Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

tom tat 2 CÔNG tác GIÁM sát của uỷ BAN KIỂM TRA TỈNH uỷ cà MAU THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN và KINH NGHIỆM (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.93 KB, 69 trang )

1
Tiết 2 có tiêu đề: CƠNG TÁC GIÁM SÁT CỦA UỶ BAN KIỂM TRA TỈNH
UỶ CÀ MAU - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM

1.2.1. Thực trạng công tác giám sát của Uỷ ban Kiểm tra tỉnh Cà Mau
1.2.1.1. Ưu điểm
Thực trạng hoạt động của Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Cà Mau trong thời
gian qua tuy đã kịp thời triển khai nhiệm vụ giám sát nhưng vẫn chủ yếu tập
trung vào công tác kiểm tra và thực hiện công tác giám sát chưa được nhiều.
Đặc biệt trong năm 2006, sau khi Đại hội X của Đảng bổ sung chức năng
giám sát cho Uỷ ban Kiểm tra các cấp thì hoạt động chính của Ủy ban Kiểm
tra Tỉnh ủy vẫn tập trung chủ yếu vào cơng tác kiểm tra, cịn cơng tác giám sát
vẫn chưa được đặt đúng vị trí, tầm quan trọng của nó. Tuy nhiên trong hơn hai
năm qua, công tác giám sát của Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy tỉnh Cà Mau cũng
đã thu được một số kết quả nhất định .
Ngay sau Đại hội, Tỉnh ủy đã mở 04 lớp truyền đạt nội dung Nghị
quyết Đại hội lần thứ X của Đảng cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng,
chính quyền và các báo cáo viên, tuyên truyền viên. Tại những hội nghị này,
Tỉnh ủy cũng đã triển khai chương trình hành động của tỉnh nhằm thực hiện
Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng.
Sau đó, Tỉnh ủy đã lãnh đạo, chỉ đạo cấp ủy các cấp triển khai việc
truyền đạt nội dung Nghị quyết với tất cả cán bộ, đảng viên và quần chúng
nhân dân. Kết quả có trên 95% cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức đã
trực tiếp dự học tập nội dung Nghị quyết Đại hội. Tỉnh ủy cũng đã lãnh đạo
Uỷ ban Kiểm tra các cấp triển khai thực hiện nhiệm vụ giám sát theo tinh thần
Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng. Lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy đảng và
Uỷ ban Kiểm tra các cấp chủ động tiến hành xây dựng bổ sung nội dung giám
sát vào chương trình, kế hoạch cơng tác của cấp ủy và Uỷ ban Kiểm tra cấp
mình. Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy đã tập trung chỉ đạo và thường xuyên hướng
dẫn Uỷ ban Kiểm tra cấp dưới tăng cường hoạt động giám sát. Qua các đợt
học tập này, phần lớn cán bộ, đảng viên đã nhận thức được ý nghĩa tác dụng


và sự cần thiết phải thực hiện nhiệm vụ giám sát. Tỉnh ủy cũng đã có nhiều


2
văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, nhắc nhở các cấp ủy đảng, Uỷ ban Kiểm tra các
cấp tăng cường công tác giám sát các tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên,
nhất là đối với đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp ủy cấp mình quản lý.
Ngày 24 tháng 11 năm 2006 Bộ Chính trị có Quyết định số 25-QĐ/TW,
ban hành Hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và
kỷ luật của Đảng trong chương VII và chương VIII Điều lệ Đảng khóa X,
hướng dẫn cụ thể về việc thực hiện công tác kiểm tra, giám sát theo quy định
của Điều lệ Đảng. Sau khi có hướng dẫn của Ủy ban Kiểm tra Trung ương,
Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy đã tổ chức quán triệt nội dung Hướng dẫn của Ủy
ban Kiểm tra Trung ương tới các cán bộ, chuyên viên, đảng viên làm công tác
giám sát từ tỉnh đến các huyện, thành phố và đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy,
đồng thời tích cực, chủ động tham mưu cho Tỉnh ủy xây dựng và ban hành
quy chế làm việc của Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy (Quy chế số 01-QC/TU, ngày
24 tháng 06 năm 2007, về quy định chế độ làm việc của Ủy ban Kiểm tra
Tỉnh ủy khóa XIII), giúp cấp ủy và Uỷ ban Kiểm tra cấp dưới ban hành quy
chế làm việc của Uỷ ban Kiểm tra cấp mình. Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy đã tập
trung lãnh đạo, chỉ đạo và hướng dẫn Uỷ ban Kiểm tra cấp dưới tăng cường
hoạt động giám sát.
Được sự lãnh đạo của Tỉnh ủy và cấp ủy đảng các cấp, đầu tháng 3 năm
2007, Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy triển khai xong chương trình, kế hoạch kiểm
tra, giám sát năm 2007 của Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy. Cuối tháng 6 năm 2007,
Uỷ ban Kiểm tra các huyện cũng đã hoàn thành việc triển khai kế hoạch kiểm
tra, giám sát năm. Các tổ chức cơ sở đảng đã xây dựng chương trình, kế
hoạch giám sát ngay từ đầu năm 2008. Công tác giám sát trong chương trình,
kế hoạch của Uỷ ban Kiểm tra các cấp chỉ mới đề cập một cách chung chung,
chưa rõ ràng cụ thể, hiện nay đang tiến hành bổ sung cho phù hợp với tình

hình nhiệm vụ mới.
Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy đã tham mưu giúp Tỉnh ủy xây dựng chương
trình kiểm tra, giám sát nhiệm kỳ 2006 – 2010, chương trình kiểm tra, giám
sát năm 2007, 2008 và trực tiếp tiến hành công tác giám sát theo chương


3
trình, kế hoạch được Tỉnh ủy phân cơng; đồng thời giúp Tỉnh ủy đôn đốc các
tổ chức đảng thực hiện các nhiệm vụ giám sát của cấp ủy cấp mình.
Trên cơ sở chương trình, kế hoạch giám sát của tồn khóa và kế hoạch
giám sát từng năm của Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy, Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy đã
tiến hành phân cơng nhiệm vụ giám sát cho phịng giám sát và cán bộ, chuyên
viên của Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy phụ trách giám sát các địa bàn, đơn vị và đảng
viên. Đặc biệt Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy đã chú trọng việc phân công giám sát
các tổ chức đảng yếu kém nhiều năm liền, những đảng viên có thiếu sót qua
kiểm tra, thanh tra kết luận, qua tự phê bình hàng năm, qua dư luận, qua các
phương tiện thơng tin đại chúng. Do đó, việc thực hiện chương trình, kế hoạch
giám sát của cấp ủy các cấp trong năm 2007, 2008 cơ bản đạt yêu cầu đề ra.
Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy đã có sự chủ động tham mưu cho Tỉnh ủy và
hướng dẫn, giúp đỡ các cấp ủy đảng xây dựng chương trình, kế hoạch giám
sát theo quy định của Điều lệ Đảng.
Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy tham mưu cho Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban
hành các văn bản hướng dẫn các tổ chức đảng thực hiện nhiệm vụ giám sát.
Tham gia chuẩn bị các nội dung có liên quan đến cơng tác giám sát và giúp
Tỉnh ủy, cấp ủy các cấp tổng kết công tác xây dựng Đảng, sơ kết công tác
giám sát hơn hai năm thực hiện. Tham gia đề xuất ý kiến với Ban Thường vụ
Tỉnh ủy trong việc đánh giá, bố trí, đề bạt, bổ nhiệm đối với cán bộ thuộc diện
Tỉnh ủy quản lý khi có yêu cầu của Ban Tổ chức. Nhờ đó các tổ chức đảng,
cấp ủy và Uỷ ban Kiểm tra các cấp đã chủ động hơn trong thực hiện nhiệm vụ
giám sát theo quy định của Điều lệ Đảng.

Để làm tốt vai trò, trách nhiệm của mình, Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy và Uỷ
ban Kiểm tra huyện ủy, thành ủy và đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy đã cử nhiều lượt
cán bộ, chuyên viên của Uỷ ban Kiểm tra các cấp tham gia các đồn cơng tác của
cấp ủy đi giám sát, thẩm định các tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh và
giải quyết những vấn đề còn tồn đọng sau công tác đánh giá, phân loại tổ chức
đảng và đảng viên.


4
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của công tác giám sát, trong
năm 2007, 2008, Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy đã giúp Tỉnh ủy tiến hành mở 11 lớp
tập huấn nghiệp vụ công tác kiểm tra, giám sát của Đảng cho 1.229 cán bộ làm
công tác kiểm tra cơ sở, cấp huyện và tương đương. Uỷ ban Kiểm tra các huyện
ủy mở nhiều lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác kiểm tra, giám sát cho tất cả cán
bộ làm công tác kiểm tra ở các cơ sở đảng và chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở.
1.2.1.2. Về hạn chế, tồn tại
Trong những năm qua, hoạt động giám sát của Ủy ban Kiểm tra Tỉnh
ủy đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, song bên cạnh đó vẫn cịn những
mặt yếu kém cần khắc phục như:
Việc hướng dẫn và triển khai tổ chức thực hiện nhiệm vụ giám sát theo
quy định của Điều lệ Đảng, của Ủy ban Kiểm tra Trung ương đối với Uỷ ban
Kiểm tra các cấp chưa thật kịp thời.
Hoạt động của Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy trong những năm qua chủ yếu
tập trung vào công tác kiểm tra, chứ thực hiện công tác giám sát chưa nhiền,
chỉ thực hiện công tác giám sát theo chuyên đề. Tuy nhiên, thực tiễn quá trình
thực hiện chức năng kiểm tra của Uỷ ban Kiểm tra các cấp trong những năm
qua đã có yếu tố của chức năng giám sát, nhưng yếu tố giám sát đó mới thể
hiện dưới dạng giám sát bị động, do chưa có những cơ chế quy định về trách
nhiệm của Uỷ ban Kiểm tra trong thực hiện chức năng giám sát của Đảng.
Công tác giám sát mới chỉ nhằm phục vụ cho công tác kiểm tra, chưa thật sự

là chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của Uỷ ban Kiểm tra các cấp. Qua kết
quả kiểm tra những năm vừa qua và những đơn thư tố cáo, tố giác các tổ chức
đảng và đảng viên đã cho thấy: công tác giám sát chưa được tiến hành thường
xuyên và ngay chính trong công tác giám sát lại chưa coi trọng việc nắm tình
hình, phát hiện dấu hiệu vi phạm. Việc phát hiện các dấu hiệu vi phạm từ các
tổ chức đảng vẫn cịn ít, các dấu hiệu vi phạm được phát hiện thường là thông
qua các đơn thư tố cáo, tố giác của quần chúng nhân dân. Điều đó chứng tỏ
vai trò giám phát hiện dấu hiệu vi phạm của tổ chức đảng chưa được đề cao,


5
đồng thời cịn cho thấy rằng: cơng tác giám sát của cấp ủy, các tổ chức đảng
cũng như của Uỷ ban Kiểm tra các cấp và chi bộ chưa thật sự dựa vào quần
chúng nhân dân, chưa xây dựng được cơ chế để các đồn thể, các tổ chức chính
trị - xã hội và nhân dân tham gia giám sát tổ chức đảng và đảng viên. Cho đến
nay ngoài Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy và Uỷ ban Kiểm tra các huyện ủy, thành ủy,
đảng ủy trực thuộc tỉnh, thì còn nhiều tổ chức đảng, Uỷ ban Kiểm tra cơ sở chưa
xây dựng được chương trình, kế hoạch tiến hành công tác giám sát.
Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ giám sát trong tình hình mới, Uỷ ban
Kiểm tra các cấp cần tập trung làm rõ quy trình thực hiện nhiệm vụ giám sát.
Đặc biệt có cơ chế giám sát đối với đảng viên là cán bộ thuộc diện Tỉnh ủy
quản lý, đảng viên là tỉnh ủy viên, ủy viên Ban thường vụ, bí thư hoặc phó bí
thư tỉnh ủy khơng cịn gặp nhiều lúng túng, chưa có quy trình giám sát hiệu
quả. Việc giám sát cán bộ là cấp ủy viên cùng cấp cịn có biểu hiện lo sợ, nể
nang, lảng tránh trách nhiệm giám sát. Chưa có cơ chế cụ thể, rõ ràng về trách
nhiệm trong hoạt động giám sát của Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy như: Trong quy
chế hoạt động của Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh ủy chưa làm rõ vấn đề khi tổ chức
hoặc cán bộ, chuyên viên được phân công làm nhiệm vụ giám sát nếu không
phát hiện, ngăn ngừa những biểu hiện vi phạm để xảy ra những vụ việc
nghiêm trọng thì phải chịu trách nhiệm liên đới hay không. Kết cấu Quy chế

làm việc của Uỷ ban Kiểm tra các cấp chưa được thống nhất, cách diễn đạt
chưa thật rõ ràng, dễ dẫn đến hiểu sai nội dung; thậm chí có quy chế còn gần
như là bản sao quy chế của cấp trên, chưa gắn với thực tế của địa phương, đơn
vị. Việc áp dụng quy chế làm việc của Uỷ ban Kiểm tra các cấp vào hoạt động
thực tiễn còn nhiều bất cập.
Trong hoạt động của Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh ủy cịn nặng về cơng tác
nghiệp vụ, chun mơn, cơng tác giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm
đối với công tác giám sát trong cán bộ, đảng viên chưa được đề cao. Uỷ ban
Kiểm tra Tỉnh ủy mới chỉ chú trọng giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm,
nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, đảng viên làm công tác giám sát của Uỷ


6
ban Kiểm tra các cấp. Chưa chú trọng việc nâng cao nhận thức về vị trí, tầm
quan trọng của cơng tác giám sát đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên trong toàn
đảng bộ, nên nhận thức của một số cấp ủy đảng và cán bộ, đảng viên về công
tác giám sát cịn nhiều hạn chế, do đó để xảy ra hiện tượng coi nhẹ, buông
lỏng công tác giám sát của Đảng, sự giám sát của quần chúng nhân dân, thiếu
sự kết hợp chặt chẽ hai mặt này với nhau, đến khi tiến hành không dựa vào
nhân dân, không lấy dân làm tai mắt, dẫn đến sai lầm về nguyên tắc tiến hành
công tác giám sát của Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: phải phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, phải dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng thì mới thấy sức
mạnh kỳ diệu ở “mắt thần” của nhân dân sẽ soi được hết các hành vi sai phạm
của các cán bộ, đảng viên dù ở cấp thấp hay cấp cao, làm cho tất cả được phơi
bày ra trước ánh sáng, nhất là những kẻ tham nhũng, quan liêu, thối hóa,
biến chất mới khơng cịn nơi ẩn nấp; mới làm cho chức năng kiểm tra, giám
sát thực sự đi vào cuộc sống.
Trong chương trình, kế hoạch giám sát của Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh ủy
(kể cả trong hướng dẫn thực hiện công tác kiểm tra, giám sát của Uỷ ban

Kiểm tra Trung ương) chưa đề cập đến cơng tác giám sát hoạt động tài chính
của Đảng. Đây là một mảng lớn mà qua công tác kiểm tra tài chính của các tổ
chức đảng trong tỉnh cho thấy cịn nhiều thiếu sót, sai phạm, số tiền phải truy thu
lớn trong khi ngân sách hoạt động của Đảng cịn nhiều hạn hẹp, thiếu thốn.
Cơng tác giám sát là một nhiệm vụ mới được Đại hội lần thứ X của
Đảng bổ sung, nên còn nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn chưa được làm
sáng tỏ. Do đó, trong tổ chức thực hiện của Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh ủy cũng
như của Uỷ ban Kiểm tra các cấp thời gian qua thật sự còn biểu hiện lúng
túng, kể cả về nhận thức và biện pháp tổ chức thực hiện cũng như về phương
pháp, quy trình giám sát. Nhưng trong phân công công tác của Uỷ ban Kiểm
tra Tỉnh ủy lại chưa có bộ phận đảm nhận việc nghiên cứu tổng kết, rút kinh
nghiệm để bổ sung, phát triển và hồn thiện cơng tác giám sát, làm cho công
tác giám sát ngày càng phát huy hiệu quả hơn. Mặt khác, Tỉnh ủy và Uỷ ban


7
Kiểm tra Tỉnh ủy chưa quan tâm đúng mức đến công tác giáo dục, nâng cao
nhận thức của đội ngũ cán bộ làm cơng tác giám sát nói riêng và đội ngũ đảng
viên nói chung. Chưa coi đây là một trong những biện pháp nhằm nâng cao
chất lượng, hiệu quả của hoạt động giám sát của Tỉnh ủy và Uỷ ban Kiểm tra
Tỉnh ủy, để có sự kết hợp giáo dục nâng cao trình độ nhận thức lý luận, trình
độ mọi mặt cho đội ngũ đảng viên với việc giáo dục nâng cao nhận thức về
công tác giám sát của đảng hiện nay.
Mặt khác, Uỷ ban Kiểm tra cấp dưới, nhất là ở cơ sở cịn có biểu hiện
trơng chờ sự hướng dẫn của Ủy ban Kiểm tra cấp trên, chưa chủ động nghiên
cứu, tìm biện pháp, cách thức thực hiện nhiệm vụ giám sát của mình.
Việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện của một số cấp ủy đảng đối với công
tác giám sát của Uỷ ban Kiểm tra cịn thiếu tập trung, chưa thật sự kiên quyết.
Có cấp ủy đảng, nhất là ở cấp cơ sở còn coi công tác giám sát là nhiệm vụ của
Uỷ ban Kiểm tra, do Uỷ ban Kiểm tra làm và chịu trách nhiệm, nên có tư

tưởng khốn trắng cơng tác giám sát cho Uỷ ban Kiểm tra.
Một số ít cấp ủy và Uỷ ban Kiểm tra cấp dưới, nhất là cấp cơ sở và chi bộ
trực thuộc đảng bộ cơ sở chưa tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tốt công tác giám sát
của Đảng. Chưa chú trọng xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể, phù hợp với
điều kiện thực tế của địa phương, đơn vị. Từng lúc, từng nơi, từng đơn vị có lúc
cịn chủ quan trong tổ chức, triển khai thực hiện nhiệm vụ giám sát;
Đối với công tác giám sát, trong chương trình, kế hoạch của Uỷ ban
Kiểm tra các cấp chỉ mới đề cập một cách cụ thể từ đầu năm 2008, cịn trước
đó thì chỉ đề cập chung chung, chưa rõ ràng cụ thể. Chưa phân biệt rõ nội
dung nào thuộc công tác kiểm tra, nội dung nào thuộc nhiệm vụ giám sát. Một
số tổ chức đảng thiếu chủ động, tích cực trong việc xây dựng chương trình,
kế hoạch giám sát. Vì vậy, trong chương trình, kế hoạch của Uỷ ban Kiểm
tra các cấp sắp tới cần chú ý xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát cụ
thể, sát với tình hình, nhiệm vụ của địa phương, đơn vị trong từng thời gian
nhất định. Các tổ chức đảng và Uỷ ban Kiểm tra cần chủ động hơn nữa trong


8
việc xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát thường xuyên và giám sát
theo chuyên đề.
Trong hoạt động của Uỷ ban Kiểm tra các cấp, việc kết hợp giữa công
tác kiểm tra và công tác giám sát chưa thật sự chặt chẽ. Công tác giám sát
chưa là tiền đề hỗ trợ cho công tác kiểm tra, nhất là trong việc phát hiện các
dấu hiệu vi phạm để tiến hành kiểm tra. Mặt khác, do tập trung vào thực hiện
chức năng, nhiệm vụ kiểm tra nên họat động của Uỷ ban Kiểm tra các cấp chỉ
chú ý tập trung vào các đối tượng có dấu hiệu vi phạm, chưa chú ý vào việc
giám sát chung, thường xuyên, toàn diện đối với các tổ chức đảng và đảng viên.
Nhất là đối với các tổ chức đảng yếu kém, đảng viên là cán bộ thuộc diện Tỉnh
ủy quản lý, cán bộ lãnh đạo chủ chốt của các đơn vị, cấp ủy viên cùng cấp, đảng
viên hoạt động trong các ngành, lĩnh vực nhạy cảm, dễ nảy sinh tiêu cực. Do đó,

tác dụng ngăn ngừa, phòng chống các biểu hiện tiêu cực, các dấu hiệu vi phạm
ngay từ lúc mới manh nha còn hạn chế, chất lượng hiệu quả chưa cao. Từ đó dẫn
đến việc phát hiện các tổ chức đảng và đảng viên có dấu hiệu vi phạm để tiến
hành kiểm tra của Uỷ ban Kiểm tra các cấp và các tổ chức đảng vẫn cịn hạn chế,
nên cơng tác kiểm tra chưa đi vào trọng tâm, trọng điểm. Qua kết quả kiểm tra
cho thấy tỷ lệ đảng viên và tổ chức đảng có vi phạm so với số lượng chung của
đảng viên và tổ chức đảng được kiểm tra còn thấp (tương đương 4% số lượng
đảng viên và tương đương 1,2% số tổ chức đảng).
Nhận thức của một số tổ chức đảng, cấp ủy, cán bộ, đảng viên về vị trí,
vai trị của công tác giám sát chưa thật sâu sắc. Một số cán bộ kiểm tra và Uỷ
ban Kiểm tra ở cơ sở cịn nhận thức phiến diện về cơng tác giám sát, chưa thật
sự coi trọng công tác giám sát, chưa coi công tác giám sát là một trong những
chức năng lãnh đạo của Đảng. Còn lúng túng cả trong lý luận, cả về phương
pháp nghiệp vụ.
Trình độ chun mơn nghiệp vụ và năng lực hoạt động thực tiễn của
một số cán bộ kiểm tra còn hạn chế, số cán bộ, chuyên viên được đào tạo
chuyên sâu về công tác kiểm tra, giám sát không nhiều, chủ yếu được rút lên


9
từ Uỷ ban Kiểm tra cấp dưới qua hoạt động thực tiễn trong công tác kiểm tra,
giám sát, nhất là ở cơ sở phần lớn là hoạt động kiêm chức nên hiệu quả cơng
tác khơng cao, có đơi khi từ ngành khác chuyển về, nên chưa có kinh nghiệm
để thực hiện cơng tác giám sát có hiệu quả. Đồng thời do chế độ đối với cán
bộ làm công tác kiểm tra, giám sát của Đảng ở cơ sở còn nhiều bất cập (tuy
Tỉnh ủy đã tăng cường cho mỗi cơ sở một định suất lương, nhưng cán bộ chưa
được đưa vào định biên) nên cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát chưa thật sự
an tâm công tác, chưa sãn sàng với công tác giám sát. Một số cán bộ kiểm tra
cịn có thái độ e ngại trong thực hiện nhiệm vụ giám sát, nhất là khi được tổ chức
phân công giám sát đảng viên là cán bộ lãnh đạo cùng cấp của địa phương.

Việc triển khai hoạt động giám sát của Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh ủy cho tổ
chức đảng và Uỷ ban Kiểm tra cấp dưới còn chậm, việc sơ kết, tổng kết, rút
kinh nghiệm chưa tiến hành kịp thời. Trong hoạt động thực tiễn và trong các
báo cáo sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm 2 năm 2006, 2007, sơ kết 6 tháng
đầu năm 2008 và sơ kết giữa nhiệm kỳ thực hiện công tác kiểm tra, giám sát
của Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh ủy cũng như của Uỷ ban Kiểm tra các cấp chưa đề
cập đến hoạt động giám sát một cách cụ thể, rõ ràng. Chưa tập trung tổng hợp,
đánh giá, phân tích đầy đủ những ưu, khuyết điểm trong hoạt động giám sát
thời gian qua để rút kinh nghiệm cho hoạt động sắp tới.
1.2.2. Nguyên nhân và những kinh nghiệm
1.2.2.1. Nguyên nhân
- Nguyên nhân ưu điểm:
Công tác giám sát của Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh ủy tỉnh Cà Mau đạt được
kết quả trên là do: Tỉnh ủy và Uy ban kiểm tra Trung ương đã tăng cường sự
lãnh đạo, chỉ đạo, đặc biệt là được sự chỉ đạo, hướng dẫn thường xuyên của
Uy ban kiểm tra Trung ương, đồng thời do đội ngũ cán bộ của Uỷ ban Kiểm
tra tỉnh với sự tích cực, chủ động và nỗ lực phấn đấu thực hiện nhiệm vụ với
tinh thần trách nhiệm cao, có sự chủ động phối hợp giữa Uỷ ban Kiểm tra tỉnh
với các ban đảng và các cơ quan bảo vệ pháp luật ngày càng chặt chẽ và tốt


10
hơn. Công tác giám sát đang dần dần đi vào nền nếp, có chương trình, kế
hoạch cụ thể.
- Ngun nhân khuyết điểm:
Cơng tác giám sát cịn hạn chế như nêu trên là do nhiều nguyên nhân,
nhưng những nguyên nhân chính đó là: Đây là nhiệm vụ mới được Điều lệ
Đảng khóa X quy định, Bộ Chính trị ban hành các quy định về công tác giám
sát chưa kịp thời, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương chậm xây dựng các văn bản
hướng dẫn thực hiện dẫn đến việc triển khai và tổ chức thực hiện cũng chậm,

nên đội ngũ cán bộ làm công tác giám sát nắm chưa vững, chưa qua thực tiễn,
chưa tích lũy được nhiều kinh nghiệm, cịn nhiều lúng túng khi thực hiện
nhiệm vụ, dẫn đến chất lượng, hiệu quả cơng tác chưa cao; mặt khác cịn do
chế độ đãi ngộ chưa thỏa đáng, điều kiện, phương tiện làm việc thiếu thốn
chưa đáp ứng được yêu cầu công tác giám sát của Đảng, nên cán bộ làm công
tác giám sát chưa thật sự yên tâm, chưa phát huy hết trách nhiệm.
1.2.2.2. Những kinh nghiệm
Trước tiên, các tổ chức đảng cần phải nâng cao nhận thức của đội ngũ
cán bộ, đảng viên về vị trí, vai trị, tầm quan trọng của công tác giám sát. Làm
cho mọi cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ ý thức được trách nhiệm của mình
đối với cơng tác giám sát, thường xun coi trọng và chủ động tiến hành công
tác giám sát theo chức năng, nhiệm vụ được phân công.
Thứ hai, Uỷ ban Kiểm tra các cấp phải chủ động đề ra được phương
hướng, nhiệm vụ giám sát có trọng tâm, trọng điểm và thường xuyên có sự
chỉ đạo, hướng dẫn của Uỷ ban Kiểm tra cấp trên đối với Uỷ ban Kiểm tra cấp
dưới để xây dựng phương hướng, nhiệm vụ, chương trình cơng tác giám sát.
Hàng năm, Uỷ ban Kiểm tra các cấp phải chủ động xây dựng được chương
trình, kế hoạch công tác giám sát, xác định rõ nội dung, đối tượng giám sát,
lực lượng làm công tác giám sát và thời gian hồn thành. Căn cứ chương trình
cơng tác giám sát hàng năm, hàng quý, hàng tháng của Uỷ ban Kiểm tra các
cấp mà có chương trình giám sát cụ thể đối với từng đối tượng và từng nội


11
dung giám sát. Khi tổ chức thực hiện nhiệm vụ giám sát, Uỷ ban Kiểm tra và
cán bộ giám sát phải luôn nắm chắc và vận dụng sáng tạo đường lối, nghị
quyết, chỉ thị của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, có phương
pháp, biện pháp giám sát khoa học.
Thứ ba, trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện nhiệm
vụ giám sát, Uỷ ban Kiểm tra các cấp phải bám vào quy chế làm việc của Uỷ

ban Kiểm tra cấp mình và thực hiện tốt các quy trình tiến hành cơng tác giám
sát trong Đảng.
Thứ tư, muốn thực hiện có hiệu quả cơng tác giám sát của Đảng, các
cấp ủy, tổ chức đảng và Uỷ ban Kiểm tra các cấp cần quan tâm giải quyết tốt
các chế độ, chính sách cho cán bộ làm công tác giám sát; tạo điều kiện thuận
lợi về mọi mặt để cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Thứ năm, thường xuyên phát động phong trào thi đua sơi nổi trong tồn
ngành và tiến hành sơ kết, tổng kết, khen thưởng nhằm kịp thời cổ vũ, động viên
cán bộ kiểm tra, giám sát hăng say làm việc, thực hiện tốt trách nhiệm của mình.
Đồng thời Uỷ ban Kiểm tra cấp trên phải luôn quan tâm chỉ đạo, đôn
đốc Uỷ ban Kiểm tra cấp dưới thực hiện nhiệm vụ, chú ý hướng dẫn và bồi
dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác giám sát cấp dưới.


12
Chương 2
QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC GIÁM SÁT CỦA ỦY BAN KIỂM TRA
TỈNH ỦY CÀ MAU ĐẾN NĂM 2010 VÀ NHỮNG NĂM TIẾP THEO
2.1. QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG HƯỚNG TRONG CÔNG TÁC GIÁM SÁT CỦA
UỶ BAN KIỂM TRA TỈNH UỶ CÀ MAU TRONG NHỮNG NĂM TỚI

2.1.1. Quan điểm
Giám sát là một nội dung rất quan trọng trong quá trình lãnh đạo của
Đảng bộ tỉnh, là chức năng lãnh đạo, là nhiệm vụ thường xuyên của các tổ
chức đảng trong tỉnh, mà trước hết là nhiệm vụ của các cấp ủy và người đứng
đầu cấp ủy, do cấp ủy trực tiếp tiến hành. Công tác giám sát phải được tiến
hành công khai, dân chủ, khách quan, thận trọng và chặt chẽ theo đúng
nguyên tắc, phương pháp công tác Đảng. Tổ chức đảng và đảng viên phải
chịu sự giám sát của Đảng và chịu sự giám sát của nhân dân.

Công tác giám sát phải gắn chặt với công tác tư tưởng, công tác tổ chức
và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; phải thực hiện tồn diện, đồng
bộ, có hiệu lực, hiệu quả, góp phần xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức; thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ.
Phải thực hiện đồng bộ giữa công tác kiểm tra và công tác giám sát:
“giám sát phải mở rộng”, “kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm” để chủ
động phòng ngừa vi phạm, kịp thời phát hiện những nhân tố mới để phát huy,
khắc phục thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm ngay từ lúc mới manh nha khuyết
điểm của đảng viên.
Phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống, lấy xây là chính. Khi phát
hiện vi phạm phải kiên quyết xử lý nghiêm minh, đồng bộ và kịp thời để răn
đe và giáo dục có hiệu quả.
Bằng các hình thức thích hợp, Uỷ ban Kiểm tra các cấp luôn chủ dộng phối
hợp với cấp uỷ các cấp, các ban của Đảng, các tổ chức đảng, văn phòng cấp uỷ,
các cơ quan bảo vệ pháp luật, nhất là thanh tra thực hiện đồng bộ và nhịp nhàng


13
công tác giám sát của Đảng; đồng thời không ngừng đề cao trách nhiệm của chi
bộ và đảng viên; phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống
chính trị và của nhân dân, để tất cả các tổ chức đảng và mọi đảng viên đều được
sự giám sát chặt chẽ của Đảng. Qua giám sát làm cho đảng viên chấp hành
nghiêm Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà
nước. Qua giám sát sẽ giúp cho công tác kiểm tra, kết luận chính xác những tổ chức
đảng, đảng viên vi phạm, xử lý nghiêm minh, kịp thời, nhằm làm cho tổ chức đảng,
đảng viên ngày càng trong sạch, vững mạnh, nâng cao được sức chiến đấu.
2.1.2. Phương hướng chung
Đại hội X đưa ra phương hướng:
Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát trong
Đảng và trong cả hệ thống chính trị. Kiểm tra nhận thức, năng lực

lãnh đạo, xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước; kiểm tra phẩm chất chính trị và
đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Xây dựng các quy chế và
biện pháp thực hiện giám sát của nhân dân đối với hoạt động của
Đảng, Nhà nước và cán bộ, đảng viên [20, tr 281].
Trong phần xác định nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát khẳng định:
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát với nhận thức và yêu
cầu mới: công tác kiểm tra, giám sát phải góp phần phát hiện và
khắc phục những khuyết điểm, thiếu sót khi mới manh nha; bên
cạnh việc tiếp tục thực hiện kiểm tra tổ chức và cá nhân đảng viên
khi có dấu hiệu vi phạm, phải tăng cường chủ động giám sát, kiểm
tra về phẩm chất đạo đức và kết quả thực hiện nhiệm vụ của tổ chức
đảng, cán bộ, đảng viên, về nhận thức và chấp hành đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và việc chấp
hành Điều lệ Đảng [20, tr.302].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác phịng, chống tham
nhũng, lãng phí đã xác định nhiệm vụ: Đổi mới công tác kiểm tra, giám sát


14
của tổ chức đảng và cơ quan nhà nước cấp trên đối với tổ chức đảng và cơ
quan nhà nước cấp dưới, nhất là việc kiểm tra, giám sát hoạt động của người
đứng đầu và các chức danh chủ chốt.
Thực hiện phương hướng, nhiệm vụ đã nêu trên, Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh
ủy Cà Mau đã xác định nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay là:
Thứ nhất, chủ động tham mưu cho cấp ủy cấp mình trong việc lãnh
đạo, thực hiện nhiệm vụ giám sát. Thực hiện nhiệm vụ giám sát do cấp ủy
cùng cấp giao. Giúp cấp ủy quán triệt và triển khai các quy định, hướng dẫn của
Bộ Chính trị về thực hiện cơng tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của

Đảng, quy chế về “chế độ kiểm tra, giám sát công tác cán bộ” ban hành kèm
theo Quyết định số 58-QĐ/TW, ngày 07 tháng 5 năm 2007 của Bộ Chính trị.
Thứ hai, xác định nhiệm vụ trọng tâm của công tác giám sát phù hợp
với các quy định và tình hình thực tiễn của đơn vị trong từng thời gian cụ thể.
Thứ ba, thực hiện chức năng, nhiệm vụ giám sát hoạt động của tổ chức
đảng và đảng viên trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng,
đường lối, chủ trương, chính sách, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
Đảng, việc chấp hành pháp luật của Nhà nước. Tập trung giám sát cấp ủy viên
cùng cấp, cán bộ thuộc diện cấp ủy quản lý và tổ chức đảng cấp dưới trực
tiếp. Chú ý giám sát ở tổ chức đảng cấp dưới trong việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ
chức thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, nghị quyết, chỉ thị, quy
định, quyết định, kết luận của cấp ủy cấp trên và của cấp ủy cấp mình; việc
thực hiện nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; thực hiện quy chế làm
việc và chương trình, kế hoạch cơng tác của cấp ủy.
Giám sát đảng viên trong việc chấp hành Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ
thị, quy định, quyết định, kết luận, chính sách, pháp luật; việc thực hiện tiêu
chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp ủy viên; giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống;
việc thực hiện những điều đảng viên không được làm; việc kê khai tài sản.
Giúp cấp ủy các cấp tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh tuyên truyền,
giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, nâng cao nhận thức về công tác
giám sát của Đảng.


15
Chú trọng nâng cao vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu cấp
ủy, các ban đảng, các chi bộ, Uỷ ban Kiểm tra các cấp về thực hiện cơng tác
giám sát; hàng năm xây dựng chương trình, kế hoạch, chọn nội dung, đối tượng
để tiến hành giám sát, tổ chức sơ kết, tổng kết để đánh giá ưu, khuyết điểm và
rút ra những bài học kinh nghiệm trong q trình thực hiện cơng tác giám sát.
Tập trung giám sát trên các lĩnh vực công tác đối với tổ chức đảng và

đảng viên. Phải giám sát thường xuyên về việc chấp hành Cương lĩnh chính
trị, Điều lệ Đảng, việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ; giữ gìn đoàn
kết nội bộ; việc giáo dục, rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng
của cán bộ; việc giáo dục, rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng
của cán bộ, đảng viên và việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao…
Giám sát một số chuyên đề về việc lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị
quyết Hội nghị lần thứ Ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về
chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác phịng, chống tham nhũng,
lãng phí; Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa X về tăng cường cơng tác kiểm tra, giám sát của Đảng và Nghị quyết
Đại hội Đại biểu lần thứ XIII Đảng bộ tỉnh và các nghị quyết tiếp theo của
Trung ương, của Tỉnh ủy.
2.1.3. Phương hướng cụ thể
Từ nay đến năm 2010 và những năm tiếp theo, công tác giám sát của
Uy ban kiểm tra tỉnh ủy Cà Mau cần không ngừng tăng cường công tác giám
sát đối với tổ chức đảng và đảng viên. Nhất là tổ chức đảng cấp đưới trực tiếp
của cấp ủy cùng cấp và đảng viên là cấp ủy viên cùng cấp và đảng viên là cán
bộ do cấp ủy cùng cấp quản lý.
Đối với tổ chức đảng: Việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện Cương
lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các chỉ thị, nghị quyết, các quy định, quyết định
của Đảng, kết luận của tổ chức đảng cấp trên và cấp ủy cấp mình, về chính


16
sách, pháp luật nhà nước; việc chấp hành nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất
là nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; việc xây dựng quy chế làm việc
và thực hiện chế độ làm việc theo quy chế; việc xây dựng các nghị quyết,
chương trình, kế hoạch cơng tác giám sát,…mỗi năm từ 20-25 tổ chức.

Đối với đảng viên: Chú trọng giám sát đảng viên là cấp ủy viên cùng
cấp, đảng viên là cán bộ thuộc diện tỉnh ủy quản lý về việc thực hiện chức
trách, nhiệm vụ được giao; rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống; tiêu chuẩn
cấp ủy , tiêu chuẩn đảng viên; về đoàn kết nội bộ; gương mẫu thực hiện nghị
quyết, chỉ thị, các quy định, quyết định của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước; kết luận của cơ quan Uỷ ban Kiểm tra Đảng, cơ quan thanh tra nhà
nước; việc kê khai tài sản theo quy định, minh bạch về quản lý, sử dụng tài
chính,…mỗi năm Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh ủy giám sát từ 40-50 đảng viên, trong
đó có 20% là tỉnh ủy viên, 80% là cán bộ thuộc diện tỉnh ủy quản lý.
2.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

Từ thực tiễn công tác giám sát; từ phương hướng, nhiệm vụ đã được
xác định ở trên, để tăng cường và nâng cao hiệu quả, chất lượng giám sát của
Uỷ ban Kiểm tra tỉnh, huyện, thành phố ở tỉnh Cà Mau trong giai đoạn hiện
nay, cần thực hiện những giải pháp chủ yếu sau đây:
2.2.1. Tăng cường nhận thức, trách nhiệm cho các cấp ủy, tổ chức
đảng, Uỷ ban Kiểm tra các cấp, cán bộ, đảng viên về công tác giám sát
trong Đảng
Nhận thức là một quá trình, khi nhận thức sâu sắc, đúng đắn và khoa
học thì sẽ có hành động đúng đắn, đem lại hiệu quả cao trong tất cả các hoạt
động. Ngược lại nếu nhận thức không đúng, không đầy đủ thì hành động sẽ
khơng đúng và khơng chuẩn xác. Vì vậy, muốn nâng cao chất lượng đối với
cơng tác giám sát, trước hết phải nâng cao nhận thức về công tác giám sát cho
các cấp ủy, tổ chức đảng, Uỷ ban Kiểm tra các cấp, các chi bộ, tất cả cán bộ,
đảng viên và nhân dân; phải tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức
của cấp ủy các cấp về công tác giám sát, đặc biệt là người đứng đầu cấp ủy;


17
có như vậy thì việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác giám sát

mới đạt được kết quả cao.
Thường xuyên tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận
thức cho các cấp ủy, tổ chức đảng, Uỷ ban Kiểm tra các cấp, các chi bộ, cán bộ,
đảng viên và nhân dân về vị trí, vai trị, tầm quan trọng, ý nghĩa, tác dụng của
cơng tác giám sát của Đảng; vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy trong lãnh đạo,
chỉ đạo, tổ chức thực hiện cơng tác giám sát; vai trị, trách nhiệm của các tổ chức
đảng, Uỷ ban Kiểm tra các cấp, của các chi bộ, của cán bộ, đảng viên, của các
Ban, ngành, đồn thể chính trị và nhân dân với cơng tác giám sát. Đặc biệt,
người đứng đầu cấp ủy phải thực sự quan tâm, gương mẫu trong việc lãnh đạo,
chỉ đạo, học tập, quán triệt và chấp hành các nghị quyết, chỉ thị, quy chế, quy
định, quyết định của Trung ương về công tác giám sát của Đảng.
Trước tiên, phải quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết
Đại hội X của Đảng, các quy định của Bộ Chính trị về thi hành Điều lệ Đảng
và Hướng dẫn thực hiện về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của
Đảng trong Chương VII, Chương VIII Điều lệ Đảng khóa X với tư tưởng chỉ
đạo xuyên suốt của công tác kiểm tra, giám sát là ngăn chặn, phòng ngừa vi
phạm của tổ chức đảng và đảng viên, sớm phát hiện và khắc phục ngay những
khuyết điểm, thiếu sót khi mới manh nha vi phạm của đảng viên.
Uỷ ban Kiểm tra tỉnh ủy, huyện ủy, thành ủy, các đảng ủy tương đương
ở tỉnh Cà Mau phải xác định và nắm vững các nguyên tắc, chủ thể, đối tượng,
nội dung, nhiệm vụ, phạm vi giám sát; các phương pháp giám sát cơ bản để
thực hiện theo đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quyết
định, quy định của Bộ Chính trị khóa X, tổ chức thực hiện tốt công tác giám
sát, bảo đảm việc giám sát khơng bị bỏ sót, chồng chéo, trùng lắp,.... Cần tổ
chức học tập nghiêm túc, quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị, quy định
của Trung ương về công tác xây dựng Đảng và công tác kiểm tra, giám sát, thi
hành kỷ luật Đảng. Thường xuyên bồi dưỡng nghiệp vụ công tác kiểm tra,
giám sát cho đội ngũ cán bộ kiểm tra; nhất là công tác giám sát là nhiệm vụ



18
mới, do đó phải vừa làm, vừa rút kinh nghiệm để hồn thiện về phương pháp,
cách thức tiến hành có hiệu quả.
Do đó, Uỷ ban Kiểm tra các cấp phải thường xuyên chủ động xác định
phạm vi, nội dung, đối tượng giám sát trong từng thời kỳ bảo đảm có trọng tâm,
trọng điểm, tập trung chỉ đạo Uỷ ban Kiểm tra cấp dưới, tổ chức thực hiện có
hiệu quả, tạo chuyển biến mạnh mẽ về cơng tác giám sát; góp phần cảnh tỉnh,
răn đe, chủ động phòng ngừa xảy ra vi phạm khi còn manh nha; đáp ứng yêu cầu
thực hiện nhiệm vụ chính trị và cơng tác xây dựng Đảng trong tồn đảng bộ;
tăng cường chủ động phịng ngừa, ngăn chặn xảy ra vi phạm, góp phần ổn định
chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, tạo sự đoàn kết, thống nhất trong
nội bộ Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và
đội ngũ cán bộ, đảng viên, củng cố niềm tin và sự đồng thuận của nhân dân đối
với Đảng, khơng gây khó khăn, trở ngại cho đối tượng được giám sát.
2.2.2. Củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy Uỷ ban Kiểm tra, đẩy mạnh
công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kiểm tra, giám sát; nâng cao
vị thế, vai trò của Uỷ ban Kiểm tra các cấp là cơ quan chuyên trách và là
lực lượng nòng cốt thực hiện giám sát trong Đảng
Nhiệm vụ giám sát của Đảng nói chung và của Uỷ ban Kiểm tra các
cấp nói riêng là rất nặng nề, ngồi chức năng kiểm tra, Uỷ ban Kiểm tra các
cấp còn có thêm chức năng giám sát và được tăng thẩm quyền trách nhiệm
xem xét kỷ luật trong Đảng, đòi hỏi đội ngũ cán bộ kiểm tra phải có trình độ
tương đối toàn diện và năng lực hoạt động thực tiễn cao, đặc biệt là năng lực
trong việc kiểm tra nhận thức tư tưởng, kiểm tra năng lực lãnh đạo và xây
dựng đường lối, chủ trương, chính sách, nghị quyết,… Vì vậy, việc củng cố
và kiện toàn Uỷ ban Kiểm tra và cơ quan Uỷ ban Kiểm tra tỉnh ủy Cà Mau là
một việc quan trọng và cần thiết, cụ thể:
- Kiện toàn tổ chức bộ máy Uỷ ban Kiểm tra và cơ quan Uỷ ban Kiểm
tra theo hướng tinh gọn, tinh nhuệ, hoạt động nhanh nhạy, có hiệu lực, hiệu
quả cao. Nghiên cứu để tổ chức áp dụng cho cơ quan Uỷ ban Kiểm tra theo



19
mơ hình thống nhất từ Trung ương đến cấp huyện, thành phố và tương đương;
Trung ương nên chỉ đạo Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh ủy thực hiện thí điểm mơ hình
đơn vị giúp việc cơ quan Uỷ ban Kiểm tra thực hiện chức năng, nhiệm vụ
giám sát ở một số huyện để rút kinh nghiệm trong toàn Đảng bộ.
- Phải tăng cường cán bộ nghiên cứu, tham mưu về công tác kiểm tra,
giám sát, kỷ luật đảng từ cấp huyện và tương đương trở lên, bảo đảm về phẩm
chất chính trị, năng lực, trình độ và kinh nghiệm cơng tác. Tạo cơ chế phù hợp
để tăng khả năng sáng tạo của cán bộ nghiên cứu, tham mưu, nâng cao chất
lượng các sản phẩm nghiên cứu, tham mưu để phục vụ có hiệu quả cơng tác
kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, công tác xây dựng Đảng.
- Đổi mới công tác tuyển chọn, quy hoạch, bổ nhiệm, đề bạt, luân chuyển,
bố trí, sử dụng, khen thưởng cán bộ làm cơng tác kiểm tra, giám sát ở các cấp
bảo đảm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao theo hướng trẻ hóa, cách mạng
hóa, trí thức hóa, khoa học hóa và chun nghiệp hóa. Cán bộ làm cơng tác kiểm
tra, giám sát phải bảo đảm số lượng và chất lượng; có đủ phẩm chất đạo đức
cách mạng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tính chiến đấu, dũng khí đấu
tranh cao, có kỹ năng nghiệp vụ thuần thục, phương pháp cơng tác khoa học,
công tâm, khách quan, sâu sát, thận trọng và trong giao tiếp, ứng xử có văn hóa.
- Khơng nên thực hiện việc luân chuyển cán bộ lãnh đạo quản lý của Uỷ
ban Kiểm tra và cơ quan giúp việc của Uỷ ban Kiểm tra từ cấp quận, huyện,
thành phố và tương đương trở lên, bởi vì muốn có cán bộ giỏi về cơng tác giám
sát, thì phải có cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát lâu năm để có kinh
nghiệm trong thực tiễn, vì vậy cần thiết phải chun nghiệp hóa đội ngũ cán bộ
làm cơng tác này. Tuy nhiên cũng cần thiết chuyển đổi vị trí cơng tác của một số
cán bộ trực tiếp làm công tác kiểm tra, giám sát nhưng kém hiệu quả, hoặc
những cán bộ có nhiều sai sót, vi phạm để khắc phục tình trạng làm việc thiếu
năng động, sáng tạo, thiếu toàn diện, đồng thời quan tâm vừa đào tạo, bồi dưỡng,

tạo nguồn cán bộ, cải tiến nâng cao chất lượng cơng tác, vừa chủ động phịng,
chống tham nhũng, tiêu cực trong ngành kiểm tra của Đảng hiện nay.


20
- Có chính sách mang tính đột phá, thực sự hấp dẫn để thu hút được cán
bộ có đủ tài, đức, năng lực, trình độ, tâm huyết, bản lĩnh về làm cơng tác kiểm
tra, trong điều kiện có sự tác động của mặt trái kinh tế thị trường đến một bộ
phận cán bộ, đảng viên hiện nay. Nghiên cứu có chính sách hợp lý về chế độ
đãi ngộ, phụ cấp nghề đối với cán bộ kiểm tra, nhất là cán bộ kiểm tra ở cơ sở.
Muốn có được đội ngũ cán bộ kiểm tra như vậy, cấp ủy phải thực hiện
một số việc như sau:
+ Làm tốt công tác huy hoạch cán bộ kiểm tra, phù hợp với tình hình
của đảng bộ mình và u cầu của nhiệm vụ cơng tác kiểm tra.
+ Bố trí sử dụng cán bộ kiểm tra phải phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ và
trình độ khả năng của cán bộ; quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng, tạo mọi
điều kiện để cán bộ kiểm tra học tập, rèn luyện, đặc biệt là nâng cao trình độ
lý luận chính trị, bồi dưỡng về cơng tác kiểm tra, giám sát và xây dựng Đảng.
+ Quan tâm đưa cán bộ đi đào tạo các nghiệp vụ cơ bản khác như luật,
quản lý kinh tế, tái chính, quản lý nhà nước,…phấn đấu có đội ngũ cán bộ
kiểm tra từ tỉnh đến huyện, thành phố phải có đủ số lượng, có chất lượng về
trình độ từ đại học, cao đẳng trở lên.
+ Quản lý chặt chẽ đội ngũ cán bộ giám sát, cấp ủy phải nắm chắc
những mặt mạnh, mặt yếu của từng cán bộ kiểm tra. Hằng năm phải thực hiện
việc đánh giá cán bộ và việc đánh giá phải đảm bảo khách quan, công tâm,
dân chủ, căn cứ vào chất lượng, hiệu quả công việc và sự tín nhiệm của quần
chúng để đánh giá.
- Quan tâm đến chế độ, chính sách, điều kiện, phương tiện làm việc cho
cán bộ kiểm tra.
+ Cần thiết phải hiện đại hóa cơng nghệ thơng tin phục vụ cơng tác

kiểm tra, giám sát trên cơ sở tăng cường nguồn lực, đầu tư ứng dụng khoa học
công nghệ, nhất là việc ứng dụng máy móc, phương tiện kỹ thuật hiện đại cho
hoạt động kiểm tra, giám sát; ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, gắn với
cải cách thủ tục, phong cách và lề lối làm việc, góp phần nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát.


21
+ Cấp ủy các cấp quan tâm đầu tư, tạo điều kiện tăng cường cơ sở vật
chất kỹ thuật, phương tiện làm việc cho Uỷ ban Kiểm tra: nhất là máy ghi âm,
ghi hình, máy vi tính đảm bảo cho sử dụng, ứng dụng phần mềm đặc thù
chuyên ngành kiểm tra theo quyết định số 06-QĐ/TW của Ban chấp hành
Trung ương, về việc ban hành đề án tin học hóa hoạt động của các cơ quan
đảng giai đoạn 2006-2010, để Uỷ ban Kiểm tra các huyện ở vùng sâu nhằm
bảo đảm cho hoạt động công tác kiểm tra, giám sát. Uỷ ban Kiểm tra các cấp
tăng cường đầu tư nghiên cứu lập các trang Web, hộp thư điện tử, thiết lập
đường dây nóng để tiếp nhận, xử lý đơn thư tố cáo, phản ảnh về tổ chức đảng và
đảng viên của các tổ chức, đảng viên và nhân dân để trao đổi thông tin giữa Uỷ
ban Kiểm tra các cấp một cách khoa học, có hiệu quả. Thiết lập hệ thống cơ sở
dữ liệu về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng của toàn Đảng và của ngành
kiểm tra Đảng.
- Tăng cường và thực hiện có hiệu quả công tác giám sát theo chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Chủ động tham mưu giúp cấp ủy thực
hiện cơng tác giám sát của cấp ủy, từ đó phục vụ trở lại cho công tác giám sát
của Uỷ ban Kiểm tra. Uỷ ban Kiểm tra tỉnh, huyện, thành phố ở tỉnh Cà Mau
phải chủ động tham mưu, giúp cấp ủy ban hành các nghị quyết, chỉ thị, quy
chế, quy định, quyết định, kết luận về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật
đảng để có cơ sở pháp lý thực hiện nhiệm vụ giám sát; tổ chức đảng và đảng
viên chấp hành nghiêm chỉnh sự giám sát; tạo cơ sở pháp lý và điều kiện cần
thiết để các đoàn thể chính trị - xã hội, nhân dân tham gia giám sát tổ chức

đảng và đảng viên một cách có hiệu quả. Nghiên cứu ban hành các quy định,
hướng dẫn và quy trình giám sát thuộc thẩm quyền của mình.
Vị thế của Uỷ ban Kiểm tra các cấp chính là do vị trí của cơ quan này
trong hệ thống cơ quan của Đảng và uy tín, thế lực của nó tạo thành. Trong
đó, vị trí của Uỷ ban Kiểm tra ghi nhận rõ ràng trong Điều lệ Đảng với chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm cụ thể và một cơ chế nhất định để
hình thành nên cơ quan Uỷ ban Kiểm tra.


22
Hiện nay, Uỷ ban Kiểm tra là cơ quan kiểm tra chuyên trách của cấp
ủy, có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo Điều 32 và
tham mưu cho cấp ủy thực hiện Điều 30 của Điều lệ Đảng. Như vậy, Uỷ
ban Kiểm tra có vị thế đặc biệt trong công tác xây dựng Đảng. V.I. Lênin
đã từng nhấn mạnh vị thế của Ban Kiểm tra (Uỷ ban Kiểm tra) và coi ban
kiểm tra: “cơ quan thực sự đại diện cho lương tri của Đảng và của giai cấp
vô sản” [39, tr.467].
Đối với Đảng ta, về lý luận, Uỷ ban Kiểm tra các cấp cũng có vị thế tương
đối đặc biệt. Đó là một Ban Đảng duy nhất được cấp ủy bầu ra như Bộ Chính trị,
Ban Bí thư hoặc Thường trực, Thường vụ cấp ủy. Đồng thời, Điều lệ Đảng cũng
đã dành hai chương về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng
(Chương VII: công tác kiểm tra, giám sát của Đảng và Uỷ ban Kiểm tra các cấp;
Chương VIII: khen thưởng và kỷ luật). Tuy nhiên, trên thực tế, vị thế của Uỷ ban
Kiểm tra các cấp chưa được các cấp ủy đảng, đảng viên hiểu và tơn trọng; thậm
chí có nơi, có lúc cịn coi khơng được bằng một số ban khác của Đảng.
Việc nâng cao vị thế của Uỷ ban Kiểm tra các cấp nhằm tạo điều kiện
thuận lợi để Uỷ ban Kiểm tra thực hiện nhiệm vụ kiểm tra có chất lượng, hiệu
quả chứ khơng phải là đề cao những người làm cơng tác kiểm tra. Vì vậy,
muốn nâng cao vị thế của Uỷ ban Kiểm tra các cấp cần phải:
- Các tổ chức đảng, cấp ủy, đảng viên, và Uỷ ban Kiểm tra cần nhận thức

và thực hiện đúng những quy định của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát.
- Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng các cấp đối với
công tác giám sát và đặc biệt là xây dựng Uỷ ban Kiểm tra vững mạnh.
- Hoàn thiện thể chế, tổ chức, bộ máy Uỷ ban Kiểm tra thực sự khoa
học, phù hợp với yêu cầu của tình hình mới.
- Phối hợp tốt trong việc thực hiện các nhiệm vụ thuộc thẩm quyền:
kiểm tra – giám sát – thi hành kỷ luật.
- Phối hợp tốt giữa giám sát của Uỷ ban Kiểm tra với hoạt động giám
sát của Nhà nước, các đồn thể chính trị, xã hội và giám sát của nhân dân.


23
- Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra chun nghiệp, có phẩm
chất chính trị, đạo đức lối sống trong sáng, đặc biệt là dũng khí đấu tranh cao.
- Đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất tương xứng với nhiệm vụ giúp Uỷ
ban Kiểm tra hoàn thành nhiệm vụ.
2.2.3. Xây dựng và hoàn thiện chế độ giám sát, cơ chế giám sát
trong Đảng một cách khoa học, nhất quán, cụ thể, dễ thực thi và thực thi
có hiệu quả; kết hợp chặt chẽ cơng tác kiểm tra và công tác giám sát
- Công tác giám sát trong Đảng là một nhiệm vụ mới của các cấp ủy
Đảng, của các tổ chức Đảng, của Uỷ ban Kiểm tra các cấp và của tất cả các
chi bộ đã được Điều lệ Đảng Đại hội lần thứ X quy định cụ thể. Việc xây
dựng và hoàn thiện chế độ giám sát, cơ chế giám sát trong Đảng để thực
hiện giám sát trong Đảng có hiệu quả cao nhất là việc làm cần thiết. Nhưng
đây là vấn đề mới, cần phải được các nhà lý luận, các nhà nghiên cứu thảo
luận, phân tích kỹ lưỡng. Bởi cơ chế giám sát và chế độ giám sát trong
Đảng vừa có quan hệ mật thiết, gắn bó, thống nhất với nhau, song vừa là
những khái niệm tương đối khác biệt và khơng hồn toàn giống nhau. Chế
độ giám sát trong Đảng là những quy định và nguyên tắc cơ bản về giám
sát trong Đảng. Cơ chế giám sát trong Đảng là một tổng thể thống nhất các

yếu tố, các khâu liên hệ với nhau, tác động lẫn nhau mà Đảng cần vận dụng
để thực hiện sự giám sát của mình trong nội bộ Đảng, nhằm bảo đảm tính
đồng bộ, hồn chỉnh, thống nhất, qua đó Đảng thực hiện hiệu quả cơng tác
giám sát nội bộ mình.
- Trong điều kiện hiện nay, Đảng ta là đảng cầm quyền, lãnh đạo đất
nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
Thực tiễn cho thấy, để tăng cường giám sát cần phải có những quy định
và nguyên tắc cơ bản về giám sát nội bộ Đảng tức là phải có chế độ giám sát
trong Đảng bảo đảm cho công tác giám sát của Đảng được tiến hành thường
xuyên, liên tục, sâu sắc và phát triển lành mạnh, không phụ thuộc vào sự thay


24
đổi của những người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, Uỷ ban Kiểm tra các cấp
và các chi bộ. Nhưng, những người đứng đầu này là người chủ trì tổ chức
thực hiện các quyết định của Đảng, thực hiện các nguyên tắc tổ chức sinh
hoạt Đảng nên có ảnh hưởng rất lớn đến các quyết định của tổ chức đảng và
ảnh hưởng không nhỏ đến chiều hướng chung của toàn Đảng, vững vàng hay
chệch hướng, tiến bộ hay suy thối, biến chất, Do vậy phải có cơ chế giám sát
người đứng đâu trung thành với mục tiêu, lý tưởng, nền tảng tư tưởng và
các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng. Theo Điều lệ Đảng do Đại hội X
thông qua thì cơ chế đó thể hiện trước hết là chi bộ và cấp ủy nơi người
đứng đầu đó sinh hoạt. Chi bộ, cấp ủy phải có sự vững vàng về chính trị, tư
tưởng, nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng. Đại hội X của Đảng đã thông qua
Điều lệ Đảng giao quyền lại cho chi bộ được quyết định khiển trách, cảnh cáo
mọi đảng viên trong chi bộ (kể cả cấp ủy viên các cấp, đảng viên thuộc diện
cấp ủy cấp trên quản lý) vi phạm phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối
sống, sinh hoạt Đảng, thực hiện nhiệm vụ đảng viên (trừ nhiệm vụ do cấp trên
giao). Đây là quyền quyết định kỷ luật rất lớn, đặc biệt chỉ chi bộ mới có, các
cấp ủy cấp trên khác không được thẩm quyền này. Cấp ủy đảng và người

đứng đầu mạnh là nhân tố quyết định nhất đến tồn bộ hoạt động của cơng tác
giám sát trong Đảng hiện nay. Giám sát cán bộ lãnh đạo thực chất là giám sát
quyền lực, đảm bảo cho quyền lực được thực thi đúng hướng, ngăn ngừa sự
thối hóa, biến chất của cán bộ. Không tiến hành giám sát quyền lực tất sẽ dẫn
đến nguy cơ lạm dụng quyền lực, lộng quyền, đặc quyền, đặc lợi.
Hiện nay, cần sớm có giải đáp một cách rõ ràng, cụ thể, có hệ thống
những vấn đề về địa vị và quyền lực của chủ thể giám sát, nội dung trọng
điểm cần tập trung giám sát, hình thức và phương pháp giám sát nội bộ Đảng.
Kinh nghiệm giám sát nội bộ của một số đảng cầm quyền trên thế giới hiện
nay cho thấy, cần phải đặc biệt chú ý đến quy định cụ thể nội dung giám sát
về vấn đề: tập thể lãnh đạo và phân công cá nhân phụ trách; thông báo hoặc


25
báo cáo tình hình quan trọng; báo cáo cơng việc, sự việc; xử lý khiếu kiện; đi
kiểm tra, thị sát; nhắc nhở; giám sát bằng dư luận; tìm hiểu và chất vấn; yêu
cầu và xử lý bãi miễn hoặc thay thế,… Hình thành một hệ thống giám sát
trong Đảng vừa bao gồm cấp trên giám sát, vừa bao gồm cấp dưới giám sát và
cịn bao gồm đồng cấp giám sát.
Cơng tác giám sát trong Đảng trước đây thường là các nơi đều độc lập
tác chiến, chưa hình thành một chỉnh thể hữu cơ có trật tự nghiêm ngặt, phân
cơng hợp lý, phối hợp nhịp nhàng, cho nên đã ảnh hưởng đến thành quả giám
sát trong Đảng.
Để đúc rút kinh nghiệm giám sát của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong
nhiều năm, “Điều lệ giám sát trong Đảng Cộng sản Trung Quốc” được coi là
pháp quy cơ bản của giám sát trong Đảng, phân biệt và quy chế hóa các
phương diện trong giám sát trong nội bộ Đảng, từng bước xây dựng khuôn
khổ của cơ chế giám sát trong Đảng hiện nay, trước mắt cần tập trung làm tốt
một số công việc sau đây:
- Cần phải hoàn thiện cơ chế chức trách của chủ thể giám sát trong Đảng.

- Khơng ngừng hồn thiện chế độ giám sát, cần phải đem pháp quy
giám sát trong Đảng gắn kết với pháp quy pháp luật của Nhà Nước.
- Cần hoàn thiện cơ chế bảo đảm cho việc xử lý giám sát trong Đảng.
Hiệu quả thực sự giám sát trong Đảng được quyết định do hoàn thiện chế độ
Đại hội đại biểu và chế độ dân chủ trong Đảng, mà trước tiên cần hoàn thiện
hơn một bước chế độ dân chủ về các mặt đó là:
+ Hồn thiện ngun tắc và hình thức bầu cử của chế độ bầu cử trong
Đảng. Cần nghiêm chỉnh chấp hành quy định của Điều lệ Đảng, không được
lấy bổ nhiệm để thay thế bầu cử. Đối với người lãnh đạo do bầu cử bầu ra thì
ngồi trường hợp đặc biệt, nói chung khơng nên tùy tiện trong nhiệm kỳ điều
động đi hoặc ủy nhiệm làm chức vụ khác.
+ Kiện toàn chế độ công khai trong Đảng, tăng cường sự trong sáng,
minh bạch trong các hoạt động của Đảng. Công khai có vai trị quan trọng
trong vấn đề dân chủ và là tiền đề của giám sát.


×