Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Phân tích Lẽ ghét thương trong truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.62 KB, 17 trang )

Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Phân tích Lẽ ghét thương trong truyện Lục Vân Tiên của
Nguyễn Đình Chiểu - Ngữ văn 11
Đề bài: Phân tích Lẽ ghét thương trong truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về Nguyễn Đình Chiểu: một người có cuộc đời đau thương, bất hạnh.
- Giới thiệu chung về đoạn trích "Lẽ ghét thương".
2. Thân bài
a. Thái độ ghét thương qua lời đối đáp giữa ông Quán với Vân Tiên
- Nhân vật ông Quán (chủ quán rượu) thuộc lực lượng chính nghĩa hỗ trợ nhân vật chính ( trên
đường tìm chính nghĩa)
- Ơng Qn có phong thái của một nhà nho ở ẩn, am tường kinh sử, và quặn lòng với những kẻ
làm băng hoại xã hội, đau khổ dân lành.
- “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”: Biết ghét là vì biết thương. Vì thương dân nên ghét
những kẻ làm hại dân. Ông Quán bày tỏ thái độ thương ghét phân minh.
=> Đây là câu nói có tính chất khái qt tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu trong cả đoạn trích.
Tác giả đã lí giải căn nguyên chuyện ghét thương của mình.
b. Mối quan hệ giữa ghét – thương trong thái độ ông Quán
b.1. Ghét thế lực cầm quyền bạo tàn – thương dân lầm than
- Ghét:
+ Đời Kiệt, Trụ mê dâm >< dân sa hầm sẩy hang
+ Đời U, Lệ đa đoan >< dân lầm than
+ Đời Ngũ bá phân vân >< dân nhọc nhằn
+ Đời thúc quý phân băng >< rối dân
- Điệp từ “ghét”+ “đời” + liệt kê hàng loạt các điển cố: Kiệt, Trụ, U, Lệ, Ngũ bá, thúc quý +
Nghệ thuật đối lập giữa vua quan với dân + điệp từ “dân” + động từ “sa, sẩy” + tính từ “lầm
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188



Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

than, nhọc nhằn, rối”=> Tác giả căm ghét những tên vua dâm ác, tham tàn, bạo ngược, những kẻ
đã gây ra hệ lụy chiến tranh, loạn lạc và bộc lộ lịng xót thương sâu sắc đối với người dân vô tội
phải gánh chịu mọi tai ách, khổ sở trăm chiều.
=> Như vậy, tác giả đứng về phía nhân dân mà bày tỏ thái độ yêu ghét rạch ròi, đúng mực.
b.2. Ghét thế lực cầm quyền bạo tàn – thương hiền tài không được trọng dụng
- Liệt kê các danh sĩ trong sử sách:
+ Khổng Tử: lận đận
+ Gia Cát: tài đức mà mệnh yểu
+ Nhan Tử: mưu lược tài ba nhưng không gặp thời
+ Đồng Tử: tài cao học rộng nhưng không được tin dùng
+ Nguyên Lượng: thơ văn lỗi lạc, học rộng, từ quan ở ẩn
+ Hàn Dũ: ngay thẳng mà mang họa
+ Liêm, Trạc: Triết gia không được trọng dụng, lui về dạy học
- Điểm chung của các nhân vật này: họ đều là những người có tài, có chí muốn hành đạo, giúp
đời, giúp dân nhưng vì thời cuộc đều khơng đạt được sở nguyện.
- Họ là những người đồng cảnh ngộ với Nguyễn Đình Chiểu: ơng muốn giúp đời, lập nên nhiều
cơng danh nhưng cuộc đời đầy bất hành, lại thêm thời thế đầy nhiễu nhương. Bởi thơ, đoạn thơ
chính là niềm cảm thơng sâu sắc tận đáy lịng của cụ Đồ Chiểu.
c. Tư tưởng và tấm lòng của tác giả
- Hai câu kết:
“Xem qua kinh mấy lần thi cử
Nửa phần lại ghét nửa phần thương.”
- Nghệ thuật tiểu đối => nỗi “thương” và “ghét” ở đây, tuy nói chuyện sử sách nhưng ít nhiều
đều phù hợp với chế độ thối nát của nhà Nguyễn và tâm sự của Nguyễn Đình Chiểu lúc bấy giờ.
3. Kết bài:
- Cảm nhận chung về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích.
Bài làm
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188



Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Truyện Lục Vân Tiên là tác phẩm lớn của văn học Việt Nam thời trung đại, được nhân dân, đặc
biệt là nhân dân Nam Bộ yêu chuộng. Nguyễn Đình Chiểu sáng tác truyện thơ này vào khoảng
sau năm 1850, khi ông đã bị mù, về mở trường dạy học và chữa bệnh cho dân ở Gia Định. Nội
dung dựa trên cơ sở các mơ típ của văn học dân gian và truyện trung đại kết hợp với một số tình
tiết có thật trong cuộc đời tác giả.

Truyện kể về Lục Vân Tiên, một chàng trai văn võ song toàn, trên đường đi thi đã đánh tan bọn
cướp, cứu Kiều Nguyệt Nga, một tiểu thư con quan. Nguyệt Nga tự nguyện xin gắn bó với chàng
để đáp đển ân nghĩa. Trước khi thi, được tin mẹ đã qua đời, Lục Vân Tiên phải về chịu tang.
Chàng thương khóc mẹ đến mù hai mắt. Trịnh Hâm, một kẻ xấu bụng vì ghen tài nên đã lừa đẩy
Lục Vân Tiên xuống sông. Chàng được vợ chồng ông Ngư cứu sống, về đến quê nhà, chàng bị
cha con Võ Thể Loan (vợ chưa cưới) trở mặt bội ước, đem bỏ chàng trong hang núi nhưng chàng
được Thần, Phật giúp đỡ. Cuối cùng, mắt chàng sáng ra, thi đỗ Trạng nguyên và được nhà vua cử
đi đánh giặc ô Qua.
Nguyệt Nga một lòng chung thủy với Vân Tiên. Bị Thái sư bắt đi cống cho giặc, nàng đã nhảy
xuống sông tự tử, nhưng được cứu sống. Sau đó, nàng bị cha con Bùi Kiệm ép duyên, phải bỏ
trốn. Cuối cùng, Vân Tiên thắng trận trở về, tình cờ gặp lại Nguyệt Nga và cùng nàng kết duyên
chồng vợ.
Đoạn trích Lẽ ghét thương (từ câu 473 đến 504) kể về cuộc nói chuyện giữa nhân vật ông Quán
và mấy nho sĩ trẻ tuổi. Lục Vân Tiên cùng bạn là vương Tử Trực đi thi, vào quán trọ gặp Trịnh
Hâm và Bùi Kiệm cũng là sĩ tử. Trịnh Hâm đề nghị bốn người làm thơ để so tài cao thấp. Trịnh
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí


Hâm, Bùi Kiệm thua tài lại cịn nghi Lục Vân Tiên và vương Tử Trực gian lận. ông Quán nhân
đó mới bàn về lẽ ghét thương ở đời.
Đoạn trích là lời cảm khái than đời của ơng Quán trước bọn tiểu nhân Trịnh Hâm, Bùi Kiệm
huênh hoang, khoác lác, bất tài mà bụng dạ lại xấu xa. Đó chính là việc tầm phào mà ơng Qn
ghét. ơng Quán là nhân vật tiêu biểu cho các nhà Nho mai danh ẩn tích, cũng như ơng Ngư, ơng
Tiều, lấy nghề nghiệp mưu sinh làm tên. Có thể coi đây là nhân vật phát ngôn cho tư tưởng của
tác gỉả.
Quán rằng: “Kinh sử đã từng,
Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa.
Hỏi thời ta phải nói ra,
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương"
Câu nói của ơng Qn cho thấy mối quan hệ khăng khít giữa hai loại tình cảm ghét – thương
trong trái tim Đồ Chiểu. Hay ghét không phải vì những nỗi niềm riêng tư cá nhân trước cuộc đời.
Hay ghét khơng phải vì khơng tha thiết lịng thương. Lí giải cho căn nguyên của tất cả những
căm ghét sơi trào hóa ra lại xuất phát từ tấm lịng u thương trĩu nặng đối với cuộc đời: Vì
chưng hay ghét cũng là hay thương. Câu thơ tuyên ngôn về lẽ ghét thương của ông Quán như
một yêu cầu về đạo đức và lí tưởng của con người. Thương và ghét là hai mặt đối lập của một
tình cảm thống nhất. Đã thương cái tốt đẹp tất phải ghét cái xấu xa. Lẽ ghét thương mà ông Quán
nhắc đến gắn với lịng thương dân sâu sắc. Hóa ra ghét chỉ là một biểu hiện khác của tình yêu
thương mà thơi.
Bởi thương đến xót xa trước cảnh nhân dân phải chịu lầm than, khổ cực, thương những con
người tài đức mà bị vùi dập, phải mai một tài năng và chí nguyện bình sinh nên ơng Qn càng
căm ghét những kẻ hại dân, hại đời, nhẫn tâm đẩy dân chúng vào cảnh ngộ éo le, oan nghiệt.
Giữa cuộc đời đầy rẫy bất công, ngang trái, trái tim yêu thương của nhà thơ khơng thể khơng cất
lên tiếng nói bất bình, căm hận những gì lỗi đạo trời, trái đạo người. Vì chưng hay ghét cũng là
hay thương – đó là đỉnh cao tư tưởng nhân văn của Nguyễn Đình Chiểu.
Tiếp sau câu trả lời khái quát này, ông Quán đã chứng minh cho điều mình nói. Cái gốc của lẽ
ghét thương xuất phát từ tỉnh u thương. Khơng có cái gốc của thương, mọi cái ghét dường như
có nguy cơ trở thành thái độ hằn học với cuộc đời. Do đó nó sẽ khơng có ý nghĩa nhân văn cao
cả và khơng có động lực đấu tranh.

Phần nói về lẽ ghét gồm mười câu:
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Quán rằng: “Ghét việc tầm phào,
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm.
Câu thơ thứ nhất đã hé mở cho chúng ta thấy nguyên nhân quyết định thái độ yêu ghét của ông
Quán và cũng là của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Thấp thống sau từng chữ, từng câu là một trái
tim tha thiết yêu thương. Tình thương ấy thể hiện qua hai chữ hay thương giản dị, mộc mạc mà
xúc động lòng người.
Tám câu thơ tiếp theo chia làm bốn cặp, cứ câu trên nêu lên đối tượng bị ghét thì câu dưới tả
cảnh khổ của dân :
Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm,
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.
Ghét đời u, Lệ đa đoan,
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
Ghét đời Ngũ bá phân vân,
Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn.
Ghét đời thúc quý phân băng,
Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân.
Ông Quán đã Ghét cay ghét đắng ghét vào tận tâm các triều đại và những nhân vật đại diện cho
các triều đại đó như vua Kiệt thời nhà Hạ, vua Trụ đời nhà Thương bạo ngược, vô đạo, hoang
dâm nhất trong lịch sử vua chúa Trung Quốc. Sử sách còn ghi lại chuyện vua Kiệt cho: Xây núi
thịt, rừng thịt khô, đào ao đựng rượu, đi thuyền trong ao, đào hầm làm Trường Dạ cung (cung
đêm dài) để nam nữ tạp giao. Vua Trụ cuối nhà Thương lấy thịt người nuôi thú dữ, moi tim trung
thần là 77 Can để xem bảy khiếu…
Đời u, Lệ đa đoan tức là u vương và Lệ vương, những tên vua khét tiếng tàn bạo, say mê tửu sắc.
Bao Tự, người đàn bà đẹp mà u vương say đắm thường buồn rầu, chẳng bao giờ cười. Để mua

tiếng cười của Bao Tự, u Vương đã sai người lấy hàng trăm tấm lụa quý trong kho để xé, tạo ra
âm thanh “vui tai” cho Bao Tự nghe. Liều lĩnh hơn, nhà vua còn cho đốt đài phong hoả trên núi
Lư Sơn để các nước chư hầu tưởng có biến, vội vàng kẻo quân đến cứu. Đang dự yến tiệc trên
lầu cao, nhìn các nước chư hầu hốt hoảng kéo tới rồi chưng hửng ra về, Bao Tự đã vỗ tay cười.
Đời Ngũ bá phân vân mà ông Quán nhắc đến là đời nhà Chu năm vua chư hầu kế tiếp nổi lên làm
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

bá chủ. Họ kéo bè, kết cánh, đánh nhau liên miên gây nên cảnh loạn lạc, điêu đứng cho dân
chúng. Đời thúc quỷ phân bảng, vua và các lãnh chúa cuối đời Đường sớm đầu tối đánh, hỗn
chiến kéo dài khiến triều đình chia lìa, suy thối.
Tất cả các triều đại trên đều giống nhau ở một điểm là vua chúa say đắm tửu sắc, hoang dâm vô
độ, quan lại chia phe phái tranh giành, quyển lợi, khơng chăm lo đến cuộc sống của nhân dân mà
cịn làm hại dân, đẩy dân vào cảnh lầm than khổ cực. Nghệ thuật sử dụng điệp ngữ trong đoạn
thơ có tác dụng nhấn mạnh những điểu đáng ghét và thể hiện thái độ căm phẫn cao độ của nhân
vật ông Qn. Qua lời ơng Qn, người đọc có thể thấy Nguyễn Đình Chiểu đã đứng hẳn về phía
nhân dân bị áp bức để lên án bọn vua chúa bạo ngược, bất nhân và lũ quan lại sâu dân mọt nước.
Trong phần nói về lẽ thương, ơng Qn đã dẫn những chuyện về các bậc hiền tài phải chịu số
phận lận đận, ước nguyện phị vua giúp đời khơng thành. Hồi bão và cảnh ngộ của họ dường
như có những điểm giống với tác giả của truyện Lục Vân Tiên. Bởi vậy tiếng thơ là lời đồng cảm
sâu sắc xuất phát từ đáy lòng, đâu phải chi là chuyện xem trong kinh sử đã từng. Nguyễn Đình
Chiểu khi viết truyện Lục Vân Tiên đã trải qua bao bất hạnh của số phận, lại đứng trước một thời
buổi nhiễu nhương, loạn lạc.
Nói đến lẽ thương thì những nhân vật mà ơng Qn thương là đức thánh nhân Khổng Tử, ông tổ
của Nho giáo đã lận đận cả đời trỏng sự nghiệp hành đạo của mình. Khổng Tử muốn truyền bá tư
tưởng, thực hiện hoài bão cứu đời nhưng tới nước nào cũng khơng được tin dùng, có những lần
cịn st bị hãm hại. Thầy Nhan tử dở dang tức là Nhan Uyen, học trò xuất sắc nhất của Khổng
Tử, rất hiếu học, đức độ, song yểu mệnh: Ba mươi mốt tuổi, tách đàng công danh. Gia Cát

(Khổng Minh) thời Tam Quốc dốc tài làm quân sư cho Lưu Bị nhằm khôi phục cơ đồ nhà Hán
nhưng lại không gặp thời, gặp vận, trước khi mất, sự nghiệp vẫn chưa thành. Đổng Tử tức Đổng
Trọng Thư, bậc đại Nho thời nhà Hán, học rộng, tài cao, ra làm quan mà không được trọng dụng,
khơng có điều kiện để thi thố tài năng. Ngun Lượng tức Đào Tiềm, người có tính cách cao
thượng, khơng màng danh lợi và rất giỏi thơ văn. Đào Tiềm đã nhận một chức quan nhỏ nhưng
vì khơng chịu khom lưng uốn gối trước quan trên nên đã lui về ẩn dật, đào giếng lấy nước uống,
cày ruộng lấy cơm ăn (tạc tỉnh canh điền), để giữ trọn khí tiết của mình. Hàn Dũ là nhà văn nổi
tiếng đời Đường, khi làm quan trong triều vì dâng biểu khuyên vua không nên quá tin đập Phật
nên đã bị giáng chức và đày đi xa. Thầy Liêm, Lạc là Chu Đôn Di ở Liêm Khê và Trình Hạo,
Trình Di người Lạc Dương, đều là những triết gia nổi tiếng đời Tống, ra làm quan nhưng bất
đổng quan điểm với vua nên lui vể dạy học.
Như vậy, lẽ thương của ông Quán bắt nguồn từ tình thương dân, thương đời. Cảnh ngộ của
Nguyễn Đình Chiểu khi viết tác phẩm Lục Vân Tiên ít nhiều giống những nhân vật lịch sử mà
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

ơng Qn đã dẫn trong đoạn trích. Là một nho sĩ, Nguyễn Đình Chiểu cũng từng mơ ước lập
thân để trả nợ nước non, nhưng mới bước chân vào đời ông đã gặp bao nỗi bất hạnh, Cho nôn,
trong niềm thương những bậc hiền tài kia cũng có một phần là thương mình.
Địểm lại tất cả những đối tượng ghét và thương của ông Quán, chúng ta có thể thấy điều mà tác
giả quan tâm chính là cuộc sống lầm than của đông đảo dân chúng dưới ách thống trị của bọn
vua chúa bạo ngược và số phận long đong của những nho sĩ hiền tài không gặp thời, gặp vận.
Các dẫn chứng tuy lấy từ sử sách của Trung Quốc cổ nhưng đều được lựa chọn để ngụ ý nói về
hiện tình xã hội Việt Nam dưới triều đại nhà Nguyễn. Chính sách áp bức, bóc lột nặng nề của nhà
Nguyễn đã đẩy nhân dân vào cuộc sống đói khổ cùng cực. Khơng ít hiền tài chẳng những khơng
được tin dùng mà cịn bị vùi dập, đoạ đày. Cao Bá Quát là người tài cao mộng lớn nhưng thi
nhiều lần mà chi đỗ đạt thấp. Bất mãn trước xã hội thối nát, ông đã tham gia phong trào khởi
nghĩa của nơng dân chống lạí triều đình nên bị giết chết. Bùi Hữu Nghĩa vì cương trực mà không

tránh khỏi ngục tù. Nguyễn Công Trứ “một niềm trung trinh báo quốc” cuối cùng cũng bị biến
thành “con rối làm trò cười cho thiên hạ”. Đằng sau những chuyện tác giả mượn từ sử sách xa
xưa thấp thoáng bóng dáng hiện thực đang diễn ra trước mắt.
Tất cả những điều đáng ghét, đáng thương trong cuộc sống thường xuyên dội vào tâm tư Đồ
Chiểu, con người nặng tình với dân với đời, khiến ơng phải xót xa, đau đớn. Cho nên khơng có
gì lạ khi nói tới chuyện đạo lí, kinh sử đời xưa mà giọng điệu ơng Quán lại không nén được nỗi
buồn giận, đắng cay. Tâm trạng của ông Quán được thể hiện qua những từ ngữ mộc mạc nhưng
đầy sức mạnh và giàu cảm xúc, nóng hổi hơi thở của cuộc sống như: ghét cay ghét đắng, sa hầm
sẩy hang, lằng nhằng rối dân, phui pha, ngùi ngùi… Lối dùng điệp ngữ dồn dập, cụm từ Thương
ơng, Thương thầy cũng lặp lại chín lần ở mười bốn câu, rất có hiệu quả trong việc diễn đạt thái
độ ghét, thương dứt khoát, phân minh của tác giả. Ngồi ra, đoạn thơ cịn sử dụng nghệ thuật tiểu
đối trong câu, ví dụ như: Vì chưng hay ghét >< cũng là hay thương, sa hầm >< sẩy hang, sớm
đầu >< tối đánh, Chí thời có chi >< ngơi mà không ngôi, Sớm dâng lời biểu >< tối đày đi xa,…
làm cho câu thơ nhịp nhàng, cân đổi, mang vẻ đẹp cổ điển. Tuy nhiên, phần lớn lời thơ trong
Truyện Lục Vân Tiên mang tính chất khẩu ngữ cho nên mộc mạc, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ đi vào lịng
người.
Đoạn trích Lẽ ghét thương qua lời ơng Qn đã thể hiện tập trung tư tưởng thương dân, thương
đời sâu sắc của Nguyễn Đình Chiểu. Vì thương dân, thương đời mà ơng ghét bọn hơn qn, bạo
chúa bất nhân. Vì thương dân, thương đời mà ơng kính mến và xót xa cho các bậc hiền tài, tiếc
rằng họ khơng có dịp đem tài năng để giúp đời. Đằng sau lẽ ghét thương là tấm lòng nhân ái sâu
sắc, bao la của nhà thơ mù nổi tiếng đất Lục tĩnh Nam Kì.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Bài làm 2
Xuân Diệu đã nhận xét rất đúng: “Nguyễn Đình Chiểu đã viết đoạn thơ thương ghét trứ danh.
Thật ra từ ngàn đời trước, đó là tình cảm phổ biến của nhân dân, và nhiều thi sĩ trước kia đã có
những vần thơ về tà, chính; nhưng viết ra tập trung thành mấy chục câu thơ giản dị, phân minh,

rõ ràng, sắc nét, có nhạc điệu, có tâm tình, khiến ai cũng phải thuộc, thì ai đã viết một cách điển
hình như vậy ngồi Nguyễn Đình Chiểu”
Đây là đoạn trích lời phát biểu của ơng Qn khi chứng kiến cảnh Vân Tiên, Tử Trực, Bùi
Kiệm, Trịnh Hâm thi tài xướng họa tại quán của ông. Kiệm, Hâm bất tài, làm thơ không ra, lại
nghi hoặc đổ thừa cho Tiên và Trực làm thơ nhanh là do chép thơ cổ nhân, ông Quán bật cười,
khuyên Tiên nên biết chọn bạn. Tiên xin ơng nói cho lẽ ghét thương ở đời, nhân đó mà ơng Qn
có đoạn phát biểu như trong đoạn trích “Lẽ ghét thương"
Trong đoạn văn trên ơng Qn đã trình bày 10 dịng về ghét, 14 dòng về thương và kết lại hai
câu “nửa phần ghét, nửa phần thương” ở đời.
Ông Quán đã ghét những gì? Qua bốn điều ghét: ghét đời Kiệt, Trụ, ghét đời u, Lẽ, ghét đời
Ngũ Bá, ghét đời Thúc Quý, ta thấy ông Quán ghét các chế độ xã hội thối nát, đạo đức suy đồi,
dối trá, hèn hạ, dâm dục... đã làm cho nhân dân điêu đứng “sa hầm sẩy hang”. Qua bốn điều ghét
ta cũng thấy Nguyễn Đình Chiếu đã có một tiêu chuẩn về cái đáng ghét rất rõ ràng: Cái gì làm
khổ dân, nhũng nhiễu dân, gây hại cho dân đều đáng ghét cả.
Mức độ căm ghét của ông cũng hết sức sâu sắc. Mấy chữ sau đây nghe như dao khắc vào đá,
sâu đậm, không phai mờ:
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm.
Ông Quán đã thương những gì? Qua bảy điều thương ta thấy ông thương toàn nhà nho nổi
tiếng, từ Khổng Tử, Nhan Hồi, Đổng Trọng Thư, Gia Cát Lượng, cho đến Đào Tiềm, Hàn Dũ,
Chu Hi, Trình Di, Trình Hiệu đời Đường-Tống. Vì sao lại thương họ? Ơng thương đời họ dở
dang, gặp bước gian trn, khơng có điều kiện phát huy đầy đủ tài năng và đức độ của họ. Nhìn
chung lại ơng Qn thương người có tài, có đức gặp khó khăn bị dang dở, bị hãm hại. Qua mấy
điều thương này ta thấy ơng Qn hết sức thương xót những bậc có tài cao, đức trọng ở đời.
Điều đáng chú ý nhất trong đoạn văn này là trong ghét có thương, trong thương có ghét. Khi
nói tới ghét các đời đa đoan lời văn đã để lộ một niềm thương yêu lớn: thương dân. Khi nói tới
niềm thương, lời văn toát ra niềm ghét, ghét kẻ tiểu nhân xua đuổi kẻ hiền tài.
Tổng hợp lại ông Quán thương nhân dân, thương hiền tài, ghét xã hội thối nát, ghét kẻ tiểu
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188



Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

nhân đê tiện, cội nguồn của mọi bất hạnh trong đời. Lẽ ghét thương của ông Quán cũng chính là
lẽ ghét thương của Nguyễn Đình Chiểu, chứng tỏ nhà thơ hồn tồn đứng về phía nhân dân,
chính nghĩa. Sự lặp lại những từ “ghét đời”, “thương là”, “thương người”... có ý nghĩa như một
dấu hiệu liệt kê. Sau mỗi tiếng ấy người đọc đợi chờ thêm một hiện tượng đáng ghét, điều
thương ở đời. Sự lặp lại gây tác dụng biểu cảm, biểu hiện một nguồn tình cảm dào dạt, lai láng
tuôn chảy không thôi trong trái tim ông Quán và trái tim nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu.
Mấy câu thơ:
Quán rằng: ghét việc tầm phào
Ghét cay, ghét đáng, ghét vào tận tâm
Là những câu rất hay. Hai câu thơ mà bốn chữ ghét, nói lên cường độ sâu đậm của tình cảm.
Hơn nữa mấy chữ ghét lại được sắp xếp theo nhịp điệu tự nhiên, nhịp nhàng có tác dụng khắc
sâu. Cách dùng từ diễn đạt lại là cách dùng khẩu ngữ: “ghét cay ghét đắng”, “ghét chuyện tầm
phào”, hồn nhiên, bộc trực, không một chút quanh co. Vẻ đẹp của câu thơ Nguyễn Đình Chiểu là
vẻ đẹp bộc trực, thẳng thắn, dứt khoát, và do đó mà mạnh mẽ.
Bài làm 3
Đoạn trích Lẽ ghét thương chinh phục người đọc bởi tính nhân đạo, bởi tình cảm yêu ghét phân
minh và tấm lòng nhiệt thành với chính nghĩa, là nét đặc trưng tính cách của con người Nam
Bộ…
Là một nhà thơ mù nhưng Nguyễn Đình Chiểu luôn chủ trương sáng tác văn học để chở đạo,
đâm gian. Tác phẩm của ơng vì thế ln chứa đựng tinh thần nhân văn sâu sắc. Ở đó bao giờ bạn
đọc cũng bắt gặp những tình cảm rõ ràng cụ thể: u – ghét, cảm thơng, căm giận… Những tình
cảm ấy có thể được tác giả bộc lộ một cách trực tiếp trong các tác phẩm: Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc, Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh…, cũng có thể gián tiếp gửi gắm qua phát ngơn của
nhân vật. Và thái độ, tình cảm của ơng Qn trong Lẽ ghét thương (Trích Lục Vân Tiên) là một
ví dụ tiêu biểu.
Lẽ ghét thương là những lời thơ tâm huyết về nỗi ghét tình thương nhân bản của Nguyễn Đình
Chiểu. Và trong tình huống này, nhân vật ơng Qn trở thành cái loa phát ngơn cho chính tác giả.
Những tình cảm u, ghét rạch rịi của ơng Qn nói ra ngay sau khi chúng biến cảnh Lục Vân

Tiên, Vương Tử Trực, Bùi Kiệm và Trịnh Hâm cùng thi tài xướng hoạ tại qn ăn của mình.
Đoạn trích có 26 câu thơ thì có tới 16 câu thơ nói về tình thương. Như vậy số câu thơ về tình
thương yêu con người đã quá nửa. Bản thân Nguyễn Đình Chiểu cũng đã từng nói. Bởi chưng
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

hay ghét cũng là hay thương. Quả thực khi suy ngẫm kĩ những câu thơ này, ta sẽ thấy gốc rễ,
nguyên nhân sâu xa của nỗi ghét chính là tình thương dân sâu sắc.
Tình thương chính là điểm tựa, là động lực tinh thần để nhà thơ lên tiếng phê phán những bọn
xấu xa, những kẻ độc ác. Sở dĩ ông Quán ghét cay ghét đắng những chuyện tầm phào, những cái
đa đoan, những cái dối trá, những trị mê dâm là vì chúng làm rối dân, làm dân luống chịu lầm
than muôn phần. Mỗi lần nhắc đến một đối tượng đáng ghét, đáng lên án ấy sẽ là một lần tác giả
thêm một câu bình luận về tội ác của chúng gây cho dân lành:
Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hoang
Ghét đời U, Lệ đa đoan
Khiến dân luống chịu lầm than mn phần…
Và trong 10 câu thơ nói về lẽ ghét thì có tới bốn câu thơ nói về cung bậc, mức độ khác nhau
trong nỗi khổ mà dân lành phải gánh chịu:
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hoang.
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn.
Sớm đầu tối đánh lằng nhằng dối dân.
Nếu như những câu thơ nói về lẽ ghét thương thể hiện nỗi kinh bỉ, tức giận thì đến những câu
thơ này giọng thơ đột ngột chậm thể hiện sự thông cảm, chia sẻ của nhà thơ đối với nhân dân.
Để giãi bày những lời tâm huyết về nỗi ghét này được sâu đậm, Nguyễn Đình Chiểu đã sử
dụng nghệ thuật điệp từ. Chỉ có 10 câu thơ đầu tác giả đã sử dụng tới 8 từ ghét. Riêng câu thơthứ
hai đã có tới 3 từ:

Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm.
Cay, đắng là những từ dùng để chỉ mùi vị, ở đây cay, đắng không phải dùng như một sự lạ hố
ngơn từ, mà nó dùng để diễn tả độ sâu tăng dần của cái ghét. Sự kết hợp của các điệp từ ghét với
sự tăng cấp về mức độ, nhà thơ đã hé mở cho độc giả biết cái ghét, đối tượng bị ông Quán ghét
không chỉ thuộc phạm vi một thời đại nào mà nó có trong mọi thời đại.
Vì thế nỗi ghét ở đây là đổi gam, đổi chất, không chỉ dừng ở thái độ bên ngồi, mà nó đã ăn sâu
vào máu, vào huyết quản, ghét vào tận tâm của ông. Cái gọi là ghé của ông Quán thực chất là
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

lịng chăm thù. Ơng căm thù tất cả những bọn làm ảnh hưởng, làm tổn hại đến cuộc sống hạnh
phúc của nhân dân. Điều này thể hiện tính nhân dân sâu sắc của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
Đối lập với nỗi ghét, lịng căm thù là tình thương. Ơng Qn đã tự bạch về tình thương của
mình trong mười sáu câu thơ. Chỉ mười sáu câu thơ nhưng nó làm hiển hiện cả cõi lịng của một
con người, thể hiện một cách sâu sắc sự cảm thông, xót xa của ơng Qn đối với những bậc hiền
nhân quân tử, kiểu mẫu của đạo Nho, muốn hành đạo giúp vua, cứu dân nhưng không thành.
Người được nhắc đến đầu tiên trong đoạn thơ nói về tình thương là Khổng Tử – người đã gặp
rất nhiều gian lao vất vả khi truyền đạo:
Thương là thương đức thánh nhân
Khi nơi Tống, Vệ, lúc Trần, lúc Khng.
Ơng thương đến cả người chết yểu mà công danh chưa đạt:
Thương thầy Nhan Tử dở dang
Ba mươi mốt tuổi tách đàng cơng danh
Ơng lại thương cả những người không gặp vận may, những ông quan thanh liêm không gặp
thời…
Thương ông Gia Cát tài lành
Gặp cơn Hán mạt đã đành phôi pha…
…Thương thầy Liêm, Lạc đã xa

Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.
Nếu như ở mười câu đầu Nguyễn Đình Chiểu để cho nhân vật nói lên lịng căm thù bọn người
hại dân để nói lên lịng thương dân, thì ở đoạn sau tác giả lại cho nhân vật bộc lộ trực tiếp lòng
thương đối với những người có tài cao chí lớn, muốn phò vua giúp đời mà gặp phải bất hạnh nên
nguyện vọng cứu dân không thực hiện được. Và để thể hiện tình cảm thương u đầy tình nhân
bản đó, nhà thơ đã điệp đi điệp lại từ thương tới chín lần. Nó khơng chỉ thể hiện được tình
thương u tha thiết ông dành cho từng đối tượng cụ thể mà cịn bộc lộ một tình cảm, tình
thương bao la rộng lớn dành cho số phận cay đắng của con người trước những quy luật khắc
nghiệp của tạo hoá và xã hội.
Trích đoạn Lẽ ghét thương tuy khơng dài nhưng được tác giả tổ chức sắp xếp khá chặt chẽ,
mạch lạc. Sự kết hợp giữa việc sử dụng điệp từ ghét, thương với nghệ thuật bố cục chặt chẽ
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

khơng chỉ tạo được sự rõ ràng trong ý thơ mà cịn tạo cho đoạn thơ có giọng điệu vừa trang
nghiêm vừa thống thiết – một nét đặc trưng của điệu thơ trữ tình Nguyễn Đình Chiểu.
Như vậy thơng qua nhân vật ơng Qn, Nguyễn Đình Chiểu đã gửi gắm những lời tâm huyết
về nỗi ghét thương. Nó khơng chỉ thể hiện một tâm hồn giàu tình yêu thương mà còn thể hiện
một tinh thần nhân bản sâu sắc.
Bài làm 4
Ở Nam kì, khi nhắc tới Lục Vân Tiên thì có lẽ khơng ai là khơng biết! Đây là một tác phẩm xuất
sắc của Nguyễn Đình Chiểu được sáng tác vào những năm 50 của thế kỉ XIX, khi mà ông đã bị
mù, về dạy học và bốc thuốc cứu người cho nhân dân vùng Gia Định. Tác phẩm là cuộc xung đột
gay gắt giữa cái thiện và cái ác, đề cao nhân nghĩa, khát vọng của nhân dân về một xã hội tốt
đẹp, công bằng, con người sống với nhau bằng lòng yêu thương nhân ái. Trong tác phẩm này có
đoạn trích Lẽ ghét thương là một trong những đoạn trích xuất sắc nhất của tác phẩm Lục Vân
Tiên.
Đoạn trích Lẽ ghét thương nằm từ câu 473 đến 504 của tác phẩm Truyện Lục Vân Tiên kể về

cuộc đối thoại giữa ông Quán và bốn chàng Nho sinh (Vân Tiên, Tử Trực, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm)
khi họ đang cùng uống rượu, cùng so thơ tại quán của ông trước lúc vào trường thi. Tại cuộc so
tài này, ơng Quan đã bày tỏ quan điểm của mình về lẽ ghét thương của mình trong cuộc đời. Ơng
Qn là một nhân vật rất được yêu thích trong Truyện Lục Vân Tiên, bởi ơng là biểu trưng cho
tình cảm của nhân dân, là biểu tượng cho sự ghét thương rạch rịi của quần chúng. Ơng mang
dáng dấp của một nhà Nho ẩn dật, như Nguyễn Đình Chiểu, mang đậm những nét tính cách đặc
trưng của người Nam bộ. Trong những lời dạy của ông Quán, một nửa trong số đó là lẽ ghét, một
nửa là lẽ thương, đúng như câu kết của ông rằng: "Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương". Và
cũng từ đó, ta nhận ra được rằng ghét thương luôn song hành với nhau, thương cái tốt cái đẹp,
ghét cái xấu, cái ác. Ở đoạn trích này, ông Quán đã bày tỏ sự ghét bỏ với những kẻ hại dân, đẩy
nhân dân vào cảnh lầm than, trái lại, ông thương những con người tài đức, nhưng lại vùi dập
thảm hại.
Mở đầu đoạn trích, ơng Qn đã bày tỏ lời bộc bạch của mình:
"Quán rằng: "Kinh sử đã từng
Coi rồi lại khiến lịng hằng xót xa
Hỏi thời ta phải nói ra
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương".
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Đây là những lời tự bộc của ông sau khi nghe Vân Tiên nói về lẽ ghét thương ở đời của mình. Lẽ
ghét thương vốn đã được kinh sử ghi lại, những người học chữ Thánh hiền chắc hẳn đã từng đọc
qua mà xót xa cho những điều đau đớn. Nhờ lời của Vân Tiên, ông Quán mới cởi tấm lịng mình
mà bộc bạch "Vì chưng hay ghét cũng là hay thương".
Thấy ơng Qn cởi lịng, chàng Vân Tiên cũng tiếp lời ông lão:
"Tiên rằng: 'Trong đục cho tường
Chẳng hay thương ghét, ghét thương lẽ nào?"
Đây chính là những lời khơi gợi, khiến cho lão Quán như cởi được tấm lịng mình mà tiếp lời

Tiên về lẽ ghét thương ở đời. Trước tiên, ơng nói về lẽ ghét:
"Quán rằng: 'Ghét việc tầm phào

Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân".
Hai câu thơ đầu tiên về lẽ ghét, Nguyễn Đình Chiểu đã cho ơng Qn dùng tới bốn từ "ghét" để
nhấn mạnh, để khắc sâu cái cảm giác ghét. Lời thơ thì mang sắc thái nhẹ nhàng "ghét việc tầm
phào" thế nhưng ngữ điệu của nhân vật thì đã lên tới đỉnh điểm của sự ghét. Ông ghét "những
việc tầm phào" đó là chỉ những việc nhỏ nhen, xằng bậy, ích kỉ, hoang đường làm hại đến người
dân. Đó là những việc mà Quán ghét đến mức khắc sâu mà trong tận tâm can mình. Ở đây, người
ta thống thấy bóng dáng của Nguyễn Đình Chiểu – một nhà Nho yêu nước, ghét bỏ cái thói ăn
chơi sa đọa của vua chúa thời đó.
Sau khi nêu lên quan điểm của mình về lẽ ghét, ơng mới liệt kê ra một loạt những dẫn chứng, cụ
thể hóa những lẽ ghét của mình. Cấu trúc thơ được lặp lại "ghét đời… " cùng với đối tượng ghét
và câu sau nêu lên những hậu quả mà chúng đã gây nên cho nhân dân. Cách nói bộc trực, thẳng
thắn, khơng hoa mỹ như chính tính cách của những con người miền Nam. Từ sách sử Trung
Quốc, ông Quán nêu ra hàng loạt những nhân vật nổi tiếng, đã gây ra tai họa cho nhân dân vì sự
ích kỉ, tham lam, u mê của mình, ơng lấy đó làm dẫn chứng cho lẽ ghét của mình với lời lẽ đanh
thép, lên án.
Ơng "ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm", đây là hai tên hôn quân mà ông dẫn ra làm chứng đầu tiên cho
lẽ ghét của mình. Hai tên vua bạo ngược, vơ đạo trong lịch sử Trung Quốc đã khiến cho dân
chúng "sa hầm sảy hang", phải chịu bao đau thương, tang tóc của chiến tranh loạn lạc. Ơng cịn
ghét hai tên vua "U, Lệ đa đoan", khơng chỉ tàn bạo mà cịn hoang dâm khiến cho dân chúng
mn phần khốn khổ. Ơng ghét thời "ngũ bá phân tranh", vì lịng tham, ích kỉ mà kết bè kéo
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

cánh gây lên cảnh chiến tranh liên miên, loạn lạc khiến dân chúng phải điêu đứng. Có thể thấy
rằng mỗi điều mà ông Quán "ghét cay ghét đắng" đều được dựa trên tình yêu nước thương dân

nồng nàn, có u nước, có thương dân chúng, ơng mới ghét "vào tận tâm" những kẻ vô lương
tâm, sống trên sự áp bức dân nghèo. Ơng cũng xót xa cho cảnh dân chúng lầm than khi phải sống
dưới sự cai trị độc ác, tàn bạo của lũ vua chúa bạo ngược, vơ đạo.
Lẽ ghét mà ơng Qn thì là thế, vậy cịn "nửa thương" thì sao? Cũng như lẽ ghét, lẽ thương được
ơng Qn trình bày bằng những ví dụ cụ thế, nhưng lại là mười bốn câu thơ, hơn hẳn lẽ ghét bốn
câu.
"Thương là thương đức thánh nhân

Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương"
Vẫn với những lời lẽ như ở phần ghét, vẫn là cấu trúc câu như thế, thế nhưng ở phần thương này,
giọng điệu ông Quán trở lại hiền từ, dịu dàng chứ khơng cịn đanh thép như lẽ ghét. Ông Quán đã
vận dụng hết những kiến thức của mình để lấy dẫn chứng, ví dụ về lẽ thương ở đời cho bốn
chàng sĩ tử nghe. Những nhân vật nổi tiếng trong nền văn hóa Trung Hoa được ơng nêu lên làm
ví dụ cho những chàng trai trẻ như thầy Nhan Tủ, như ông Gia Cát, …
Với ông, ông thương những bậc "đức thánh nhân" hiền từ như Khổng Tử, dùng hết nhân trí của
mình để sáng tạo ra nền Nho giáo – nền tảng tinh thần của xã hội Trung Hoa, thứ mà sau này
người ta đã dùng để tuyển chọn những người tài cho đất nước. Khổng Tử sáng tạo ra Nho giáo,
còn hết lòng hành đạo để truyền bá "khi nơi Tống, Vệ, lúc Trần, lúc Khuông", ấy vậy mà chẳng
thành, đành về nhà dạy học, trở thành một thầy giáo bình thường. Mãi đến tận sau này, khi
Khổng Tử đã ra đi, người ta mới thấy được những giá trị cốt lõi, những tư tưởng triết lý ẩn sâu
trong từng lời dạy của ông. Thế nên, ông Quán thương cho bậc "đức thánh nhân" ấy! Ơng cịn
thương "thầy Nhan Tử" – một người học trò đức hạnh nhất của đức thánh nhân Khổng Tử, những
tưởng sẽ xây dựng lên công danh lớn, chẳng ngờ lại yểu mệnh, chết oan. Ông thương cho "Gia
Cát" – người quân sư tài ba cho Hán Cao Tổ Lưu Bang, tài giỏi là thế, ấy nhưng lại đành chôn
vùi mộng lớn theo sự diệt vong của nhà Hán. Ông thương cho "Nguyên Lượng", cho "Đổng Tử"
– những vị quan thanh liêm, tài giỏi, hết lòng phò vua, ấy vậy mà chẳng gặp thời đành bất đắc
chí trở về quê nhà với ruộng vườn, ao cá, chôn vùi tài năng cả một đời. Ông thương cho "Hàn
Dũ", cho "thầy Liêm, Lạc" – những bậc anh hùng tài hoa của đất nước Trung Quốc, chỉ vì can
gián vua, ngăn vua khơng làm điều trái đạo đức mà kẻ thì bị "đày đi xa", kẻ thì bị phế chức vụ,
đuổi về quê nhà.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Những lẽ thương của ơng Qn là thương cho những bậc anh hùng tài hoa nhưng có số phận
chơng chênh, éo le, bất đắc chí, khơng gặp thời, từ đó, cái tài cái chí bị thời gian làm phơi pha,
mai một đi. Nhìn sâu vào trong lẽ thương của ơng, ta mới hiểu được tấm lịng của một người
Nho sĩ yêu nước, thương những người tài hoa không được trọng dụng, cũng là ghét những kẻ
nịnh thần, ghét những tên hôn quân hoang dâm, bạo ngược, không chỉ khiến dân chúng khốn
khổ, lầm than mà còn khiến hiền tài chẳng thể cống hiến. Lẽ thương cũng đi liên với lẽ ghét vậy
nên ông Quán mới kết luận rằng:
"Xem qua kinh sử mấy lần
Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương".
Lẽ ghét thương được xây dựng chính từ tấm lịng của người sĩ phu u nước Nguyễn Đình
Chiểu. Ông bộc lộ sự yêu sự ghét của mình rõ ràng qua từng lời thơ, thẳng thắn, bộc trực như
tính cách của những con người Nam Bộ - nơi ông sống vậy. Lời thơ giản dị, dễ hiểu, viết bằng
thể thơ lục bát truyền thống khiến người đọc càng thêm thấm nhuần hơn những lẽ ghét lẽ thương
mà ông thể hiện ở trên. Lẽ ghét thương cũng khiến người ta phải khâm phục về vốn kiến thức
sâu rộng của người thầy đồ mù Nguyễn Đình Chiểu.
Đoạn trích Lẽ ghét thương được viết bằng bút pháp trữ tình, cho ta hiểu thêm về tấm lòng yêu
ghét phân minh, mãnh liệt của Nguyễn Đình Chiểu, và hơn thế là tấm lịng thương dân như con,
sâu sắc vơ cùng của tác giả. Có lẽ chính vì điều này, sau này, khi thực dân Pháp xâm lược, ông đã
là người đứng lên lãnh đạo người dân Nam bộ chống lại lũ cướp nước tàn ác ấy. Cùng với Văn tế
Nghĩa sĩ Cần Giuộc, truyện Lục Vân Tiên nói chung, Lẽ ghét thương nói riêng là những tác
phẩm vơ cùng tiêu biểu cho lịng u nước và tài năng của Nguyễn Đình Chiểu.
Bài làm 5
Nguyễn Đình Chiểu nhà thơ lớn, ngơi sao sáng của văn học dân tộc. Các tác phẩm của ông được
người dân Nam Bộ đặc biệt yêu mến và đón nhận bởi lẽ đó chính là tâm hồn, là cốt cách trong
con người họ. Tác phẩm lớn nhất trong sự nghiệp Nguyễn Đình Chiểu chính là Lục Vân Tiên với

những quan điểm, tư tưởng về con người, xã hội. Đặc biệt trong đoạn trích “Lẽ ghét thương”
thơng quan nhân vật ơng Qn, Nguyễn Đình chiểu đã thể hiện quan điểm lẽ ghét, lẽ thương
đáng ngưỡng mộ.
Đoạn trích Lẽ ghét thương được trích từ câu 473 đến câu 504, kể về cuộc nói chuyện giữa ông
Quán và các nho sĩ trẻ tuổi. Trong quán trọ, bốn nhân vật Lục Vân Tiên, Tử Trực, Trịnh Hâm và
Bùi Kiệm gặp nhau. Tại đây Trịnh Hâm đề nghị mọi người làm thơ để phân chia thứ bậc. Trong
cuộc đua tranh đó Vân Tiên tỏ ra vượt trội hơn cả, khiến cho Trịnh Hâm vô cùng tức giận và đổ
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

cho Vân Tiên chơi gian. Trong bối cảnh đó ơng Qn đã ra nói chuyện và bàn về lẽ ghét thương
ở đời.
Mở lời ông Quán tự giới thiệu về chính mình:
Qn rằng: Kinh sử đã từng
Coi rồi lại khiến lịng hằng xót xa.
Hỏi thời ta phải nói ra,
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương
Ơng Qn vốn cũng là một kẻ sĩ tử, khi xưa dùi mài kinh sử với mơ ước cơng danh và giúp ích
cho đời. Nhưng có lẽ vì những biến cố trong cuộc đời, xã hội mà ông đã lui về ở ẩn. Nhưng cái
hồn cốt của một kẻ sĩ thì mãi mãi khơng bao giờ mất đi. Ơng Qn chính là hình ảnh tiêu biểu
cho những nhà Nho tài giỏi như lui về ở ẩn, sống cuộc đời an nhàn, ung dung, tự tại, hịa mình
với thiên nhiên. Có thể coi ơng Quán là người phát ngôn cho những tư tưởng của tác giả.
Qua câu nói: “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương” đã cho thấy mối quan hệ gắn bó khăng
khít giữa hai thứ tình cảm đối lập này: ghét – thương. Hai trạng thái cảm xúc tuy đối lập nhưng
luôn tồn tại song song với nhau, người ta ghét những điều tầm thường, giả dối cho nên mới
thương những điều nhân ái, tốt đẹp. Bởi vậy chúng luôn tồn tại và khơng tách rời nhau.
Trước những lời nói đó, Vân Tiên tỏ ra hết sức khiêm nhường, mong muốn nghe được lời truyền
đạt, chỉ dạy của bậc tiền bối: “Tiên rằng: Trong đục chưa tường/ Chẳng hay thương ghét, ghét

thương thế nào?”. Có lẽ một người tài giỏi, thơng minh như Vân Tiên đã tỏ tường lẽ ghét thương
ở đời. Nhưng vốn là một nho sinh khiêm tốn, Vân Tiên đã rất khiêm mình để được nghe những
lời bày tỏ, chỉ bảo từ ông Quán.
Những câu thơ tiếp theo tác giả thể hiện những điều mình ghét: “Quán rằng: ghét việc tầm phào/
Ghét cay, ghét đắng ghét vào tận tâm./ Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm/ Để dân đến nỗi sa hầm sẩy
hang… Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân”. Cái mà ơng Qn ghét chính là chế độ thối nát,
vua chúa bạo tàn, chiến tranh xảy ra liên miên khiến cho đời sống người dân vô cùng cực khổ.
Có thể thấy mỗi cái ơng ghét ln đi kèm với hệ quả của những triều đại đó, ví như ghét đời Kiệt
Trụ, vì mê dâm nên khiến nhân dân “sa hầm sẩy hang”. Những lí lẽ, dẫn chứng hết sức cụ thể và
ngắn gọn như một bản tổng kết lịch sử súc tích về các triều đại thối nát của Trung Quốc. Cái ông
ghét rất rõ ràng, mạch lạc, đó là những điều khiến nhân dân khổ cực, nhũng nhiễu làm hại đến
người dân đều khiến ông ghét. Điều khiến ơng ghét gắn bó sâu sắc với lịng thương dân, yêu dân
sâu nặng.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Cịn điều ơng thương là gì? “Thương là thương đức thánh nhân/ Khi nơi Tống, Vệ lúc Trần, lúc
Khuông/ …/ Thương thầy Liêm, Lạc đã ra/ Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân”. Nếu như ở phần
trên, khi nói về lẽ ghét giọng điệu ơng Qn đầy căm tức với những Trụ, Kiệt, U, Lệ,… đã hại
dân thì đến đây giọng và nhịp thơ như trùng xuống, trìu mến và thiết tha hơn. Những cái tên ông
nhắc đến: Khổng Tử, Nhan Hồi, Trình Di, Đào Tiềm, Hàn Dũ,… đây đều là những nhân vật có
đức, có tâm, có tài nổi tiếng trong lịch sử. Họ là người tài giỏi có tấm lịng ơm trùm thiên hạ, cả
một đời cống hiến cho đời nhưng cuộc sống của họ lại vơ cùng trn chun, vất vả. Ơng thương
là thương những người có đức, có tài nhưng cuộc sống gặp nhiều khó khăn. Lịng thương gắn
liền với tấm lịng trân trọng và yêu quý người tài. Và cũng từ chính lẽ thương ấy, ơng Qn đã
rút ra chiêm nghiệm cho chính mình:
Xem qua kinh sử mấy lần,
Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương.

Tác phẩm được viết bằng thứ ngôn tư giản dị, mộc mạc nhưng giàu sức biểu cảm. Sử dụng thủ
pháo đối lập: sa hầm đối với sẩy hang, sớm đầu đối với tối đánh,… làm cho nhịp thơ linh hoạt,
nhịp nhàng hơn. Nghệ thuật điệp ngữ: thương ơng, thương ơng lặp lại nhiều lần có tác dụng
trong việc diễn tả lẽ ghét thương của tác giả.
Lẽ ghét thương là đoạn trích thể hiện tập trung nhất tư tưởng, quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu
qua nhân vật ơng Qn. Ơng có lịng u dân, thương dân sâu sắc, bởi vì thương dân nên ơng
càng ghét hơn lũ hôn quân bạo chúa, chuyên làm điều bạo ngược với dân lành. Đằng sau những
vần thơ thống thiết ta thấy được tấm lòng nhân ái, nhân đạo sâu sắc của trái tim bao la – Nguyễn
Đình Chiểu.
Mời bạn đọc cùng tham khảo />
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188



×