Tải bản đầy đủ (.pdf) (181 trang)

(LUẬN án TIẾN sĩ) tiểu thuyết nhất linh với việc hiện thực hoá chủ trương canh tân văn hoá, văn học của tự lực văn đoàn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 181 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
________________________________________________________

NGUYỄN THỊ HỒNG MAI

TIỂU THUYẾT NHẤT LINH
VỚI VIỆC HIỆN THỰC HĨA CHỦ TRƯƠNG CANH TÂN
VĂN HÓA, VĂN HỌC CỦA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGHỆ AN - 2022

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
________________________________________________________

NGUYỄN THỊ HỒNG MAI

TIỂU THUYẾT NHẤT LINH
VỚI VIỆC HIỆN THỰC HĨA CHỦ TRƯƠNG CANH TÂN
VĂN HÓA, VĂN HỌC CỦA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9220121

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. PHAN HUY DŨNG

NGHỆ AN - 2022

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tơi dưới sự
hướng dẫn của PGS. TS Phan Huy Dũng. Những số liệu sử dụng trong luận án là trung
thực. Các kết quả rút ra từ cơng trình nghiên cứu chưa từng được cơng bố. Tơi xin hồn
tồn chịu trách nhiệm về cơng trình nghiên cứu này.
Nghệ An, ngày…. tháng năm 2022
Tác giả

Nguyễn Thị Hoàng Mai

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


LỜI CẢM ƠN
Được sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của các nhà khoa học, tơi đã hồn thành
luận án. Tơi bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc của mình đến PGS.TS Phan Huy Dũng - giảng
viên trường Đại học Vinh.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các nhà khoa học thuộc bộ môn Văn
học Việt Nam, Phòng Đào tạo Sau Đại học Trường Đại học Vinh, Trường Phổ thông
Năng khiếu - Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh cùng bạn bè, đồng nghiệp và gia
đình đã giúp đỡ tơi trong q trình hồn thành luận án.
Xin trân trọng cảm ơn!

Nghệ An, ngày ….. tháng năm 2022
Tác giả luận án

Nguyễn Thị Hoàng Mai

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA LUẬN ÁN VÀ TỔNG QUAN VẤN ĐỀ
NGHIÊN CỨU...................................................................................................................7
1.1. Tiền đề lý luận và các khái niệm cơ sở của luận án...................................................7
1.1.1. Lý luận về tiểu thuyết......................................................................................7
1.1.2. Lý luận về mối quan hệ giữa văn học và văn hóa............................................ 12
1.1.3. Lý luận về sự canh tân văn học...................................................................... 18
1.2. Tình hình nghiên cứu tiểu thuyết Nhất Linh........................................................... 21
1.2.1. Nghiên cứu quan niệm của Nhất Linh về tiểu thuyết....................................... 21
1.2.2. Nghiên cứu chung về vị trí và đặc điểm của tiểu thuyết Nhất Linh................... 25
1.2.3. Nghiên cứu về hiện thực hóa chủ trương canh tân văn hóa văn học của Tự
lực văn đoàn trong tiểu thuyết Nhất Linh.................................................................38
Tiểu kết chương 1......................................................................................................... 41
Chương 2. KHÁI QUÁT VỀ CHỦ TRƯƠNG CANH TÂN VĂN HĨA, VĂN HỌC
CỦA TỰ LỰC VĂN ĐỒN............................................................................................. 43
2.1. Những nhân tố cơ bản thúc đẩy sự ra đời của Tự lực văn đoàn............................... 43
2.1.1. Nhu cầu canh tân đất nước trong bối cảnh tiếp xúc văn hoá Đông - Tây........... 43
2.1.2. Những thành tựu đầu tiên của q trình hiện đại hóa....................................... 47

2.1.3. Tài năng tổ chức và khát vọng đóng góp về văn hóa của Nhất Linh................. 49
2.2. Tơn chỉ và chương trình hoạt động thực tế của Tự lực văn đồn............................. 54
2.2.1. Tơn chỉ hoạt động của Tự lực văn đồn..........................................................54
2.2.2. Chương trình hoạt động thực tế..................................................................... 56
2.3. Ưu thế và vai trò của tiểu thuyết trong việc hiện thực hoá chủ trương canh tân
văn hố, văn học của Tự lực văn đồn..........................................................................64
2.3.1. Vị trí của tiểu thuyết trong hoạt động sáng tác của các nhà văn Tự lực
văn đồn............................................................................................................... 64
2.3.2. Những nội dung chính của việc hiện thực hóa chủ trương canh tân văn hóa,
đổi mới văn học của Tự lực văn đồn mà tiểu thuyết đảm nhiệm.............................. 65
2.3.3. Vai trò của tiểu thuyết so với các thể loại khác trong việc thực hiện tơn chỉ
hoạt động của Tự Lực văn đồn..............................................................................68
Tiểu kết chương 2........................................................................................................71
Chương 3. NHỮNG VẤN ĐỀ LỚN CỦA NHIỆM VỤ CANH TÂN VĂN HÓA,

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


VĂN HỌC ĐƯỢC THỂ HIỆN TRONG TIỂU THUYẾT NHẤT LINH..........................71
3.1. Truyền bá những yếu tố tích cực của văn minh Thái Tây........................................73
3.1.1. Khẳng định cái tôi cá nhân............................................................................ 73
3.1.2. Coi trọng tinh thần dân chủ............................................................................77
3.1.3. Xây dựng ý thức cộng đồng.......................................................................... 82
3.2. Thực hiện việc tổng hợp văn hoá hướng tới tinh thần hiện đại................................ 86
3.2.1. Đả phá thiết chế hủ bại và trân trọng những giá trị truyền thống tốt đẹp............ 86
3.2.2. Cổ vũ con người cá nhân và cảnh báo những hệ lụy của nổi loạn cực đoan.......89
3.2.3. Phác thảo một mơ hình tổ chức xã hội văn minh.............................................93
3.3. Xây dựng mơ hình tiểu thuyết hiện đại và ngôn ngữ văn học chuẩn mực................ 95
3.3.1. Định dạng tiểu thuyết hiện đại và làm sáng tỏ các yêu cầu của nó.................... 95
3.3.2. Xác lập tính khách quan của người trần thuật trong tiểu thuyết.......................101

3.3.3. Xây dựng nguyên tắc vận dụng ngôn ngữ trong sáng tác văn học...................108
Tiểu kết chương 3....................................................................................................... 116
Chương 4. HỆ QUẢ VIỆC HIỆN THỰC HÓA CHỦ TRƯƠNG CANH TÂN VĂN
HÓA, VĂN HỌC CỦA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN TRONG NGHỆ THUẬT TIỂU
THUYẾT NHẤT LINH..................................................................................................118
4.1. Khám phá những xung đột nghệ thuật mới.......................................................... 118
4.1.1. Những xung đột nghệ thuật phổ biến trong tiểu thuyết giai đoạn trước........... 118
4.1.2. Xung đột gia đình - loại xung đột đánh dấu bước chuyển của thời đại............ 119
4.1.3. Xung đột cá nhân - xã hội và xung đột trong con người không trùng khít
với chính mình.....................................................................................................122
4.2. Xây dựng những hình tượng nhân vật mới........................................................... 127
4.2.1. Hình tượng nhân vật nổi loạn.......................................................................128
4.2.2. Hình tượng con người phụng sự lí tưởng...................................................... 130
4.2.3. Hình tượng “Con người thất bại”................................................................. 134
4.3. Hình thành ngơn ngữ tiểu thuyết mới...................................................................139
4.3.1. Đa dạng hóa các bè ngơn ngữ...................................................................... 140
4.3.2. Ngơn ngữ tạo hình...................................................................................... 142
4.3.3. Ngơn ngữ thể hiện nội tâm.......................................................................... 145
Tiểu kết chương 4......................................................................................................149
KẾT LUẬN.................................................................................................................... 151
DANH MUC CÁC CÔNG TRINH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN.......................................................................................................................154
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................. 155

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Tự lực văn đoàn là một trong những đoàn thể văn học mang tính chất chun
nghiệp nhất về tổ chức, tơn chỉ mục đích, kế hoạch hoạt động… trong lịch sử văn học
Việt Nam hiện đại mà tầm ảnh hưởng của nó đã vượt ra khỏi phạm vi văn học, bao
trùm cả các lĩnh vực văn hóa - chính trị - xã hội. Với việc sáng lập Tự lực văn đoàn,
Nhất Linh là một trong những người đã có ảnh hưởng tích cực đến sự lựa chọn đường
hướng phát triển của văn học, nhất là tiểu thuyết - một vấn đề không kém phần nóng
bỏng, bức thiết so với nhiều vấn đề xã hội khác. Về các đối tượng này, hiện đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu chun sâu, tuy nhiên, trên cơ sở những tư liệu được cơng
bố gần đây, việc nhìn nhận tồn diện những đóng góp của Tự lực văn đồn và của
Nhất Linh vẫn cịn là một đề tài mở.
1.2. Việc định vị và đánh giá lại tầm vóc đích thực Tự lực văn đồn cũng như vị
chủ sối của nó đã diễn ra mạnh mẽ từ giữa thập niên 80 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, do
sự phức tạp của thời thế và của bản thân con người Nhất Linh, bức tranh nghiên cứu về
các đối tượng này vẫn còn nhiều khoảng trống cần được lấp đầy. Ngày hơm nay, hồn
cảnh cho phép tiếp xúc thuận lợi hơn với các tư liệu gốc, cùng với khơng khí cởi mở
và thái độ khách quan trong nhìn nhận những hiện tượng văn học, chúng tôi muốn một
lần nữa phục dựng chân dung Nhất Linh không chỉ với tư cách là một nhà văn mà cịn
là một nhà khai dân trí, thức tỉnh ý thức cá nhân và tự do ở con người không chỉ bằng
hoạt động xã hội năng nổ mà bằng những sáng tác văn chương có phẩm chất nghệ thuật
rất cao.
1.3. Trong sự nghiệp của Nhất Linh, tiểu thuyết là bộ phận di sản có giá trị nhất,
vì thế đây cũng là thể loại được nghiên cứu nhiều hơn cả. Tuy nhiên, số lượng cơng
trình nghiên cứu chun biệt về khát vọng khởi cuộc canh tân văn hóa của Tự lực văn
đồn nói chung và của Nhất Linh nói riêng, thơng qua sáng tác văn học, nhất là tiểu
thuyết, còn khá hiếm hoi và chưa đạt mức bề thế. Lâu nay, nghiên cứu về Nhất Linh,
người ta quan tâm nhiều đến những nội dung xã hội và con người được khám phá, thể
hiện trong các tiểu thuyết của ơng, những đóng góp của ơng cho sự hình thành và phát

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



2
triển của tiểu thuyết hiện đại chứ chưa thật sự chú ý đánh giá tồn diện vai trị và
những đóng góp của Nhất Linh ở điểm giao thoa giữa văn hóa và văn học trong một
bối cảnh phát triển đặc biệt của đất nước. Với đề tài Tiểu thuyết Nhất Linh với việc
hiện thực hóa chủ trương canh tân văn hóa, văn học của Tự lực văn đồn, chúng tơi
muốn góp phần giải quyết vấn đề trên từ cách tiếp cận liên ngành đối với đối tượng
nghiên cứu.
1.4. Trong tư cách là tiểu thuyết gia, một trong những đóng góp lớn nhất của
Nhất Linh là đã gợi mở một hướng đi, dự báo một hướng phát triển cho tiểu thuyết
Việt Nam hiện đại. Mơ hình tiểu thuyết của ơng đáng được khảo sát và đánh giá lại để
chúng ta nhìn nhận đúng về vai trị của nó trong một bối cảnh hiện đại hóa văn học có
tính đặc thù. Chính mơ hình này đã góp phần tạo nên điểm tựa vững chắc cho những
chặng đường phát triển sau này của tiểu thuyết nước nhà.
Đó là những lý do thúc đẩy chúng tôi nghiên cứu đề tài Tiểu thuyết Nhất Linh với
việc hiện thực hóa chủ trương canh tân văn hóa, văn học của Tự lực văn đoàn.
2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu khảo sát
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Như tên đề tài đã chỉ rõ, đối tượng nghiên cứu của luận án là đóng góp của tiểu
thuyết Nhất Linh trong việc hiện thực hóa chủ trương canh tân văn hóa, văn học của
Tự lực văn đồn.
2.2. Phạm vi tư liệu khảo sát
Nhất Linh đã để lại một khối lượng tác phẩm khá lớn và đa dạng về thể loại (tiểu
thuyết, truyện ngắn, phê bình, phóng sự...). Nhưng luận án chỉ tập trung khảo sát tiểu
thuyết của nhà văn trong giai đoạn Tự lực văn đoàn nhằm làm rõ việc hiện thực hóa
chủ trương canh tân văn hóa, văn học của văn đoàn này bằng tiểu thuyết và ở tiểu
thuyết.
Cụ thể, luận án tập trung khảo sát kĩ 6 tiểu thuyết: Nắng thu (viết 1934, xuất bản
1942), Đoạn tuyệt (đăng báo 1934, xuất bản 1935), Đời mưa gió (Nhất Linh viết

chung với Khái Hưng, xuất bản năm 1934), Lạnh lùng (đăng báo 1936, xuất bản 1937),
Đôi bạn (đăng báo 1938, xuất bản 1939), Bướm trắng (đăng báo 1939, xuất bản 1940 1941).

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


3
Những tác phẩm giai đoạn trước Tự lực văn đoàn, đặc biệt tác phẩm Nho phong
(1924), Người quay tơ (1927), tuy không phải là tiểu thuyết, nhưng chúng tôi cũng
tham khảo, phân tích để thấy thấy tư tưởng canh tân văn hóa, cải tạo đời sống xã hội
đã được manh nha từ thời điểm Nhất Linh chưa tham gia Tự lực văn đoàn. Giai đoạn
sau Tự lực văn đoàn, Nhất Linh còn viết thêm hai bộ tiểu thuyết trường thiên: Dịng
sơng Thanh Thuỷ và Xóm Cầu Mới. Hai bộ tiểu thuyết này tuy vẫn thể hiện những tìm
tịi của Nhất Linh trong nghệ thuật tiểu thuyết, nhưng đích hướng tới của chúng đã
khác so với các sáng tác trước đây, một khi lịch sử đã lật qua trang mới và Tự lực văn
đoàn với tư cách là một tổ chức văn học đã kết thúc vận mệnh của mình. Đây là lý do
cơ bản khiến chúng tôi chỉ xem hai bộ tiểu thuyết này là nguồn tài liệu cần dẫn chiếu
chứ khơng phải đối tượng chính cần phân tích, đánh giá một cách đầy đủ.
Với tập tiểu luận Viết và đọc tiểu thuyết (1952 - 1961) được viết sau thời kì Tự
lực văn đồn vốn mang tinh thần tổng kết quan niệm về tiểu thuyết của thời tiền chiến,
chúng tôi cũng quan tâm khảo sát để thấy rõ hơn ý thức nghề nghiệp của nhà văn –
một phẩm chất không thể thiếu của người muốn hoạch định tương lại cho cả nền văn
hố, văn học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu tiểu thuyết của Nhất Linh thời kỳ Tự lực văn đoàn theo định hướng
đã nêu trên, luận án nhằm tới các mục đích sau đây:
- Đánh giá một cách tồn diện những đóng góp của Nhất Linh cho nền văn hố,
văn học dân tộc; khẳng định Nhất Linh không chỉ là một nhà văn mà còn là một nhà
hoạt động xã hội trong việc định ra những kế hoạch canh tân văn hoá và tổ chức thực

hiện nó một cách hiệu quả trên cơ sở giải quyết những vấn đề bức thiết của cuộc giao
lưu văn hố Đơng - Tây giai đoạn đầu thế kỷ XX.
- Khẳng định vai trò đặc biệt của tiểu thuyết trong việc góp phần tạo nên bộ mặt
mới của nền văn học và thổi vào nền văn hoá đất nước một khí sắc mới.
- Khẳng định khả năng làm chủ công cụ tiểu thuyết của một người tự nhận lĩnh
sứ mệnh phất cao ngọn cờ văn hoá trong bối cảnh phát triển đặc thù của lịch sử Việt
Nam nửa đầu thế kỷ XX.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


4
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu đã xác định, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ
chính sau đây:
- Tìm hiểu thấu đáo các khái niệm cơng cụ như tiểu thuyết, văn hố, mối quan hệ
giữa văn hoá và văn học để sử dụng chúng một cách hiệu quả trong việc nghiên cứu
vấn đề đặt ra.
- Phân tích, đánh giá chủ trương canh tân văn hóa, văn học của Tự lực văn đoàn –
yếu tố then chốt đưa đến kế hoạch hoạt động hiệu quả và những đóng góp lớn của tổ
chức này cho văn hố, văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX.
- Xác định vị trí của tiểu thuyết trong di sản văn học phong phú của Tự lực văn
đồn, chỉ ra lí do khiến tiểu thuyết được các nhà văn hàng đầu của tổ chức này lựa
chọn như thể loại sáng tác chính.
- Phân tích, đánh giá tiểu thuyết Nhất Linh trên phương diện nội dung, theo
hướng khẳng định những vấn đề được thể hiện trong đó cũng là những vấn đề cốt lõi
của nhiệm vụ canh tân văn hoá, văn học theo tơn chỉ của Tự lực văn đồn.
- Phân tích, đánh giá những đổi mới trong nghệ thuật tiểu thuyết của Nhất Linh –
điều được nhìn nhận như là hệ quả tất yếu của việc hiện thực hoá chủ trương canh tân
văn hố, văn học của Tự lực văn đồn.

4. Phương pháp pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi chủ yếu sử dụng các phương pháp sau đây:
4.1. Phương pháp liên ngành
Đây là phương pháp có thể giúp người nghiên cứu phân tích, lý giải thấu đáo mối
quan hệ giữa văn hố và văn học, qua đó hiểu hơn tham vọng của Nhất Linh trong việc
canh tân văn hoá thơng qua sáng tác văn học.
4.2. Phương pháp loại hình học
Phương pháp này đắc dụng trong việc nghiên cứu đối tượng trung tâm là tiểu
thuyết, giúp tác giả luận án biết đặt các sáng tác chính của Nhất Linh vào đúng loại
hình của nó để có được những phân tích, đánh giá thuyết phục.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


5
4.3. Phương pháp nghiên cứu lịch sử
Sử dụng phương pháp nghiên cứu này, người viết đặt tác phẩm của Nhất Linh
trong bối cảnh vận động và phát triển của văn học Việt Nam nói chung, thể loại tiểu
thuyết nói riêng để làm nổi rõ những đóng góp của tiểu thuyết Nhất Linh trong việc
hiện thực hóa chủ trương canh tân văn hóa, văn học của Tự lực văn đồn.
4.4. Phương pháp tiếp cận thi pháp học
Phương pháp này sẽ giúp người nghiên cứu nhìn thấy tính hệ thống của các
phương thức, phương tiện nghệ thuật được nhà văn Nhất Linh sử dụng cũng như quan
niệm nghệ thuật mới về con người toát ra từ tất cả các đối tượng được tác giả miêu tả,
thể hiện trong các tiểu thuyết của mình.
4.5. Phương pháp cấu trúc - hệ thống
Đây là phương pháp giúp chúng tơi có cái nhìn hệ thống, tồn diện về toàn bộ
vấn đề liên quan đến đề tài để thực hiện việc đánh giá thoả đáng đóng góp của Nhất
Linh cho việc xây đắp nền văn hoá mới và cho tiến trình vận động, phát triển của tiểu
thuyết Việt Nam hiện đại.

4.6. Phương pháp so sánh
Phương pháp này một mặt giúp chúng tôi thấy được sự độc đáo trong chủ trương
viết tiểu thuyết của Nhất Linh so với các nhà tiểu thuyết khác đương thời (ngoài tổ
chức Tự lực văn đồn), mặt khác, nhìn rõ những điểm tương đồng và khác biệt giữa
các giai đoạn sáng tác của nhà văn để thấy được dụng ý của Nhất Linh trong việc gợi
mở một hướng đi, dự báo một hướng phát triển trong nhiều khả năng tồn tại và phát
triển của nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
5. Đóng góp của luận án
- Làm sáng tỏ hơn một số vấn đề chung quanh hoạt động của Tự lực văn đoàn
trong giai đoạn phát triển đặc biệt của lịch sử đất nước (qua việc cập nhật nhiều tài liệu
nghiên cứu mới của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước): những nhân tố thúc đẩy
sự ra đời của tổ chức văn học này, chương trình hoạt động thực tế, những nội dung cốt
lõi trong chủ trương canh tân văn hóa, văn học của Tự lực văn đoàn.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


6
- Khẳng định đóng góp quan trọng của Tự lực văn đồn nói chung, của Nhất Linh
nói riêng trong việc xây dựng một mơ hình tiểu thuyết hiện đại (thừa tiếp nỗ lực của
nhiều nhà văn chuyên viết tiểu thuyết trước đó), đặt nền móng cho sự phát triển của
tiểu thuyết Việt Nam ở những thời kỳ văn học tiếp nối.
- Qua phân tích các giá trị nổi bật về nội dung và nghệ thuật của tiểu thuyết Nhất
Linh, khẳng định một số vấn đề có ý nghĩa quy luật trong sự phát triển của lịch sử, văn
hoá, văn học Việt Nam hiện đại, đó là: để đạt được tự do và văn minh, con đường đúng
đắn hay giải pháp bền vững phải bắt đầu từ việc khai dân trí, thức tỉnh nhân dân; văn
hố ln có sứ mệnh soi đường đi cho cộng đồng và văn học, với một số thể loại chủ
công như tiểu thuyết, luôn là một vũ khí lợi hại cần nắm giữ trong cơng cuộc giải
phóng con người, giải phóng dân tộc.
6. Cấu trúc của luận án

Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận án được
triển khai trong 4 chương:
Chương 1. Cơ sở lý thuyết của luận án và tổng quan tình hình nghiên cứu.
Chương 2. Khái quát về chủ trương canh tân văn hoá, văn học của Tự lực văn
đoàn.
Chương 3. Những vấn đề lớn của nhiệm vụ canh tân văn hoá, văn học được thể
hiện trong tiểu thuyết của Nhất Linh.
Chương 4. Hệ quả việc hiện thực hoá chủ trương canh tân văn hoá, văn học của
Tự lực văn đoàn trong nghệ thuật tiểu thuyết Nhất Linh.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


7
Chương 1

CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA LUẬN ÁN
VÀ TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tiền đề lý luận và các khái niệm cơ sở của luận án
1.1.1. Lý luận về tiểu thuyết
Tiểu thuyết là một trong những thể loại quan trọng nhất của văn chương hiện đại.
Mặc dù đã có mầm mống từ thời cổ đại nhưng tiểu thuyết (giới hạn ở mơ hình tiểu thuyết
phương Tây) chỉ thực sự nở rộ vào thế kỉ XIX ở Châu Âu với những tên tuổi như
Stendhal, Émile Zola, Honoré de Balzac, William Thackeray, Charles Dickens, Nikolay
Gogol, Ivan Turgenev, Lev Tolstoy, Fedor Dostoyevsky… Xét theo thực tế này, có thể
khẳng định tiểu thuyết là thể loại sinh sau đẻ muộn.
Nhìn lại lịch sử hình thành và phát triển của tiểu thuyết, có thể thấy cùng với sự
biến đổi trong nội dung “phản ánh” qua các thời kì là sự thay đổi trong quan niệm về thể
loại. Các nhà lý luận hàn lâm cũng như các tiểu thuyết gia từ Tây sang Đông đều đã đưa
ra các khái niệm của mình về tiểu thuyết.


Ở Việt Nam, đến đầu thế kỷ XX, cùng với quá trình hình thành nền văn xi
Quốc ngữ, tiểu thuyết mới trở thành một thể loại tiên phong. Nhưng vì đây là một thể
loại mới du nhập từ phương Tây với một diện mạo hoàn toàn khác nên các nhà lý luận,
các nhà văn thời kỳ ấy đã gặp nhiều lúng túng khi cố xây dựng một khái niệm thống
nhất. Mặc dù vậy, họ cũng đã cố gắng giải thích để định hướng việc tiếp nhận của
người đọc. Những giải thích ấy tuy còn đơn giản, sơ lược nhưng đã tạo được cơ sở ban
đầu tương đối vững chắc cho lý luận về tiểu thuyết ở Việt Nam. Sau đây, chúng tôi xin
điểm qua một số quan niệm tiêu biểu:
Báo Nông cổ mín đàm do Trần Chánh Chiếu làm chủ bút số ra ngày 23/10/1906 đã
khởi xướng cuộc thi viết tiểu thuyết đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam với quan
niệm về tiểu thuyết như sau: “Người Lang Sa gọi là Roman nghĩa là lấy trí riêng mình
mà đặt ra một truyện tùy theo nhân vật phong tục trong xứ, dường như truyện có thiệt
vậy”. Và một yêu cầu đặt ra trong thể lệ là “Đặt tiếng thường, thanh nhã, dễ hiểu như
truyện vậy” [124, tr.23-24].

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


8
Hồ Biểu Chánh cũng đã nói về con đường đến với tiểu thuyết của mình xuất phát
từ một suy nghĩ thật đơn giản: “Thầm nghĩ, người mình mà biết truyện bên Tàu khơng
bổ ích cho bằng biết truyện trong nước mình” [124, tr.27]. “Truyện trong nước mình” ở
đây là những gì xảy ra trong đời thường, gắn liền với hiện tại chứ không phải là những
chuyện tài tử giai nhân hay chuyện xưa tích cũ như trong tiểu thuyết Trung Hoa.
Trong Bàn về tiểu thuyết, Phạm Quỳnh đã nêu định nghĩa: “Tiểu thuyết là một
truyện viết bằng văn xuôi đặt ra để tả tình tự người ta, phong tục xã hội, hay là những
sự lạ tích kì, đủ làm cho người đọc có hứng thú” [124, tr.125] hoặc như một diễn ngôn
nôm na “tiểu thuyết là một truyện bịa đặt mà có thú vị” [124, tr.125]. “Bịa đặt” ở đây
theo Phạm Quỳnh là sự “bịa đặt” từ những hoàn cảnh thực. Với tư cách là nhà phê

bình văn học hiện đại đầu tiên của Việt Nam, quan niệm của Phạm Quỳnh đã bao quát
được những đặc điểm và vấn đề quan trọng nhất của thể loại tiểu thuyết như kết cấu,
lối văn tự sự, hư cấu sáng tạo… Chính vì thế, cơng trình này của ơng đã có ảnh hưởng
lớn đến nhiều cây bút đương thời. Hầu hết các nghiên cứu, bình khảo về tiểu thuyết
Việt Nam những năm 20, 30 của thế kỷ XX đều ít nhiều chịu ảnh hưởng từ Bàn về tiểu
thuyết của ông. Chẳng hạn, Thạch Lam trong Theo giịng cũng có nhận định gần giống
với chủ bút Nam phong tạp chí: “Tiểu thuyết là một câu chuyện sắp đặt, một sáng tác
của trí tưởng tượng” song nó địi hỏi phải “hết sức gần sự sống để được linh hoạt và
thật như cuộc đời” [124, tr.180]. Trong tiểu luận Theo giòng Thạch Lam đã đề cập đến
những phương diện cơ bản của thể loại như nhà văn - chủ thể sáng tạo, nhân vật - yếu
tố cốt lõi của tiểu thuyết và bạn đọc - người tiếp nhận. Ở mỗi phương diện, Thạch Lam
đều có những nhận định xác đáng và gần gũi với các nhà lý luận phương Tây. Chính vì
thế ơng được coi là “một trong những người sớm nhận ra một đặc điểm quan trọng của
nhân vật tiểu thuyết: nội dung nhân vật khơng trùng khít với địa vị xã hội và tính cách
xã hội của nhân vật” [61, tr.162]. Có thể thấy, Thạch Lam ngồi sự kế thừa từ Phạm
Quỳnh, đã có quan niệm về tiểu thuyết rất tiến bộ, hiện đại và đến nay vẫn còn phù
hợp.
Ngày nay, qua một thời gian dài phát triển, về khái niệm, tiểu thuyết đã được
hiểu như một thể loại của văn chương hiện đại với những đặc điểm cơ bản sau đây: Về
hình thức, đó là tác phẩm văn xi tự sự có quy mơ lớn; Về thể tài, đó là câu chuyện

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


9
thế sự, đời tư của cá nhân trong mối quan hệ rộng lớn với xã hội, tập trung vào một
(hoặc một vài) nhân vật trong quá trình hình thành và phát triển cá tính của nó; Về
phương thức tường thuật, người trần thuật cần giữ thái độ khách quan, khoảng cách
với nhân vật; Về ngôn ngữ, gần với lời ăn tiếng nói thường ngày nhưng bảo đảm được
tính thẩm mỹ.

Tiểu thuyết Nhất Linh xuất hiện vào lúc văn xuôi hiện đại Việt Nam mới có
những thể nghiệm ban đầu, tuy có thành tựu đáng kể nhưng khơng đáp ứng được tất cả
các tiêu chí nêu trên. Tuy nhiên, bằng sự nhạy bén của mình, nhà văn đã nhận thấy vị
trí quan trọng của tiểu thuyết trong tiến trình văn học cũng như vai trị của nó trong
q trình canh tân văn hoá, văn học.
M. Bakhtin đề cao “thể loại”, tuyên bố nó là “nhân vật chính của tiến trình văn
học” [13, tr.28], trong hệ thể loại ông chỉ ra tiểu thuyết có vai trị hàng đầu trong việc
dựng tiến trình văn học: “Tiểu thuyết là thể loại văn chương duy nhất ln ln biến
đổi, do đó nó phản ánh sâu sắc hơn sự biến chuyển của bản thân hiện thực. Chỉ kẻ biến
đổi mới hiểu được sự biến đổi. Tiểu thuyết sở dĩ đã trở thành nhân vật chính trong tấn
kịch phát triển văn học thời đại mới, bởi vì nó là thể loại duy nhất do thế giới mới ấy
sản sinh ra và đồng chất với thế giới ấy về mọi mặt. Tiểu thuyết về nhiều phương diện
đã và đang báo trước sự phát triển tương lai của toàn bộ nền văn học.” [13, tr.27].
Từ ý kiến của M. Bakhtin, thử lướt nhìn lại hành trình tiểu thuyết từ dạng sơ khai
đến hình thức phồn tạp hơm nay, để thấy quả thật đây là thể loại luôn “phản ánh sâu sắc
hơn sự biến chuyển của bản thân hiện thực”, nó đặt ra những cột mốc cơ bản của tiến
trình nghệ thuật, của q trình hiện đại hóa văn học thế giới và văn học mỗi dân tộc.
Nền văn hóa châu Âu thời trung cổ sơ kỳ và thời Roman (từ giữa thế kỷ XI đến
giữa thế kỷ XIII) nảy sinh trên cơ sở văn minh La Mã và sự tiếp nhận tơn giáo Cơ đốc,
dần hình thành dịng văn chương q tộc. Trên nền móng hình thái tư duy cổ trung đại,
khi mà cảm hứng về cái anh hùng, cái cá biệt là chủ đạo, hình thức thích hợp cho thể
loại là tiểu thuyết hiệp sĩ, ví dụ Tristan và Iseut. Với dạng sơ khai này, tiểu thuyết
hiếm khi lấy con người cá nhân để làm cảm hứng, mà chủ yếu gắn với cái chung, cái
anh hùng, cái phi thường, cái cao nhã, gần với thi ca.
Thời kỳ Phục hưng châu Âu diễn ra trong các thế kỷ XV - XVI, được bắt đầu

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


10

bằng việc khám phá lại về con người. Khi con người trở thành cảm hứng chủ đạo, tiểu
thuyết như một phương tiện thể hiện tư tưởng nhân văn đã ít đi tìm cái phi thường mà
đã hướng nhiều hơn đến đời sống hiện thực, cái nhìn đa diện hơn, giọng điệu nhiều sắc
thái, có cả bi cả hài, cả cao nhã lẫn thơng tục. Ví dụ cho cách tiếp cận mới này là Cuộc
đời của Lasarillo Tormes (1554) của tác giả vơ danh người Tây Ban Nha, kể về những
khó khăn trắc trở của chàng trai bình dân nghèo khổ. Ở Anh quốc, cũng trong chiều
chuyển biến đó là Người du hành bất hạnh, hay Cuộc đời của Jack Wilton (1594) của
Nash. Đáng kể hơn cả là Don Quixote xứ Mancha (1615) của Miguel de Cervantes một hình thức mới để từ đó sẽ bắt đầu phát triển tiểu thuyết hiện thực. Tác phẩm này
chế nhạo tiểu thuyết hiệp sĩ đã lỗi thời, hướng đến thực tế cuộc sống.
Bước sang thời Khai sáng (thế kỷ XVIII), tiểu thuyết lập tức chứng tỏ mình là
phương tiện thích hợp và đắc dụng hơn cả trong việc cổ súy tư tưởng thời đại. Đặc
điểm nổi bật thời Khai sáng là hướng đến tri thức, đưa chúng vào đời sống xã hội. Tiểu
thuyết giáo dục, tiểu thuyết luận đề ra đời. Tác phẩm Cuộc đời và những cuộc phiêu
lưu kỳ thú của Robinson Crusoe (1719) của Daniel Defoe như một bài học về khả năng
tương tác của con người với xã hội, với thiên nhiên, dạy người ta biết ứng xử, kiên trì
và lạc quan trong những hoàn cảnh ngặt nghèo. Jean-Jacques Rousseau trong Julie hay
nàng Heloise mới (1761), Émile hay là về giáo dục (1762) bộc lộ trực diện quan điểm
về giáo dục cơng dân. Bên cạnh đó, với phong cách thể hiện mới, những cuốn sách này
cịn có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành và phát triển văn học tiền lãng mạn và
văn học lãng mạn, cũng như hình thức tiểu thuyết luận đề.
Thế kỷ XIX được ví như kỷ nguyên của tư tưởng và ngôn ngữ, là giai đoạn cực
thịnh của tiểu thuyết cổ điển. Thể loại này đạt mức kinh điển ở mọi phương diện: ngôn
từ, cốt truyện, phân tích tâm lý... Đây cũng là thời kỳ đặt ra ráo riết hơn ý thức trách
nhiệm của con người đối với xã hội, với sáng tạo. Với nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa
lãng mạn, Victor Hugo đã cho thấy sự chiến thắng của cái thiện trước cái ác, của ánh
sáng trước bóng tối trong các tiểu thuyết Nhà thờ Đức Bà Paris, Những người khốn khổ,
Thằng cười... Các nhà văn hiện thực chủ nghĩa Stendhal, H. de Balzac, G. Flaubert, C.
Dickens, W.Thackeray, L. Tolstoy, N. Gogol, F. Dostoievsky... mở rộng khn khổ cốt
truyện, phân cảnh, tình tiết... làm nên bức tranh hoành tráng của thời đại với những đặc


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


11
tính riêng của mình. Tiểu thuyết xã hội - thế sự tái hiện mối xung đột giữa con người và
xã hội, cố gắng giải quyết nó hoặc nêu rõ sự bất khả thi của việc loại bỏ xung đột. Nổi
bật thời kỳ này là một kiểu tiểu thuyết mới - tiểu thuyết đa thanh của F. Dostoievsky,
báo hiệu tiềm năng những cuộc đối thoại lớn trong kỷ nguyên mới.
Thế kỷ XX và XXI là thời của những đại biến động, làm thay đổi về chất nhiều
phương diện đời sống nhân loại, thời kỳ giã từ thi pháp trung đại, thời của những
khám phá về khoa học (thuyết Tương đối, thuyết Lượng tử...), thời của định hướng
mới trong triết học (triết học bản thể cổ điển được thay thế bằng triết học tồn tại của
con người), thời kỳ chứa chất nhiều đối thoại, xuất hiện nhiều trào lưu tư tưởng đối
nghịch (hiện tượng học, thuyết phi lý, chủ nghĩa hiện sinh, phân tâm học, hậu hiện
đại, phê bình nữ quyền, hậu thực dân). Tất cả, địi hỏi tiểu thuyết những thích nghi mới
với dạng thức biến đổi cơ bản. Đây cũng là thời kỳ xuất hiện phản-tiểu thuyết, tiểu
thuyết Mới.
Từ những điểm thuật sơ lược trên, có thể nói, tiến trình phát triển của thể loại tiểu
thuyết cũng là tiến trình phát triển của văn học. Sự thay đổi của thể loại nằm trong sự
chi phối và đòi hỏi của thời đại. Đặc điểm này có tính phổ qt, khơng loại trừ trong
văn học Việt Nam, bởi, như Iu. Tynianov nói, “không thể nghiên cứu những thể loại bị
cô lập bên ngoài những dấu hiệu của hệ thống thể loại mà chúng có quan hệ tương tác.”
[194, tr.135].
Trở lại ý kiến đã nêu của M. Bakhtin, rằng “tiểu thuyết là thể loại văn chương
duy nhất ln ln biến đổi, do đó nó phản ánh sâu sắc hơn sự biến chuyển của bản
thân hiện thực”, chúng tôi muốn lưu ý: việc chọn thể loại tiểu thuyết như là đối tượng
khảo sát cho một đề tài có liên quan đến vấn đề canh tân văn hóa, văn học là một sự
lựa chọn đầy ý thức.
Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Nhất Linh không chỉ sáng tác tiểu thuyết,
nhưng đây là thể loại mà với nó, ơng có những tác phẩm sáng giá nhất. Tiểu thuyết cũng

là thể loại minh chứng rõ nhất cho q trình tiến bộ của chính ơng trong một thời kì mà
lịch sử đã trao vào tay tiểu thuyết một “sứ mệnh”: canh tân văn học gắn với canh tân đất
nước. Cùng thời ấy, nhà duy tân Trung Hoa Lương Khải Siêu viết:
“Muốn làm mới dân một nước, cần phải hẵng làm mới tiểu thuyết nước ấy cho nên:

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


12
Muốn mới đạo đức, trước phải mới tiểu thuyết
Muốn mới tơn giáo, trước phải mới tiểu thuyết
Muốn mới chính trị, trước phải mới tiểu thuyết
Muốn mới học thuật, trước phải mới tiểu thuyết
Cho đến muốn mới dân tâm, trước phải mới tiểu thuyết
Muốn mới nhân cách, trước phải mới tiểu thuyết.
Vì sao vậy?
Vì tiểu thuyết có sức mạnh chi phối người ta”.
[124, tr.136].
Quá trình tiếp xúc với phương Tây đã đem đến cho Việt Nam sự thay đổi quan
niệm về giá trị của tiểu thuyết - thể loại chưa bao giờ là hình thức văn học cao quý ở
thời trung đại. Bước vào thế kỷ XX, thân phận tiểu thuyết đã khác, được đề cao.
Nguyễn Bá Học gọi đó là “văn vị đời”, “văn hữu dụng”, thậm chí quan trọng hơn thi
ca, những thứ “chỉ dùng ngâm nga, không suy ra thực” [130, tr.119]. Chọn tiểu thuyết
làm nhân vật chính trong cuộc canh tân văn hóa - văn học, Tự lực văn đồn đã nhìn
thấy “sức mạnh chi phối người ta” của thể loại. Với Nhất Linh, “sức mạnh chi phối
người ta” của tiểu thuyết là ở chỗ, nó khơng chỉ là tác phẩm nghệ thuật văn chương,
mà còn là trăn trở của một nhà văn hóa lớn trước vận mệnh dân tộc, là vũ khí tấn cơng
những thiết chế phong kiến hủ bại, cổ vũ con người cá nhân, hướng con người đến với
khát vọng tự do, dân chủ và nuôi dưỡng khát vọng thúc đẩy sự phát triển của cộng
đồng.

1.1.2. Lý luận về mối quan hệ giữa văn học và văn hóa
Khái niệm văn hố
Văn hóa là một khái niệm quen thuộc và phổ biến. Tuy nhiên, đây cũng là một
khái niệm có nhiều cách hiểu khác nhau. Tác giả Hữu Ngọc trong một cơng trình
nghiên cứu của mình với tên gọi Lãng du trong văn hóa Việt Nam đã nhắc đến một
giáo sư người Indonesia cho rằng trên thế giới có tới 160 định nghĩa về văn hóa.
Từ “văn hóa” khởi nguồn từ tiếng Latin “cultura” nghĩa nguyên thủy là khai khẩn,
trồng trọt, chăn nuôi gia súc, nghĩa bóng là sự cải thiện và nâng cao hành vi, tập quán,
đồng nhất với giáo dục con người toàn diện. Từ này, sau đó được sử dụng rộng rãi trên
thế giới. Qua biến đổi của từng thời đại, từng mục đích và phạm vi sử dụng mà ý nghĩa
của nó có sự biến đổi.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


13
Đó là ý nghĩa cultura ở cấp độ “từ”. Cịn ở cấp độ khái niệm, nhiều người cho
rằng, nó thuộc về nhà nhân chủng học người Anh Edward Tylor (1832 - 1917). Trong
tác phẩm Văn hóa nguyên thủy (Primitive Culture), xuất bản lần đầu năm 1871, E.
Tylor đưa ra khái niệm về văn hóa như sau: “Văn hóa, hay văn minh, được hiểu theo
nghĩa rộng, dân tộc học, là toàn bộ phức tạp bao gồm kiến thức, tín ngưỡng, nghệ thuật,
đạo đức, luật pháp, phong tục và bất kỳ khả năng và thói quen nào khác mà con người
có được khi trở thành thành viên của xã hội. Trong chừng mức là nó có thể được
nghiên cứu dựa trên các nguyên tắc tổng quát, điều kiện và mức độ văn hóa trong
những xã hội con người khác nhau là một đối tượng thích hợp cho việc nghiên cứu về
các quy luật tư duy và hành động của con người.” [219, tr.1]. Đây là định nghĩa được
trích dẫn nhiều nhất vì nó cho thấy rõ ý niệm văn hóa như một q trình tự túc và tự
quy định nên có sự biến đổi trong thời gian và không gian. Gần đây, trong Tun bố
Tồn Cầu về đa dạng Văn hóa của UNESCO, có chỉ rõ: “Văn hóa được coi là hệ thống
các đặc điểm về tinh thần, vật chất, trí tuệ và cảm xúc của xã hội hay một nhóm người

trong xã hội và văn hóa bao gồm nghệ thuật, văn học, phong cách sống, cách thức
chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và tín ngưỡng” [257].
Như vậy, ta thấy văn hóa là một khái niệm bao trùm nhiều lĩnh vực của đời sống
tinh thần con người, là sự bảo tồn những gì tốt đẹp nhất từng được xã hội nhận thức và
công nhận. Mà xã hội của từng khu vực khơng hồn tồn giống nhau, và xã hội qua
từng thời đại lại có những chuẩn mực thẩm mỹ khác nhau. A. Gurevich viết: “Xã hội
loài người thường xuyên vận động, biến đổi và phát triển, trong những thời đại và
những nền văn hóa khác nhau, con người ta cảm thụ và nhận thức thế giới theo những
cách khác nhau, tổ chức những ấn tượng và tri thức theo lối riêng, xây dựng theo tùy
hoàn cảnh lịch sử mỗi bức tranh riêng về thế giới” [64, tr.8].
Ở Việt Nam cũng có nhiều định nghĩa về văn hố. Hồ Chí Minh viết: “Vì lẽ sinh
tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn
ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công
cụ sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Tồn bộ những
sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” [114, tr.431]. Phan Ngọc định nghĩa về văn
hóa như sau: “Văn hóa là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá nhân

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


14
hay một tộc người với cái thế giới thực tại ít nhiều đã bị cá nhân này hay tộc người này
mơ hình hóa theo cái mơ hình tồn tại trong biểu tượng. Điều biểu hiện rõ nhất trong
mối quan hệ này, đó là văn hóa dưới hình thức dễ thấy nhất, biểu hiện thành một kiểu
lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc người, khác các kiểu lựa chọn của cá nhân hay của
tộc người khác” [122, tr.17]. Trần Ngọc Thêm coi văn hóa là “một hệ thống hữu cơ
các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua q trình hoạt
động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội
của mình” [176, tr. 27].
Tất cả những định nghĩa trên đều cho thấy văn hóa là sản phẩm của con người.

Chính con người trong quá trình tiến hóa và khẳng định các giá trị của mình đã sáng
tạo ra văn hóa rồi để từ văn hóa, mỗi con người, rộng hơn là mỗi cộng đồng, dân tộc
lại thể hiện những nét đặc trưng riêng, bản sắc riêng của mình. Và trong tất cả những
sản phẩm của văn hóa, văn học là một trong những sản phẩm thuộc tầng cao nhất của
văn hóa. Như vậy, thơng qua văn học người ta có thể hiểu được văn hóa của một giai
đoạn, một cộng đồng dân tộc, ngược lại, cũng từ văn học, những giá trị văn hóa được
thể hiện, khẳng định, lựa chọn lưu truyền và gìn giữ.
Từ ý kiến trên, chúng tơi nhìn đối tượng khảo sát của mình (tiểu thuyết Nhất Linh)
trong sự biến chuyển những giá trị thẩm mỹ của văn hóa giao thời - tức từ thời trung đại
bước sang thời hiện đại, tất yếu có những thay đổi mang tính chất bước ngoặt. Đó là
những chuyển biến theo những phương thức mới thích hợp hơn: “duy tân đất nước” theo
con đường phương Tây, bên cạnh đó là “tìm về” bảo vệ bản sắc dân tộc.
Mối quan hệ giữa văn hoá và văn học từ lý thuyết đến ứng dụng
Từ những định nghĩa về văn hóa đã nêu trên, có thể thấy, giữa văn học và văn
hóa có một mối quan hệ chặt chẽ và biện chứng. Là một thành tố cơ bản của văn hóa,
văn học là tấm gương phản chiếu văn hóa và đóng vai trị quan trọng trong việc phản
ánh nền văn hóa của một dân tộc trên những bình diện như phong tục tập qn, tơn
giáo, tín ngưỡng… Ở phía ngược lại, văn hóa giữ vai trị là cội nguồn của văn học,
cung cấp những tri thức, vốn sống, cảm hứng… cho nhà văn.
Văn học là một bộ phận của văn hóa vì thế nghiên cứu văn học khơng thể tách
rời văn học với những mối liên hệ với nhiều bộ phận (cái riêng) khác, và nhất là không

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


15
thể khơng đặt nó trong mối quan hệ với văn hóa (cái chung) với tư cách là tồn bộ
sáng tạo vật chất và tinh thần của nhân loại. Văn học là một bộ phận khơng thể thiếu,
nếu khơng nói là cốt lõi nhất của văn hóa. Mối quan hệ giữa văn học và văn hóa là mối
quan hệ chặt chẽ, biện chứng. Mỗi tác phẩm văn học đều là sản phẩm của một hồn

cảnh văn hóa - lịch sử cụ thể. Nó sẽ chịu sự tác động của hồn cảnh văn hóa - lịch sử
ấy. Hơn nữa, bất kỳ một sản phẩm văn hóa - văn học nào thì cũng đều do con người
tạo ra. Bản thân con người cũng lại là một sản phẩm của một hoàn cảnh cụ thể. Và,
như Đỗ Lai Thúy lưu ý, “một khi văn học chỉ là một yếu tố của hệ thống văn hóa và
chỉ “quan hệ” được với hệ thống xã hội thơng qua văn hóa, thì khung nghiên cứu văn
học cũng phải thơng qua khung văn hóa”. [192, tr.247]. Văn hóa tác động đến văn học
không chỉ ở đề tài mà cịn trên mọi bình diện kể cả hoạt động sáng tạo của nhà văn và
hoạt động tiếp nhận của người đọc. Như vậy, văn học chính là thước đo, là sự kiểm
nghiệm về trình độ văn hóa của một xã hội. Trên tinh thần đó, nhìn vào các dữ liệu văn
học, người đọc có thể cảm nhận được bức tranh văn hóa của dân tộc ấy.
Nếu văn hóa chi phối hoạt động của văn học thì văn học cũng tác động trở lại văn
hóa thơng qua những bộ phận hợp thành của nó như ngơn ngữ, biểu tượng, nhân vật,…
Bằng các biện pháp nghệ thuật, nhà văn đấu tranh chống lại những hiện tượng phản văn
hóa, khẳng định những giá trị văn hóa tốt đẹp. Trần Đình Sử trong bài “Vai trị sáng tạo
văn hóa của văn học” đã khái qt vai trị sáng tạo văn hóa của văn học dưới các khía
cạnh: phát huy vai trị sáng tạo những mơ hình nhân cách con người; “phê phán văn hóa”;
lựa chọn văn hóa và sáng tạo văn học. Từ các khía cạnh ấy, ơng kết luận: “Chăm lo văn
học là chăm lo văn hóa. Tạo điều kiện cho văn học phát triển thật sự là một khâu tác động
mạnh mẽ đến đời sống văn hóa xã hội phát triển” [158, tr.184].
Giữa văn học và văn hóa có mối quan hệ hữu cơ và mật thiết như vậy nên bên
cạnh hướng tiếp cận văn học từ xã hội học, thi pháp học,… thì cách tiếp cận văn học từ
văn hóa giúp chúng ta lý giải trọn vẹn hơn tác phẩm nghệ thuật với các mã văn hóa
được hàm chứa trong nó. Vì vậy, nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa đang là một
xu hướng tất yếu trong văn học thế giới và văn học Việt Nam. Nó mở ra những tiềm
năng trong việc nghiên cứu tác phẩm văn học, đưa đến cái nhìn mới và sâu sắc về con
người và cuộc sống của nhà văn.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



16
Hướng tiếp cận văn học trong mối quan hệ với văn hóa, trên thế giới cũng như ở
Việt Nam khơng phải là mới. Các cơng trình thi pháp học lịch sử của I. Lisevich (Tư
tưởng văn học Trung quốc cổ xưa, Nxb. TP.HCM, 1993); N. Konrat (Phương Đông và
Phương Tây, Nxb GD, 1996); A. Gurevich (Những phạm trù văn hóa trung c, Nxb
GD, 1996); M. Bakhtin (Sỏng tỏc ca Franỗois Rabelais và nền văn hóa dân gian thời
Trung cổ - Phục hưng, Nxb KHXH, 2006)... cho thấy vị trí phối cảnh của các thể loại
văn học cổ đại và trung đại, và từng thời kỳ, từng giai đoạn văn hóa giống như bệ đỡ
cho thể loại ra đời, đồng thời in dấu vết thời đại lên thể loại. Khi lấy tác phẩm nghệ
thuật làm đối tượng nghiên cứu, A. Gurevich nhấn mạnh, tuyệt nhiên “khơng được
tách nó ra khỏi văn cảnh văn hóa lịch sử rộng lớn, bởi vì chỉ có trong khn khổ của
cái chỉnh thể rộng lớn mà chúng ta gọi là văn hóa trung cổ mới có thể hiểu được đúng
đắn những thành tố của nó” [64, tr.13]. Đúng như vậy, nhà nghiên cứu Việt Nam sẽ
không hiểu được nền văn học Nho giáo nếu không biết đến triết học Nho giáo tạo nên
khí quyển Nho giáo một thời; tương tự, sẽ không hiểu được văn học Phật giáo nếu
khơng tìm hiểu những lĩnh vực khác mà triết lý Phật giáo ăn sâu trong ý thức và tiềm
thức dân tộc.
Việc liên kết hai lĩnh vực văn học - văn hóa này đã tìm thấy ở Trần Trọng Kim
khi ông đặt Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới tọa độ văn hóa Phật giáo (“Lý-thuyết
Phật-học trong Truyện Kiều”, tập san Khai Trí Tiến Ðức số 1 (Octobre-Décembre,
1940); Hồi Thanh nhìn thấy “Một thời đại thi ca” được hình thành từ luồng gió văn
hóa Đơng - Tây... Đinh Gia Trinh trên tờ Thanh Nghị số 26 (12/1942) có bài “Đọc tiểu
thuyết Việt Nam cận đại” đã đưa nhận xét: “Tiểu thuyết đựng những nguyện vọng,
những hồi bão của ta. Nó luôn luôn là phản ảnh của đời sống tinh thần và vật chất của
xã hội. Muốn suy xét một dân tộc, một nhà mỹ học khuyên ta nên để ý đến nền âm
nhạc và lối kiến trúc ở nước ấy. Ta phải thêm vào: nên xét đến văn chương của nước
ấy và nhất là môn tiểu thuyết của nước họ” [129, tr. 368].
Càng về sau vấn đề mối quan hệ giữa văn hóa và văn học càng được quan tâm,
nhất là khi hệ thống lý luận dựa theo lý thuyết phương Tây được áp dụng vào thực tiễn
Việt Nam. Phan Ngọc trong cơng trình Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện

Kiều (1984) đã vận dụng những yếu tố văn hóa - xã hội để tìm ra những đặc trưng

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


17
phong cách của đại thi hào. Trần Đình Hượu nhất quán đi theo hướng nghiên cứu này
từ trước 1995. Các tác phẩm Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb GD,
1995; Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb Văn hóa, 1996; Các bài giảng về tư tưởng
phương Đơng, Nxb ĐHQG, 2001... cho thấy ơng ln nhìn q trình sáng tạo văn
chương trong mối tương tác với bối cảnh rộng hơn: xã hội - văn hóa - ý thức hệ. Lứa
học trị ưu tú của ơng như Trần Ngọc Vương (với Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam,
1995; Văn học Việt Nam - dòng riêng giữa nguồn chung, 1998; Thực thể Việt - nhìn từ
các tọa độ chữ, 2010...), Trần Nho Thìn (với Nguyễn Du và quan niệm của nho giáo về
nhân cách),… đều theo lối đi này và gặt hái được nhiều thành tựu. Giờ đây nghiên cứu
theo hướng liên văn hóa càng trở nên phổ biến.
Nhà nghiên cứu Phạm Vĩnh Cư đề cao cách tiếp cận liên văn hóa của hai nhà lý
luận Nga Iu. Tynianov và M. Bakhtin. Ông chuyển dẫn quan điểm của họ như sau:
“Không thể tách rời văn học ra khỏi hệ thống văn hóa và “vượt mặt” văn hóa liên hệ
trực tiếp với các nhân tố chính trị - kinh tế - xã hội. Những nhân tố ấy tác động trực tiếp
đến văn hóa trong chỉnh thể của nó và chỉ thơng qua nó mà ảnh hưởng đến văn học” [31,
tr.182]. Ông nhấn mạnh, khi nghiên cứu văn học, nên coi quan điểm của hai nhà lý luận
Nga như một phương pháp luận chung, cụ thể là, cần nhìn đối tượng trong ba hệ thống
chỉnh thể liên đới: hệ chỉnh thể của tác phẩm, hệ chỉnh thể của văn học và hệ chỉnh thể
của văn hóa. Ơng u cầu “tái thiết được ba hệ chỉnh thể ấy trong quan hệ tương hỗ
sống động và trong sự vận động của nó trong thời gian”. Và trong ba hệ chỉnh thể này,
ơng coi văn hóa là hệ nền, bởi “ngữ cảnh văn hóa ảnh hưởng tạo tác đến cả văn học
trong tổng thể của nó và đến từng thành tố của tác phẩm văn học” [31, tr.185].
Những cơng trình nghiên cứu kể trên đã cho thấy sự phát triển của xu hướng tìm
hiểu văn học từ góc nhìn văn hóa. Với xu hướng này, có thể soi rọi lại những giá trị

văn hóa được phản ánh ở chiều sâu trong văn học, vốn là “sự thâm nhập và tồn tại của
văn hóa trong các hiện tượng đời sống” để từ đó vừa làm phong phú thêm cách nhìn về
văn học, vừa góp phần khẳng định bản sắc văn hóa và sức sống mãnh liệt của văn hóa
Việt Nam trong văn học và đời sống người Việt.
Kế thừa thành tựu của những người đi trước theo xu hướng này, chúng tôi sẽ
triển khai luận án Tiểu thuyết Nhất Linh với việc hiện thực hóa chủ trương canh tân

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


18
văn hóa, văn học của Tự lực văn đồn trên ba hệ chỉnh thể liên đới đó, đi từ rộng hơn
đến hẹp dần, tức từ hệ nền văn hóa đến tác phẩm văn học cụ thể, đó là: hệ chỉnh thể
văn hóa thời đại gia tốc của tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam 1932 - 1945, hệ
chỉnh thể văn học Tự lực văn đoàn, hệ chỉnh thể tác phẩm Nhất Linh. Ví dụ, xung đột
mới - cũ trong Đoạn tuyệt, Lạnh lùng không phải đặc điểm của một mình Nhất Linh,
nó nằm trong hệ thống đề tài của Tự lực văn đồn (Gia đình, Thừa tự, Nửa chừng xuân
của Khái Hưng, Chồng con của Trần Tiêu...), và được giải thích bởi bối cảnh văn hóa
những năm 30 thế kỷ XX khi hệ tư tưởng Nho gia vẫn cịn chưa đứt rễ hẳn trong mơ
hình gia đình nửa phong kiến nửa tư sản. Hay như muốn hiểu những cuộc “ra đi” của
các khách chinh phu trong Đôi bạn của Nhất Linh, ta phải nhìn thấy nó như là sự nối
tiếp từ các trang sách khác của Tự lực văn đoàn, như Tiêu sơn tráng sĩ, Giấc mộng Từ
Lâm, Làm gì mà băn khoăn thế..., và tất cả những “băn khoăn” những “giấc mộng” ấy
trong Trần Lưu, Phạm Đài, Dũng, Thái, Tạo, Trúc... chỉ có thể được hiểu trọn vẹn hơn
khi đặt tất cả vào bối cảnh khơng khí chiến tranh đang len lỏi đến, làm dấy lên ý thức
về cộng đồng, khát vọng lý tưởng của một tầng lớp thanh niên trí thức u nước
thương nịi, âm vọng trong Kinh Kha (Thao Thao), Tiễn đưa (Phan Văn Dật), Lưu biệt,
Tống biệt hành (Thâm Tâm)...
1.1.3. Lý luận về sự canh tân văn học
Canh tân là một quy luật tất yếu của sự vận hành và phát triển. Thời đại khơng

ngừng thay đổi và địi hỏi những cuộc canh tân để phù hợp với bước đi của nó, loại bỏ
những cái đã lỗi thời, thay vào đó là những giá trị mới mẻ và hợp lý hơn.
Xét về từ vựng, canh tân ( 更新 ) là một từ chỉ một sự chuyển động sang hình thức
mới ở một lĩnh vực nào đó của hình thái ý thức, có quy mơ rộng lớn, làm thay đổi căn
bản đối tượng so với hình thức cũ (đang / đã) tồn tại trước đó. Ở mức nào đó, nó có thể
được gọi là “cuộc cách mạng”, ví dụ: “canh tân văn hóa”, “canh tân văn học”, “canh tân
chính trị”, “canh tân đất nước”... Canh tân tất kéo theo một loạt sự cải biến / đổi mới
trong từng phương diện cụ thể, ta gọi là cách tân ( 革新 ), ví dụ: “áo dài cách tân”, “thơ
cách tân”, “cách tân thể loại”, “cách tân phương pháp sáng tác”... Đến lượt mình, cách
tân sẽ có những thao tác diễn ra ở diện hẹp hơn, mang tính bộ phận, đó là “phá cách” (破
格),

tức khơng theo lề lối có sẵn, ví dụ, “cổ áo dài phá cách”, “câu thơ phá cách”...).

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


19
Như đã nói, ở mức độ nào đó, canh tân được coi là cuộc cách mạng. Tuy nhiên,
cách mạng thường có ý nghĩa là thay đổi bằng “nhảy vọt”, bỏ qua những bước trung
chuyển, trong khi đó canh tân lại mang sắc thái thay đổi bằng cải tạo (cải tiến) trên cơ
sở cái cũ, dần dần thích nghi với cái mới. Thay đổi bằng hình thức cách mạng thường
diễn ra nhanh chóng, khi thành cơng thì giữ gìn thành quả khơng dễ dàng; khi thất bại
thì hậu quả kéo dài. Nếu sự thay đổi căn bản một nền văn hóa - văn học diễn ra cùng
với sự thay đổi hệ hình ý thức xã hội, thì nên tiến hành một cách tiệm tiến, tuần tự trải
qua các bước trung chuyển hợp lý, cùng thời gian đó kịp thời giáo dục và tập dượt
được tinh thần dân chủ, ý thức cộng đồng, và với nội lực mạnh mẽ ấy, nền độc lập tự
do của dân tộc sẽ được gìn giữ bền chắc hơn.
Cuộc canh tân văn học Việt Nam diễn ra từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và
nhất là vào những năm 30 - 40 thế kỷ XX thực chất là một thay đổi hệ hình (paradigm).

Theo Trần Ngọc Vương, những thành tố sau đây làm nên hệ hình của một nền văn
học:
1) Hệ thống những tư tưởng mang tính thẩm mỹ và quan niệm văn học chung của
cả nền văn học.
2) Hệ thống chủ đề - đề tài đặc thù.
3) Hệ thống những hình tượng văn học cơ bản tồn tại ổn định tương đối trong
một khoảng thời gian dài nhất định của nền văn học.
4) Hệ thống thể loại
5) Ngôn ngữ văn học - tức “chất nền” (substance) của mọi nền văn học [215, tr. 397].
Dùng những tiêu chí trên đối chiếu vào nền văn học trung đại kéo dài suốt mười
thế kỷ, với những ràng buộc đầy tính quy phạm như ước lệ, phi ngã, sùng cổ, cách điệu,
cao nhã... ta thấy hệ hình văn học ấy đã trở nên sờn mịn, khn sáo, ngày càng trở nên
xa lạ với đại đa số quần chúng, nhất là với giới độc giả thế hệ mới. Sang đầu thế kỷ
XX, các nhà văn Việt Nam đã cố gắng thốt ra khỏi mọi ràng buộc của hệ hình cũ,
khỏi thói quen thẩm mỹ cũ, đi tìm những giá trị mới, mỹ cảm mới, thay thế con người
cộng đồng bằng con người cá nhân. Một trong những cái cần thiết nhất cho một nền
văn học như một chỉnh thể - đó là bên cạnh hệ thống thể loại thơ ca, cần có bổ sung
cấp thời một hệ thống thể loại tự sự, hơn nữa, mang tính hiện đại. Trong các cơng trình
của mình, Trần Đình Hượu đã chỉ ra tính liên tục trong phát triển của tiến trình văn

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


×