhà trái phép trên đất nơng nghiệp
(đất do Nhà nước giao có thời hạn) và yêu cầu Tòa án xác định đây tài sản chung
của vợ chồng khi ly hôn. Việc giải quyết trường hợp này rất khó khăn bởi căn nhà
này đã được xây dựng không hợp pháp. Để giải quyết trường hợp này, thực tế, Tịa
án sẽ gửi cơng văn hỏi ý kiến của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có bất động sản và
Uỷ ban nhân dân cấp huyện về việc có cho phép chuyển mục đích sử dụng đất hay
khơng? Nếu được phép chuyển mục đích sử dụng đất thì Tịa án giải quyết, ngược
lại thì Tịa án không giải quyết5.
Lương Hải Anh (2016), Giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ, chồng khi ly hôn từ thực tiễn xét xử
của Tòa án nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam - Học viện
Khoa học xã hội, Luận văn Thạc sĩ Luật học, tr. 63.
5
Nguyễn Lê Trung, Lê Ngọc Hiền (2020), Một số ý kiến về phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn,

Trường Đại học Cơng nghệ TP. Hồ Chí Minh, tr. 17.
4


12
Thực tế xảy ra vụ việc như sau6: Bà V và ông N chung sống với nhau từ năm
1990, không có đăng ký kết hơn. Bà Nguyễn Thị V và ông Luyên Nam N chung sống
với nhau năm 1990, không có đăng ký kết hơn. Bản án hơn nhân và gia đình sơ thẩm
ngày 09/02/2018 đã tun bố khơng cơng nhận bà V và ông N là vợ chồng. Năm
2002, ông bà nhận giao khoán 5,3 ha đất rừng (theo đo đạc thực tế là 53.226,4m2)
(ông N đứng tên trong sổ hợp đồng giao khoán đất lâm nghiệp này). Đến năm 2004,
Ban quản lý rừng phòng hộ SL cấp sổ hợp đồng giao khoán đất lâm nghiệp, tại thửa
754E (gọi tắt là phần đất rừng). Khi đó, phía bà V và ông N phải nộp lại tiền đầu tư
cải tạo trên đất là 180.000.000 đồng, khoản tiền này là do vợ chồng tích lũy. Bà V và
ơng N khơng tự thỏa thuận phân chia, nên bà V yêu cầu Tòa án giải quyết chia cho bà
½ diện tích đất là 26.613,2m2. Do đất này là rừng phòng hộ, nay bà yêu cầu được
nhận ½ giá trị của phần đất. Tuy nhiên, ông N cho rằng số tiền 180.000.000 đồng
phải nộp lại tiền đầu tư cải tạo trên đất là do ông tự đi vay mượn của mẹ ruột và 02
người em gái của ơng, khơng có liên quan đến bà V. Do đó, ơng xác định đây là tài
sản riêng của ông và ông không đồng ý phân chia theo yêu cầu của bà V.
Bản án sơ thẩm xác định: Căn cứ Điều 16 Luật HN&GĐ 2014; Điều 210
BLDS 2015; Điều 136 LĐĐ 2013 và Quyết định số 17/2015/QĐ-TTg ngày
09/6/2015 của Thủ tướng Chính phủ ban hành quy chế quản lý rừng phòng hộ tại
các Điều 7, 13, 14 và Điều 15 đã chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà
Nguyễn Thị V để chia cho bà V giá trị thành quả đầu tư cải tạo trên diện tích
26.613,2m2 đất rừng phịng hộ tại thửa 754E. Ơng N sau đó đã kháng cáo phúc
thẩm. Tịa án cấp phúc thẩm nhận định: Đến ngày 31/12/2020 là hết hạn giao
khoán đất lâm nghiệp và đến thời điểm giải quyết vụ án, Ban quản lý rừng phòng
hộ B còn đang đợi ý kiến của cơ quan có thẩm quyền có tiếp tục giao khốn nữa
hay khơng. Ban quản lý rừng phịng hộ B được Nhà nước giao QSDĐ nhưng cấp

sơ thẩm không đưa vào tham gia tố tụng trong vụ án cho nên cấp sơ thẩm không
nắm bắt được thông tin liên quan đến phần đất mà ông N, bà V tranh chấp, cho
nên bản án sơ thẩm chia đôi QSDĐ là không đúng với quy định pháp luật. Do cấp
sơ thẩm thu thập chứng cứ chưa đầy đủ và vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
mà tại phiên tòa phúc thầm không thể thực hiện bổ sung được nên Tịa án cấp
phúc thẩm đã tun hủy tồn bộ bản án sơ thẩm để giải quyết lại vụ án theo thủ
tục sơ thẩm.
Bản án số 16/2021/HNGĐ-PT ngày 27/5/2021 về tranh chấp chia tài sản chung hợp nhất trong quá trình
chung sống với nhau như vợ chồng của TAND tỉnh Cà Mau.
6


13
Tác giả cho rằng việc đánh giá chứng cứ của Tịa án trong vụ việc này là
chưa tồn diện. Theo đó, cần xác minh rõ nguồn gốc số tiền nộp cho Ban quản lý
rừng (180.000.000 đồng) để được nhận khoán từ đó mới đảm bảo được quyền lợi
của đương sự khi chia tài sản. Tác giả đồng tình với Tịa án cấp phúc thẩm về việc
cần xem xét hợp đồng giao khoán đến ngày 31/12/2020. Hợp đồng này đã hết hạn
nhưng khơng đưa Ban quản lý rừng phịng hộ B tham gia tố tụng là khơng phù hợp
bởi vì Hợp đồng giao khốn có thể được tiếp tục thực hiện hoặc khơng được giao
khốn, từ đó mới có thể xác định được quyền, nghĩa vụ của các bên trong mối
quan hệ này.
Kiến nghị:
Thứ nhất, tác giả cho rằng TAND tối cao nên ban hành văn bản hướng dẫn
theo hướng công nhận cả những tài sản có trong thực tế (trước khi kết hơn), tức là chỉ
cần có một trong những căn cứ xác lập tài sản đó đã thuộc sở hữu của một bên thì
Tịa án sẽ cơng nhận tài sản đó thuộc sở hữu riêng nếu các bên khơng có thỏa thuận
khác chứ khơng cần chờ đến khi hồn tất tất cả hồ sơ giấy tờ công nhận quyền sở hữu
theo quy định của pháp luật7. Điều này sẽ giúp bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp
của bên thực sự có tài sản, tránh được tình trạng kết hơn nhằm mục đích trục lợi.

Thứ hai, trường hợp Tịa án khơng cơng nhân quan hệ vợ chồng thì việc phân
chia tài sản là QSDĐ nông nghiệp giữa họ cần giải quyết theo khoản 1 Điều 16 Luật
HN&GĐ 2014. Theo đó, việc phân chia trước tiên theo thỏa thuận giữa các bên.
Trong trường hợp khơng có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân
sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Cụ thể: Cần căn cứ vào thời
điểm phát sinh QSDĐ nông nghiệp và sự đóng góp thực tế của các bên trong việc
tạo lập tài sản để phân chia tài sản đó theo phần.
1.2. Căn cứ vào ý chí của vợ, chồng
Ý chí của vợ, chồng là một trong những căn cứ quan trọng để xác định
QSDĐ nông nghiệp là tài sản chung của vợ chồng.
Đối với chế độ tài sản theo thỏa thuận, việc xác định QSDĐ nông nghiệp là
tài sản chung của vợ, chồng được xác định theo nội dung vợ, chồng thỏa thuận (thỏa
thuận này phải được lập trước khi kết hơn, bằng hình thức văn bản có công chứng
hoặc chứng thực theo Điều 47 Luật HN&GĐ 2014).
Nguyễn Thị Lan (2017), Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn từ thực tiễn xét xử của Tịa án nhân
dân tại Hà Nội, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam - Học viện Khoa học xã hội, Luận văn Thạc sĩ Luật
học, tr. 58.
7


14
Đối với chế độ tài sản theo luật định, khoản 1 Điều 33 Luật HN&GĐ 2014 quy
định QSDĐ nông nghiệp được xác định là tài sản chung của vợ chồng nếu vợ, chồng
có thỏa thuận đây là tài sản chung. Như vậy, trường hợp QSDĐ nông nghiệp là tài sản
riêng của vợ, chồng nhưng vợ, chồng thỏa thuận nhập vào làm tài sản chung thì QSDĐ
nơng nghiệp này cũng được xác định là tài sản chung của vợ, chồng (khoản 1 Điều 46
Luật HN&GĐ 2014). QSDĐ nông nghiệp được xác định là tài sản riêng của vợ, chồng
trong một số trường hợp như: QSDĐ nơng nghiệp mà vợ, chồng có trước khi kết hôn;
tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được
chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 Luật HN&GĐ 2014;

tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng… (Điều 43 Luật HN&GĐ 2014).
Khi nhập QSDĐ nông nghiệp từ tài sản riêng vào thành tài sản chung của vợ chồng thì
việc thực hiện giao dịch này phải đảm bảo quy định về hình thức theo quy định của
pháp luật đất đai (khoản 2 Điều 46 Luật HN&GĐ 2014).
Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng quy định trên trong xác định QSDĐ nông nghiệp
là tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn hiện nay vẫn cịn gặp một số vấn đề như sau:
Thứ nhất, tranh chấp về QSDĐ nông nghiệp của vợ chồng khi ly hơn có liên
quan đến người thứ ba.
Một vấn đề khó khăn gặp phải trong thực tiễn giải quyết tranh chấp hiện nay
là vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản nhưng khi ly hôn, tranh chấp về QSDĐ
nơng nghiệp có liên quan đến người thứ ba. Trong những trường hợp như vậy, Tòa
án phải sáng suốt để phân biệt đây có thật sự là khối tài sản chung của vợ chồng hay
chỉ là tài sản thuộc quyền sở hữu của người thứ ba mà họ nhờ đứng tên hộ như: (i)
Người thứ ba là người nước ngoài hay người Việt Nam định cư ở nước ngồi; (ii)
Người thứ ba là cơng dân Việt Nam nhưng không đủ điều kiện để đứng tên trên
Giấy chứng nhận QSDĐ nơng nghiệp; (iii) Vì một lợi ích nào đó (ví dụ như trốn
thuế thu nhập cá nhân, nhờ đứng tên dùm để làm thủ tục vay vốn tại các tổ chức tín
dụng...) nên họ khơng muốn đứng tên trên Giấy chứng nhận QSDĐ nông nghiệp8.
Đây là trường hợp gây khó khăn cho các Tịa trong q trình xác định tài sản để
phân chia, xác định đúng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để đưa vào tham gia
tố tụng để tránh dẫn đến những vi phạm về thủ tục tố tụng. Mặt khác, trường hợp xác
định QSDĐ này do đứng tên hộ người thứ ba nhưng thời điểm hiện tại vợ chồng ly hôn
vẫn yêu cầu chia thì việc giải quyết thế nào để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
tất cả các bên (bao gồm cả người thứ ba) cũng là vấn đề gặp nhiều khó khăn.
8

Nguyễn Thị Lan (2017), ttđd (7), tr. 43.


15

Tuy nhiên, trường hợp này có thể giải quyết theo Án lệ số 02/2016/AL về vụ án
“Tranh chấp đòi lại tài sản” được giải quyết như sau: Trường hợp người Việt Nam định
cư ở nước ngoài đã bỏ tiền ra để nhận chuyển nhượng QSDĐ và nhờ người ở trong
nước đứng tên nhận chuyển nhượng QSDĐ hộ mình, khi giải quyết tranh chấp thì Tịa
án phải xem xét và tính cơng sức bảo quản, giữ gìn, tơn tạo làm tăng giá trị quyền sử
dụng đất cho người đứng tên hộ; trường hợp khơng xác định được chính xác cơng sức
của người đó thì cần xác định người thực chất trả tiền để nhận chuyển nhượng QSDĐ
và người đứng tên nhận chuyển nhượng QSDĐ hộ có cơng sức ngang nhau để chia
phần giá trị chênh lệch tăng thêm so với tiền gốc nhận chuyển nhượng QSDĐ ban đầu.
Thế nhưng, việc áp dụng hướng giải quyết theo Án lệ số 02/2016/AL về vụ án “Tranh
chấp địi lại tài sản” khơng phải ln phù hợp trong mọi trường hợp, đặc biệt liên quan
đến việc cung cấp được chứng cứ để chứng minh cho u cầu của mình.
Thứ hai, vợ chồng có thỏa thuận về việc QSDĐ nông nghiệp được tặng cho
riêng là tài sản riêng, QSDĐ nông nghiệp được tặng cho chung là tài sản chung
nhưng ý chí của bên tặng cho khơng thể hiện cụ thể trước thời điểm các bên tiến
hành ly hôn.
Trường hợp việc tặng cho QSDĐ nông nghiệp tuân thủ các quy định pháp
luật thì khi việc xác định QSDĐ nông nghiệp là tài sản chung hay tài sản riêng rất
thuận lợi. Ngược lại, khi việc tặng cho QSDĐ nơng nghiệp khơng tn thủ các quy
định pháp luật thì khi vợ chồng ly hôn, việc xác định đây là tài sản chung hay tài
sản riêng cịn gặp nhiều khó khăn do rất khó chứng minh. Thực tế, trong một số
trường hợp, Thẩm phán chỉ có thể đánh giá ý thức chủ quan của bên tặng cho thông
qua các biểu hiện bên ngoài và sự đánh giá các biểu hiện này cần phù hợp trong các
tình huống cụ thể khác nhau9
Thứ ba, về cách thức xác lập thỏa thuận nhập tài sản riêng là QSDĐ nông
nghiệp vào làm tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
Thực tế xảy ra vụ việc như sau10: Ơng H ly hơn vợ cũ năm 2004, do tuổi cao
sức yếu lại sống một mình cần người bạn nâng đỡ lúc tuổi già nên năm 2013 ông
gặp bà N cùng tiến tới hôn nhân, đăng ký kết hơn. Sau đó, do bà N có nhân tình
mang về sống công khai như vợ chồng trong nhà của ông H nên ông H yêu cầu ly

hôn. Ông H và bà N khơng có tài sản chung. Khi ơng H ly hôn với người vợ trước
Đào Việt Long (2018), Áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly
hơn tại Tịa án nhân dân thành phố Sơn La, Trường Đại học Luật Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Luật học, tr. 34.
10
Bản án số 10 /2020/HNGĐ-PT ngày 20/5/2020 về việc tranh chấp ly hôn và chia tài sản chung của TAND
tỉnh Kiên Giang.
9


16
thì ơng được chia căn nhà tại địa chỉ LL12bis. Tháng 01/2013, ông H bán căn nhà
này với giá 6.600.000.000 đồng. Sau khi ông kết hôn với bà N, ông dùng số tiền có
được từ bán căn nhà trên để nhận chuyển nhượng 02 QSDĐ nông nghiệp trồng cây
lâu năm. Cụ thể: (i) QSDĐ nơng nghiệp diện tích đất 3.077,6m2 đứng tên ông H; (ii)
QSDĐ nông nghiệp 2.022m2, ông H để bà N đứng tên (chưa yêu cầu chia). Từ khi
chung sống với ông H cho đến khi yêu cầu ly hơn, bà N khơng có tài sản riêng,
khơng có đóng góp gì vào việc hình thành nên tài sản nêu trên, bà N chỉ giúp ông
trông coi đất đai nhà cửa khi ông đi vắng. Mặc dù giữa ông và bà N khơng có tài
sản chung nhưng ơng đồng ý chia cho bà N 20% giá trị bằng tiền trong phần đất
3.077,6m2 là cơng sức bà N gìn giữ trong thời gian ông H vắng mặt ở tỉnh P (tính
theo thời gian chung sống khoản 05 năm đối với công sức của bà N).
Bà N thừa nhận là QSDĐ nông nghiệp nông nghiệp này được chuyển nhượng
qua nhiều lần từ nguồn tiền cá nhân của ơng H, khơng có tiền cá nhân của bà N.
Tuy nhiên, bà N cho rằng, khi bà N và ông H kết hôn, ông H đã lớn tuổi thường
xuyên bệnh tật chính bà là người tận tâm chăm sóc ơng H. Khi cịn ở tỉnh P, ơng H
thường xun bỏ về Sài Gịn, chỉ mình bà ở lại chăm lo phát dọn, trồng trọt. Sau đó,
bà N trực tiếp mua thêm đất liền kề. Bà N cho rằng mình có cơng sức trong việc
giao dịch chuyển nhượng, giữ QSDĐ nông nghiệp trên. Bà N cho rằng QSDĐ nông
nghiệp trên là tài sản chung do ông H đã nhập nguồn tiền riêng vào tài sản chung và
bà đã có nhiều cơng sức trong thực hiện các thủ tục giao dịch chuyển nhượng và gìn

giữ trơng coi QSDĐ nông nghiệp, làm phát sinh lợi nhuận từ chuyển nhượng qua
nhiều lần mới có được.
Theo Tịa án cấp phúc thẩm, các bên đều thừa nhận QSDĐ nông nghiệp trên
là do được chuyển nhượng từ tiền cá nhân của ông H qua nhiều lần và chuyển
nhượng lại cho người khác hiện cịn diện tích 3.077, 6m2. Mặc dù giữa ông H và bà
N không lập văn bản xác định QSDĐ nông nghiệp tranh chấp trên là tài sản chung,
tuy nhiên q trình sử dụng QSDĐ nơng nghiệp trong thời kỳ hơn nhân của ơng H
bà N thì ơng H đã mặc nhiên nhập QSDĐ nông nghiệp này thành tài sản chung, thể
hiện qua các lần ông H cùng bà N đứng tên và cùng ký hợp đồng chuyển nhượng
năm 2014, năm 2017, cùng đứng tên và ký tên đồng sở hữu tài sản trong Hợp đồng
thế chấp tại Ngân hàng tháng 10/2016. Nếu là tài sản riêng của ông H thì khi giao
dịch chuyển nhượng, thế chấp khơng cần bà N cùng đứng tên và ký tên xác lập các
giao dịch trên cùng ông H. Việc ông H đứng tên giấy chứng nhận QSDĐ nông
nghiệp đất trong thời kỳ hôn nhân với bà N cũng chưa là căn cứ đủ để xác định là


17
tài sản riêng. Do vậy Bản án sơ thẩm xác định QSDĐ nơng nghiệp trên thuộc tài sản
chung là có cơ sở theo thực tế sử dụng và theo quy định pháp luật.
Như vậy, theo Tòa án, trong vụ việc trên, việc nhập tài sản riêng được xác
định là “mặc nhiên” mà không cần phải thực hiện thủ tục pháp lý nào khác (thỏa
thuận bằng văn bản, công chứng, chứng thực hoặc đăng ký…). Tuy nhiên, tác giả
cho rằng, việc lập luận trên của Tịa án là chưa có căn cứ pháp lý và chưa thật sự
khách quan.
Khoản 2 Điều 46 Luật HN&GĐ 2014 quy định: “2. Tài sản được nhập vào
tài sản chung mà theo quy định của pháp luật, giao dịch liên quan đến tài sản đó
phải tuân theo hình thức nhất định thì thỏa thuận phải bảo đảm hình thức đó”.
Điểm vướng mắc ở đây là Luật Đất đai chưa có quy định cụ thể về trường hợp này.
Điều 167 LĐĐ 2013 (sửa đổi, bổ sung) chưa đề cập đến trường hợp nhập tài sản
riêng là QSDĐ vào làm tài sản chung của vợ chồng nên cũng khơng có quy định cụ

thể về hình thức của việc thỏa thuận. Đồng thời, khoản 3 Điều 188 LĐĐ 2013 (sửa
đổi, bổ sung) chỉ quy định: “3. Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê
lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp QSDĐ, góp vốn bằng QSDĐ phải đăng ký tại cơ
quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào Sổ địa chính”,
khơng đề cập đến trường hợp nhập tài sản riêng vào làm tài sản chung của vợ
chồng. Mặc khác, về tâm lý của người Việt Nam là coi trong gia đình, khi vợ chồng
chung sống với nhau “ngại” đề cập chuyện tài sản chung, riêng. Thế nhưng, việc họ
không đề cập hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích chung của gia đình khơng thể
đồng nhất với việc họ đồng ý nhập tài sản riêng và làm thành tài sản chung. Mặt
khác, với các giao dịch với bên thứ ba (ví dụ Ngân hàng), có thể vì thủ tục u cầu
và để giải quyết nhanh chóng để có thể đạt được mục đích mà họ mới chấp nhận để
vợ/chồng của mình cùng đứng tên trên hợp đồng thế chấp, hợp đồng vay…
Thứ tư, thỏa thuận phân chia tài sản chung là QSDĐ nông nghiệp của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Vụ án thực tế11: Bà T khởi kiện yêu cầu Tồ án giải quyết ly hơn, con chung
và phân chia tài sản chung với ơng Nghị. Trước đó, trong thời kỳ hơn nhân, ơng N
và bà T có lập một bản thoả thuận về tài sản với nội dung như sau: “Bà T được toàn
quyền sở hữu các tài sản sau: Nhà số 114 Cộng Hòa...; Nhà số 60/12/32 Cách
Bản án số 215/2015/DS-GĐT ngày 29/5/2015 của Toà dân sự TAND tối cao về vụ án HN&GĐ. Xem
thêm: Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2018), Sách tình huống (bình luận bản án) Luật HNGĐ, Nhà
xuất bản Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam tr. 197.
11


18
Mạng Tháng Tám, ...; Đất xã Phước Vĩnh An.... Ông N được toàn quyền sở hữu các
tài sản sau: Nhà xưởng 291 đường Lê Văn Khương..; nhà đất 8B5 Thạnh Lộc...”.
Tuy nhiên, khi yêu cầu phân chia tài sản cùng với u cầu giải quyết ly hơn thì Bà T
lại muốn được chia đôi ngôi nhà tại số 291 đường Lê Văn Khương mà trước đó vợ,
chồng bà đã thoả thuận bằng văn bản rằng ông Nghị được sở hữu căn nhà. Cịn ơng

N cho rằng các bên đã ký Bản thoả thuận và nhà xưởng 291 đường Lê Văn Khương
nói trên bà T đã chia cho ơng được tồn quyền sở hữu, sử dụng nên ông N mong
muốn được nhận tài sản này (mặc dù tài sản này chưa được sang tên cho ơng).
Tồ án cấp sơ thẩm và phúc thẩm quyết định giao căn nhà số 291 đường Lê
Văn Khương cho ông N sở hữu dựa theo nội dung của Bản thoả thuận phân chia tài
sản của bà T và ơng N. Ngược lại, Tồ giám đốc thẩm quyết định: “Xét thấy, Bản
thoả thuận phân chia tài sản nêu trên chưa được cơng chứng, chứng thực nên chưa
có giá trị pháp lý. Mặt khác, nội dung Bản thỏa thuận lại phân chia cả tài sản là nhà
đất đã cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng cho các con ơng N và bà T, khi
khơng có ý kiến của các con. Thực tế thì nhà đất tranh chấp ông N cũng chưa đăng
ký kê khai theo quy định của pháp luật nên nhà đất trên chưa được chuyển quyền
cho ơng N. Do vậy, Tịa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm cho rằng Bản thoả thuận
phân chia tài sản, đây là bản thỏa thuận cuối cùng, bản phân chia tài sản này không
trái pháp luật, đạo đức xã hội được pháp luật cho phép, để từ đó khơng chấp nhận
u cầu của bà T chia nhà đất số 291 đường Lê Văn Khương; chấp nhận yêu cầu
phản tố của ơng N, giao tồn bộ nhà đất tranh chấp cho ông N được quyền sở hữu,
sử dụng là chưa phù hợp với quy định của pháp luật”.
Vụ án trên tuy liên quan đến thỏa thuận phân chia tài sản chung là QSDĐ đất
ở của vợ chồng trong thời kỳ hơn nhân thế nhưng có thể mở rộng vấn đề để xem
xét về tính pháp lý đối với cả thỏa thuận phân chia tài sản chung là QSDĐ nông
nghiệp của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Cụ thể: Trường hợp trong thời kỳ hơn
nhân, vợ chồng có thỏa thuận bằng văn bản về việc chia tài sản chung là QSDĐ
nông nghiệp nhưng văn bản này không được công chứng, chứng thực và các bên
cũng chưa làm thủ tục đăng ký đất đai. Vậy thỏa thuận này có giá trị pháp lý không?
Khi vợ chồng ly hôn, QSDĐ nơng nghiệp này có được coi là tài sản chung của vợ
chồng để tiếp tục phân chia hay không? Thực tế từ vụ án trên đã thấy quan điểm
khác nhau của các cấp Tòa án trong việc giải quyết vấn đề này.
Theo Điều 38 Luật HNGĐ 2014, thoả thuận của vợ chồng ông N, bà T đã
thoả mãn điều kiện về nội dung tức là việc phân chia tài sản chung của vợ chồng do



19
vợ, chồng thoả thuận và cả ông N và bà T đều thừa nhận các bên có thoả thuận phân
chia tài sản chung của Bản thỏa thuận này. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 38 Luật
HN&GĐ 2014 quy định “Thỏa thuận về việc chia tài sản chung phải lập thành văn
bản. Văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định
của pháp luật”. Cả ông N và bà T đều không yêu cầu công chứng Bản thỏa thuận
này. Các văn bản pháp luật chuyên ngành về đất đai, nhà ở hiện nay cũng chưa có
quy định liên quan đến thoả thuận phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
mà đối tượng phân chia là đất đai (bao gồm cả QSDĐ nông nghiệp), nhà ở phải
cơng chứng, chứng thực. Do đó, pháp luật cần có quy định cụ thể về trường hợp
này. Tác giả cho rằng, thoả thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng dù là trong
thời kỳ hôn nhân hay khi ly hơn thì cũng đều nhằm mục đích xác định phần sở hữu
tài sản của mỗi bên. Do đó, pháp luật hiện hành nên ghi nhận rõ về hình thức của
thoả thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn để bảo vệ quyền lợi
chính đáng của vợ, chồng và người thứ ba. Việc quy định về hình thức của giao
dịch dân sự khơng rõ ràng, là cơ hội cho những chủ thể không trung thực lạm dụng
để dựa vào đó mang lại lợi ích vật chất có lợi cho mình mà gây thiệt hại cho người
khác hoặc để huỷ một giao dịch bất lợi cho mình12.
Kiến nghị:
Việc pháp luật quy định về quyền thoả thuận liên quan đến tài sản của vợ
chồng là cần thiết, góp phần quan trọng trong việc giúp xác định nhanh chóng
QSDĐ nông nghiệp là tài sản riêng hay tài sản chung của vợ chồng. Việc thỏa thuận
thành công sẽ giảm được thời gian, công sức, tiền bạc của các đương sự, đồng thời
tăng tính đồn kết, thống nhất, khơng kht sâu vào mâu thuẫn của đương sự vốn đã
căng thẳng, tạo điều kiện cho việc thi hành án được dễ dàng. Tuy nhiên, để nâng
cao tính khả thi của các quy định này, tác giả kiến nghị:
Thứ nhất, hiện tại, luật chỉ quy định cho phép các bên thỏa thuận nhưng chưa
có quy định cụ thể về cách xác lập thỏa thuận. Do đó, cần có hướng dẫn cụ thể về
nội dung thỏa thuận liên quan đến tài sản là QSDĐ nơng nghiệp của vợ chồng để có

cơ sở, căn cứ áp dụng thống nhất.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 188 LDĐ 2013 (sửa đổi, bổ sung)
theo hướng quy định rõ hơn về nhập tài sản riêng là QSDĐ nông nghiệp của vợ
hoặc của chồng vào tài sản chung, đặc biệt là việc tuân thủ quy định về hình thức
Nguyễn Văn Cừ và Trần Thị Huệ (2017), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015 của nước
CHXHCN Việt Nam, NXB Công an nhân dân, tr. 234.
12


20
theo quy định của luật. Đồng thời, cần quy định cụ thể về nghĩa vụ liên quan đến tài
sản riêng đã được nhập vào tài sản chung được thực hiện bằng tài sản chung, trừ
trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Thứ ba, cần xem xét bổ sung khoản 7 Điều 59 Luật HN&GĐ 2014 quy định:
Vợ chồng có nghĩa vụ kê khai toàn bộ tài sản chung và riêng của vợ, chồng tại thời
điểm vợ chồng nộp đơn yêu cầu giải quyết ly hơn tại Tịa án để bảo đảm việc phân
chia tài sản cơng bằng khi vợ, chồng có u cầu… Cụ thể:
“Điều 59. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hơn
7. Vợ chồng có nghĩa vụ kê khai trung thực tài sản chung và tài sản riêng của
vợ, chồng tại thời điểm nộp đơn yêu cầu giải quyết ly hơn tại Tịa án nhân dân nếu
có yêu cầu chia tài sản khi ly hôn”.
Thứ tư, tác giả đồng ý với quan điểm nếu tài sản chung được chia là bất
động sản và động sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, thì hợp
đồng của vợ chồng trong việc phân chia tài sản chung phải cơng chứng hoặc
chứng thực mới có giá trị pháp lý”13. Điều này sẽ giúp hạn chế được tranh chấp
và tạo điều kiện thuận lợi để các bên tiến hành các thủ tục đăng ký đất đai sau
này. Do đó, tác giả kiến nghị bổ sung vào điểm a khoản 3 Điều 167 và khoản 3
Điều 188 LĐĐ 2013 (sửa đổi, bổ sung) trường hợp “thỏa thuận chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là quyền sử dụng đất, quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất” phải được công chứng hoặc chứng thực, phải

đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào
sổ địa chính. Cụ thể:
“Điều 167. Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại,
thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất
3. Việc cơng chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của
người sử dụng đất được thực hiện như sau:
a) Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, thỏa thuận chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, thỏa thuận nhập tài sản riêng là quyền
sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của vợ, chồng vào tài sản
chung theo pháp luật hơn nhân và gia đình góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền
sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực, trừ
trường hợp kinh doanh bất động sản quy định tại điểm b khoản này; ...”
Phùng Trung Tập (2012), “Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân”, Nghiên cứu lập
pháp, số 10(216), tháng 5/2012, tr. 15.
13


×