Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Hình tượng người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ qua Tự Tình II và Thương vợ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.38 KB, 30 trang )

Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Ngữ văn 11: Dàn ý hình ảnh người phụ nữ việt nam qua bài thơ Tự Tình II và
Thương Vợ
Mở bài:
- Giới thiệu hình ảnh người phụ nữ trong văn học nói chung
- Cảm hứng về người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương.
Thân bài:
* Người phụ nữ chịu nhiều thiệt thòi, gian nan, vất vả:
+ Ở bài " Thương Vợ" là hình ảnh người phụ nữ chịu thương chịu khó, lặn lội sớm khuya, vất
vả quanh năm vì những gánh nặng cơm áo gạo tiền của gia đình.
+ Ở bài "Tự Tình II" là nỗi buồn về thân phận, về chuyện tình duyên, về hạnh phúc gia đinhnhưng điều rất quan trọng và vơ cùng có ý nghĩa đối với những người phụ nữ.
* Người phụ nữ với nhiều phẩm chất tốt đẹp và khao khát yêu thương:
+ Trong bà thơ của Hồ Xn Hương, hình ảnh phụ nữ cịn hiện lên nỗi bật với niềm khao khát
yêu thương và khao khát được yêu thương mạnh mẽ.
+ Ở bài 'Thương Vợ", hình ảnh bà Tú nổi bật với vẻ đẹp của người phụ nữ truyền thống Việt
Nam nhân hậu, đảm đang, giàu đức hi sinh, yêu chồng thương con hết mực.
Kết bài
- Người phụ nữ xưa phải chịu nhiều bất hạnh và sự hạn chế của ý thức xã hội
- Nhắc nhở con người phải biết trân trọng hạnh phúc của ngày hơm nay
Bài mẫu 1: Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Hình ảnh người phụ nữ ln là đề tài quen thuộc của văn học dân gian. Mảng đề tài đầy cảm
hứng nhân văn này đã làm nên giá trị của nền văn học nói chung, gương mặt của các tác giả nói
riêng. Tiêu biểu là Hồ Xuân Hương với “Tự Tình II” (II) và Tú Xương với “Thương Vợ”.
Đúng như vậy, hai bài thơ với hai người phụ nữ đều khát khao một mái ấm gia đình. Xong cuộc


đời lại lắm éo le trắc trở. Họ phải chịu đựng số phận hẩm hiu chế độ phong kiến mục nát. Cái
chế độ mà khi nhắc tới ai ai cũng thấy bất bình tĩnh. Là phụ nữ thì sao chứ? Chẳng lẽ phụ nữ
không phải con người trong xã hội? Hà cớ gì cứ phải bắt người phụ nữ làm những thứ họ không
muốn từ những hủ tục lạc hậu: cha mẹ đặt đâu con ngồi đó, trọng nam khinh nữ, người phụ nữ
khơng có quyền hành gì trong gia đình.
Trước hết, thơ của Hồ Xuân Hương là những lời than thân từ nỗi niềm riêng của một cá thể,
chất chứa những vấn đề mang tầm phổ quát của thân phận người phụ nữ. Hay nói cách khác,
bằng việc viết lên tiếng nói cá nhân. Hồ Xuân Hương làm sống lên hình ảnh người phụ nữ Việt
Nam xưa. “Tự Tình II” (II) nằm trong chùm thơ Tự Tình II gồm ba bài viết bằng chữ Nơm. Đó
là sự đau khổ vì khơng là chủ được thân phận mình. Trong khung cảnh lúc nửa đêm nổi bật chỉ
là âm thanh “văng vẳng” của trống canh dồn, tiếng trống dồn dập, gấp gáp như hối thúc dội vào
lòng người. Âm thanh văng vẳng không chỉ đơn thuần là sự cảm nhận bằng thính giác mà cịn
là cảm nhận của xúc giác về thời gian. “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn”. Nhức nhối một
tâm sự “trơ cái hồng nhan với nước non”. vẻ đẹp của người phụ nữ trong đêm trơ trọi, im ắng,
gợi lên hình ảnh “hồng nhan” trở nên rẻ rúng, khơng có giá trị. Chắc hẳn ai trong tình cảnh của
Hồ Xuân Hương cũng cảm thấy quạnh hiu, đau nhói, buồn phiền. Hình ảnh “cái hồng nhan” với
“nước non” càng cho thấy tâm trạng bẽ bàng tủi hổ của người phụ nữ. Cùng với nỗi buồn đè
nặng lên con người nhỏ bé trong xã hội, đè lên thân phận của họ. Hồ Xuân Hương là con người
rất mạnh mẽ, bà khơng cam chịu và muốn thốt khỏi. “Chén rượu hương đưa” là một phương
tiện giải sầu, tuy không phải phương tiện duy nhất nhưng là tốt nhất vào lúc này. Tìm quên
trong chén rượu, say rồi lại tỉnh, càng uống càng nhận thức mọi thứ rõ ràng hơn. Nó như một
vịng luẩn quẩn khiến người phụ nữ ấy nhận ra sự cô đơn trĩu nặng hơn. Hướng tới vầng trăng
mong tìm người bạn tri âm tri kỉ giữa đất trời nhưng “khuyết chưa trịn” lại cịn “bóng xế”.
Ngoại cảnh và con người g đây như một. Người phụ nữ tự hỏi đến bao giờ trăng mới tròn. đến
bao giờ người mới có được tình u cho mình. Trăng đã sắp tàn mà vẫn chưa tròn, tuổi xuân
qua đi mà nhân duyên chưa tới. Người phụ nữ đang chơi vơi giữa một thế giới mênh mơng,
hoang vắng, muốn thốt khỏi nhưng bất lực trước nỗi cô đơn trơ trọi với chính mình.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188



Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Đến với Tú Xương là đến với những bài thơ tràn đầy tình yêu thương, cảm động viết về người
vợ đang còn sống. Bài thơ “Thương Vợ” thể hiện tâm thế và vị thế của một người mẹ, một
người vợ đảm đang. Bà Tú có thể đã phải chịu nhiều nghiệt ngã của cuộc đời nhưng bà lại có
niềm hạnh phúc mà bao kiếp người vợ xưa khơng có được. Vì chồng, thương con mà cam chịu
cuộc sống khó khăn vất vả. Quanh năm suốt tháng, ngày này qua ngày khác khơng có lấy một
ngày nghỉ, ngày mưa cũng như ngày nắng, Bà Tú lam lũ buôn bán trên một mảnh đất nhơ lên ở
lịng sơng. Cái nơi bấp bênh, gập ghềnh hiện lên hình ảnh tần tảo, tất bật ngược xuôi của bà Tú.
“Quanh buôn bán ở mom sông”. Cái nền không gian, thời gian ấy, cuộc mưu sinh đầy khó khăn
của bà Tú được ơng Tú phác họa. “Lặn lội thân cò khi quãng vắng”. Hình ảnh “thân cị” là hình
ảnh tượng trưng cho người phụ nữ trong xã hội xưa. Ông Tú đã dùng hình ảnh đó để nói về nỗi
vất vả của bà Tú, đồng thời cũng gợi lên số kiếp, nỗi đau thân phận. Thân cị “lặn lội” trong
một khoảng khơng gian “khi quãng vắng” vừa chỉ ra cái rợn ngợp của thời gian, vừa chỉ ra cái
rợn ngợp của không gian. Hình ảnh bà Tú trở nên rõ nét hơn về sự vật lộn với cuộc sống. “Eo
sèo mặt nước buổi đị đơng”. Cảnh bươn chải, chen chúc nhau của những người bn bán rất
khó khăn. “Buổi đị đơng” đâu có giống như “khi qng vắng”. Nó khơng chỉ có những lời cãi
cọ, mè nheo, sự chen lấn xô đẩy mà cịn có những bất trắc nguy hiểm. Biết là vậy nhưng bà Tú
vẫn đi trên chuyến đị đó để dành miếng cơm manh áo cho chồng con. Dù vắng hay đơng bà Tú
cũng thui thủi một “thân cị”.
Tuy rằng số phận ràng buộc họ nhưng nhờ đó những phẩm chất cao quý của người phụ nữ được
hiện diện.
Dù đau đớn thế nào, dù yếu ớt đến đâu thì trong sâu thẳm trái tim Hồ Xuân Hương cũng ánh
lên ngọn lửa khao khát, hi vọng, không chịu khuất phục mà muốn vùng lên đấu tranh thay đổi
cuộc sống của mình. “Xiên ngang mặt đất rêu từng đám./Đâm toạc chân mây, đá mấy hịn”.
Tâm trạng con người như muốn nói lên nỗi phẫn uất, ngang ngạnh, bướng bỉnh. Thiên nhiên
trong mắt Hồ Xuân Hương tiềm ẩn một sức sống đang bị đè nén và đang vươn lên mạnh mẽ.
“Rêu”, “đá” chỉ là những vật nhỏ bé, hèn mọn nhưng không hề yếu đuối bởi rêu xiên ngang mặt
đất, đá đâm toạc chân mây. Điều đó càng chứng tỏ Hồ Xuân Hương muốn bứt phá rào cản để đi

tìm hạnh phúc cho mình, muốn giải thốt số phận hồn cảnh, thể hiện cá tính táo bạo của nữ sĩ.
Tuy lịng đầy canh cánh nhưng bà vẫn nhìn cảnh vật với con mắt yêu đời. Yêu đời là thế, sức
sống là thế mà cuộc đời riêng thì vẫn “xuân đi xuân lại lại”. Cái vịng quẩn quanh đáng ghét
của cuộc đời khơng thể tránh khỏi tiếng thở than chua xót. Càng chua xót hơn khi giữa cái tuần
hoàn thời gian ấy là một “mảnh tình” nhỏ vụn đã vỡ nhưng nay vẫn bị sẻ đi sẻ lại. Đối với trái

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

tim thiết tha yêu thương kia, điều đó như một vết thương cứa sâu đau nhức nhối, khao khát một
tình u trọn vẹn.
Dù có vất vả, đau xót, chán chường đến thế nào thì người phụ nữ Việt Nam xưa vẫn là những
con người có phẩm chất đẹp đẽ. Khơng chỉ vẻ bề ngồi mà cịn cả bên trong. Đó là lịng u
thương, lịng nhân hậu, một lịng một dạ vì chồng vì con. “Ni đủ năm con với một chồng”.
“Nuôi đủ năm con” là việc hiển nhiên của một người mẹ nhưng còn chồng, cớ sao lại phải đếm
“một chồng”? Là vì chồng, bà Tú cũng phải nuôi và đáp ứng đầy đủ nhu cầu cần thiết cho ông
Tú. Bà Tú phải thắt lưng buộc bụng nuôi dưỡng năm đứa trẻ vất vả, vậy mà phải ni thêm một
ơng Tú trong nhà nữa thì gánh nặng đè lên đôi vai nhỏ của bà tăng gấp đôi. Sự khéo léo. Đảm
đang của bà thể hiện ở việc lựa chọn ông Tú mà sống, khéo léo chiều sự khó tính khó nết của
ơng để trong ấm ngồi êm. Bà Tú nhẫn nhục chịu đựng cái nợ đời như một sự tất yếu không thể
không chấp nhận. “Một duyên hai nợ âu đành phận”. Điều kì diệu là người mẹ, người vợ này
khơng hề ý thức rằng đó là sự hi sinh. Sự vất vả “năm nắng mười mưa” càng thể hiện được đức
tính chịu thương chịu khó, hết lịng vì chồng vì con mà bà đâu “dám quản công” một lời. Bà tự
nguyện gánh vác trách nhiệm chăm lo cho gia đình. Dù vất vả trăm điều nhưng bà vẫn âm thầm
chịu đựng. Phải chăng đó chính là đức hi sinh – vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt
Nam?
Hai người phụ nữ đẹp đều tìm thấy sức mạnh, ý chí để vượt lên hồn cảnh. Nhưng trong cuộc
thốt thân họ cịn cơ đơn q, vì thế mà thất bại. Một người muốn bứt phá, thoát khỏi cuộc sống

ngột ngạt. Một người cam chịu , nhẫn nại để làm tròn bổn phận một người mẹ, một người vợ.
Một người được đồng cảm, sẻ chia. Một người cô đơn một mình, buồn đau trước số phận hẩm
hiu. Chỉ khi những người phụ nữ biết đoàn kết, biết đồng lịng dưới sự lãnh đạo của Đảng họ
mới có thể thay đổi được số phận, làm chủ được cuộc đời mình.
Người phụ nữ thời xưa phải chịu nhiều thiệt thịi, bất công, ngang trái và bị hạn chế bởi xã hội
phong kiến. Còn người phụ nữ ngày nay được quyền bình đẳng, quyền học tập, quyền lựa chọn
tình yêu và quyền làm chủ cuộc đời. Họ khơng cịn bị đối xử như trước nữa. Tuy người phụ nữ
ngày xưa có cuộc đời éo le nhưng hình ảnh sâu thẳm trong họ khơng bao giờ bị mất đi. Dù hồn
cảnh có ra sao thì tâm hồn cao đẹp của họ vẫn sáng lên. Và điều đó khiến ta ln tự hào về
người phụ nữ Việt Nam.
Bài mẫu 2: Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Thời xưa, dưới chế độ phong kiến suy tàn, mục nát, số phận người phụ nữ luôn bị vùi dập vào
vũng lầy đau khổ, ln bị trói buộc bởi xã hội bất công, một xã hội “trọng nam khinh nữ”, một
chế độ đa thê…. Họ gặp nhiều đau khổ, tình duyên trắc trở, số phận hẩm hiu. Trong kho tàng
văn học Việt Nam có rất nhiều bài thơ nói lên thân phận của người phụ nữ phong kiến xưa. Họ
khơng có quyền quyết định cuộc đời mình, chỉ biết sống cam chịu và phục tùng. Cảm thông với
thân phận và phẩm chất của người phụ nữ, hình ảnh đó đã được thể hiện rất tài tình qua hai bài
thơ Tự Tình II II của Hồ Xuân Hương Và Thương Vợ của Trần Tế Xương.
Họ là những người phụ nữ có tài có sắc, có phẩm chất cao đẹp nhưng thân phận của họ lại vô
cùng nhỏ bé, cuộc đời của những người phụ nữ này long đong lận đận. Họ phải sống trong một
chế độ xã hội phong kiến lạc hậu, trọng nam khinh nữ, khơng có chỗ đứng và địa vị trong xã
hội.
Với bản lĩnh của mình và cũng là nạn nhân trong xã hội đó, Hồ Xn Hương đã mạnh dạn nói
lên nỗi lịng của những người phụ nữ xưa. Thơ bà là tiếng nói đòi quyền sống tự do và thể hiện

khát khao hạnh phúc. Ở bài thơ Tự Tình II II, Hồ Xuân Hương đã bộc bạch tâm trạng bức xúc
cao độ của bản thân, đồng thời cũng là tâm trạng chung của bao phụ nữ cùng cảnh ngộ trong xã
hội phong kiến.
Đây là một cảnh trong đêm khuya, vắng lặng, yên tĩnh, bà một mình khơng ngủ, thiếu thốn u
thương. Đó là sự khổ đau vì khơng làm chủ được số phận của mình:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.”
Mở đầu là một âm thanh vang vọng, đầy hối hả: Trống canh dồn. Nhưng dù mãnh liệt đến mấy,
tiếng trống cũng chỉ là âm thanh duy nhất trong đêm vắng. Cái động đã đươc sử dụng để tôn lên
cái tĩnh, cái cô độc, trống trải của đêm khuya. Nửa đêm là thời gian sum họp của vợ chồng, là
thời điểm hạnh phúc lứa đôi, ấy vậy mà lại có người phụ nữ tĩnh dậy vào đúng thời khắc thiêng
liêng ấy, hay vì cả đêm người phụ nữ khơng ngủ được vì thiếu vắng một điều gì đó, vì tâm
trạng đang mang nặng một nỗi đau? Bà khắc khoải đợi chờ, tâm trạng khi đó thật rối bời, lo âu,
buồn bã. Hồ Xuân Hương cảm nhận được sự bẽ bàng của duyên phận. Chính trong bối cảnh ấy
đã hiện ra một con người cô độc, trơ trọi. ''Hồng nhan'' là cách gọi chỉ người con gái đẹp, rộng
hơn là chỉ chung giới nữ. Nhưng gọi là cái hồng nhan có nghĩa là đã hạ nó xuống ngang hàng
với những vật vô tri vô giác khác. ''Trơ'' trơ trọi, cô đơn, trơ đến mất cả cảm giác. Câu thơ cùng
thể hiện một tâm trạng cô đơn, quạnh quẽ rất mực của con người trong 1 không gian rộng lớn.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Tưởng như nghe được từ 2 câu thơ ấy cả những tiếng thở dài ngao ngán, tủi hổ về duyên phận
hẩm hiu của một người phụ nữ đa tài đa tình.
“Chén rượi hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa trịn
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn
Ngán nỗi xuân đi xn lại lại

Mảnh tình san sẻ tí con con”
Thấy trống vắng cô đơn, để quên đi nỗi buồn trơ trọi này, bà đã nhờ đến rượu mượn chút hương
nồng. Nhưng càng uống, bà càng tỉnh. ''Say lại tỉnh'' gợi vịng luẩn quẩn, bế tắc của số phận xót
xa của tác giả. Đến câu thơ tiếp theo, nỗi đau lại tiếp tục được thể hiện rõ ràng và đậm nét.
"Vầng trăng bóng xế khuyết chưa trịn" có vẻ như Hồ Xuân Hương đã ngồi một mình bên chén
rượu như thế đến hết đêm, như mong chờ một sự đồng cảm và sẻ chia. Nhưng bà có thấy sự
đồng cảm ở đâu đó? Hay bà chỉ thấy số phận dở dang của mình đang hiện diện trong một vầng
trăng khuyết? Trăng vốn là một biểu tượng của hạnh phúc, là hình ảnh đại diện cho cho những
ước mơ và hy vọng. Nhưng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương lại xót xa đến mức “khuyết chưa
tròn”, tuổi xuân đã qua mà hạnh phúc khơng hề trọn vẹn,một cuộc đời cịn dang dở với những
éo le, trắc trở trong tình duyên. Bà cảm thấy xót xa, cay đắng cho số phận dở dang, nhân dun
lỡ làng. Ngày tháng cứ vơ tình chồng chất thêm hy vọng, đợi chờ, khao khát. Nhưng hp vẫn mù
tăm. Càng cơ đơn, càng mong đợi thì đau buồn lại càng lắng đọng thêm. Đó chính là bi kịch
của người phụ nữ có thân phận hẩm hiu. Dù phải trải qua nhiều bi kịch nhưng bà vẫn cố gắng
gượng với đời. Phản ứng của bà tuy mạnh mẽ và dữ dội nhưng thực tại vẫn đắng cay, chua chát.
Phải sống trong 1 xã hội trọng nam khinh nữ, xem phụ nữ là hạ đẳng, chẳng chút gì trân trọng
yêu thương thì bà phải lâm vào cảnh ngộ ''lạnh lùng'' chua xót là điều tất yếu. Thấm thía nỗi
buồn đau riêng ấy của mình, nhà thơ muốn cất lên tiếng nói nhằm đấu tranh cho nữ giới đều
được sống, được yêu thương, được 1 cuộc sống hạnh phúc. Nhưng việc ấy đâu phải dễ dàng,
bởi ngay chính bà vẫn phải đang gánh chịu 1 duyên phận hẩm hiu... Tâm sự trĩu nặng nỗi buồn,
thân phận và duyên phận của bà khơng biết ngỏ cùng ai nên càng cuộn xốy, day dứt trong lòng
giữa đêm khuya. Nhưng dù bị phũ phàng hay quên lãng thì bà vẫn k tuyệt vọng, vẫn khao khát
sống, vẫn ước ao có một hạnh phúc trịn đầy.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Cịn đối với bài ''Thương Vợ'' của Trần Tế Xương, ơng đứng dưới khía cạnh một người đàn

ơng, cảm thơng cho người vợ của mình, ln chịu cơ cực gian truân nhưng không dám phản
kháng. Họ luôn sống cam chịu, hi sinh cho chồng con:
“Quanh năm buôn bán ở mom sống,
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đị đơng.
Một dun hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản cơng.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như khơng!”
Những câu thơ trên có thể coi là 1 chân dung tương đối hoàn chỉnh của người phụ nữ trong xã
hội phong kiến. Hình ảnh đầu tiên của người phụ nữ Việt Nam đó là hình tương người phụ nữ
chịu nhiều đau khổ, vất vả trong cuộc sống. Đó là hình ảnh bà Tú vất vả, gian truân kiếm sống,
tất bật ngược xuôi “Quanh năm buôn bán ở mom sông” để ''nuôi đủ 5 con với 1 chồng''. Câu
thơ đã nói lên một hồn cảnh làm ăn vất vả, lam lũ của bà, làm việc vất vả suốt cả năm, không
kể mưa nắng trên mom sông- cái đất nhô ra chênh vênh, đầy nguy hiểm. Đơng con, ni lũ con
đơng ấy đã đành, bà cịn phải nuôi chồng. Năm con với một chồng là sáu người. Nhưng nuôi đủ
vẫn hiểu là vừa đủ, không thiếu nhưng cũng chẳng thừa. Vất vả quanh năm đến vậy mà cũng
chỉ vừa đủ nuôi chồng, nuôi con, vậy mới thật là vất vả, Thấm thía nỗi vất vả, gian trn của
vợ, Tú Xương đã mượn hình ảnh con cị trong ca dao để nói về bà Tú. Có điều hình ảnh con cị
trong ca dao đầy tội nghiệp mà hình ảnh con cị trong thơ Tú Xương con tội nghiệp hơn. Con cị
trong thơ khơng chỉ xuất hiện trong cái rợn ngợp của khơng gian mà cịn là rợn ngợp của thời
gian. Hình ảnh thân cị như một sự sáng tạo đưa từ lặn lội lên đầu câu, thay con cò bằng thân cò
cũng làm tăng thêm nỗi vất vả, gian truân của bà Tú, càng khơi dậy cả nỗi đau thân phận sâu
sắc, thấm thía hơn. Như vậy là bà Tú phải lo rất nhiều, phải làm rất nhiều nhưng ''âu đành
phận'', ''dám quản công'' bà vẫn chấp nhận không hề kêu ca, phàn nàn, than thân trách phận hay
ốn hận. Bà âm thầm coi đó là định mệnh đã an bài, bà sẵn sàng, tự nguyện gánh khổ cực vì
chồng con. Nổi lên là đức hi sinh thầm lặng cao quý, giàu đức hi sinh, bà là người đảm đang,
tháo vát, chu đáo vs chồng con. Dù có vất vả, đau xót đến mức nào, thì người phụ nữ Việt Nam
xưa vẫn là những con người có những phẩm chất đẹp đẽ, không chỉ ở vẻ bề ngồi mà cịn là ở

tình u thương, lịng nhân hậu, một lịng, một dạ vì chồng, vì con. Qua đó, ông Tú cũng tự
trách mình, tự nhận mình làm chồng mà vơ tích sự, tự mắng mình là gánh nặng của vợ. Ông
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

cịn chửi thói đời bạc bẽo, chửi cả xã hội trọng nam khinh nữ. Vì quá Thương Vợ, có lẽ ơng Tú
đã hóa thân vào vợ mình để thông cảm và thấu hiểu bà. Lấy chồng mà chẳng được nhờ vả, cậy
dựa, lấy phải ông chồng hờ hững thì quả thật có cũng như khơng mà thơi.
Cả 2 bài thơ, 2 người phụ nữ, họ đều cảm nhận được thân phận, số phận của mình 1 cách rõ
ràng. Cùng ý thức được về bản thân và cuộc sống của mình. Song cuộc đời lại lắm éo le trắc
trở. Họ phải chịu số phận hẩm hiu. Họ đều là những người phụ nữ tần tảo, nhẫn nại, cam chịu
dun phận, biết mà khơng thể làm gì được để thoát khỏi cuộc sống tù túng, ngột ngạt đến bế
tắc ấy. Họ mất tự do, khơng được sống cho chính mình... 2 bài thơ cùng 1 đề tài và cùng toát
lên thân phận nhỏ bé, phụ thuộc rất đáng thương của người phụ nữ trong xã hội phong kiến
xưa
Đó là những hiện thân cho những khổ đau của con người trong xã hội xưa, đồng thời là kết tinh
của những đức tính tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam qua hàng thế kỉ. Trong cả hai bài thơ là
hình tượng người phụ nữ Việt Nam chịu nhiều đau đớn, tủi cực dưới chế độ phong kiến nhưng
ở họ toát lên sự đấu tranh mạnh mẽ, vượt lên số phận để làm tốt bổn phận của một người phụ
nữ trong gia đình, một người phụ nữ dám vượt lên trên đớn đau để tìm hạnh phúc mà mình
hằng khao khát.
Bài mẫu 3: Hình tượng người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ qua Tự Tình II II và
Thương Vợ
“Thân em như củ ấu gai
Ruột trong thì trắng vỏ ngồi thì đen
Ai ơi nếm thử mà xem
Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi”
Đã từ lâu, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam xưa đã xuất hiện nhiều qua những câu ca dao với

những vẻ đẹp, hình tượng khác nhau. Nhưng ở họ đều có chung đức tính truyền thống đẹp đẽ
mà dân tộc Việt Nam đã tích luỹ được qua hàng ngàn năm lao động và đấu tranh. Hình ảnh đó
cũng được thể hiện rất tài tình qua hai bài thơ Tự Tình II II của Hồ Xuân Hương Và Thương Vợ
của Trần Tế Xương.
Hình ảnh đầu tiên của người phụ nữ Việt Nam được thể hiện qua hai bài thơ đó là hình tương
người phụ nữ Việt Nam chịu nhiều đau khổ, vất vả trong cuộc sống. Đó là hình ảnh bà Tú vất
vả, gian truân kiếm sống, tất bật ngược xuôi “Quanh năm buôn bán ở mom sông”. Câu thơ đã
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

nói lên một hồn cảnh làm ăn vất vả, lam lũ của bà. Ở đây, bà Tú làm việc vất vả suốt cả năm,
không kể mưa nắng trên mom sông - cái doi đất nhô ra đầy nguy hiểm. Thấm thía nỗi vất vả,
gian truân của vợ, Tú Xương đã mượn hình ảnh con cị trong ca dao để nói về bà Tú. Có điều
hình ảnh con cà trong ca dao đầy tội nghiệp mà hình ảnh con cò trong thơ Tú Xương con tội
nghiệp hơn. Con cị trong thơ khơng chỉ xuất hiện trong cái rợn ngợp của khơng gian mà cịn là
rợn ngợp của thời gian. Hình ảnh thân cị như một sự sáng tạo:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng”
Đưa từ lặn lội lên đầu câu, thay con cò bằng thân cò cũng làm tăng thêm nỗi vất vả, gian truân
của bà Tú, càng khơi dậy cả nỗi đau thân phận sâu sắc, thấm thía hơn:
“Eo sèo mặt nước buổi đị đơng”
Câu thơ gợi nên một sự chen chúc, bươn chải trên sông nước của những người buôn bán nhỏ,
sự cạnh tranh đến mức sát phạt nhau nhưng cũng không thiếu lời qua tiếng lại. Buổi đị đơng
đâu phải là ít lo âu, nguy hiểm hơn khi qng vắng mà đó cịn là sự chen lấn, xô đẩy chứa đầy
bất trắc, nguy hiểm. Những câu thơ đã làm nổi rõ lên những vất vả, cực nhọc mà bà Tú và
người phụ nữ Việt Nam xưa phải chịu đựng, trải qua.
Còn với bài thơ Tự Tình II II của Hồ Xn Hương thì đó là sự khổ đau vì khơng làm chủ được
số phận của mình:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non.”
Mở đầu là một âm thanh vang vọng, đầy hối hả: Trống canh dồn. Nhưng dù mãnh liệt đến mấy,
tiếng trống cũng chỉ là âm thanh duy nhát trong đêm vắng, nếu khơng có nó thì đem khuya sẽ
trở nên vô cùng vắng lặng. Cái động đã đươc sử dụng để tôn lên cái tĩnh, cái cô độc, trống trải
của đêm khuya. Nửa đêm là thời gian sum họp của vợ chồng, là thời điểm hạnh phúc lứa đơi,
ấy vậy mà lại có người phụ nữ tĩnh dậy vào đúng thời khắc thiêng liêng ấy, hay vì cả đêm người
phụ nữ đã khơng ngủ được vì thiếu vắng một điều gì đó, vì tâm trạng đang mang nặng một nỗi
đau? Tiếng trống canh âm vang từ xa vọng lại như đang thúc giục thời gian qua mau, gọi đến
một điều đáng sợ đối với một người đàn bà vẫn cịn thân đơn gối chiếc, đó là tuổi già. Tuổi già
càng đến gần nghĩa là hi vọng càng tuột xa, mọi mong mỏi, khát khao càng trở nên vô vọng.
Tiếng trống dồn dập cứ xoáy sâu vào tâm con người phụ nữ, nó âm vang trong tâm tưởng, âm
vang trong suy nghĩ không tài nào dứt được. Dồn dập, hối hả, tiếng trống không chỉ bao trùm
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

lên khơng gian mà cịn lên cả thời gian nữa, và tự hỏi: đây có thật là tiếng trống hiện hữu trong
thực tại hay phải chăng đó là tiếng trống cất lên từ tiếng lòng thổn thức của tác giả, tiếng trống
ám ảnh về một bi kịch đang ngày càng đến gần hơn với bà:
“Trơ cái hồng nhan với nước non”
Khi thời gian cứ lướt qua càng lúc càng dồn dập thì cũng là lúc “hồng nhan” ngày một trơ ra
với đời. “Hồng nhan” chính là nhan sắc, gương mặt xinh đẹp của người phụ nữ. Đó là điều mà
bất cứ người phụ nữ nào cũng hết sức tự hào, coi trọng, nâng niu. Nhưng từ “cái” gắn liền với
“hồng nhan” như một hòn đá kéo nặng cả câu thơ xuống. “Hồng nhan” để làm gì khi nữa đêm
phải tĩnh giấc trong cái trống trãi, lặng lẽo đến đắng cay? “Hồng nhan” để làm gì khi nó đâu
phải là vĩnh cữu mà sẽ nhanh chóng vỡ tan theo từng nhịp trống dồn. Câu thơ như lời đay
nghiến, mỉa mai chính bản thân mình, đáng thương cho những người phụ nữ đương thời bị đè
nén, áp bức với những thủ tục phong kiến đến mức xơ xác, héo mịn cả một phận hồng nhan.
Đó cịn là nỗi đau vì cơ quạnh, thiếu vắng hạnh phúc lứa đơi, khơng người yêu thương, thông

cảm.
“Chén rượi hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa trịn”
Hai câu thơ vẽ nên một khung cảnh rất thật và cũng chứa chan bao nỗi niềm tác giả. Một người
phụ nữ mà phải ngồi uống rượu một mình, cơ đơn với đêm khuya, với vầng trăng lạnh. Câu thơ
là ngoại cảnh mà cũng là tâm cảnh, tạo nên sự đồng nhất giữa trăng với người. Khi muốn quên
sầu là lúc người ta ở trong tâm trạng cay đắng nhất, khi xung quanh khơng có ai để có thể chia
sẽ nỗi niềm và ta chỉ còn biết quên đi nỗi niềm trong men rượu, một mình. Nhưng liệu chén
rươu có thể làm qn đi bảo nỗi cơ đơn, tủi nhục trong lịng hay Hồ Xn Hương uống rượu mà
như uống đi bao giọt sầu mà người uống chẳng đổ đi được khi mà có thể lặng lẽ, âm thầm nuốt
vào cổ họng, để đau khổ cũng chẳng mất đi đâu mà trở lại chính trong tâm trí mình. Ở đây cảnh
tình Xn Hương được thể hiện chứa đựng bi kịch. Tuổi xuân đã trôi qua mà nhân duyên không
được trọn vẹn. Trăng vốn là biểu tượng của hạnh phúc, là hình ảnh đại diện cho ước mơ và hi
vọng. Nhưng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương lại xót xa đến mức “khuyết chưa trịn” - một hạnh
phúc khơng hề trọn vẹn, một cuộc đời cịn dang dở, éo le với những trắc trở trong tình duyên.
Hạnh phúc của bà chỉ như vầng trăng khuyết mà bà không thể biết trước ngày mai trăng sẽ
khuyết tiếp hay trịn. Ánh trăng sáng mà lạnh lẽo vơ cùng khi ẩn hiện trong đó một nỗi cơ đơn,
trống vắng. Và bóng xế đi kèm với trăng lại gợi nên một nỗi niềm trong lòng tác giả: nỗi lo sợ
trước tuổi xuân đang mất đi. Trăng đã xế mà vẫn khuyết chưa tròn, giống như tuổi xuân của
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Xn Hương đang mất đi mà tình duyên chưa được trọn vẹn. Hình ảnh mặt trăng là hình ảnh ẩn
dụ vơ cùng độc đáo và đặc sắc, miêu tả chính xác và vơ cùng sinh động ngoại cảnh mà cũng
bộc lộ được tâm cảnh, những suy nghĩ, tâm tư đang hiện hữu trong bà.
Nhưng dù có vất vả, đau xót, chán chường đến mức nào, thì người phụ nữ Việt Nam xưa vẫn là
những con người có những phẩm chất đẹp đẽ, không chỉ ở vẻ bề ngồi mà cịn là ở tình u
thương, lịng nhân hậu, một lịng, một dạ vì chồng, vì con:

“Ni đủ năm con với một chồng”
Câu thơ là gánh nặng gia đình đặt lên vai bà Tú, vất vả quanh năm chẳng nề hà như vậy là để
nuôi cả nhà. Đông con, ni lũ con đơng ấy đã đành, bà cịn phải nuôi chồng. Năm con với một
chồng là sáu người. Một phải gánh sáu, thế là nặng, phải gánh và gánh được, thế là đảm đang.
Nhưng nuôi đủ vẫn hiểu là vừa đủ, vừa đủ nuôi, không thiếu nhưng cũng chẳng thừa. Vất vả
quanh năm đến vậy mà cũng chỉ vừa đủ nuôi chồng, nuôi con, vậy mới thật là vất vả, đã gắng
hết sức rồi. Vậy mới thật là đảm, nặng đến thế mà cũng gánh xong, khó thế mà cũng chu toàn.
Câu thơ thể hiện sự vất vả, gian lao đức tính chịu thương, chịu khó, hết lịng vì chồng, vì con
của bà Tú nói riêng và của người phụ nữ Việt Nam nói chung.
Cịn với Tự Tình II II, dù đớn đau đến mức nào thì trong sâu thẳm trái tim bà, dù yếu ớt đến
đâu cũng loé lên ánh lửa khát khao, hi vọng, không chịu khuất phục mà muốn vùng lên đấu
tranh thay đổi cuộc sống của mình:
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hịn.”
Một hình tượng thiên nhiên dữ dội, đầy cựa động như tính cách buớng bỉnh, khơng chịu khuất
phục điều gì của chính tác giả vậy. Ở đây, Hồ Xuân Hương, sự buồn tủi bao giờ cũng gợi nên
những phản ứng tích cực, bà khơng bng xi, đầu hàng mà ln cố gắng tìm cách thay đổi
vận mệnh, cho dù những cố gắng đó mới chỉ dừng lại trong suy nghĩ. Hai câu thơ tưởng như chỉ
miêu tả cảnh vật xung quanh, nhưng chính những đặc điểm cuả cảnh vật đó đã được dùng để
bộc lộ tâm trạng của con người. Hàng loạt những động từ mạnh đầy sắc thái biểu cảm như xiên,
đâm được đảo lên đầu câu. Những sinh vật bé nhỏ, hèn mọn, còn hèn mọn hơn cả “nội cỏ hoa
hèn” như đám rêu kia mà cũng khơng chịu mềm yếu. Nó phải mọc xiên, mà là “xiên ngang mặt
đất”. Đá đã rắn chắc lại phải rắn chắc hơn, nó phải “đâm toạc chân mây”. Biện pháp nghệ thuật
đảo ngữ trong hai câu dã làm nổi bật sự phẫn uất của thân phận đất đá, cỏ cây mà cũng là sự
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

phẫn uất của tâm trạng. Chỉ những cảnh vật bình thường khơng có gì đặc biệt như rêu và đá,

nhưng qua cách nhìn đấy bất mãn, ấm ức của tác giả, chúng trở nên vô cùng sống động. Cự
động, nổi loạn, phá phách, muốn đập tan những gì gị bó đẻ dược tự do vùng vẫy giữa đất trời,
thiên nhiên hoà hợp với con người, đặc điểm thiên nhiên cũng chính là nỗi niềm nhân vật. Và ta
cũng thấy được tâm trạng của Hồ Xuân Hương phẫn uất trước những tục lệ phong kiến, cũng
như những số phận hẩm hiu đang tàn nhẫn ra tay bóp chết hạnh phúc của bà; những uất hận ấy
bị đè nén, gị ép trong lịng bà đến mức khơng chịu nổi chỉ chực vỡ oà ra, bà khao khát muốn
đập tung tất cả, muốn đập đổ mọi thứ, muốn tự do biết nhường nào. Nhưng dù sao, bà cũng chỉ
là một người phụ nữ phong kiến, một thân phận nữ nhi cơ độc, dù phá phách, dù nổi loạn đến
đâu thì cũng chỉ trong giới hạn ngôn từ. Bà không thể làm gì hơn được nữa. Mặc dù vậy, ta phải
cơng nhận đây là một cách suy nghĩ vô cùng mới mẻ, một tư tưởng đi trứoc thời đại, một tính
cách hoàn toàn khác biệt so với người phụ nữ lúc bấy giờ. Đó là một bản lĩnh, một cá tính Xuân
Hương đáng trân trọng:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Ngán là chán ngán, là ngán ngẩm. Hồ Xuân Hương ngán lắm rồi nỗi đời éo le, bạc bẽo. Xuân đi
rồi xuân lại, tạo hoá chơi một vòng luẩn quẩn. Từ xuân mang hai nghĩa, vừa là mùa xuân, vừa
là tuổi xuân. Mùa xuân đi rồi, mùa xuân trở lại với thiên nhiên, với muôn nghìn hoa cỏ, lá cây,
nhưng với con người tuổi xuân qua là không bao giờ trở lại. Hai từ “lại” trong cụm từ “xuân đi
xuân lại lại” mang hai ý nghĩa khác nhau. Từ lại thứ nhất nghĩa là thêm lần nữa, từ lại thứ hai
nghĩa là trở lại. Sự trở lại của mùa xuân lại đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân. Nghệ thuật
tăng tiến làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn: Mảnh tình-san sẻ-tí con con. Mảnh tình đã bé lại
cịn san sẻ ra thành ít ỏi, chỉ cịn tí con con nên càng xót xa, tội nghiệp. Câu thơ được viết ra có
thể là tâm trạng của người mang thân đi làm lẽ. Đau xót biết mấy, khi mảnh tình là một thứ
được chia năm xẻ bảy, nhận dược duy nhất một mảnh tí con con. Hạnh phúc của bà chẳng
những không trọn vẹn mà cịn nhỏ bé, ít ỏi đến mức độ tội nghiệp. Tình dun như thế có để
làm gì, chỉ càng thêm tủi nhục, đắng cay. Cách dùng từ giản đơn mà vẫn vô cùng độc đáo đã
cực tả nỗi niềm của tác giả. Hồ Xuân Hương ngang tàng, thách thức đầy nổi loạn trên là thế,
nhưng cuối cùng tất cả vẫn chỉ chìm vào vơ vọng trong sự bất lực tột cùng và chán chường, mệt
mỏi. Những cố gắng vùng vẫy của bà chỉ là vơ ích, bởi phận của bà vốn đã là một bi kịch và
mãi mãi chỉ là bi kịch mà thơi. Có lẽ trong giờ phút ấy, bà đã muốn buông xuôi, muốn bỏ mặc

cho tất cả số phận đưa đẩy, bà đã mất hết hi vọng. “Giọt nước mắt em... âm thầm buông rơi,
đêm sầu đơn côi... trong tim em ôm trọn một nỗi sầu bơ vơ... đành khóc vậy thơi…” Liệu Hồ
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Xn Hương có thể vượt qua tất cả để trở lại là một người phụ nữ yêu đời mạnh mẽ, khơng sợ
gì cả như ngày nào? Đó vẫn là câu hỏi còn dở dang của người phụ nữ đem thân đi làm lẽ, phận
người mà hạnh phúc không bao giờ trọn vẹn mà chỉ nhỏ nhoi như mảnh gương vỡ. Câu thơ
diễn đat sâu sắc đỉnh điểm, bi kịch của Hồ Xuân Hương và cũng là của người phụ nữ thời bấy
giờ.
Đó là những hiện thân cho những khổ đau của con người trong xã hội xưa, đồng thời là kết tinh
của những đức tính tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam qua hàng thế kỉ. Trong cả hai bài thơ là
hình tượng người phụ nữ Việt Nam chịu nhiều đau đớn, tủi cực dưới chế độ phong kiến nhưng
ở họ toát lên sự đấu tranh mạnh mẽ, vượt lên số phận để làn tốt bổn phận của một người phụ nữ
trong gia đình, một người phụ nữ dám vượt lên trên đớn đau để tìm hạnh phúc mà mình hằng
khao khát.
Bài mẫu 4: Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ mẫu
Trong những năm từ thế kỉ mười bảy đến cuối thế kỉ mười chín, dưới sự suy tàn mục nát của
chế độ phong kiến, số phận người phụ nữ bị gần như bị vùi dập trong vũng bùn đau khổ bởi lễ
giáo phong kiến “trọng nam khinh nữ” hà khắc. Họ phải chịu chói buộc trong chế độ xã hội
nam quyền độc đoán, đa thê… cùng với sự áp đặt của lễ giáo phong kiến: “Tam tòng, tứ đức”
( tam tòng là: tại gia tòng phụ), xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử; tứ đức là: cơng, dung, ngơn,
hạnh). Họ hầu như khơng có quyền quyết định cuộc đời mình mà phải an phận, phục tùng và
cam chịu. Vì thế, họ gặp rất nhiều đau khổ trong cuộc sống, tình duyên thì lận đận, phải chịu
cuộc đời làm lẻ, làm thiếp cho người ta… Cảm thông với số phận của người phụ nữ trong xã
hội cũ, nhiều nhà văn nhà thơ đã thay họ đứng lên nói lên tiếng lịng của mình. Trong đó có Hồ
Xuân Hương với “Tự Tình II” và Trần Tế Xương cùng “Thương Vợ”.
Hai tác phẩm trên là lời khẳng định về nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong chế độ xưa.

Họ đều là những con người đa tài, đa sắc như Hồ Xuân Hương đã gọi “hồng nhan” hay là tảo
tần, thủy chung, và giàu đức hi sinh như Tú Xương lên tiếng.
Nếu như Bà chúa thơ Nôm với cái tài và cái ngơng của mình dám thách thức với cả trời đất,
thiên nhiên để nói lên cái đẹp cái tài hoa của người phụ nữ trong xã hội bấy giờ:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
(Tự Tình II II)
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Thì đến với Tú Xương lại thể hiện tâm thế và vị thế của một người mẹ hiền một người vợ đảm.
Vì chồng, thương con mà bà cam chịu với cuộc sống khó khăn, vất vả:
“Lặn lội than cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đơng”
(Thương Vợ)
Nhưng dân gian ta đã có câu: “Hồng nhan bạc phận”. Hồ Xuân Hương càng thể hiện cái tài, cái
hồng nhan bao nhiêu thì lại càng làm nổi lên tâm trạng buồn đau, ốn hận, cơ độc trong đêm
khuya vắng. Sự bẽ bàng, tủi hổ của Hồ Xuân Hương nói riêng cũng chính là của người phụ nữ
Việt Nam trong thời đại ấy nói chung.
Những con người hạnh phúc ít ỏi, duyên nợ hẩm hiu: “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa trịn”.
Tuổi xn thì qua đi mà hạnh phúc vẫn không trọn vẹn như vầng trăng đến lúc xế bóng mà vẫn
chưa trịn. Mang than phận của một người vợ lẻ, tình yêu thì bị chia năm sẻ bảy chỉ cịn lại tí
con con: “Mảnh tình san sẻ tí con con”. Hồ Xn Hương đã nói lên nỗi lịng của mình trước cái
bất cơng của xã hội phong kiến. Cịn với Tú Xương, ơng đứng trên phương diện từ người đàn
ông, người chồng, người con để thể hiện sự cảm thơng, thương xót cho số phận của người phụ
nữ:
“Một duyên, hai nợ âu đành phận
Năm nắng, mười mưa dám quản cơng”

Câu thơ vừa nói lên đức hy sinh cao quý của người phụ nữ mà cụ thể hơn ở đây là bà Tú, lại
vừa thể hiện sự cam chịu trước số phận của mình. Nếu như đứng ở góc độ đạo lý, ta thấy rằng
sự cam chịu của bà Tú chính là việc bà đang tuân thủ theo bổn phận làm vợ, làm mẹ của mình.
Thế nhưng, theo góc độ tình cảm, ta thấy, việc bà Tú cam chịu, hi sinh tất cả vì chồng vì con thì
ở bà lại hiện lên vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Đó chính là sự đảm đang,
chịu thương chịu khó, đức hi sinh âm thầm vì chồng vì con.
Cảm thông trước sự vất vả của người vợ, Tú Xương đã lên tiếng ốn trách thói đời, trách xã hội
bất cơng:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Nói là trách đời nhưng thực ra qua hai câu sau ta thấy rằng ông đang trách mình. Mình đã
khơng làm đúng vai trị của một người chồng. Câu thơ nói lên tiếng lịng của Trần Tế Xương
đối với người phụ nữ. Vừa là lời cảm thông, vừa là sự bênh vực. Còn với Hồ Xuân Hương, ta
lại thấy có lời ốn trách táo bạo, giận cuộc sống đã đưa người phụ nữ vào chỗ lẻ loi, cô đơn, hiu
hắt : “Oán giận trông ra khắp mọi chịm” (Tự Tình II I). Hay phê phán cái xã hội thối nát, người
đời bạc bẽo vô tâm: “Sau giận vì dun để mỏi mịn” (Tự Tình II I). Đằng sau sự ốn trách đó,
là sự khát vọng và vươn lên, không để bị số phận làm khuất phục:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hịn”
(Tự Tình II II)
Bằng những động từ mạnh như “xiên”, “đâm”, kết hợp với bút pháp tu từ đảo ngữ càng nhấn
mạnh sức phản kháng mãnh liệt và khát vọng bung tỏa bản lĩnh cá nhân. Và điều này cũng là
nét đặc sắc của thơ Hồ Xuân Hương.
Tuy đứng ở hai khía cạnh, hai góc nhìn khác nhau về người phụ nữ, nhưng cả hai tác phẩm “Tự

Tình II” và “Thương Vợ” đều là những bài ca ca ngợi vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ
Việt Nam. Nếu như Hồ Xuân Hương đem đến cho người đọc về hình ảnh người phụ nữ tài sắc,
thủy chung, nhưng lại chịu nhiều bất hạnh về cuộc sống và duyên phận thì Tú Xương mang đến
cho chúng ta hình ảnh về đức hi sinh, sự can đảm chịu thương chịu khó của người phụ nữ. Hơn
nữa, vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ càng đậm nét hơn khi chính họ là những con người
bất hạnh nhưng luôn ngời sáng lên những ước mơ. Hai tác phẩm đều phản ánh khát vọng vươn
lên làm chủ của người phụ nữ, bênh vực quyền sống, khát vọng hạnh phúc, thể hiện tính nhân
văn sâu sắc. Phẩm chất truyền thống đẹp đẽ đó đã trở thành nét đẹp đương đại với phụ nữ Việt
nam ngày nay: “Giỏi việc nước – đảm việc nhà”.
Bài mẫu 5: Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua bài thơ Tự Tình II và Thương Vợ mẫu
Từ bao giờ đến bây giờ, từ Homer đến Kinh Thi, đến ca dao Việt Nam, thơ vẫn là một sức đồng
cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó đã ra đời giữa những vui buồn của lồi người và nó sẽ kết bạn
với lồi người cho đến ngày tận thế” (Hồi Thanh). Có thể nói, đó chính là sự trường tồn bất
diệt của thơ văn.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Và ta càng thấy sức lan tỏa của nó mạnh mẽ hơn khi đến với ngịi bút nhân đạo của người nghệ
sĩ trong thơ ca trung đại. Nổi bật lên trong những trang viết thấm nhuần tư tưởng ấy chính là
hình ảnh người phụ nữ.
Bằng sự đồng cảm nơi sâu thẳm tâm hồn, nhiều tác phẩm ra đời chính là sự lên tiếng của nhiều
nhà thơ nói thay cho tâm sự thầm kín của người phụ nữ mà tiêu biểu là hai bài thơ “Tự Tình II
II” của Hồ Xuân Hương và “Thương Vợ” của Trần Tế Xương.
Đọc những vần thơ ấy, độc giả không khỏi rung động trước tình cảnh éo le, trớ trêu, những bi
kịch đau thương họ phải gánh chịu. Và có lẽ chính bởi từ đó, ta hiểu thêm về một nửa nhân loại.
Mỗi bài thơ đều được thể hiện bằng phong cách riêng nhưng nổi bật lên là hình ảnh người phụ
nữ tiềm ẩn bao vẻ đẹp, tài năng và phẩm chất đáng trân trọng. Nhưng trong xã hội phong kiến

mục nát ấy, mọi quyền lợi mà họ đáng được hưởng lại bị tước đoạt.
Có thể khẳng định rằng, người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa đẹp người, đẹp nết. Họ mang
một vẻ thuần khiết, trắng trong, có nhan sắc:
“Thân em vừa trắng lại vừa trịn”
(Bánh trơi nước – Hồ Xuân Hương)
Và ta cũng bắt gặp hình ảnh một người vợ đảm đang, u thương gia đình:
“Quanh năm bn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Bà Tú là người rất mực chăm lo cho chồng con, bà ni cả gia đình nhưng cuộc ssống ln đầy
đủ, khơng để ai phải đói rách. Mọi người được ăn no mặc ấm, tiêu pha đủ. Qua đó, ta thấy bà
đã làm tròn trách nhiệm với cương vị là người vợ, người mẹ trong gia đình.
Đọc đến đây, hình ảnh “Vũ Nương” trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn
Dữ một lần nữa khắc sâu trong tâm trí mỗi người với phẩm chất cao đẹp của nàng: một người
vợ yêu thương chồng con và hiếu thuận với mẹ. Dường như đây cũng là sự đồng điệu giữa hai
tâm hồn của hai thế hệ nhà thơ Nguyễn Dữ và Tú Xương. Qua đó càng làm nổi bật lên vẻ nết
na, đảm đang của người phụ nữ.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Nhưng bên cạnh đó là những khổ cực, vất vả mà đôi vai yếu mềm phải gánh chịu. Đối với
người con gái, tuổi xuân là thứ đáng quý nhất trong cuộc đời nhưng Hồ Xuân Hương chưa có
được một hạnh phúc trọn vẹn thì nó đã qua đi nhanh chóng, hao mịn theo thời gian:
“Đêm khuya vẳng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Đã đêm khuya mà bà vẫn thao thức. Tâm trạng rối bời trước nhịp đập của tiếng trống dồn dập
hay cũng chính là bước đi của thời gian. Cái cơ đơn lạnh lẽo cứ bủa vây và dường như mỗi giây
phút đi là tâm trạng được đẩy lên một bậc.

Càng đau đớn xót xa biết bao khi người con gái đã quá lứa, lỡ thì mà tình duyên vẫn chưa trọn
vẹn:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa trịn”
Cuộc đời chính bản thân của bà đã trải qua bao truân chuyên, sóng gió, hai lần phải làm lẽ và
khơng những chỉ có vậy mà cả hai lần chồng bà đều chết. Từ đó ta càng khơng thể phủ nhận
một qui luật trong xã hội xưa: tài hoa bạc mệnh. Một người có tài năng như bà lại vướng phải
bi kịch tàn khốc, đau thương.
Bởi thế, bà chỉ cịn biết nhớ đến “chén rượu”. Vì men rượu – hương nồng đắng cay sẽ làm cho
người ta say mà quên đi cay đắng! Đến một người phụ nữ cũng phải độc ẩm trong đêm khuya
quả là một niềm đau xót. Nhưng “say rồi lại tỉnh”, đâu có thốt khỏi vòng quẩn quanh, bế tắc
của tâm trạng. Tỉnh ra càng chua xót, đắng cay hơn bội phần.
Cả cuộc đời bà, cuộc đời của một người luôn khao khát sự trọn vẹn, yên lành trong hạnh phúc
lứa đôi nhưng nào bao giờ có được “vầng trăng bóng xế khuyết chưa trịn”. Trăng đã “bóng
xế”- cuộc đời_ mà vẫn “khuyết” chưa trịn. Qua đó càng khiến nỗi lịng của người cơ phụ se
thắt lại- nỗi buồn dai dẳng, xa vắng lan tỏa khắp tâm hồn.
Người phụ nữ chịu bao khổ đau, bị xã hội đưa đẩy mà không tự quyết định được cho số phận
của mình:

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

“Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”
(Bánh trôi nước)
Với cương vị là một người vợ, người phụ nữ cũng không tránh khỏi khổ cực mà xã hội suy tàn
ấy mang đến:
“Một duyên hai nợ âu đành phận

Năm nắng mười mưa dám quản cơng”
(Thương Vợ)
Lấy chồng dun chỉ “một” mà nợ thì nhiều. Người vợ phải gánh vác công việc trong gia đình.
Với thân phân nhỏ bé, đơn chiếc nhưng họ ln bất chấp nguy hiểm, cực khổ để ni sống gia
đình.
Người vợ lại đóng vai trị là trụ cột. Họ vì mưu sinh cuộc sống mà phải lam lũ, vất vả, dãi nắng
dầm mưa, lặn lội kiếm ăn:
“Lặn lội thân cò khi qng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đị đơng”
Bà Tú một mình thân gái nhỏ bé, yếu ớt phải lặn lội khắp nơi, bươn bả trên sơng nước khơng có
ai trợ giúp, đỡ đần cho bà nơi hiểm nguy sông nước, chứa đầy bất chắc. Bởi thế kiếp sống long
đong lận đận của người phụ nữ ấy, tác giả đã đồng nhất với hình ảnh thân cị lặn lội.
Nhưng có thể nói, người phụ nữ Việt Nam mang trong mình một sức sống mãnh liệt, nghị lực
vươn lên trong mọi hồn cảnh.
Sau bao đau xót, tủi nhục dường như vẫn trỗi dậy:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
Ở đây, thiên nhiên cũng bừng lên với tâm trạng con người. “Rêu” vốn là sinh vật nhỏ bé, yếu
mềm và “đá” là sự vật vô tri nhưng dưới con mắt của mình, “Bà chúa thơ nơm” cũng thấy
chúng muốn chứng tỏ sức sống của mình bằng cách “Xiên ngang”, “đâm toạc” mặt đất, chân
mây. Sự vật mà cịn có thể huống chi là người? tại sao con người lại bi quan như thế?
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Và ta cũng nhận thấy được sự táo bạo trong thơ Hồ Xuân Hương:
“Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu”
Bà ln khẳng định mình, bất chấp số phận giàng buộc của xã hội phong kiến.

Người vợ trong thơ Tế Xương cũng vậy, bất chấp hồn cảnh mà vươn lên. Khơng lời phàn nàn
trách móc, ốn hận mà giàu lịng vị tha và đức hi sinh.
“Năm nắng mười mưa dám quản công”
Vâng! người phụ nữ Việt Nam là thế. Ở họ chứa đựng những cảm xúc suy tư từ cuộc đời thực
của mình. Nhưng tất cả đều mang những phẩm chất, tài năng đáng quí.
Họ bày tỏ sự phẫn nộ uất ức trước duyên phận, đồng thời khát khao được hạnh phúc, tình
duyên trọn vẹn.
Qua hai bài thơ ta càng thấy ánh lên những hình ảnh cao đẹp của người phụ nữ thời xưa. Họ
như những tia sáng hào quang lan tỏa đến tâm hồn bạn đọc ở bao thế hệ. Và như thế, thơ ca đã
bắc nhịp cầu kết nối những trái tim cùng đồng cảm, cùng sẻ chia.
Văng vẳng đâu đây, dường như ta vẫn nghe được dư âm:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”
Nỗi đau của người phụ nữ, nỗi buồn của một kiếp người. Nhưng ánh sáng lan tỏa từ phẩm chất
cao đẹp của họ sẽ len lỏi đến trái tim độc giả muôn đời.
Bài làm 6
Việt Nam là một trong những quốc gia có chế độ phong kiến kéo dài hàng ngàn năm lịch sử.
Không chỉ vậy do chịu sự đô hộ triền miên của các quốc gia phương Bắc mà nền văn hóa của
nước ta cũng chịu nhiều ảnh hưởng, trong đó thấy rõ nhất ấy là sự du nhập của nền Nho học
vốn đề cao vai trò của người đàn ông. Đặc biệt là tư tưởng trọng nam khinh nữ, cùng với những
quy tắc hà khắc viết trong các cuốn kinh văn như Nữ Giới đã khiến người phụ nữ phải chịu
nhiều thiệt thòi và bất hạnh. Trong văn học trung đại Việt Nam hình tượng người phụ nữ đi vào
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

các tác phẩm khơng nhiều, nổi bật nhất có Truyện Kiều của Nguyễn Du, là tác phẩm kinh điển,
không chỉ phản ánh số phận của người phụ nữ mà phản ánh chung cả số phận của những con
người thấp cổ bé họng dưới chế độ phong kiến hà khắc, với những tư tưởng nhân đạo lớn.

Ngoài ra, không thể không nhắc đến Hồ Xuân Hương với chùm thơ Tự Tình nổi tiếng, nhà thơ
chuyên viết về phụ nữ, bởi chính bản thân bà cũng trải qua nhiều nỗi bất hạnh trong tình u,
hơn nhân, vì tư tưởng đi trước thời đại. Và một Trần Tế Xương với Thương vợ, bất mãn trước
thời cuộc, bất đắc chí trong đường cơng danh, khi nhìn người vợ nắng mưa tảo tần ni cả gia
đình, ơng lại cũng có những cái nhìn thấu hiểu, trân trọng và thơng cảm cho người vợ kết tóc.
Chung quy lại nhìn thấu suốt Tự tình II và Thương vợ ta nhận ra rằng cuộc đời người phụ nữ
trong chế độ phong kiến chỉ đi vòng quanh một chữ “khổ” và ở trong hai bài thơ ta lại nhìn ra
những cái bất hạnh khác nhau của họ.
Trước hết nói về hình tượng người phụ nữ Việt Nam trong Tự tình II của Hồ Xuân Hương. “Tự
tình” tức là tự nói về những tâm tư tình cảm của bản thân, có thể nói rằng từng câu chữ mà nữ
sĩ viết trong thơ đều là để nói về cái cuộc đời bất hạnh, hồng nhan bạc phận của mình. Hồ Xn
Hương là người phụ nữ có nhan sắc, lại thông minh, rất giỏi thơ từ ca phú, giao thiệp rộng,
cũng từng rất trông đợi vào cuộc sống hôn nhân mỹ mãn. Thế nhưng có vẻ tư tưởng của Hồ
Xuân Hương và những con người ở thời đại ấy không hề ăn khớp với nhau, bà lấy người chồng
thứ nhất là ơng Tổng Cóc, dẫu ơng cũng là người có học, văn nhã, thế nhưng chỉ riêng có một
việc ấy là ông cũng là người nổi tiếng đào hoa. Hồ Xuân Hương về làm thiếp, thế nhưng cũng
chẳng thể chịu nổi cảnh chồng tam thê tứ thiếp bảy cô hầu, cịn mình thì cứ vị võ trơng đợi
chút tình cảm của đấng phu quân. Lần thứ hai kết hôn, cũng chẳng mấy khá khẩm, lấy ông phủ
Vĩnh Trường, dẫu được chiều chuộng yêu thương, nhưng cũng lại là phận thứ thiếp, sao tránh
khỏi cảnh ghen tuông. Không biết được rằng nữ sĩ viết Tự tình II khi nào, nhưng cũng chỉ tóm
gọn mấy chữ về cuộc đời bất hạnh của bà ấy là nỗi khổ chồng chung.
Bà viết hai câu thơ đầu rằng “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn/Trơ cái hồng nhan với
nước non”, ấy là cái cảnh người “hồng nhan” tuổi còn xuân sắc, thế nhưng thay vì vui vầy thú
vợ chồng, thì bà lại chán chường ngồi giữa khuya thanh vắng, đếm thời gian trôi qua từng tiếng
“trống canh dồn”. Cái tiếng trống canh ấy vừa đánh vào trái tim cô đơn của người phụ nữ, vừa
nhắc nhở bước đi của thời gian, trời đã khuya lắm rồi sao người cịn chưa ngủ, cịn thức ngóng
trơng ai? Từ tiếng trống giục giã ấy, người thiếu phụ như thức tỉnh trước những nỗi sầu đơn
độc, nhận thức rõ ràng cái thân phận bẽ bàng của mình. Chỉ một từ “trơ” thôi nhưng biết bao
nhiêu tủi hổ, bao nhiêu trơ trọi, lẻ loi, lạnh lẽo giữa trần đời. Thế nhưng Hồ Xuân Hương là một
người phụ nữ có bản lĩnh, cái từ “trơ” ấy còn là biểu hiện của sự dạn dĩ, trơ lì với những thách

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

thức, những quy luật nghiệt ngã của cuộc đời, của “nước non”. Không chỉ nhận thức về sự cơ
đơn, trống trải, trơ trọi của mình mà Hồ Xuân Hương còn ý thức rất sâu sắc về thân phận của
người phụ nữ.“hồng nhan” vốn là mỹ từ cao đẹp, thanh nhã thế mà sắp với từ “cái” ôi chao sao
nó lại rẻ rúng, tầm thường đến thế, điều ấy đã gợi nhắc ta về vai trò và địa vị thấp kém của
người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Có lẽ có một câu mà ta vẫn thường nghe “anh em như
chân tay, phụ nữ như quần áo”, áo cũ rồi lại thay, chỉ thấy người mới cười chứ đâu ai thấy
người cũ khóc. Tư tưởng trọng nam khinh nữ, đàn ông được phép tam thê tứ thiếp, đàn bà phải
một phép thờ chồng, đã không cho người phụ nữ được cái hạnh phúc mà họ mong muốn, cuộc
đời họ chỉ toàn là những đắng cay, tủi nhục. Dẫu có giỏi giang, tài sắc như Thúy Kiều, như Hồ
Xuân Hương nhưng nào cũng có được hạnh phúc đâu?
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh/Vầng trăng bóng xế khuyết chưa trịn”, dẫn ta đi sâu vào nỗi
buồn khổ, cơ đơn của người thiếu phụ, mượn rượu giải sầu, càng uống càng say. Những tưởng
say rồi là sẽ quên hết những đau đớn về thân phận bất hạnh, quên hết nỗi ghen tng chồng,
nhưng khơng cái vịng lặp “say lại tỉnh” không chỉ khiến người ta ý thức rõ hơn về nỗi tủi hờn,
buồn bã của mình mà nó cịn gợi ra một cái vịng lặp khơng lối thốt. Nhấn mạnh một điều
rằng, nếu cứ còn mãi cái chế độ phong kiến bất cơng này thì người phụ nữ vẫn cứ phải chịu cái
vòng luẩn quẩn khổ sở bất hạnh trong kiếp chung chồng, không được tự do mơ ước đến một
cuộc hôn nhân đầm ấm hạnh phúc. “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa trịn”, gợi nhắc về một
cuộc đời hồng nhan phí hồi trong những đêm dài đằng đẵng chờ chồng, nay đã gần hết, hồng
nhan già, già từ tâm hồn cho đến ngoại hình. Thế nhưng cái mà họ mơ ước thì mãi cịn ở ngồi
tầm với, mãi vẫn “khuyết chưa tròn”, bởi người phụ nữ dưới chế độ phong kiến thì kiếm đâu ra
một tấm hạnh phúc trịn như trăng? Hồ Xn Hương chính là điển hình cho hình ảnh này, bà có
hai đời chồng, cả hai lần đều làm thiếp, dẫu tài sắc thế nhưng vẫn phải chịu cảnh sẻ chia chồng
cho người khác, tình duyên chẳng trọn vẹn. Không chỉ vậy, ở cuộc hôn nhân sau bà lại càng bất
hạnh, đã làm thiếp, mà hưởng cuộc sống vợ chồng chưa lâu thì ơng phủ Vĩnh Trường cũng đi

đời nhà ma mất. Thử hỏi cịn có cái bất hạnh, chán chường nào hơn nữa không?
Và chắc chắn rằng khơng chỉ mình Hồ Xn Hương sắc sảo, có suy nghĩ chống lại số phận,
kiếm tìm hạnh phúc mà có lẽ cũng có rất nhiều người phụ nữ có suy nghĩ như vậy. “Xiên ngang
mặt đất rêu từng đám/Đâm toạc chân mây đá mấy hịn” đó là nỗi khát khao được vượt lên trên
những định kiến của xã hội, phá tan lớp rào ngăn cản người phụ nữ tự do chạm tay vào hạnh
phúc của mình. Dẫu họ chỉ có thể có vị trí như lồi “rêu” yếu mềm, như hịn đá vơ hại, cam
chịu, nhẫn nhục, thế nhưng sức mạnh tâm hồn của họ là không thể chối cãi. Hai câu thơ ấy của
Hồ Xuân Hương thể hiện rất rõ cái khao khát, ý chí thốt khỏi sự kìm kẹp của sẽ hội, địi quyền
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

cơng bằng, bình đẳng, khao khát hạnh phúc trong tình yêu và sự tự do thể hiện bản thân một
cách mãnh liệt của người phụ nữ. Thế nhưng mơ ước ấy của phụ nữ trong xã hội cũ dường như
là điều viển vông, trong mắt những người đàn ơng thậm chí là nực cười và trái với phụ đạo của
đàn bà. Thế nên dẫu có khao khát mãnh liệt, có muốn phản kháng đến từng nào rồi cũng bị cái
xã hội này đàn áp. Chẳng phải Hồ Xuân Hương dẫu đanh đá, xéo xắt, thông minh nhưng cũng
chẳng có nổi cho mình một thân phận vợ cả đấy sao? Đàn bà thuở ấy cuối cùng vẫn phải quay
về với mấy chữ “tam tịng tứ đức”, “cơng dung ngơn hạnh”, và bị mấy chữ “tam thê tứ thiếp”
bịn rút cả tuổi thanh xn, phí hồi cả cuộc đời. Thế mới có mấy câu thơ “Ngán nỗi xuân đi
xuân lại lại/Mảnh tình san sẻ tí con con”, bà đã chán ngán cái cảnh từng mùa xuân đến rồi lại
đi, đồng nghĩa với hồng nhan cũng già đi. Mà nhan sắc vốn dĩ là tài sản quý giá nhất của người
phụ nữ, nay đã nhạt phai ai lại không chán ngán, buồn rầu cho đặng. Và đáng thương nhất vẫn
là những người phụ nữ chịu kiếp chồng chung, phận thứ thiếp lại càng thiệt thịi, bởi vốn dĩ đàn
ơng trong xã hội cũ vốn chẳng xem trọng chuyện nữ nhi thường tình. Đàn bà để nối dõi tơng
đường, để chăm lo nội viện, nào được hưởng những thứ xa xỉ như tình u của đàn ơng, có
chăng là chút cưng chiều, thương xót. Ấy vậy mà cái “mảnh tình” vốn nhỏ lại cịn bị “san sẻ tí
con con”, thì liệu cịn được bao nhiêu phân lượng. Lồi động vật mang thiên tính tình cảm
mạnh mẽ như phụ nữ làm sao mà không thấy sầu khổ, buồn bã, u uất.

Nếu nỗi khổ của thân phận phụ nữ dưới cái nhìn của Hồ Xuân Hương là nỗi khổ hành hạ trong
tinh thần, trong tâm hồn là nỗi uất ức cay đắng vì khơng được hạnh phúc. Thì trong Thương vợ
Tú Xương lại nhìn thấy nỗi vất vả của người phụ nữ trong công việc lao động mưu sinh. Đặc
biệt là khi họ được gả vào một gia đình khơng mấy khá giả, người chồng khơng biết đỡ đần, lại
đơng con thì cuộc sống càng thêm khó nhọc bội phần. Điển hình cho kiểu mẫu phụ nữ ấy chính
là bà Tú, được gả cho ông Tú từ khi ông 16 tuổi, và từ đó trở đi cuộc đời bà chỉ nằm quanh việc
kiếm sống, bươn chải ni ơng chồng của mình theo nghiệp công danh, thi cử.
Nỗi vất vả của bà Tú được thể hiện ở trong 6 câu thơ đầu của bài thơ Thương vợ.
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đị đơng.
Một dun, hai nợ, âu đành phận,
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Năm nắng, mười mưa, dám quản cơng”
Bà Tú là một người phụ nữ yếu đuối, thế nhưng phải làm những công việc vất vả, quanh năm
suốt tháng dường như khơng hề có ngày nghỉ ngơi, ở một nơi khá nguy hiểm như chỗ “mom
sông” vốn cheo leo lại lắm thuyền bè đi lại. Sở dĩ bà Tú phải bơn ba như vậy là vì ở nhà cịn có
6 miệng ăn đang chờ bà ni, một đàn 5 đứa con đang tuổi ăn tuổi lớn, lại thêm một ông chồng
“dài lưng tốn vải”. Nếu như chồng người có thể chung tay lao động, san sẻ, thì chồng bà lại trở
thành gánh nặng, đè nặng lên đôi vai của bà, khiến bà càng thêm khó nhọc trong cuộc sống.
Tuy vất vả, áp lực là thế nhưng bà Tú vẫn “Nuôi đủ năm con với một chồng”, điều ấy trước hết
là thể hiện sự tần tảo, khéo léo vun vén “khéo ăn thì no, khéo co thì ấm” của bà Tú, đồng thời
cũng thể hiện cái sự chịu khó, đảm đang, tháo vát trong lao động của bà. Trong bài thơ Tú
Xương có lấy hình ảnh con cị để ẩn dụ cho hình ảnh của bà Tú “Lặn lội thân cị nơi qng
vắng”, từ xưa đến nay hình tượng con cò đã từng xuất hiện rất nhiều trong ca dao, là đại diện

cho sự khổ cực, lầm lũi, cô đơn và vô cùng tội nghiệp của người lao động, đặc biệt là người phụ
nữ trong xã hội cũ. Đó là nỗi vất vả mà bà Tú phải gánh chịu trong cuộc hôn nhân với ông Tú,
thế nhưng thái độ của bà khi đối diện với những điều ấy lại khiến người ta thêm thương và
thêm quý trọng bà hơn. Có thể nói rằng, việc gả cho Tú Xương, đối với bà Tú là thiệt thịi lớn,
bởi ơng chồng ấy nói thật rằng trong cuộc đời này quả thực là vô tích sự, bởi ngồi việc giỏi thi
ca, thì chẳng cịn nên chuyện gì. Thi cử hỏng cả 8, lần cuối đậu rớt tú tài, nhà của tài sản cũng
chẳng có gì, đã thế lại là người cố chấp với đường công danh, là bậc tri thức nên không làm
những công việc tầm thường mưu sinh. Điều ấy buộc bà Tú phải đứng ra làm trụ cột cho cả gia
đình, cái dun vợ chồng với ơng Tú thì chỉ có một, nhưng mà cái “nợ đời” mà bà phải gánh
chịu thì có những hai. Thế nhưng bà chưa bao giờ than vãn, nề hà gì mà vẫn vui vẻ chấp nhận
“âu đành phận”, xem như đó đã là cái phận trời định. Đặc biệt là dù có khổ cực, vất vả đến mức
nào “năm nắng, mười mưa” bà cũng chưa từng “dám quản công”. Từ những điều trên ta nhận ra
rằng bà Tú là người phụ nữ có tấm lịng vị tha và đức hy sinh cao cả, điều ấy xuất phát từ tấm
lòng yêu thương chồng con sâu sắc, một lịng vì gia đình. Bà Tú chính là hình mẫu đại diện cho
người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ cũ, chịu thương chịu khó, nhẫn nhịn, chịu đựng, nhân hậu,
bao dung và vơ cùng u thương gia đình.
Kết lại từ Tự tình II và Thương vợ ta thấy hình tượng người phụ nữ Việt Nam hiện lên với một
đặc trưng chính đó là chịu nhiều thiệt thịi và vất vả. Trước hết về đời sống tinh thần thì phải
chịu nhiều áp lực từ định kiến xã hội, khơng có quyền mơ ước hạnh phúc, phải chịu cảnh chung
chồng, tuổi xuân gần như dành hết cho việc chờ đợi và buồn rầu. Khơng chỉ vậy họ cịn mang
trong mình tính cam chịu, nhẫn nhịn, tần tảo, chịu thương chịu khó, một lịng vì chồng con,
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

khơng một lúc nào nghĩ đến bản thân. Bên cạnh đó ta thấy được nhưng vẻ đẹp rất đáng quý
trong tâm hồn người phụ nữ ấy là sự bao dung, đức hy sinh cao cả, tấm lòng khao khát hạnh
phúc, sự thông minh tài giỏi, cáng đáng cơng việc cũng chẳng thua kém gì bậc nam nhi.
Bài làm 7

Văn thơ trung đại Việt Nam, nhất là các tác phẩm viết bằng chữ Nơm nói nhiều đến tình yêu và
số phận người phụ nữ trong cuộc đời. Hồ Xn Hương và Tú Xương, qua "Bánh trơi nước",
"Tự tình" - Bài II, "Thương vợ" đã làm hiện lên hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời xưa với
bao ấn tượng sâu xa, với bao cảm thương man mác.
Bài thơ "Bánh trơi nước" có hai lớp nghĩa: tả thực chiếc bánh trơi, một món ăn dân tộc và
tượng trưng cho phẩm chất tốt đẹp của người con gái quê ta. Chữ "trắng" và chữ "trịn", hình
ảnh nhân hố "thân em" đã thể hiện vẻ đẹp khiêm nhường, dịu dàng, trinh trắng và duyên dáng
của "em". Tuy tình yêu và số phận bị phụ thuộc vào lễ giáo phong kiến và đạo tam tòng, vào
"tay kẻ nặn", dù "rắn nát", dù vất vả, lận đận, long đong, trải qua "bảy nổi ba chìm", nhưng em
vẫn kiên trinh, sắt son. Hình ảnh ẩn dụ "tấm lòng son" và hai tiếng "vẫn giữ" đã ngợi ca đức
hạnh kiên nhẫn, lòng chung thủy sắt son của người phụ nữ ngày xưa trong mọi gia đình Việt
Nam. "Bánh trơi nước" là bức chân dung nghệ thuật với hai gam màu "trắng" và "son" tuyệt
đẹp:
"Thân em vừa trắng lại vừa trịn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lịng son".
Chùm thơ "Tự tình" ba bài của Bà chúa thơ Nôm, đặc biệt biệt bài thơ thứ hai, đã nói lên
một cách cảm động về bi kịch tình duyên của người phụ nữ phận hẩm duyên ôi!
Người phụ nữ ấy thao thức giữa đêm khuya, một mình một bóng đang lắng nghe tiếng trống
dồn "văng vẳng" từ một chịi canh xa đưa lại. Thao thức vì cơ đơn, vì lẻ bóng. Rượu và trăng
cũng khơng làm vợi đi bao nỗi buồn chồng chất, đang đè nát cõi lòng. "Chén rượu hương đưa"
cứ ngỡ có thể làm say để quên đi bao nỗi buồn chứa chất tâm hồn, cố uống cho say, nhưng "say
lại tỉnh" để mà thêm buồn; buồn cho tình duyên lẽ mọn! Trơ trọi ngắm "vầng trăng bóng xế",
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

ngắm mãi ngắm hồi mà trăng kia vẫn "khuyết chưa tròn", Hạnh phúc mà nàng mong đợi chỉ là

"Một tháng đơi lần có cũng khơng!". Số phận và bi kịch ấy thật đáng thương!
Trong bi kịch tình duyên, người đàn bà lẽ mọn cố vùng vẫy bươn ra nhưng thốt sao được.
Dù có "xiên ngang mặt đất", dù có "đâm toạc chân mây", nhưng đám rêu kia, mấy hịn đá nọ
cũng khơng thể nào thay đổi được cảnh ngộ đáng buồn, đáng thương, đáng tủi, đáng hận:
"Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hịn".
Phép đảo ngữ trong hai câu thơ khơng chỉ làm nổi bật cái dữ dội tiềm ẩn của thiên nhiên mà
cịn tơ đậm sự phản kháng dun số, phản kháng đến tuyệt vọng của người đàn bà "lấy chồng
chung".
Thời gian chẳng mang lại hạnh phúc cho nàng. Mùa xuân cũng chẳng đem lại niềm vui gì
cho nàng, mà nỗi chán ngán, đau khổ cứ chồng chất mãi thêm. Mùa xuân đi qua rồi mùa xuân
lại trở lại, tuổi mỗi ngày một cao, nhan sắc ngày một phai tàn, nhưng tình u và hạnh phúc chỉ
được "san sẻ tí con con" mà thôi! Thật đáng thương! Thật tội nghiệp. Tổng Cóc và ơng phủ
Vĩnh Tường cũng chẳng mang lại cho nàng chút hạnh phúc nào! Hai câu kết đã cực tả nỗi đau
khổ trong bi kịch tình yêu của Hồ Xuân Hương:
"Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!"
"Tự tình" - Bài II khơng chỉ nói lên nỗi đau khổ cơ đơn mà cịn thể hiện niềm khao khát tình
yêu hạnh phúc của người đàn bà trong cảnh ngộ "lấy chồng chung", giá trị nhân bản của bài thơ
thật sâu sắc.
Tú Xương có bài "Văn tế sống vợ"; ơng cịn có bài "Thương vợ" với cảm hứng chủ đạo là
tình thương, lịng q trọng, biết ơn của ông đối với người vợ hiền thục của mình. Bà Tú là
hiện thân cho bao đức tính tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Bà buôn bán tần tảo ở mom
sơng suốt quanh năm, khơng có một ngày ngơi nghỉ. Một gánh nặng gia đình được bà "nuôi
đủ":
"Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188



×