Tải bản đầy đủ (.doc) (126 trang)

Luận văn chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của ủy ban kiểm tra huyện, thị, thành uỷ ở đảng bộ tỉnh thanh hoá trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.92 KB, 126 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng, là một bộ
phận quan trọng của công tác xây dựng Đảng. Cơng tác kiểm tra, giám sát
(CTKT,GS) có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong xây dựng nội bộ và
trong hoạt động lãnh đạo của Đảng. Vị trí, vai trị đó, đã được các nhà kinh
điển của Chủ nghĩa Mác- Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và thực tiễn
cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến nay khẳng định.
CTKT, GS là hoạt động của các cấp ủy đảng, các ban của cấp ủy, các tổ
chức đảng và đảng viên, hướng vào việc xây dựng, thực hiện nghị quyết, chỉ
thị, quy định, quyết định của Đảng; giải quyết những vấn đề nội bộ, tăng
cường đoàn kết thống nhất, nâng cao uy tín chính trị của Đảng trước nhân
dân. Làm tốt CTKT, GS góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo ( NLLĐ) và
sức chiến đấu (SCĐ) của Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, thực
hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và chính
sách, pháp luật của Nhà nước.
Ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là
khi trở thành đảng cầm quyền, Đảng ta luôn coi trọng CTKT,GS. Nhờ đó,
Đảng được xây dựng ngày càng vững mạnh, có NLLĐ và SCĐ cao, đưa cách
mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Hiện nay, công cuộc đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh
đạo, đang phát triển mạnh mẽ và đi vào chiều sâu, đặt ra cho Đảng ta và đội
ngũ đảng viên những đòi hỏi và yêu cầu mới. Kinh tế thị trường (KTTT) ngày
càng phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu và mở rộng, xuất hiện
những thời cơ và thuận lợi, nhưng cũng có khơng ít khó khăn và thách thức,
đặt ra cho CTKT,GS của Đảng, những yêu cầu mới với những nội dung, hình
thức và phương pháp mới. Những mặt trái của KTTT, của quá trình mở cửa
và hội nhập kinh tế quốc tế tác động trực tiếp vào Đảng và đội ngũ cán bộ,



2
đảng viên. Trong những năm đổi mới vừa qua, phần đông cán bộ, đảng viên
kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng, ra sức phấn đấu thực hiện Cương
lĩnh Chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách,
pháp luật của Nhà nước; có nhận thức đúng đắn hơn về chủ nghĩa xã hội
(CNXH) và con đường đi lên CNXH ở nước ta. Nhiều cán bộ, đảng viên đã
có bước trưởng thành, tự giác phấn đấu vươn lên, phát huy vai trò tiền phong
gương mẫu gắn bó với nhân dân. Tuy nhiên, tình trạng suy thối về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tội,... vẫn còn tồn tại
trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Điều đó, đặt ra cho Đảng, các cấp ủy, ủy
ban kiểm tra (UBKT) các cấp phải nâng cao chất lượng CTKT,GS góp phần
quan trọng ngăn chặn và đẩy lùi các tiêu cực đó, xây dựng Đảng vững mạnh,
thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị.
Trong những năm qua, CTKT, GS của Đảng đã có chuyển biến rõ rệt,
đạt được những thành tích quan trọng, góp phần tích cực vào việc thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ chính trị và cơng tác xây dựng Đảng. Tuy nhiên, công tác
kiểm tra (CTKT) vẫn còn yếu, chất lượng và hiệu quả kiểm tra chưa cao;
nhiều khuyết điểm, vi phạm của đảng viên và tổ chức đảng chậm được phát
hiện và khắc phục; chưa coi trọng kiểm tra phòng ngừa, phát huy nhân tố tích
cực. Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng chưa làm tốt CTKT. Công tác giám sát
(CTGS) của Đảng và giám sát của nhân dân đối với các hoạt động của Đảng,
Nhà nước, cán bộ, đảng viên chưa được quan tâm, chưa đáp ứng yêu cầu xây
dựng Đảng. Những yếu kém trong CTKT,GS là một trong những nguyên nhân
quan trọng của việc không ngăn chặn và đẩy lùi được tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí và sự suy thối về chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.
Trong thời gian qua, UBKT huyện, thị, thành ủy ở Đảng bộ tỉnh Thanh
Hố đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát do
Điều lệ Đảng quy định, nhiệm vụ cấp ủy giao và tham mưu cho cấp uỷ thực



3
hiện nhiệm vụ CTKT,GS; góp phần quan trọng thúc đẩy thực hiện thắng lợi
các nhiệm vụ chính trị, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nâng cao NLLĐ
và SCĐ của các tổ chức đảng. Tuy nhiên, việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra,
giám sát của UBKT huyện, thị, thành ủy vẫn cịn nhiều thiếu sót, khuyết
điểm: chất lượng CTKT,GS, nhất là CTGS chưa cao, nhiều sai lầm, khuyết
điểm của tổ chức đảng và đảng viên chậm được phát hiện và khắc phục; tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa được ngăn chặn, đẩy lùi; kết quả thực
hiện nhiệm vụ chính trị ở nhiều tổ chức đảng cịn hạn chế.
Để xây dựng Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá, mà trước hết là các đảng bộ
huyện, thị xã, thành phố vững mạnh, có NLLĐ và SCĐ cao; lãnh đạo thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của từng đảng bộ và của Đảng bộ tỉnh, một
vấn đề rất quan trọng đặt ra phải giải quyết là nâng cao chất lượng CTKT,GS
của UBKT huyện, thị, thành ủy trong tỉnh. Nghiên cứu tìm ra giải pháp nâng
cao chất lượng CTKT,GS của UBKT các huyện, thị, thành ủy ở Đảng bộ tỉnh
Thanh Hoá thực sự là vấn đề rất cần thiết và cấp bách.
Là một cán bộ lãnh đạo của UBKT Tỉnh uỷ Thanh Hoá, có thời gian
nhất định trực tiếp tham gia các hoạt động kiểm tra, lại được học tập, nghiên
cứu một cách cơ bản, hệ thống về khoa học xây dựng Đảng, trong đó có
CTKT,GS của Đảng, tơi ln trăn trở và xác định trách nhiệm của mình trong
cơng việc này. Vì thế, tôi chọn và thực hiện đề tài luận văn Thạc sĩ: “Chất
lượng công tác kiểm tra, giám sát của ủy ban kiểm tra huyện, thị, thành uỷ
ở Đảng bộ tỉnh Thanh Hố trong giai đoạn hiện nay”
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về
CTKT,GS của Đảng đã được nghiệm thu, kết quả nghiên cứu của nhiều cơng
trình đã được cơng bố trên các phương tiện thông tin đại chúng:
* Các đề tài khoa học:

- Đề tài khoa học cấp Nhà nước giai đoạn 2000 – 2005: “Đổi mới công
tác kỷ luật trong Đảng nhằm nâng cao SCĐ của Đảng trong giai đoạn cách


4
mạng mới”, mã số KX.03.07, do GS, TS Nguyễn Thị Doan, làm Chủ nhiệm,
đã nghiệm thu năm 2005 và in thành sách.
- Đề tài khoa học cấp bộ "CTGS trong Đảng giai đoạn hiện nay" của
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2007 do Tiến sỹ
Đặng Đình Phú làm Chủ nhiệm, đã nghiệm thu và in thành sách.
- Đề tài khoa học cấp tỉnh:
+ “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
của UBKT đảng uỷ cơ sở ở tỉnh Thanh Hoá”, năm 2003 do UBKT Tỉnh uỷ
Thanh Hoá thực hiện, đã nghiệm thu.
+ “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng CTKT đảng viên khi
có dấu hiệu vi phạm ở tỉnh Thanh Hoá”, năm 2006 do UBKT Tỉnh uỷ Thanh
Hoá thực hiện, đã nghiệm thu.
* Luận án Tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ:
- “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra chuyên trách của
Đảng trong tình hình hiện nay”, năm 1996, Luận án PTS của Trương Thị
Thơng, bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- “CTKT của Thành uỷ Hà Nội trong giai đoạn hiện nay”, năm 2004, Luận
án Tiến sĩ của Lê Tiến Hào, bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- “Nâng cao chất lượng kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm của
UBKT huyện uỷ ở các tỉnh Duyên hải Miền Trung hiện nay”, năm 2004, Luận án
Tiến sĩ của Nguyễn Thế Tư, bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- “Chất lượng CTKT của các đảng uỷ xã, thị trấn ở huyện Long Thành,
tỉnh Đồng Nai hiện nay - Thực trạng và giải pháp”, năm 2005, Luận văn Thạc
sĩ của Hoàng Thị Lài, bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- “Chất lượng CTKT của UBKT các quận, huyện uỷ ở Thành phố Hà

Nội trong giai đoạn hiện nay”, năm 2004, Luận văn Thạc sĩ của Phạm Huy
Giáp, bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- “CTGS của UBKT Tỉnh uỷ Bình Định trong giai đoạn hiện nay”, năm
2007, Luận văn Thạc sĩ của Lê Minh Sơn, bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh.


5
- "Chất lượng CTKT, GS của UBKT các huyện, thị ủy ở tỉnh Kon Tum
giai đoạn hiện nay" của Lê Thị Ngân, năm 2007, bảo vệ tại Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- "Chất lượng CTKT, GS của UBKT các huyện, thị ủy ở tỉnh Vĩnh Phúc
trong giai đoạn hiện nay" của Nguyễn Khắc Bát, năm 2007, bảo vệ tại Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
* Một số bài viết đăng trên các tạp chí:
- GS, TS Nguyễn Thị Doan: Nâng cao vai trị, vị trí của CTKT và vị thế
của UBKT các cấp (Tạp chí kiểm tra số 8, năm 2003).
- Tiến sĩ Trần Nam - Lê Quang Giản: CTKT góp phần xây dựng, chỉnh
đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh; Tạp chí Kiểm tra số 10, năm 2005.
- Nguyễn Văn Chi: CTKT của Đảng qua 20 năm đổi mới; Tạp chí Cộng
sản số 23, tháng 12 năm 2005.
Từ nhiều góc độ và cách tiếp cận, với mục đích khác nhau, các tác giả đã
phân tích, nêu lên những căn cứ lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu; đề
xuất các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả CTKT, GS. Song đến nay, chưa
có cơng trình khoa học nào nghiên cứu về chất lượng CTKT, GS của UBKT
huyện, thị, thành ủy ở Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ hơn một số vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn về
chất lượng CTKT, GS của UBKT huyện, thị, thành ủy ở Đảng bộ tỉnh Thanh

Hoá; khảo sát, nghiên cứu thực trạng công tác này; luận văn đề xuất phương
hướng và những giải pháp chủ yếu, khả thi nâng cao chất lượng CTKT,GS
của UBKT huyện, thị, thành uỷ ở Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đến năm 2015.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ thêm các khái niệm, cơ sở lý luận của CTKT, GS và chất
lượng CTKT, GS của UBKT huyện, thị, thành uỷ ở Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá
trong giai đoạn hiện nay.


6
- Khảo sát, nghiên cứu thực trạng chất lượng CTKT,GS của UBKT huyện,
thị, thành uỷ ở Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2007;
chỉ ra ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân và rút ra một số kinh nghiệm.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng CTKT, GS
của UBKT huyện, thị, thành uỷ ở Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đến năm 2015.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là chất lượng CTKT, GS của
UBKT huyện, thị, thành uỷ ở Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá.
- Phạm vi nghiên cứu, khảo sát thực tế chủ yếu ở 27 UBKT huyện, thị,
thành uỷ ở Đảng bộ tỉnh Thanh Hố, ngồi ra cịn nghiên cứu ở UBKT Tỉnh
ủy Thanh Hoá.
- Thời điểm khảo sát, nghiên cứu thực tế: từ năm 2001 đến năm 2007.
- Phương hướng và giải pháp đề xuất trong luận văn có giá trị từ năm
2008 đến năm 2015.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận văn là lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về CTKT, GS của Đảng.
- Cơ sở thực tiễn là thực trạng CTKT,GS của UBKT huyện, thị,
thành uỷ ở Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2007.

- Phương pháp chủ yếu được sử dụng trong luận văn là tổng kết thực
tiễn, khảo sát và thống kê; đồng thời luận văn sử dụng các phương pháp lơgíclịch sử, phân tích - tổng hợp; trao đổi ý kiến với cán bộ lãnh đạo, quản lý của
các cấp ủy.
6. Những đóng góp của luận văn
- Quan niệm về chất lượng CTKT,GS của UBKT huyện, thị, thành ủy ở
Đảng bộ tỉnh Thanh Hố và tiêu chí đánh giá.
- Những kinh nghiệm về hoạt động nâng cao chất lượng CTKT,GS của
UBKT huyện, thị, thành uỷ ở Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá giai đoạn từ năm 2001
đến năm 2007.


7
- Những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng CTKT,GS của
UBKT huyện, thị, thành uỷ ở Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đến năm 2015.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham
khảo cho UBKT huyện, thị, thành uỷ ở Đảng bộ tỉnh Thanh Hố trong q
trình nâng cao chất lượng CTKT, GS trong giai đoạn hiện nay, cũng như các
huyện, thị, thành uỷ, Tỉnh uỷ Thanh Hoá trong việc lãnh đạo, chỉ đạo
CTKT,GS. Kết quả nghiên cứu của luận văn cịn có thể được dùng làm tài
liệu tham khảo phục vụ cho việc giảng dạy và học tập ở Trường Chính trị
tỉnh, các trung tâm bồi dưỡng lý luận chính trị cấp huyện, thị xã, thành phố ở
tỉnh Thanh Hoá, cũng như việc bồi dưỡng cán bộ kiểm tra của UBKT Tỉnh ủy
Thanh Hố.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.


8
Chương 1

CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT
CỦA UỶ BAN KIỂM TRA HUYỆN, THỊ, THÀNH UỶ Ở ĐẢNG BỘ
TỈNH THANH HOÁ - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. UỶ QUAN KIỂM TRA CÁC HUYỆN, THỊ, THÀNH UỶ Ở ĐẢNG BỘ
TỈNH THANH HỐ VÀ CƠNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA UỶ BAN KIỂM
TRA CÁC HUYỆN, THỊ, THÀNH UỶ

1.1.1. Ủy ban kiểm tra các huyện, thị, thành uỷ ở Đảng bộ tỉnh
Thanh Hoá
1.1.1.1. Khái quát về ủy ban kiểm tra các huyện, thị, thành uỷ
Thanh Hoá là tỉnh thuộc Bắc Trung bộ, có diện tích tự nhiên là 11.120
km2; dân số hơn 3,7 triệu người; gồm có các dân tộc: Kinh, Mường, Thái,
Thổ, Hmông, Dao, Khơ mú, trong đó dân tộc Kinh chiếm 83,9%, dân tộc
Mường, Thái có số dân đơng hơn các dân tộc thiểu số khác.
Phía Bắc tỉnh Thanh Hố tiếp giáp với tỉnh Ninh Bình; phía Đơng giáp
với biển Đơng (Vịnh Bắc bộ) có chiều dài bờ biển 102 km; phía Tây giáp với
tỉnh Hủa Phăn - nước Cộng hoà dân chủ Nhân dân Lào có đường biên giới dài
192 km; phía Nam giáp tỉnh Nghệ An.
Thanh Hóa được chia thành ba vùng sinh thái: Vùng Trung du, Miền
núi gồm 11 huyện: Mường Lát, Quan Hóa, Quan Sơn, Bá Thước, Lang
Chánh, Ngọc Lặc, Thường Xuân, Như Xuân, Như Thanh, Cẩm Thủy, Thạch
Thành; vùng đồng bằng, gồm 10 huyện, thị xã, thành phố: Vĩnh Lộc, Đông
Sơn, n Định, Thiệu Hóa, Triệu Sơn, Nơng Cống, Hà Trung, Thọ Xuân, thị
xã Bỉm Sơn, Thành phố Thanh Hóa; vùng ven biển gồm 6 huyện, thị xã: Nga
Sơn, Hậu Lộc, thị xã Sầm Sơn, Hoằng Hóa, Tĩnh Gia, Quảng Xương.
Đảng bộ tỉnh Thanh Hố có 35 đảng bộ trực thuộc, trong đó: 24 đảng bộ
huyện, 02 đảng bộ thị xã, 01 đảng bộ thành phố và 8 đảng bộ cơ quan, đơn vị,
doanh nghiệp. Tồn tỉnh có 176.679 đảng viên; sinh hoạt ở 1.671 tổ chức cơ sở
đảng, trong đó: có 958 đảng bộ cơ sở và 713 chi bộ cơ sở; có 10.083 chi bộ.



9
Như vậy, Thanh Hóa có 27 huyện, thị xã và thành phố; số đảng viên là
166.574; sinh hoạt ở 1.523 tổ chức cơ sở đảng, trong đó: 872 đảng bộ cơ sở
và 651 chi bộ cơ sở; có 9.366 chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở [Phụ lục số 2].
Thanh Hóa là một tỉnh có điều kiện và nhiều tiềm năng, thế mạnh để
phát triển kinh tế - xã hội, là tỉnh có vị trí rất quan trọng về kinh tế, chính trị,
quốc phịng, an ninh đối với khu vực bắc Trung bộ và cả nước. Qua hơn 20
năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, mà trước hết là các cấp ủy đảng
trong tỉnh, sự nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, tích cực và sáng tạo của đội
ngũ cán bộ, đảng viên và hơn 3,7 triệu người dân trong tỉnh, Thanh Hóa đã
vươn lên mạnh mẽ, đạt được những thành tựu to lớn. Tốc độ tăng trưởng kinh
tế hàng năm khá cao (10,8%); thu nhập (GDP) bình quân đầu người hàng năm
trên 450USD; các tiềm năng và thế mạnh đã được khai thác, phát huy phục vụ
cho phát triển kinh tế - xã hội. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân trong
tỉnh được cải thiện và nâng lên đáng kể. Chính trị ổn định, trật tự - an ninh
được giữ vững; các tổ chức trong hệ thống chính trị (HTCT), các tổ chức xã
hội được củng cố, hoạt động ngày càng có hiệu quả; công tác xây dựng Đảng
được coi trọng và đã đạt được những kết quả quan trọng.
Tuy nhiên, Thanh Hóa vẫn là một tỉnh nghèo; thu nhập (GDP) bình quân
đầu người của tỉnh mới bằng hơn một nửa thu nhập (GDP) bình qn của cả
nước; khoa học và cơng nghệ cịn ở trình độ thấp, cơ sở hạ tầng còn yếu kém,
nhiều nơi xuống cấp. Trên địa bàn tỉnh còn nhiều vấn đề bức xúc cần giải
quyết, nhất là những vấn đề xã hội, như: việc làm, thu nhập của dân, chất
lượng dạy và học, khám và chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe,... Bên cạnh đó, là
các tệ nạn xã hội, như: cờ bạc, ma túy, mại dâm,... chưa được ngăn chặn một
cách triệt để, còn diễn biến phức tạp. Trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và công
chức cịn một bộ phận suy thối về phẩm chất, đạo đức lối sống; tình trạng
tham nhũng, quan liêu, lãng phí chưa được ngăn chặn, tình trạng vi phạm kỷ
luật đảng và chính sách, pháp luật Nhà nước là một trong những vấn đề bức

xúc cần được quan tâm giải quyết. Điều đó đặt ra cho Tỉnh ủy, cấp ủy huyện,


10
thị xã, thành phố Thanh Hóa, UBKT các cấp và các cơ quan chức năng của
tỉnh, trong đó UBKT huyện, thị, thành ủy có nhiệm vụ rất nặng nề, phải tập
trung giải quyết để đưa tỉnh Thanh Hóa tiến lên, giành thắng lợi to lớn trong
những năm tới.
UBKT huyện, thị, thành ủy ở Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa đã được thành lập
cùng với các đảng bộ huyện, thị xã, thành phố của tỉnh. Từ 12 UBKT huyện,
thị ủy (năm 1964), đến nay Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa đã có 27 UBKT huyện,
thị, thành ủy, trong đó: 24 UBKT huyện ủy, 02 UBKT thị ủy, 01 UBKT Thành
ủy Thành phố Thanh Hóa
Từ Đại hội V đến Đại hội IX của Đảng quy định tổ chức bộ máy của
UBKT huyện, thị, thành uỷ khơng có sự thay đổi lớn. Đến Đại hội X, Đảng
quy định: UBKT huyện, thị, thành ủy có từ 05 đến 09 thành viên, trong đó
chủ nhiệm là ủy viên ban thường vụ cấp uỷ, từ 01 đến 02 phó chủ nhiệm,
trong đó: phó chủ nhiệm thường trực là cấp ủy viên và một số uỷ viên chuyên
trách; 02 ủy viên kiêm chức gồm trưởng ban hoặc phó trưởng ban tổ chức là
cấp ủy viên và chánh thanh tra cùng cấp.
Thực hiện các quy định đó, hiện nay tổng số thành viên của 27 UBKT
huyện, thị, thành ủy nhiệm kỳ (2005-2010) là 155 đồng chí, trong đó: nam 136
đồng chí chiếm 87,74%; nữ 19 chiếm 12,26 %; có 27 chủ nhiệm, 36 phó chủ
nhiệm (phó chủ nhiệm là huyện, thị, thành ủy viên là 25), 40 ủy viên chuyên
trách, 52 ủy viên kiêm chức; Về tuổi đời: dưới 35 tuổi là 30 chiếm 19,35% so
với nhiệm kỳ (2001- 2005) tăng 24; từ 36 tuổi đến 45 tuổi 79 chiếm 51 %; từ
46 tuổi đến 55 tuổi là 44 chiếm 28,38%; trên 55 tuổi là 02 so với nhiệm kỳ
(2001-2005) giảm 15; trình độ lý luận: cử nhân, cao cấp 79 chiếm 50,96%;
trung cấp 69 chiếm 44,51 %; sơ cấp 7 chiếm 4,5%; trình độ học vấn: phổ thơng
trung học 155 đạt 100%; đại học, cao đẳng 106 chiếm 63,38%. Ngồi ra cịn có

32 cán bộ giúp việc cho các UBKT huyện, thị, thành ủy [Phụ lục số 3 và số 4].
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ kiểm tra của các huyện, thị, thành ủy ở Đảng
bộ tỉnh Thanh Hóa có lập trường và bản lĩnh chính trị vững vàng, dám đấu


11
tranh bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, dám nhìn thẳng vào sự thật, có
chính kiến và thái độ rõ ràng trong đấu tranh với những hành vi sai trái. Họ là
những đảng viên có ý thức tổ chức kỷ luật cao, gương mẫu, có tinh thần xây
dựng đồn kết thống nhất nội bộ, giữ vững nguyên tắc Đảng, phát huy dân
chủ, biết lắng nghe ý kiến, phân biệt đúng, sai trong giải quyết và xử lý công
việc, đảm bảo tính khách quan, cơng tâm, trung thực, ln phấn đấu hồn
thành chức trách, nhiệm vụ được giao, có uy tín đối với cán bộ, đảng viên và
nhân dân.
Tuy nhiên, phần lớn các thành viên UBKT và cán bộ kiểm tra chuyên
trách của huyện, thị, thành ủy do chưa được quy hoạch, đào tạo một cách cơ
bản; trình độ năng lực cịn hạn chế; kinh nghiệm cơng tác xây dựng Đảng nói
chung và CTKT,GS nhất là CTGS nói riêng cịn chưa nhiều; trong khi đó địa
bàn cơng tác rộng và cịn nhiều khó khăn, nhất là các huyện miền núi. Số
lượng cán bộ kiểm tra lại ít, đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng CTKT,
GS của UBKT huyện, thị, thành ủy trong thời gian qua.
1.1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của ủy ban kiểm tra huyện, thị, thành
ủy ở Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa
UBKT huyện, thị, thành ủy ở Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa hoạt động dưới
sự lãnh đạo của huyện, thị, thành ủy, chấp hành nghiêm chỉnh các quy định
của Điều lệ Đảng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của UBKT huyện, thị,
thành ủy. Chức năng, nhiệm vụ của UBKT huyện, thị, thành ủy ở Đảng bộ
tỉnh Thanh Hóa phát triển theo yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng và nhiệm vụ
chính trị của Đảng bộ tỉnh và sự phát triển về nhiệm vụ CTKT của Đảng qua
các thời kỳ cách mạng.

Trước Đại hội VI, Đảng quy định cơ quan kiểm tra các cấp tiến hành
kiểm tra đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng, gọi tắt là kiểm tra đảng viên vi
phạm, đã đem lại tác dụng tốt. Song bước vào thời kỳ đổi mới, quy định đó đã
tỏ ra bất cập trước quy mơ rộng lớn, tính chất phức tạp của công cuộc đổi mới
do Đảng lãnh đạo và môi trường hoạt động phức tạp của đảng viên, hạn chế


12
nhất định đến chất lượng CTKT, nhất là việc chủ động và tác dụng ngăn chặn
vi phạm.
Từ thực tế đó, tại Đại hội VI, Đảng đã quy định chuyển từ kiểm tra đảng
viên vi phạm Điều lệ Đảng, sang kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng,
gọi tắt là kiểm tra đảng viên chấp hành. Tuy nhiên, khi bước vào thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, quy định đó thể hiện hiện rõ
những hạn chế, bất cập, vì phạm vi kiểm tra rộng, dễ bỏ qua những trọng
điểm phải kiểm tra. Tại Đại hội VIII, Đảng đã quy định UBKT các cấp kiểm
tra đảng viên (kể cả cấp ủy viên cùng cấp) và tổ chức đảng cấp dưới khi có
dấu hiệu vi phạm. Tức là đã chuyển từ kiểm tra đảng viên chấp hành sang
kiểm tra đảng viên và tổ chức đảng khi có dấu hiệu vi phạm. Điều đó đã làm
tăng tính tích cực phịng ngừa của cơng tác kiểm tra. Đến Đại hội X, Đảng ta
lại chính thức bổ sung chức năng, nhiệm vụ giám sát cho UBKT các cấp, cụ
thể là: Điều lệ Đảng khóa VIII đã quy định về nhiệm vụ của UBKT các cấp:
1. Kiểm tra đảng viên, kể cả cấp ủy viên cùng cấp khi có dấu
hiệu vi phạm tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp uỷ viên và trong
việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên
2. Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm
trong việc chấp hành Cương lĩnh Chính trị, Điều lệ Đảng, nghị
quyết, chỉ thị của Đảng, các nguyên tắc tổ chức của Đảng; kiểm tra
việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và thi hành kỷ luật trong Đảng.
3. Xem xét, kết luận những trường hợp vi phạm kỷ luật, quyết

định hoặc đề nghị cấp ủy thi hành kỷ luật
4. Giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên; giải
quyết khiếu nại về kỷ luật đảng
5. Kiểm tra tài chính của cấp uỷ cấp dưới và của cơ quan tài
chính cấp uỷ cùng cấp
UBKT có quyền u cầu tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên
báo cáo, cung cấp tài liệu về những vấn đề liên quan đến nội dung
kiểm tra [28, tr.47-49].


13
Về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của UBKT các cấp do Điều lệ
Đảng khóa IX quy định khơng có gì thay đổi so với quy định Điều lệ Đảng
khóa VIII.
Đại hội X của Đảng đã quyết định phương hướng và mục tiêu tổng quát
của công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ tới là:
Tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, tăng cường bản chất
giai cấp công nhân và tính tiên phong, nâng cao NLLĐ và SCĐ của
Đảng; xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị,
tư tưởng, tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách
mạng trong sáng, có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa
học, ln gắn bó với nhân dân [ 34, tr.279].
Đồng thời Đại hội cũng đặt ra nhiệm vụ đổi mới và tăng cường CTKT,
GS với nhận thức và yêu cầu mới: CTKT, GS phải góp phần phát hiện và
khắc phục những khuyết điểm, thiếu sót khi mới manh nha; bên cạnh việc tiếp
tục thực hiện kiểm tra tổ chức và đảng viên có dấu hiệu vi phạm, phải tăng
cường chủ động kiểm tra, giám sát về phẩm chất đạo đức và kết quả thực hiện
nhiệm vụ của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, về nhận thức và chấp hành
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và việc
chấp hành Điều lệ Đảng. Nhiệm vụ của UBKT các cấp được Điều lệ Đảng

khoá X quy định:
1. Kiểm tra đảng viên, kể cả cấp ủy viên cùng cấp khi có dấu
hiệu vi phạm tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp uỷ viên và trong
việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên.
2. Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm
trong việc chấp hành Cương lĩnh Chính trị, Điều lệ Đảng, nghị
quyết, chỉ thị của Đảng, các nguyên tắc tổ chức của Đảng; kiểm tra
việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và thi hành kỷ luật trong Đảng.
3. Giám sát cấp ủy viên cùng cấp, cán bộ diện cấp uỷ cùng cấp
quản lý và tổ chức đảng cấp dưới về việc thực hiện đường lối, chủ


14
trương, chính sách của Đảng, nghị quyết của cấp uỷ và đạo đức, lối
sống theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương
4. Xem xét, kết luận những trường hợp vi phạm kỷ luật, quyết
định hoặc đề nghị cấp ủy thi hành kỷ luật
5. Giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên; giải
quyết khiếu nại về kỷ luật đảng
6. Kiểm tra tài chính của cấp uỷ cấp dưới và của cơ quan tài
chính cấp uỷ cùng cấp [35, tr.50-51].
Như vậy, ngoài chức năng kiểm tra, hiện nay UBKT các cấp cịn có chức
năng giám sát, chức năng này được duy trì từ nhiều năm trước và được UBKT
các cấp đã thực hiện và thực hiện khá tốt, nhưng đến Đại hội X mới được bổ
sung chính thức vào Điều lệ Đảng. Đây là cơ sở rất quan trọng để UBKT các
cấp thực hiện chức năng giám sát, nhằm nâng cao chất lượng CTKT,GS trong
điều kiện hiện nay, đồng thời UBKT các cấp cịn có chức năng, nhiệm vụ thực
hiện nhiệm vụ cấp ủy giao và tham mưu cho cấp ủy cùng cấp thực hiện nhiệm
vụ kiểm tra, giám sát.
UBKT huyện, thị, thành uỷ ở Đảng bộ tỉnh Thanh Hố có các nhiệm vụ:

chấp hành các quy định của Điều lệ Đảng về chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn của UBKT các cấp; các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, của Tỉnh uỷ, Ban
Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa, của huyện, thị, thành uỷ và sự chỉ đạo, hướng
dẫn, kiểm tra của UBKT Trung ương Đảng và của UBKT Tỉnh uỷ Thanh Hoá
về CTKT,GS. UBKT huyện, thị, thành uỷ có trách nhiệm chấp hành quy chế
làm việc do huyện, thị, thành ủy quyết định ban hành.
Căn cứ Điều lệ Đảng, Quy định của Bộ Chính trị về Hướng dẫn thi
hành Điều lệ Đảng và Quyết định về ban hành hướng dẫn thực hiện quy định
về CTKT, GS và kỷ luật của Đảng trong Chương VII và Chương VIII Điều lệ
Đảng; hướng dẫn của UBKT cấp trên; huyện, thị, thành ủy ở Đảng bộ tỉnh
Thanh Hoá đã cụ thể hoá chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của UBKT
huyện, thị, thành uỷ như sau:


15
Thứ nhất, quyết định phương hướng, nhiệm vụ, chương trình CTKT, GS
(nhiệm kỳ, hằng năm, 6 tháng) của UBKT huyện, thị, thành uỷ; sơ kết, tổng
kết CTKT, GS.
Thứ hai, trực tiếp tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và kỷ
luật trong Đảng theo quy định của điều 32 Điều lệ Đảng; các quy định của
Trung ương Đảng và của Tỉnh ủy; Quy chế làm việc; hướng dẫn của UBKT
Tỉnh ủy và UBKT Trung ương Đảng.
- Về thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát do Điều lệ Đảng quy định
+ Về công tác kiểm tra
Kiểm tra đảng viên, kể cả huyện, thị, thành ủy viên khi có dấu hiệu vi
phạm tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn huyện, thị, thành ủy viên và trong việc
thực hiện nhiệm vụ được giao; kiểm tra đảng ủy, ban thường vụ đảng uỷ, chi
ủy, chi bộ cơ sở trực thuộc huyện, thị, thành ủy khi có dấu hiệu vi phạm trong
việc chấp hành Cương lĩnh Chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của
Đảng, của huyện, thị, thành ủy và Tỉnh ủy Thanh Hóa, các nguyên tắc tổ chức

của Đảng; kiểm tra đảng ủy, ban thường vụ đảng ủy, UBKT đảng ủy cơ sở,
chi bộ cơ sở trong việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và thi hành kỷ luật trong
Đảng; kiểm tra tài chính đảng đối với cấp ủy cơ sở và cơ quan tài chính của
huyện, thị, thành ủy.
Xem xét, kết luận những trường hợp vi phạm kỷ luật, quyết định kỷ luật
theo thẩm quyền hoặc đề nghị huyện, thị, thành ủy thi hành kỷ luật.
Giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên trong đảng bộ
huyện, thị xã, thành phố. Giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng đối với tổ chức
đảng và đảng viên trong đảng bộ huyện, thị, thành phố.
+ Về công tác giám sát: Giám sát các huyện, thị, thành ủy viên của đảng bộ
và cán bộ thuộc diện huyện, thị, thành ủy quản lý và các tổ chức đảng cấp dưới
trong đảng bộ huyện, thị xã, thành phố về thực hiện đường lối, chủ trương, nghị
quyết của Đảng; nghị quyết, chỉ thị của Tỉnh ủy và của huyện, thị, thành ủy ở
Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa; đạo đức, lối sống theo quy định của Đảng.


16
Khi tiến hành CTKT, GS và kỷ luật trong Đảng cần tập trung vào các
đảng bộ, chi bộ cơ sở trực thuộc huyện, thị, thành ủy. Đối với các chi bộ, đảng
bộ bộ phận trực thuộc các đảng bộ cơ sở, căn cứ vào tình hình cụ thể, chỉ tiến
hành kiểm tra, giám sát đối với các tổ chức đảng đó khi thật cần thiết.
- Về thực hiện nhiệm vụ cấp ủy giao và tham mưu cho huyện, thị,
thành ủy thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát.
Tham mưu cho ban chấp hành đảng bộ và ban thường vụ huyện, thị,
thành ủy tiến hành CTKT, GS theo quy định của Điều lệ Đảng và thực hiện
nhiệm vụ do ban chấp hành và ban thường vụ huyện, thị, thành ủy giao.
Báo cáo các vụ thi hành kỷ luật, giải quyết tố cáo, khiếu nại kỷ luật
đảng thuộc thẩm quyền xem xét, quyết định của ban chấp hành đảng bộ và
ban thường vụ huyện, thị, thành ủy giao. Hướng dẫn kiểm tra, giám sát các tổ
chức cơ sở đảng (TCCSĐ) và đảng viên thực hiện CTKT, GS và kỷ luật trong

Đảng; tổ chức triển khai các quyết định, kết luận, thông báo của ban chấp hành
đảng bộ và ban thường vụ huyện, thị, thành ủy về thi hành kỷ luật, giải quyết tố
cáo và khiếu nại kỷ luật đảng; theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, giám sát tổ chức đảng
cấp dưới và đảng viên có liên quan trong việc thực hiện các quyết định, kết luận,
thơng báo đó; chủ động tham gia ý kiến, kiến nghị những vấn đề liên quan đến
công tác cán bộ và cán bộ thuộc diện huyện, thị, thành uỷ quản lý.
Phối hợp với các ban của cấp uỷ tham mưu cho ban chấp hành, ban
thường vụ huyện, thị, thành ủy xây dựng phương hướng, nhiệm vụ, chương
trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát, tổ chức lực lượng để kiểm tra, giám sát tổ
chức đảng cấp dưới và đảng viên chấp hành Cương lĩnh Chính trị, Điều lệ
Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng theo quy định của điều 30 Điều lệ Đảng;
theo dõi việc thực hiện quy chế làm việc của ban chấp hành đảng bộ huyện,
thị xã, thành phố và kiến nghị với ban chấp hành, ban thường vụ huyện, thị,
thành ủy nhằm thực hiện đúng quy chế.
- Về Thực hiện nhiệm vụ do UBKT Tỉnh ủy và UBKT Trung ương
Đảng giao
Thực hiện nhiệm vụ này, chủ yếu là sự phối hợp với UBKT Trung ương
Đảng hoặc UBKT Tỉnh ủy thực hiện những nhiệm vụ có liên quan đến địa


17
bàn huyện, thị xã, thành phố. Khi UBKT Tỉnh ủy và UBKT Trung ương yêu
cầu thì UBKT huyện, thị, thành ủy có trách nhiệm tạo điều kiện hoặc phối
hợp thực hiện. Trường hợp cần thiết, khi UBKT Tỉnh ủy và UBKT Trung
ương yêu cầu, UBKT huyện, thị, thành ủy cử cán bộ tham gia đoàn hoặc tổ
kiểm tra do các UBKT đó quyết định thành lập; có trách nhiệm tham gia và
phối hợp thực hiện nghiên cứu đề án, chuyên đề và tổng kết về CTKT, GS và
kỷ luật đảng.
1.1.2. Công tác kiểm tra, giám sát của ủy ban kiểm tra, huyện, thị,
thành uỷ ở Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa

1.1.2.1. Khái niệm công tác kiểm tra và công tác giám sát của ủy ban
kiểm tra huyện, thị, thành ủy ở Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa
- Khái niệm cơng tác kiểm tra
Kiểm tra là:"Xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét" [68, tr.523].
Kiểm tra (theo nghĩa trong lãnh đạo, quản lý) là một chức năng lãnh
đạo, quản lý; một khâu trong quy trình lãnh đạo; là việc xem xét tình hình và
kết quả thực tế của việc chấp hành chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị
của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực hiện nhiệm vụ chính trị
được giao, đánh giá đúng ưu điểm để phát huy và chỉ rõ những thiếu sót,
khuyết điểm phải khắc phục sửa chữa, xử lý vi phạm (nếu có).
Cuốn "Sách tra cứu các cụm từ về tổ chức", viết, "kiểm tra: xem xét tình
hình thực tế thi hành pháp luật, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn nói chung hay
một công tác cụ thể được giao của một cơ quan, đơn vị hoặc một người để đánh
giá, nhận xét chất lượng hoạt động của cơ quan, đơn vị hoặc người đó. Kiểm
tra thực hiện chức năng lãnh đạo, quản lý,..." và "Kiểm tra cũng là công tác
thuộc nhiệm vụ của cơ quan Nhà nước, của tổ chức đảng, đoàn thể cấp trên đối
với cấp dưới, của thủ trưởng đối với nhân viên dưới quyền” [60, tr.468].
Kiểm tra được xem như là một nhiệm vụ quan trọng của bất kỳ hệ thống
lãnh đạo, quản lý nào. Kiểm tra bao gồm: kiểm tra của cấp trên đối với cấp
dưới và tự kiểm tra. Điều 30 Điều lệ Đảng khoá X chỉ rõ: kiểm tra là chức


18
năng lãnh đạo của Đảng. Khác với các tổ chức khác, kiểm tra của Đảng là
hoạt động nội bộ Đảng, hoạt động của những người cùng chung mục đích, lý
tưởng nhằm hướng tới đích là làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch
và các tổ chức đảng vững mạnh, có NLLĐ và SCĐ cao, từng bước thực hiện
thắng lợi mục đích, lý tưởng của Đảng.
CTKT của Đảng gồm chủ thể kiểm tra, đối tượng kiểm tra, nội dung
kiểm tra, phạm vi trách nhiệm, quyền hạn kiểm tra. Qua kiểm tra chỉ ra ưu

điểm để phát huy, thiếu sót, khuyết điểm và vi phạm (nếu có) để khắc phục
sửa chữa, nguyên nhân và các biện pháp để phòng ngừa, ngăn chặn khuyết
điểm, vi phạm nhằm làm cho cán bộ, đảng viên và các tổ chức đảng ngày
càng tốt hơn đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Từ những điều trình bày ở trên có thể quan niệm kiểm tra của Đảng là
chức năng lãnh đạo của Đảng, là việc xem xét tình hình chấp hành Cương lĩnh
chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và chính sách, pháp luật
của Nhà nước; thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn hay một công
việc cụ thể được giao để đánh giá, nhận xét tổ chức đảng và đảng viên được
kiểm tra, chỉ ra nguyên nhân và các biện pháp phát huy ưu điểm, khắc phục
khuyết điểm, thiếu sót
Chủ thể CTKT của Đảng gồm các cấp ủy và tổ chức đảng có thẩm
quyền; đối tượng kiểm tra gồm các tổ chức đảng và đảng viên thuộc diện
quản lý; nội dung kiểm tra gồm: việc chấp hành Cương lĩnh Chính trị, Điều lệ
Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước,
thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Phương thức tiến hành kiểm tra
gồm: chủ thể kiểm tra trực tiếp tiến hành, sử dụng các cơ quan chức năng,
như: UBKT, các ban xây dựng Đảng, các cơ quan chức năng có liên quan
phối hợp và các phương tiện cần thiết.
UBKT huyện, thị, thành ủy ở Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá, là một tổ chức
đảng của đảng bộ và là chủ thể kiểm tra của các huyện, thị, thành ủy; có đối
tượng kiểm tra là cấp uỷ, tổ chức đảng và toàn thể đảng viên trong đảng bộ


19
huyện, thị xã, thành phố; đồng thời là đối tượng kiểm tra của UBKT Tỉnh uỷ
và UBKT Trung ương Đảng.
Từ quan niệm về CTKT của Đảng nêu trên, có thể quan niệm: CTKT của
UBKT huyện, thị, thành ủy ở Đảng bộ tỉnh Thanh Hố đó là tổng thể các hoạt
động của UBKT huyện, thị, thành ủy để thực hiện chức năng, nhiệm vụ chủ

yếu của mình là " kiểm tra" các tổ chức đảng trực thuộc và đảng viên của
đảng bộ theo chức năng, nhiệm vụ được giao, chỉ ra ưu, khuyết điểm, nguyên
nhân và các biện pháp phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, ngày càng
tiến bộ, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ cách mạng mà trước hết là nhiệm vụ chính trị của tổ chức đảng và
của đảng bộ huyện, thị xã, thành phố.
Như vậy, chủ thể CTKT của UBKT huyện, thị, thành uỷ ở Đảng bộ tỉnh
Thanh Hóa là UBKT huyện, thị, thành ủy. Đối tượng kiểm tra gồm các cấp
uỷ, tổ chức đảng trực thuộc và toàn thể đảng viên trong đảng bộ huyện, thị xã,
thành phố.
Nội dung, đối tượng kiểm tra của UBKT huyện, thị, thành ủy được thể
hiện ở:
- Kiểm tra đảng viên, kể cả cấp ủy viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi
phạm tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp uỷ viên và trong việc thực hiện
nhiệm vụ đảng viên.
Nội dung kiểm tra: kiểm tra những dấu hiệu vi phạm tiêu chuẩn đảng
viên, tiêu chuẩn cấp uỷ viên và trong việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên.
UBKT huyện, thị, thành uỷ căn cứ tình hình, nhiệm vụ, u cầu của cơng tác
xây dựng Đảng ở địa phương; tính chất dấu hiệu vi phạm của đảng viên để tập
trung kiểm tra.
Đối tượng kiểm tra: chỉ kiểm tra những đảng viên khi có dấu hiệu vi
phạm, trước hết là huyện, thị, thành uỷ viên, đảng viên là cán bộ thuộc diện
huyện, thị, thành uỷ quản lý. Khi cần thiết thì kiểm tra đảng viên do tổ chức
đảng cấp dưới quản lý. Trường hợp đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm là cấp


20
uỷ viên cấp mình, đồng thời là cán bộ thuộc diện Tỉnh uỷ quản lý thì UBKT
huyện, thị, thành uỷ báo cáo để UBKT Tỉnh uỷ chủ trì và phối hợp tiến hành
kiểm tra. Đối với đảng viên là cán bộ thuộc diện huyện, thị, thành uỷ quản lý

trước khi bổ nhiệm phải có ý kiến của các ban có liên quan của Tỉnh uỷ, khi
có dấu hiệu vi phạm thì đề nghị UBKT Tỉnh uỷ chỉ đạo và phối hợp tiến hành
kiểm tra.
- Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm trong việc
chấp hành Cương lĩnh Chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng,
các nguyên tắc tổ chức của Đảng.
Nội dung vi phạm: kiểm tra dấu hiệu vi phạm trong việc chấp hành
Cương lĩnh Chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, các nguyên tắc tổ
chức của Đảng, trước hết là dấu hiệu vi phạm về nguyên tắc tập trung dân chủ
và quy chế làm việc; về đoàn kết nội bộ, giữ gìn phẩm chất, đạo đức cách
mạng của cán bộ, đảng viên; về chấp hành chủ trương, đường lối, nghị quyết,
chỉ thị của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; nghị quyết, chỉ thị
của cấp uỷ cấp trên và của cấp uỷ cùng cấp.
Đối tượng kiểm tra: kiểm tra các tổ chức đảng cấp dưới, trước hết là cấp
dưới trực tiếp, như: đảng uỷ, ban thường vụ, UBKT đảng uỷ cơ sở; chi uỷ, chi
bộ cơ sở. Nếu cần thì kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới cách một cấp (đảng ủy
bộ phận, chi uỷ, chi bộ thuộc đảng ủy cơ sở,...). Khi kiểm tra tổ chức đảng có
dấu hiệu vị phạm, có thể kết hợp kiểm tra một số đảng viên là cán bộ chủ chốt
của tổ chức đảng được kiểm tra.
- Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra
Nội dung kiểm tra: kiểm tra việc xây dựng phương hướng, nhiệm vụ
kiểm tra, xây dựng và thực hiện chương trình, kế hoạch kiểm tra theo điều 30
và điều 32, Điều lệ Đảng; việc lãnh đạo và chỉ đạo đảng uỷ, ban thường vụ
đảng uỷ cơ sở, chi ủy, chi bộ cơ sở trong việc thực hiện CTKT, bao gồm cả
việc chỉ đạo, tổ chức hoạt động của UBKT đảng uỷ cơ sở; kết quả kiểm tra
của cấp uỷ và tổ chức đảng ở cơ sở.


21
Đối tượng kiểm tra: kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới, trước hết là đảng uỷ,

ban thường vụ đảng uỷ cơ sở, chi ủy, chi bộ cơ sở và UBKT đảng uỷ cơ sở chưa
làm tốt hoặc có khó khăn trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra.
- Kiểm tra việc thi hành kỷ luật trong Đảng
Nội dung kiểm tra: kiểm tra việc thi hành kỷ luật theo mốc thời gian
nhất định. Tập trung kiểm tra việc thực hiện phương hướng, phương châm,
nguyên tắc thủ tục thi hành kỷ luật đối với tổ chức đảng và đảng viên. Kiểm
tra việc giải quyết khiếu nại về kỷ luật đảng, những vụ khiếu nại đã giải
quyết, đang giải quyết hoặc những vụ vì lý do nào đó mà chưa giải quyết.
Xem xét các vụ kỷ luật đã được xử lý, nhưng có dấu hiệu xử lý khơng đúng
mức; các vụ vi phạm đến mức phải xử lý, nhưng không xử lý. Kiểm tra việc
chấp hành các quyết định, chỉ thị, thơng báo của tổ chức đảng cấp trên có liên
quan đến việc thi hành kỷ luật và giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng.
Đối tượng kiểm tra: kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới có thẩm quyền thi
hành kỷ luật, trước hết là đảng uỷ và chi bộ cơ sở, nhất là những nơi có nhiều
tổ chức đảng và đảng viên vi phạm đến mức phải xử lý kỷ luật, nhưng không
xử lý hoặc xử lý không đúng mức; những nơi có nhiều thư khiếu nại về kỷ
luật đảng.
- Xem xét, kết luận những trường hợp vi phạm kỷ luật, quyết định hoặc
đề nghị cấp ủy thi hành kỷ luật
Thông qua việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giải quyết tố cáo, sinh hoạt
nội bộ, đánh giá phân loại chất lượng đảng viên hoặc kết luận của cơ quan
pháp luật; qua xem xét, đề nghị thi hành kỷ luật của tổ chức đảng cấp dưới, nếu
phát hiện đảng viên vi phạm đến mức phải xử lý kỷ luật thì UBKT huyện, thị,
thành uỷ quyết định hoặc xem xét, chuẩn bị hồ sơ đề nghị ban chấp hành hoặc
ban thường vụ huyện, thị, thành uỷ quyết định thi hành kỷ luật theo thẩm quyền.
Thẩm quyền thi hành kỷ luật của UBKT huyện, thị, thành uỷ: quyết định
khiển trách, cảnh cáo đảng uỷ viên (kể cả bí thư, phó bí thư và ủy viên ban
thường vụ) và chi uỷ viên cơ sở; cán bộ thuộc diện huyện, thị, thành uỷ quản



22
lý, nhưng không phải là huyện, thị, thành uỷ viên; quyết định các hình thức kỷ
luật đối với đảng viên, kể cả đảng viên là bí thư, phó bí thư, chi uỷ viên của
chi bộ, đảng uỷ bộ phận thuộc đảng bộ cơ sở hoặc cán bộ thuộc diện đảng uỷ
cơ sở quản lý, nhưng không phải là đảng uỷ viên đảng uỷ cơ sở hay cán bộ
thuộc diện huyện, thị, thành uỷ quản lý.
- Giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên
Thẩm quyền giải quyết tố cáo ở đảng bộ huyện, thị xã, thành phố là ban
chấp hành đảng bộ huyện, thị xã, thành phố, ban thường vụ và UBKT huyện,
thị, thành uỷ có nhiệm vụ giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng (đảng uỷ, ban
thường vụ, ủy ban kiểm tra đảng ủy, chi uỷ và chi bộ cơ sở, các ban của
huyện, thị, thành uỷ) và đảng viên thuộc diện huyện, thị, thành uỷ quản lý.
- Giải quyết khiếu nại về kỷ luật đảng
UBKT huyện, thị, thành uỷ giải quyết khiếu nại của tổ chức đảng và
đảng viên đối với những trường hợp do đảng uỷ và chi bộ cơ sở thi hành kỷ
luật; và những trường hợp tái khiếu mà đảng ủy cơ sở đã giải quyết. Có trách
nhiệm xem xét, đề xuất ý kiến giải quyết và chuẩn bị hồ sơ các vụ kỷ luật
thuộc thẩm quyền giải quyết khiếu nại của ban chấp hành đảng bộ hoặc ban
thường vụ huyện, thị, thành uỷ.
- Kiểm tra tài chính đảng đối với cấp uỷ cơ sở và của cơ quan tài chính
huyện, thị, thành uỷ
UBKT huyện, thị, thành uỷ có quyền kiểm tra tài chính đối với cơ quan
tài chính huyện, thị, thành uỷ: kiểm tra việc chấp hành các chủ trương, nghị
quyết, chỉ thị, quy định, chế độ, chính sách về quản lý, sử dụng tài chính, tài
sản của Đảng và Nhà nước trong q trình hoạt động tài chính theo chức
năng, nhiệm vụ được giao; việc chấp hành sự chỉ đạo, các chủ trương, quy
định, quyết định của huyện, thị, thành uỷ và của cấp uỷ cấp trên; việc tham
mưu cho huyện, thị, thành uỷ quyết định các chủ trương, chế độ thu chi, quản
lý tài chính và tài sản của Đảng; giúp cấp ủy dự toán ngân sách, quản lý thực
hiện ngân sách, báo cáo phê duyệt thanh quyết tốn tài chính; việc chấp hành



23
các quy định của Luật kế toán, Luật ngân sách,...Kiểm tra việc thu nộp, quản
lý và sử dụng đảng phí đối với đảng ủy và chi bộ cơ sở.
- Khái niệm công tác giám sát
Theo đại từ điển tiếng việt: "Giám sát là theo dõi, kiểm tra việc thực thi
nhiệm vụ"[91, tr.728]. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: "Giám sát là một
hình thức hoạt động của cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội nhằm đảm
bảo pháp chế hoặc sự chấp hành những quy tắc chung nào đó" [67, tr.112].
Theo từ điển Luật học:
Giám sát còn được hiểu là sự theo dõi, quan sát hoạt động
mang tính chủ động thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động
bằng các biện pháp tích cực để buộc và hướng hoạt động của đối
tượng chịu sự giám sát đi theo qũy đạo, quy chế nhằm đạt được mục
đích, hiệu quả đã được xác định từ trước, bảo đảm cho pháp luật
được tuân thủ nghiêm chỉnh [69, tr.174].
Điều lệ Đảng khoá X xác định: "Giám sát là chức năng lãnh đạo của Đảng".
Như vậy, giám sát dùng để chỉ hoạt động theo dõi, nắm tình hình, xem
xét một cách thường xuyên, liên tục và nhận định về một việc làm nào đó đã
thực hiện đúng hoặc sai so với quy định.
Giám sát luôn gắn với chủ thể nhất định, tức là phải trả lời được câu hỏi
ai (người hoặc tổ chức nào) có quyền thực hiện việc theo dõi, xem xét và có
quyền đưa ra những nhận định về một việc làm nào đó đã được thực hiện là
đúng hoặc sai so với những điều đã quy định.
Giám sát còn được hiểu là: sự theo dõi, quan sát hoạt động mang tính
chủ động thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích
cực để buộc và hướng hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát đi đúng quỹ
đạo, quy chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã được xác định từ trước,
bảo đảm cho chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và chính sách, pháp

luật của Nhà nước được thực hiện nghiêm chỉnh.
Giám sát của Đảng là chức năng lãnh đạo của Đảng, là chủ thể giám sát
(tổ chức đảng và đảng viên) có thẩm quyền tiến hành theo dõi, quan sát


24
thường xuyên trực tiếp, gián tiếp mang tính chủ động tới mọi hoạt động của
đối tượng giám sát (tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên) để hướng cho đối
tượng được giám sát chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật đảng và chức trách,
nhiệm vụ được giao, nhằm đạt được mục đích, yêu cầu của chủ thể giám sát
đã đề ra; góp phần chủ động phịng ngừa, ngăn chặn xảy ra vi phạm, thúc đẩy
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng.
Công tác giám sát của Đảng là công việc nội bộ Đảng, nhằm phục vụ
thực hiện nhiệm vụ chính trị và cơng tác xây dựng Đảng; đồng thời qua giám
sát phát hiện những nơi làm tốt, những kinh nghiệm hay để phổ biến, phát
huy; biết được nơi có thiếu sót, lệch lạc để uốn nắn, khắc phục; phát hiện các
dấu hiệu vi phạm để kiểm tra và những điểm cần sửa đổi, bổ sung trong chủ
trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Từ những điều trình bày ở trên có thể quan niệm: CTGS của UBKT
huyện, thị, thành ủy ở Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá là tổng thể hoạt động của
UBKT huyện, thị, thành uỷ để thực hiện chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của
mình là "giám sát" thông qua việc theo dõi, quan sát trực tiếp, giám sát
thường xuyên mang tính chủ động đối với mọi hoạt động của tổ chức đảng
cấp dưới và đảng viên của đảng bộ huyện, thị xã, thành phố để phát huy ưu
điểm, phát hiện và ngăn chặn kịp thời những thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm
khi mới manh nha, hướng các hoạt động của các tổ chức đảng, đảng viên đó
chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh Chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ
thị của Đảng và chủ trương, nghị quyết của Tỉnh ủy Thanh Hố, góp phần
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng mà trước hết là chức trách, nhiệm vụ
được giao, nhiệm vụ chính trị của tổ chức đảng và của đảng bộ huyện, thị xã,

thành phố.
- Chủ thể CTGS của UBKT huyện, thị, thành phố ở Đảng bộ tỉnh Thanh
Hoá là UBKT huyện, thị, thành ủy.
- Đối tượng giám sát:
+ Đối với tổ chức đảng: cấp uỷ và tổ chức đảng cấp dưới mà trước hết là
đảng ủy, ban thường vụ đảng uỷ cơ sở, UBKT đảng uỷ cơ sở và chi ủy, chi bộ


25
cơ sở; các ban của huyện, thị, thành uỷ; các tiểu ban, hội đồng, tổ công tác do
huyện, thị, thành uỷ lập ra. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giám sát,
UBKT huyện, thị, thành uỷ có thể giám sát cả các tổ chức đảng trong đảng bộ
cơ sở (đảng ủy bộ phận, chi ủy, chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở).
+ Đối với đảng viên: giám sát huyện, thị, thành ủy viên, kể cả bí thư,
phó bí thư, uỷ viên ban thường vụ huyện, thị, thành uỷ; đảng viên là cán bộ
diện thuộc huyện, thị, thành uỷ quản lý. Như vậy, UBKT huyện, thị, thành uỷ
được giám sát đối với mọi đảng viên trong đảng bộ huyện, thị xã, thành phố.
Tuỳ theo yêu cầu nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng của đảng bộ
trong từng thời gian, mà chọn đối tượng giám sát cho phù hợp. Đặc biệt tập
trung giám sát cán bộ, đảng viên là người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo chủ chốt
xã, phường, thị trấn và phịng, ban, ngành, đồn thể của cấp mình.
- Nội dung giám sát:
+ Giám sát đối với tổ chức đảng: giám sát tổ chức đảng cấp dưới (đảng
ủy, ban thường vụ đảng uỷ cơ sở; ủy ban kiểm tra đảng uỷ cơ sở và chi ủy, chi
bộ cơ sở; các ban của huyện, thị, thành uỷ,...) trong việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ
chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; nghị quyết, chỉ
thị, quy định, quyết định, kết luận của cấp ủy cấp trên và của cấp mình; việc
thực hiện nguyên tắc và hoạt động của Đảng; thực hiện chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn được giao; thực hiện quy chế làm việc; thực hiện chương trình
cơng tác tồn khố, hằng năm của cấp uỷ, tổ chức đảng trên các lĩnh vực và

công tác cán bộ; giám sát các nội dung khác do cấp uỷ giao (nếu có).
+ Giám sát đối với đảng viên: việc chấp hành Điều lệ Đảng, nghị quyết,
chỉ thị, quy định, quyết định, kết luận của Đảng; chính sách, pháp luật của
Nhà nước; việc thực hiện tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp uỷ viên và
trong việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên; thực hiện chức trách, nhiệm vụ được
giao; giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống; giữ gìn mối liên hệ với tổ chức
đảng và thực hiện nghĩa vụ công dân ở nơi cư trú; thực hiện những điều đảng
viên và cán bộ, công chức không được làm; thực hiện kê khai và công khai tài


×