Tải bản đầy đủ (.pdf) (191 trang)

thị trường chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 191 trang )

1
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

Mục tiêu của chương
Thị trường chứng khoán là một kênh huy động vốn quan trọng của nền kinh tế.
Chương này sẽ giới thiệu khái quát sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán, cấu
trúc và vai trò của thị trường chứng khoán. Ngoài ra, chúng ta cũng sẽ tìm hiểu một số thị
trường chứng khoán trên thế giới, đặc biệt là thị trường chứng khoán Việt Nam qua chương
này.

Số tiết: 6 tiết

Tiết 1,2, 3:
1.1. Khái quát sự ra đời và phát triển


Những dấu hiệu của một thị trường chứng khoán (TTCK) sơ khai đã xuất hiện ngay từ
thời Trung cổ xa xưa. Vào khoảng thế kỷ XV, ở các thành phố lớn của các nước phương Tây,
trong các phiên chợ hay hội chợ, các thương gia thường gặp gỡ tiếp xúc với nhau tại các quán
cafe để thương lượng mua bán, trao đổi hàng hoá. Đặc điểm của hoạt động này là các thương
gia chỉ trao đổi bằng lời nói với nhau về các hợp đồng mua bán m à không có sự xuất hiện của
bất cứ hàng hoá, giấy tờ nào. Đến cuối thế kỷ XV, “khu chợ riêng” đã trở thành thị trường
hoạt động thường xuyên với những quy ước xác định cho các cuộc th ương lượng. Những quy
ước này dần dần trở thành các quy tắc có tính chất bắt buộc đối với các thành viên tham gia.
Năm 1453, ở thành phố Bruges (Bỉ), buổi họp đầu ti ên đã diễn ra tại một lữ quán của
gia đình Vanber. Trước lữ quán có một bảng hiệu vẽ hình 3 túi da - tượng trưng cho 3 loại
giao dịch: giao dịch hàng hoá, giao dịch ngoại tệ, giao dịch chứng khoán động sản.
2
Vào năm 1457, thành phố ở Bruges (Bỉ) mất đi sự phồn thịnh do eo biển Even bị lấp
cát nên mậu dịch thị tr ường ở đây bị sụp đổ và được chuyển qua thị trấn Auvers (Bỉ). Ở đây


thị trường phát triển rất nhanh chóng. Các thị trường như vậy cũng được thành lập ở Anh,
Pháp, Đức, Mỹ.
Sau một thời gian hoạt động, thị trường không chứng tỏ khả năng đáp ứng được yêu
cầu của 3 loại giao dịch khác nhau nên đã phân ra thành nhiều thị trường khác nhau: thị
trường hàng hoá, thị trường hối đoái, thị trường chứng khoán…với đặc tính riêng của từng thị
trường thuận lợi cho giao dịch của người tham gia trong đó.
Như vậy, thị trường chứng khoán được hình thành cùng với thị trường hàng hoá và thị
trường hối đoái.
Quá trình phát triển thị trường chứng khoán đã trải qua nhiều bước thăng trầm. Thời
kỳ huy hoàng nhất là vào những năm 1875 - 1913, thị trường chứng khoán phát triển mạnh
cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế. Nhưng đến ngày 29/10/1929, ngày được gọi là “ngày
thứ năm đen tối”, đây l à ngày mở đầu cuộc khủng hoảng thị trường chứng khoán New York,
và sau đó lan rộng ra các thị trường chứng khoán Tây Âu, Bắc Âu, Nhật bản. Sau thế chiến
thứ hai, các thị trường chứng khoán phục hồi, phát triển mạnh. Nh ưng rồi “cuộc khủng hoảng
tài chính” năm 1987, một lần nữa đã làm cho các thị trường chứng khoán thế giới suy sụp,
kiệt quệ. Lần này, hậu quả của nó rất lớn và nặng nề hơn cuộc khủng hoảng năm 1929, nhưng
chỉ 2 năm sau, thị tr ường chứng khoán thế giới lại đi vào ổn định, phát triển và trở thành một
định chế tài chính không thể thiếu được trong đời sống kinh tế của những quốc gia có nền
kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường.
1.2. Khái niệm thị trường chứng khoán
Có nhiều định nghĩa khác nhau về thị trường chứng khoán:
- Thị trường chứng khoán: tiếng la tinh là BURSA, là một thị trường có tổ chức
và hoạt động có điều khiển.
- Thị trường chứng khoán được định nghĩa theo Longman Dictionary Business
English, như sau: một thị trường có tổ chức là nơi các chứng khoán được mua bán tuân theo
những quy tắc đã được ấn định.
Các quan niệm trên đều được khái quát tr ên những cơ sở thực tiễn và trong từng điều
kiện lịch sử nhất định.
Tuy nhiên, quan niệm đầy đủ và rõ ràng, phù hợp với sự phát triển chung của thị
trường chứng khoán hiện nay là:

Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng
khoán.
Chứng khoán được hiểu là các giấy tờ có giá, xác nhận quyền v à lợi ích hợp pháp của
người sở hữu đối với nhà phát hành.
1.3. Phân loại thị trường chứng khoán
Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, cấu trúc của thị tr ường chứng khoán có thể được phân
loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Tuy nhi ên, thông thường, ta có thể xem xét ba cách thức
cơ bản là phân loại theo hàng hoá, phân loại theo hình thức tổ chức của thị trường và phân
loại theo quá trình luân chuyển vốn.
1.3.1. Phân loại theo hàng hoá của thị trường chứng khoán
Theo các loại hàng hoá được mua bán trên thị trường, người ta có thể phân thị tr ường
chứng khoán thành thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu và thị trường các công cụ phái
sinh.
- Thị trường trái phiếu:
Thị trường trái phiếu là thị trường mà hàng hoá được giao dịch trao đổi, mua
bán tại đó là các trái phiếu.
- Thị trường cổ phiếu:
3
Thị trường cổ phiếu là thị trường mà hàng hoá được giao dịch trao đổi, mua
bán tại đó là các cổ phiếu.
- Thị trường các công cụ phái sinh:
Thị trường các công cụ phái sinh là thị trường mà hàng hoá được giao dịch trao
đổi, mua bán tại đó là chứng khoán phái sinh. Ví dụ: hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền
chọn.
1.3.2. Phân loại theo quá trình luân chuyển vốn
Theo cách thức này, thị trường được phân thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ
cấp.
- Thị trường sơ cấp (thị trường cấp 1):
+ Thị trường sơ cấp là thị trường phát hành mới các chứng khoán hay là nơi
mua bán chứng khoán lần đầu tiên. Tại thị trường này, giá cả của chứng khoán là giá phát

hành.
+ Các chứng khoán lần đầu tiên được bán ra thị trường được gọi là chứng
khoán mới được phát hành. Nếu việc phát hành mới là các chứng khoán bổ sung được nhà
phát hành đã có chứng khoán đưa ra công chúng thì được gọi là phân phối lần đầu.
+ Việc mua bán chứng khoán trên thị trường sơ cấp nhằm mục đích làm tăng
vốn cho nhà phát hành. Thông qua việc mua bán, Chính phủ có th êm nguồn thu để tài trợ cho
các dự án đầu tư hoặc chi tiêu dùng. Các doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường nhằm
đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Qua đó, đưa nguồn vốn tiết kiệm vào đầu tư.
- Thị trường thứ cấp (thị trường cấp 2):
+ Thị trường thứ cấp là thị trường giao dịch mua bán, trao đổi những chứng
khoán đã được phát hành nhằm mục đích kiếm lời, di chuyển vốn đầu tư hay di chuyển tài sản
xã hội.
+ Thị trường thứ cấp làm tăng tính lỏng của các chứng khoán đã phát hành.
Việc này làm tăng sự ưa chuộng của chứng khoán và làm giảm rủi ro cho các nhà đầu tư. Việc
tăng tính lỏng cho các chứng khoán tạo điều kiện cho việc thay đổi thời hạn của vốn, từ vốn
ngắn hạn sang trung và dài hạn, đồng thời tạo điều kiện cho việc phân phối vốn một cách hiệu
quả.
+ Thị trường thứ cấp xác định giá của chứng khoán đã được phát hành trên thị
trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp được xem là thị trường định giá các công ty.
+ Thông qua việc xác định giá, thị trường thứ cấp cung cấp một danh mục chi
phí vốn tương ứng với các mức độ rủi ro khác nhau của từng phương án đầu tư, tạo cơ sở
tham chiếu cho các nhà phát hành cũng như các nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp. Vốn sẽ đ -
ược chuyển tới những công ty nào làm ăn có hiệu quả cao nhất, qua đó làm tăng hiệu quả kinh
tế xã hội.
Điểm khác nhau căn bản giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp: ở thị trường sơ
cấp, nguồn vốn tiết kiệm được thu hút vào công cuộc đầu tư phát triển kinh tế. Còn ở thị
trường thứ cấp, việc giao dịch không làm tăng quy mô đầu tư vốn, không thu hút th êm được
các nguồn tài chính mới mà chỉ có tác dụng phân phối lại quyền sở hữu chứng khoán từ chủ
thể này sang chủ thể khác, đảm bảo tính thanh khoản của chứng khoán.
Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ mật thiết, hỗ trợ lẫn nhau. Nếu

không có thị trường sơ cấp thì không có chứng khoán để lưu thông trên thị trường thứ cấp.
Ngược lại, nếu không có thị trường thứ cấp thì thị trường sơ cấp khó hoạt động trôi chảy.
Chính sự có mặt của thị trường thứ cấp đã giúp cho các chứng khoán có tính thanh khoản, làm
tăng tính hấp dẫn của chứng khoán; từ đó làm tăng tiềm năng huy động vốn của các chủ thể
phát hành chứng khoán. Mục đích cuối cùng của các nhà quản lý là phải tăng cường hoạt
động huy động vốn trên thị trường sơ cấp, vì chỉ có tại thị trường này, vốn mới thực sự vận
động từ người tiết kiệm sang người đầu tư, còn sự vận động của vốn trên thị trường thứ cấp
chỉ là tư bản giả, không tác động trực tiếp tới việc tích tụ và tập trung vốn.
4
1.3.3. Phân loại theo hình thức tổ chức của thị trường
Theo cách phân loại này, thị trường chứng khoán được tổ chức thành các Sở giao dịch,
thị trường chứng khoán phi tập trung và thị trường tự do.
- Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK)
+ SGDCK là thị trường giao dịch chứng khoán được thực hiện tại một địa điểm
tập trung.
+ Các chứng khoán được niêm yết giao dịch tại SGDCK thông thường là
chứng khoán của các công ty lớn, có danh tiếng, đ ã trải qua nhiều thử thách trên thị trường và
đáp ứng được các yêu cầu, tiêu chuẩn niêm yết do SGDCK đặt ra.
+ SGDCK được tổ chức và quản lý một cách chặt chẽ bởi UBCKNN, các giao
dịch chịu sự điều tiết của luật chứng khoán và thị trường chứng khoán.
- Thị trường chứng khoán phi tập trung
+ Thị trường chứng khoán phi tập trung là thị trường không có trung tâm giao
dịch tập trung, đó l à một mạng lưới các nhà môi giới và tự doanh chứng khoán mua bán với
nhau và với các nhà đầu tư, các hoạt động giao dịch của thị trường chứng khoán phi tập trung
được diễn ra tại các quầy (sàn giao dịch) của các ngân hàng và công ty chứng khoán thông
qua điện thoại hay máy vi tính diện rộng.
+ Khối lượng giao dịch của thị tr ường này thường lớn hơn rất nhiều lần so với
SGDCK.
+ Thị trường chứng khoán phi tập trung chịu sự quản lý của Sở giao dịch và
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán.

- Thị trường tự do
Thị trường tự do là thị trường giao dịch tất cả các loại cổ phiếu đ ược phát hành
thông qua việc thương lượng và thoả thuận trực tiếp giữa bên mua và bên bán tại bất cứ nơi
đâu, vào bất kỳ lúc nào.
1.4. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán
Trên thị trường chứng khoán có nhiều loại chủ thể tham gia hoạt động theo nhiều mục
đích khác nhau: chủ thể phát hành, chủ thể đầu tư, chủ thể quản lý v à giám sát các hoạt động
của thị trường chứng khoán, và các tổ chức có liên quan.
1.4.1. Chủ thể phát hành
Chủ thể phát hành là người cung cấp các chứng khoán - hàng hoá của thị trường chứng
khoán. Các chủ thể phát hành bao gồm: Chính phủ, các doanh nghiệp v à một số tổ chức khác
như: Quỹ đầu tư
- Chính phủ
+ Chính phủ là chủ thể phát hành các chứng khoán: trái phiếu Kho bạc, trái
phiếu công trình, tín phiếu Kho bạc nhằm mục đích tìm vốn tài trợ cho những công tr ình lớn
thuộc cơ sở hạ tầng, phát triển sự nghiệp văn hoá giáo dục, y tế, hoặc bù đắp thiếu hụt Ngân
sách Nhà nước.
+ Chính quyền địa phương là chủ thể phát hành trái phiếu địa phương để vay
nợ nhằm huy động vốn phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
- Doanh nghiệp
Doanh nghiệp là chủ thể phát hành các cổ phiếu hoặc trái phiếu doanh nghiệp
để tìm vốn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Quỹ đầu tư
Quỹ đầu tư là những tổ chức đầu t ư chuyên nghiệp, được hình thành bằng vốn
góp của các nhà đầu tư để tiến hành đầu tư vào chứng khoán và các loại hình đầu tư khác.
Mục đích thành lập quỹ đầu tư là tập hợp và thu hút những nhà đầu tư nhỏ, lẻ tham gia kinh
doanh. Đặc trưng cơ bản nhất của Quỹ đầu tư là quỹ vừa đóng vai trò là tổ chức phát hành
bằng việc phát hành ra các chứng khoán như chứng chỉ quỹ đầu tư; vừa đóng vai trò là tổ
chức đầu tư, kinh doanh các loại chứng khoán.
5

1.4.2. Nhà đầu tư
Chủ thể đầu tư là những người có tiền, thực hiện việc mua và bán chứng khoán trên thị
trường chứng khoán để tìm kiếm lợi nhuận. Nhà đầu tư có thể chia thành 2 loại: nhà đầu tư cá
nhân và nhà đầu tư có tổ chức.
- Các nhà đầu tư cá nhân
Nhà đầu tư cá nhân là các cá nhân và hộ gia đình, những người có vốn nhàn rỗi
tạm thời, tham gia mua bán trên thị trường chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
Tuy nhiên, trong đầu tư thì lợi nhuận lại luôn gắn với rủi ro, kỳ vọng lợi nhuận càng cao thì
mức độ chấp nhận rủi ro phải càng lớn và ngược lại. Chính vì vậy các nhà đầu tư cá nhân luôn
phải lựa chọn các hình thức đầu t ư phù hợp với khả năng cũng như mức độ chấp nhận rủi ro
của mình.
- Các nhà đầu tư có tổ chức
Nhà đầu tư có tổ chức là các định chế đầu tư, thường xuyên mua bán chứng
khoán với số lượng lớn trên thị trường. Một số nhà đầu tư chuyên nghiệp chính trên thị trường
chứng khoán là các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán, công ty đầu t ư, các công t y
bảo hiểm, quỹ tương hỗ, các quỹ bảo hiểm x ã hội khác. Đầu t ư thông qua các t ổ chức đầu t ư
có ưu điểm là có thể đa dạng hoá danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư được thực hiện
bởi các chuyên gia có chuyên môn và có kinh nghiệm.
1.4.3. Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán
- Công ty chứng khoán:
Công ty chứng khoán là các công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn
hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán. Đó l à những tổ chức ki nh tế có tư cách pháp nhân, có
vốn riêng và hạch toán kinh tế độc lập. Tuỳ theo vốn điều lệ và đăng ký kinh doanh mà m ột
công ty có thể thực hiện một hoặc một số nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán: môi giới chứng
khoán, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư và lưu ký chứng
khoán.
- Các ngân hàng thương mại (NHTM).
Tại một số nước, các NHTM có thể sử dụng vốn tự có để tăng v à đa d ạng hoá
lợi nhuận thông qua đầu t ư vào các chứng khoán. Tuy nhiên, các ngân hàng chỉ được đầu tư
vào chứng khoán trong những giới hạn nhất định để bảo vệ ngân h àng trước những biến động

của giá chứng khoán. Một số nước cho phép ngân hàng thương mại thành lập công ty con độc
lập để kinh doanh chứng khoán và thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh.
1.4.4. Cơ quan quản lý và giám sát các hoạt động thị trường chứng khoán
Lịch sử hình thành và phát triển thị trường chứng khoán đã cho thấy, đầu tiên thị
trường chứng khoán hình thành một cách tự phát khi có sự xuất hiện của cổ phiếu, trái phiếu
và hầu như chưa có sự quản lý. Nhưng nhận thấy cần có sự bảo vệ lợi ích cho các nh à đầu tư
và đảm bảo sự hoạt động của thị trường được thông suốt, ổn định và an toàn, bản thân các nhà
kinh doanh chứng khoán và các quốc gia có thị trường chứng khoán hoạt động cho rằng cần
phải có cơ quan quản lý và giám sát về hoạt động phát hành và kinh doanh chứng khoán.
Cơ quan quản lý và giám sát thị trường chứng khoán được hình thành d ưới nhiều mô
hình tổ chức hoạt động khác nhau, có nước do các tổ chức tự quản thành lập, có nước cơ quan
này trực thuộc Chính phủ, nh ưng có nước lại có sự kết hợp quản lý giữa các tổ chức tự quản
và Nhà nước. Cơ quan quản lý Nhà nước về thị trường chứng khoán do Chính phủ của các
nước thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích của người đầu tư và bảo đảm cho thị trường chứng
khoán hoạt động lành mạnh, an toàn và phát triển bền vững.
1.4.5. Các tổ chức có liên quan
Ngoài các chủ thể trên, trên thị trường chứng khoán còn có các tổ chức quan trọng
khác có liên quan đến tổ chức và hoạt động của thị trường chứng khoán như Sở giao dịch
chứng khoán; Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán; Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ
chứng khoán; các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm.
6
- Sở giao dịch chứng khoán
Sở giao dịch chứng khoán thực hiện vận hành thị trường thông qua bộ máy tổ
chức bao gồm nhiều bộ phận khác nhau phục vụ cho các hoạt động giao dịch trên Sở giao
dịch. Ngoài ra, Sở giao dịch cũng ban hành những quy định điều chỉnh các hoạt động giao
dịch chứng khoán trên Sở, phù hợp với các quy định của luật pháp và Uỷ ban chứng khoán.
- Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là tổ chức của các công ty chứng
khoán và một số thành viên khác hoạt động trong ngành chứng khoán, được thành lập với
mục đích bảo vệ lợi ích cho các công ty chứng khoán nói riêng và cho toàn ngành chứng

khoán nói chung.
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán thường là một tổ chức tự quản, thực
hiện một số chức năng chính như sau:
+ Khuyến khích hoạt động đầu tư và kinh doanh chứng khoán.
+ Ban hành và thực hiện các quy tắc tự điều h ành trên cơ sở các quy định pháp
luật về chứng khoán.
+ Điều tra và giải quyết các tranh chấp giữa các thành viên.
+ Tiêu chuẩn hoá các nguyên tắc và thông lệ trong ngành chứng khoán.
+ Hợp tác với Chính phủ và các cơ quan khác để giải quyết các vấn đề có tác
động đến hoạt động kinh doanh chứng khoán.
- Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán
Là tổ chức nhận lưu giữ các chứng khoán và tiến hành các nghiệp vụ thanh
toán bù trừ cho các giao dịch chứng khoán.
- Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm
Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm là công ty chuyên cung c ấp dịch vụ đánh giá
năng lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và theo những điều khoản đã cam
kết của công ty phát hành đối với một đợt phát hành cụ thể. Các mức hệ số tín nhiệm vì thế
thường được gắn cho một đợt phát hành, chứ không phải cho công ty. Vì thế, một công ty
phát hành có thể mang nhiều mức hệ số tín nhiệm cho các phát hành nợ của nó.
Hệ số tín nhiệm được biểu hiện bằng các chữ cái hay chữ số, tuỳ theo quy định
của từng công ty xếp hạng. Ví dụ: theo hệ thống xếp hạng của Mooody’s sẽ có các hệ số tín
nhiệm được ký hiệu là Aaa, Aa1, Baa1, B1; theo hệ thống xếp hạng của S&P, có các mức xếp
hạng AAA, AA+, AA, AA-, A+, A
Các nhà đầu tư có thể dựa vào các hệ số tín nhiệm do các công ty đánh giá hệ
số tín nhiệm cung cấp để cân nhắc đưa ra quyết định đầu tư của mình.

Tiết 4, 5, 6:
1.5. Vai trò của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán là một định chế tài chính tất yếu của nền kinh tế thị trường
phát triển. Thị trường chứng khoán là chiếc cầu vô hình nối liền giữa cung và cầu vốn trong

nền kinh tế. Một thị trường chứng khoán lành mạnh và hoạt động có hiệu quả sẽ tạo điều kiện
khai thác tốt các tiềm năng của nền kinh tế, tạo sự lành mạnh trong việc thu hút và phân phối
vốn trong nền kinh tế một cách có hiệu quả nhất.
1.5.1. Thị trường chứng khoán góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng nền kinh
tế
Chức năng cơ bản của TTCK là công cụ huy động vốn đầu t ư cho nền kinh tế và tăng
tiết kiệm quốc gia thông qua việc phát h ành và luân chuyển chứng khoán có giá. Việc mua đi
bán lại chứng khoán trên TTCK đã tạo điều kiện di chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu
vốn, tạo điều kiện chuyển hướng đầu t ư từ ngành này sang ngành khác, từ đó góp phần điều
hoà vốn giữa các ngành kinh tế, phá vỡ “tính ỳ” của đầu tư trong sản xuất, tạo ra những động
7
năng cho sản xuất kinh doanh, góp phần tạo nên sự phát triển nhanh và đồng đều của nền kinh
tế.
Thị trường chứng khoán là một định chế rất cơ bản trong hệ thống thị trường tài chính,
là chất xúc tác quan trọng trong việc huy động vốn cho đầu tư phát triển và thúc đẩy các hoạt
động kinh tế.
1.5.2. Thị trường chứng khoán góp phần thực hiện tái phân phối công bằng h ơn, thông
qua việc buộc các công ty phát hành chứng khoán ra công chúng theo một tỷ lệ nhất
định.
Ví dụ: ở Việt Nam, các công ty phát hành chứng khoán ra công chúng với tỷ lệ 20%
đối với các doanh nghiệp có vốn d ưới 100 tỷ đồng. Còn đối với doanh nghiệp có số vốn trên
100 tỷ đồng thì tỷ lệ yêu cầu phát hành chứng khoán ra công chúng là 15%.
Điều này, một là: giải toả sự tập trung quyền lực kinh tế vào một nhóm nhỏ, song vẫn
tập trung vốn cho phát triển kinh tế, từ đó, tạo sự cạnh tranh công bằng hơn góp phần tăng
tính hiệu quả và thúc đẩy tăng trưởng cho nền kinh tế.
hai là: việc tăng cường tầng lớp trung lưu trong xã hội, tăng cường sự giám
sát của xã hội đối với hoạt động của công ty.
1.5.3. Thị trường chứng khoán tạo điều kiện thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước
ngoài.
Việc đầu tư vốn từ nước ngoài có thể thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau, trong

đó có đầu tư vốn thông qua thị tr ường chứng khoán. Đây là hình thức đầu tư dễ dàng và hữu
hiệu. Với nguyên tắc công khai, thị tr ường chứng khoán là nơi mà các nhà đầu tư có thể theo
dõi và nhận định một cách dễ dàng hoạt động của các ngành, các doanh nghiệp trong nước.
Hơn nữa, thị trường chứng khoán thu hút vốn thông qua mua bán chứng khoán, từ đó tạo môi
trường đầu tư thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài.
1.5.4. Thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho Chính phủ huy động các nguồn tài
chính mà không tạo áp lực về lạm phát, đồng thời tạo điều kiện cho Chính phủ thực hiện
các chính sách tài chính tiền tệ.
Khi Ngân sách thu không đủ bù chi, Chính phủ có thể bù đắp thâm hụt Ngân sách
bằng hai cách: phát hành tiền hoặc đi vay nợ. Trước đây, Chính phủ ta đã phát hành tiền để bù
đắp thiếu hụt Ngân sách, và đã gây nên áp lực lạm phát rất lớn, gây ảnh hưởng xấu đến nền
kinh tế. Nhưng trong vài năm gần đây, Chính phủ có thể phát hành trái phiếu Chính phủ để
tạo ra nguồn thu b ù đắp Ngân sách mà vẫn quản lý được lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng
có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động v ào thị trường chứng khoán nhằm định
hướng đầu tư cho sự phát triển cân đối nền kinh tế.
Trên thực tế, khi chưa có thị trường chứng khoán thì Chính phủ vẫn phát hành các loại
trái phiếu Chính phủ để huy động vốn, nhưng phần lớn đó là các trái phiếu ngắn hạn nhằm
đáp ứng các khoản chi Ngân sách trong năm tài khoá. Còn đối với các trái phiếu dài hạn thì
rất khó phát hành, vì không có thị trường chuyển nhượng cho các trái phiếu, nên rất khó khăn
trong việc chuyển đổi từ trái phiếu ra tiền. Vì vậy, khi thị trường chứng khoán ra đời, bản thân
nó không những tạo ra tính thanh khoản và tính khả mại (tính dễ mua bán) của các chứng
khoán, mà còn tạo ra tính linh hoạt trong việc chuyển h ướng đầu tư từ lĩnh vực này sang lĩnh
vực khác. Vì vậy, thị trường chứng khoán được xem là công cụ đắc lực tro ng việc huy động
các nguồn vốn dài hạn.
1.5.5. Thị trường chứng khoán là công cụ đánh giá hoạt động kinh doanh và là phong
vũ biểu của nền kinh tế.
Thị trường chứng khoán phản ánh tình trạng của các doanh nghiệp v à của cả nền kinh
tế Quốc gia. Các thị giá chứng khoán được thể hiện thường xuyên trên thị trường đã phản ánh
giá trị phần tài sản Có của doanh nghiệp trên cơ sở đánh giá thực trạng của doanh nghiệp,
mức độ đầu tư, trạng thái kinh tế. Chỉ có những doanh nghiệp làm ăn mạnh, có hiệu quả cao,

8
hứa hẹn triển vọng tương lai tốt thì giá trị thị trường của chứng khoán công ty mới cao và
ngược lại.
Ngoài sự đánh giá các doanh nghiệp, thị trường chứng khoán còn là phong vũ biểu của
nền kinh tế, giúp những người đầu tư và những người quản lý có cơ sở đánh giá thực trạng và
dự đoán tương lai của nền kinh tế. Diễn biến của thị giá chứng khoán và khái quát hơn là chỉ
số chứng khoán đã phản ánh thông tin đa dạng và nhiều chiều cho người đầu tư trước diễn
biến của các rủi ro. Thị tr ường chứng khoán còn phản ứng rất nhạy cảm tr ước các chính sách
kinh tế vĩ mô, các biến động của nền kinh tế. Vì vậy, các nhà hoạch định chính sách và quản
lý thường thông qua thị tr ường chứng khoán để phân tích, dự đoán, đề ra các chính sách điều
tiết kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế thích hợp, qua đó tác động tới các hoạt động của
nền kinh tế quốc dân.
Ngoài những tác động tích cực trên đây, thị trường chứng khoán cũng có những tác
động tiêu cực sau:
- Thị trường chứng khoán luôn chứa đựng yếu tố đầu cơ.
Đầu cơ là một yếu tố có tính toán của những người đầu tư. Họ có thể mua
chứng khoán với hy vọng là giá chứng khoán sẽ tăng lên trong tương lai, và qua đó thu đ ược
lợi nhuận. Yếu tố đầu c ơ dễ gây ảnh hưởng dây chuyền làm cho cổ phiếu có thể tăng giá giả
tạo. Sự kiện này càng dễ xảy ra khi có nhiều người cùng cấu kết với nhau để đồng thời mua
vào hay bán ra một loại chứng khoán nào đó, dẫn đến sự khan hiếm hay dư thừa chứng khoán
một cách giả tạo trên thị trường, làm cho giá chứng khoán có thể tăng lên hay giảm xuống
một cách đột biến, gây tác động xấu đến thị trường.
- Hoạt động giao dịch nội gián thường xảy ra trên thị trường chứng khoán.
Một cá nhân nào đó lợi dụng việc nắm bắt những thông tin nội bộ của doanh
nghiệp, cũng như các thông tin mật không được hoặc chưa được phép công bố và sử dụng các
thông tin đó cho giao d ịch chứng khoán nhằm thu lợi bất chính gọi là giao dịch nội gián. Các
giao dịch nội gián được xem là phi đạo đức về mặt thương mại, vì người có nguồn tin nội gián
sẽ có lợi thế trong đầu tư so với các nhà đầu tư khác để thu lợi bất chính cho riêng mình. Điều
này sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư. Như vậy sẽ tác động tiêu cực tới tích luỹ và đầu tư.
- Thị trường chứng khoán hoạt động trên cơ sở thông tin hoàn hảo. Song khi có

tin đồn không chính xác hoặc thông tin lệch lạc về hoạt động của một doanh nghiệp, điều n ày
gây tác động đến tâm lý của những người đầu tư, dẫn tới thay đổi xu hướng đầu tư, ảnh hưởng
đến thị giá chứng khoán của doanh nghiệp trên thị trường và gây thiệt hại cho đại đa số người
đầu tư.
Như vậy, vai trò của thị trường chứng khoán được thực hiện trên nhiều khía cạnh khác
nhau. Song vai trò tích c ực hay tiêu cực của thị tr ường chứng khoán thực sự phát huy hay bị
hạn chế phụ thuộc đáng kể vào các chủ thể tham gia trên thị trường.
1.6. Giới thiệu một số thị trường chứng khoán trên thế giới
1.6.1. Thị trường chứng khoán Mỹ
TTCK Mỹ hiện nay là một thị trường quan trọng bậc nhất trên thế giới nếu xét trên
tổng thể khối lượng tư bản giao dịch và sự ảnh hưởng to lớn của nó đối với các thị trường
chứng khoán khác.
- Thị trường chứng khoán Mỹ được thành lập vào năm 1792, Sở giao dịch chứng
khoán New York (NYSE) là sở giao dịch chứng khoán (SGDCK) lớn nhất và lâu đời nhất
nước Mỹ, đây hiện là trung tâm giao dịch chứng khoán lớn nhất thế giới, quản lý tới hơn 80%
các giao dịch chứng khoán của Mỹ và kể từ năm 1962 đã trở thành thị trường chứng khoán
quốc gia.
- Sở giao dịch chứng khoán Mỹ (American Stock Exchưange - AMEX) là thị
trường chứng khoán tập trung lớn thứ 2 ở Mỹ.
9
- Bên cạnh các thị trường chứng khoán tập trung là các SGDCK gồm 14 sở giao
dịch khác nhau, tại Mỹ còn có thị trường chứng khoán phi tập trung (thị trường OTC) rất phát
triển, đó là Nasdaq.
Thị trường OTC qua mạng máy tính Nasdaq được thành lập từ năm 1971 là thị
trường có số lượng chứng khoán giao dịch lớn nhất ở Mỹ với 15000 chứng khoán. Chứng
khoán giao dịch trên thị trường này chiếm đa số là của các công ty thuộc ngành Công nghệ
thông tin, các công ty vừa và nhỏ.
1.6.2. Thị trường chứng khoán Nhật bản
Thị trường chứng khoán Nhật bản đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút vốn dài
hạn cho Chính phủ v à các công ty. Nói đ ến thị trường chứng khoán Nhật bản, trước hết phải

kể đến SGDCK Tokyo (TSE).
SGDCK Tokyo hình thành vào cuối năm 1878. Đây là SGDCK ra đời sớm nhất, là thị
trường lớn nhất tại Nhật bản về số l ượng chứng khoán lưu hành cũng như về doanh thu, đứng
thứ 2 về doanh số bán, chỉ sau NYSE.
Bên cạnh các SGDCK (Nhật bản có 8 SGDCK), còn có các thị trường chứng khoán
phi tập trung, tiêu biểu là thị trường Jasdaq và J-net.
+ Thị trường Jasdaq, hoạt động từ năm 1991 trên cơ sở phát triển thị trường OTC
truyền thống hoạt động từ tháng 2/1963 do Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán Nhật
bản quản lý.
+ Thị trường T-net được đưa vào hoạt động từ tháng 5 năm 2000, chịu sự quản lý
trực tiếp của SGDCK Osaka (OSE).
1.6.3. Thị trường chứng khoán Thái Lan
TTCK Thái Lan là một trong những thị trường chứng khoán phát triển nhanh nhất ở
khu vực Châu á. TTCK Thái Lan ban đầu được các công ty tư nhân thành lập vào tháng
7/1962. Đến năm 1970 thị trường này phải đóng cửa vì ít người tham gia và thiếu sự hỗ trợ
của Nhà nước. Tháng 2/1974 Luật SGDCK ra đời và SGDCK được mở cửa trở lại vào năm
1975. Kể từ năm 1986, SGDCK Thái Lan phát triển mạnh và đạt hiệu quả cao.
Thị trường chứng khoán Thái Lan cũng l à nơi điển hình của việc sử dụng hệ thống vi
tính hoàn toàn tự động. Với hệ thống giao dịch tự động này, SGDCK Thái Lan cho phép các
công ty chứng khoán thông qua hệ thống máy vi tính thực hiện các giao dịch ngay tại văn
phòng của họ mà không cần trực tiếp đến Sở.
1.7. Thị trường chứng khoán Việt Nam
Sự ra đời thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa vào vận
hành Trung tâm Giao dịch Chứng khoán (TTGDCK) tại thành phố Hồ Chí Minh ngày
20/10/2000, và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/7/2000.
Các chủ thể tham gia trên TTCK Việt Nam:
- Uỷ ban chứng khoán Nhà nước (UBCKNN)
UBCKNN được thành lập theo Nghị định số 75/CP ngày 28/1/1996 của Chính
phủ. Đây là cơ quan trực thuộc Chính phủ, thực hiện chức năng tổ chức v à quản lý Nhà nước
về chứng khoán và thị trường chứng khoán: quản lý việc cấp phép, đăng ký phát hành và kinh

doanh chứng khoán, tổ chức công tác thanh tra, giám sát hoạt động giao dịch, mua bán chứng
khoán, … để đảm bảo thị trường hoạt động ổn định, công bằng và minh bạch.
- Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh
Theo Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ về
việc thành lập TTGDCK, Quyết định 128/1998/QĐ-UBCK, ngày 1/8/1998 của chủ tịch
UBCKNN thì TTGDCK là đơn vị sự nghiệp có thu trực thuộc UBCKNN có tư cách pháp
nhân, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng. TTGDCK TPHCM thực hiện các chức năng: tổ
chức, quản lý điều hành việc mua bán chứng khoán; quản lý điều hành hệ thống giao dịch
chứng khoán và cung cấp các dịch vụ hổ trợ việc mua bán chứng khoán, dịch vụ lưu ký chứng
khoán; đăng ký chứng khoán, thanh toán bù trừ đối với các giao dịch chứng khoán; công bố
10
thông tin về hoạt động giao dịch chứng khoán; kiểm tra giám sát các hoạt động giao dịch
chứng khoán và một số nhiệm vụ khác.
- Các công ty chứng khoán
Theo Quyết định số 04/1998/QĐ -UBCK, ngày 13/10/1998 của UBCKNN, các
công ty chứng khoán được thành lập dưới hình thức pháp lý là công ty cổ phần hoặc các công
ty trách nhiệm hữu hạn. Đó là những tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, có vốn riêng và
hạch toán kinh tế độc lập. Tuỳ theo vốn điều lệ v à đăng ký kinh doanh mà một công ty có thể
thực hiện một hoặc một số nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán: môi giới chứng khoán, tự
doanh, quản lý danh mục đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư và lưu ký chứng khoán.
- Các tổ chức phát hành chứng khoán
Theo các văn bản pháp lý hiện hành, các tổ chức được phép phát hành chứng
khoán ở Việt Nam bao gồm:
+ Chính phủ: phát hành tín phiếu Kho bạc, trái phiếu Kho bạc và trái phiếu đầu
tư.
+ Chính quyền địa phương: phát hành trái phiếu để tài trợ cho các dự án và các
nhu cầu chi tiêu của chính quyền địa phương.
+ Các công ty cổ phần: phát hành cổ phiếu (cổ phiếu phổ thông, cổ phiếu ưu
đãi biểu quyết, cổ phiếu ưu đãi cổ tức và cổ phiếu ưu đãi hoàn lại) và trái phiếu doanh nghiệp.
+ Các DNNN: phát hành trái phiếu doanh nghiệp.

+ Các quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ: phát hành chứng chỉ
quỹ đầu tư.
Tuy nhiên, trên thực tế tham gia phát hành chứng khoán trong thời gian qua
chủ yếu là Chính phủ, các NHTMQD, một số DNNN và các DNNN khi tiến hành cổ phần
hoá.
- Các nhà đầu tư chứng khoán
Theo các văn bản pháp luật hiện hành, các nhà đầu tư trên thị trường chứng
khoán Việt Nam bao gồm: cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức, các quỹ đầu tư, các doanh
nghiệp, các công ty bảo hiểm…
- Các tổ chức phụ trợ khác
Ngoài các thành viên nêu trên, tham gia th ị trường chứng khoán Việt Nam còn có các
tổ chức phụ trợ khác như: các tổ chức lưu ký, thanh toán bù tr ừ, các tổ chức kiểm toán… đủ
điều kiện được UBCKNN cấp giấy phép hoạt động lưu ký chứng khoán.
Hiện nay, Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam được chọn là ngân hàng chỉ định
thanh toán.

Tóm tắt chương:
Sự ra đời của thị trường chứng khoán:
Vào khoảng thế kỷ XV, ở các nước phương Tây, các thương gia thường tụ tập trao
đổi, giao dịch. Các cuộc trao đổi chỉ diễn ra bằng lời nói, không có giấy tờ hay hàng hoá. Cuối
thế kỷ XV, một khu chợ riêng được hình thành để các thương gia tụ họp trao đổi, mua bán. Từ
đó, các quy tắc giao dịch dần dần xuất hiện. Năm 1453, tại Bruges (V ương Quốc Bỉ), ở quán
của gia đình Vander, các thương gia tụ họp để trao đổi, giao dịch hàng hoá thông thường,
ngoại tệ và chứng khoán. Năm 1947, địa điểm giao dịch được chuyển đến thị trấn Anbert (Bỉ).
Tại đây, thị trường giao dịch đã phát triển rất mạnh mẽ. Các thị trường như vậy cũng được
thành lập ở Anh, Pháp, Đức, Mỹ. Do tốc độ phát triển nhanh, thị trường giao dịch các loại
hàng hoá được tách ra: Thị trường hàng hoá, Thị trường hối đoái, Thị trường chứng khoán.
Như vậy, thị trường chứng khoán được hình thành cùng với thị trường hàng hoá và thị trường
hối đoái.
Khái niệm thị trường chứng khoán: Có nhiều khái niệm. Tuy nhiên, quan niệm đầy đủ và

rõ ràng, phù hợp với sự phát triển chung của thị tr ường chứng khoán hiện nay là: Thị trường
11
chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán. Chứng
khoán được hiểu là các giấy tờ có giá, xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu
đối với nhà phát hành.
Phân loại thị trường chứng khoán:
- Phân loại theo hàng hoá của thị trường chứng khoán:
+ Thị trường trái phiếu
+ Thị trường cổ phiếu
+ Thị trường các công cụ phái sinh
- Phân loại theo quá trình luân chuyển vốn
+ Thị trường sơ cấp (thị trường cấp 1)
+ Thị trường thứ cấp (thị trường cấp 2)
- Phân loại theo hình thức tổ chức của thị trường
+ Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK)
+ Thị trường chứng khoán phi tập trung
+ Thị trường tự do
Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán
- Chủ thể phát hành: Chính phủ, các doanh nghiệp và một số tổ chức khác như: Quỹ
đầu tư.
- Nhà đầu tư:
+ Các nhà đầu tư cá nhân.
+ Các nhà đầu tư có tổ chức.
- Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán:
+ Công ty chứng khoán
+ Các ngân hàng thương mại
- Cơ quan quản lý và giám sát các ho ạt động thị trường chứng khoán: hoạt động nhằm
mục đích bảo vệ lợi ích cho các nhà đầu tư và đảm bảo sự hoạt động của thị trường được
thông suốt, ổn định và an toàn.
- Các tổ chức có liên quan:

+ Sở giao dịch chứng khoán.
+ Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
+ Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán
+ Các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm.
Vai trò của thị trường chứng khoán
- Thị trường chứng khoán góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng nền kinh tế.
- Thị trường chứng khoán góp phần thực hiện tái phân phối công bằng hơn, thông qua
việc buộc các công ty phát hành chứng khoán ra công chúng theo một tỷ lệ nhất định.
- Thị trường chứng khoán tạo điều kiện thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài.
- Thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho Chính phủ huy động các nguồn tài chính mà
không tạo áp lực về lạm phát, đồng thời tạo điều kiện cho Chính phủ thực hiện các chính sách
tài chính tiền tệ.
- Thị trường chứng khoán là công cụ đánh giá hoạt động kinh doanh và là phong vũ
biểu của nền kinh tế.
Tác động tiêu cực của thị trường chứng khoán:
- Yếu tố đầu cơ.
- Hiện tượng giao dịch nội gián.
- Hiện tượng phao tin đồn sai sự thật về giá của một loại chứng khoán hay hoạt động
cuả doanh nghiệp.
Câu hỏi ôn tập
1. Phân tích cấu trúc của thị trường chứng khoán?
12
2. Vai trò của thị trường chứng khoán? Phân tích cơ sở khoa học của việc hình thành Thị
trường chứng khoán Việt Nam hiện nay.
3. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán? Liên hệ với thực tiễn Thị trường chứng
khoán Việt Nam.
* * *
Chương 2 : Chứng từ kế toán và kiểm kê
(5 tiết)
Mục tiêu học tập của chương

Học xong chương này, sinh viên phải nắm được :
1. Sơ lược lịch sử phát triển và bản chất chứng từ kế toán, ý nghĩa, tác dụng của chứng từ kế
toán.
2. Hiểu rõ khái niệm, nội dung bản chứng từ và hệ thống bản chứng từ kế toán theo Chế độ
kế toán doanh nghiệp Việt Nam.
3. Nắm được qui trình luân chuyển chứng từ kế toán trong một đơn vị kế toán.
4. Hiểu được khái niệm, phương pháp tiến hành kiểm kê tài sản trong đơn vị.
5. Biết lập, kiểm tra và sử dụng một số loại chứng từ kế toán thường gặp để ghi sổ kế toán.
2.1. Khái niệm chứng từ kế toán
2.1.1. Sơ lược lịch sử hình thành của chứng từ kế toán
Chứng từ kế toán ra đời là kết quả của quá trình phát triển của kế toán. Tuy nhiên vào
thời kỳ La Mã cổ đại đến cuối thế kỷ 19, trong luật thương mại của các nước vẫn chưa thấy
xuất hiện khái niệm chứng từ kế toán. Ngay cả ở Ý, nơi phát sinh ra kế toán kép, nhưng trong
tác phẩm của Luca Paciolo cũng không đề cập đến khái niệm này, mà dường như khái niệm
chứng từ kế toán được pha trộn trong khái niệm về sổ sách kế toán. Theo Nguyễn Việt & Võ
Văn Nhị (2006), I.F. Ser, Thuỵ Sĩ, S.M. Baras, Nga, Pali chính là những nhà nghiên cứu đầu
tiên nhận thức được sự khác nhau giữa chứng từ và sổ sách kế toán. Điều này được đề cập
trong tác phẩm của ông mang tựa đề « Kế toán và cân đối » theo đó chứng từ là cơ sở của kế
toán, về thực chất việc ghi sổ sách bao gồm việc xử lý chứng từ theo thời gian và theo hệ
thống. Chứng từ chính là tài liệu để ghi chép sổ sách kế toán, là bằng cớ chứng minh trong kế
toán. Chính sự phức tạp của các mối quan hệ kinh tế, sự mở rộng của doanh nghiệp, sự phát
triển của các hình thức và kỹ thuật đo lường, tính toán, ghi chép đã phân chia thành chứng từ
và sổ sách kế toán.
Trên thực tế, mọi số liệu ghi chép vào các loại sổ sách kế toán khác nhau cần có cơ sở
bảo đảm tính pháp lý, những số liệu đó cần phải có sự xác minh tính hợp pháp, hợp lệ thông
qua các hình thức được nhà nước qui định cụ thể hoặc có tính chất bắt buộc hoặc có tính chất
hướng dẫn. Các hình thức này chính là các loại chứng từ được các đơn vị sử dụng trong hoạt
động của mình.
2.1.2. Chứng từ kế toán là gì?
Theo tiếng Latinh, chứng từ là Documentum, có nghĩa là bằng cớ, chứng minh. Điều

này cho chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng bản thân tên gọi của chứng từ đã nói lên bản chất
của nó.
Về khái niệm chứng từ kế toán, nhiều tác giả khác nhau đã tiếp cận trên những góc độ
và phương diện khác nhau.
Trên phương diện pháp lý, chứng từ là dấu hiệu vật chất bất kỳ chứng minh các quan
hệ pháp lý và các sự kiện. Nó là bản văn tự chứng minh về sự tồn tại của một sự kiện nào đó
66
mà các hậu quả pháp lý cũng gắn liền với nó. Chứng từ kế toán chính là những bằng chứng
bằng giấy tờ về nghiệp vụ kinh tế tài chính đã xảy ra và thực sự đã hoàn thành. Chứng từ là
căn cứ pháp lý để kiểm tra việc chấp hành mệnh lệnh sản xuất, chính sách, chế độ quản lý
kinh tế, tài chính cũng như kiểm tra kế toán.
Trên phương diện thông tin, chứng từ là đối tượng vật chất chứa đựng thông tin dưới
dạng cố định và có mục đích chuyên môn để mô tả nó trong thời gian và không gian. Nó là
công cụ vật chất được sử dụng trong quá trình giao tiếp mà trong đó con người nhờ các
phương tiện và hình thức khác nhau để thể hiện và mã hoá thông tin cố định theo một hình
thức hợp lý. Chứng từ là biểu hiện của phương pháp chứng từ - một phương tiện chứng minh
và thông tin về sự hình thành của các nghiệp vụ kinh tế, là căn cứ để ghi sổ nhằm cung cấp
thông tin kịp thời và nhanh chóng cho lãnh đạo nghiệp vụ làm cơ sở cho việc phân loại và
tổng hợp kế toán.
Căn cứ điều 4, khoản 7 Luật kế toán "Chứng từ kế toán là những giấy tờ và vật mang
tin phản ánh nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh và đã hoàn thành, làm căn cứ ghi sổ kế
toán".
Như vậy, thực chất của chứng từ kế toán là những giấy tờ được in sẵn theo mẫu qui
định, chúng được dùng để ghi chép những nội dung vốn có của các nghiệp vụ kinh tế phát
sinh và đã hoàn thành trong quá trình hoạt động của đơn vị, gây ra sự biến động đối với các
loại tài sản, các loại nguồn vốn cũng như các đối tượng kế toán khác. Ngoài ra, chứng từ còn
có thể là các băng từ, đĩa từ, thẻ thanh toán.
Trong quá trình hoạt động của các đơn vị, các nghiệp vụ kinh tế phát sinh và hoàn
thành một cách thường xuyên, do vậy việc lập chứng từ làm cơ sở chứng minh trạng thái và
sự biến động của các loại tài sản, các loại nguồn vốn, chi phí hoặc doanh thu cũng mang tính

chất thường xuyên và là một yêu cầu cần thiết khách quan.
Lập chứng từ là một phương pháp kế toán được dùng để phản ánh các nghiệp vụ kinh
tế phát sinh và đã thực sự hoàn thành trên giấy tờ hoặc vật mang tin theo qui định theo thời
gian, địa điểm phát sinh cụ thể của từng nghiệp vụ.
Lập chứng từ là bước công việc đầu tiên trong toàn bộ qui trình kế toán của mọi đơn vị
kế toán. Nó ảnh hưởng trực tiếp và đầu tiên đến chất lượng của công tác kế toán. Vì vậy khi
lập chứng từ cần phải đảm bảo yêu cầu chính xác và kịp thời đồng thời phải đảm bảo về mặt
nội dung bắt buộc.
Khái niệm chứng từ điện tử
Theo điều 17 và 18 Luật kế toán Việt nam Chứng từ điện tử được coi là chứng từ kế
toán khi nó đáp ứng đầy đủ 7 nội dung theo qui định tại điều 17 và được thể hiện dưới dạng
dữ liệu điện tử, được mã hoá mà không bị thay đổi trong quá trình truyền qua mạng hoặc trên
vật mang tin như băng, đĩa từ, các loại thẻ thanh toán.
Dịch chứng từ bằng tiếng nước ngoài
Các chứng từ kế toán ghi bằng tiếng nước ngoài, khi sử dụng để ghi sổ kế toán ở Việt
Nam phải được dịch ra tiếng Việt. Những chứng từ ít phát sinh hoặc nhiều lần phát sinh
nhưng có nội dung không giống nhau thì phải dịch toàn bộ nội dung chứng từ kế toán. Những
chứng từ phát sinh nhiều lần, có nội dung giống nhau thì bản đầu phải dịch toàn bộ, từ bản thứ
hai trở đi chỉ dịch những nội dung chủ yếu như: Tên chứng từ, tên đơn vị và cá nhân lập, tên
đơn vị và cá nhân nhận, nội dung kinh tế của chứng từ, chức danh của người ký trên chứng
67
từ Người dịch phải ký, ghi rõ họ tên và chịu trách nhiệm về nội dung dịch ra tiếng Việt. Bản
chứng từ dịch ra tiếng Việt phải đính kèm với bản chính bằng tiếng nước ngoài.
2.1.3. Nội dung bắt buộc của chứng từ
Trong mỗi đơn vị kế toán thường xuyên phát sinh rất nhiều nghiệp vụ kinh tế mà để
chứng minh cho sự hoàn thành của các nghiệp vụ này và có căn cứ pháp lý để ghi sổ kế toán
cần thiết phải có rất nhiều loại chứng từ. Trên thực tế, mặc dù chứng từ gốc trong một đơn vị
rất đa dạng với kết cấu và công dụng khác nhau, nhưng để đảm bảo là một bằng chứng pháp
lý về sự hoàn thành của các nghiệp vụ kinh tế và là căn cứ ghi sổ kế toán thì chứng từ cần
phải chứa đựng 7 nội dung chủ yếu bắt buộc sau đây: (Theo điều 17 Luật kế toán)

1. Tên gọi và số hiệu của chứng từ kế toán.
2. Ngày, tháng, năm lập chứng từ.
3. Tên, địa chỉ của đơn vị hoặc cá nhân lập chứng từ kế toán.
4. Tên, địa chỉ của đơn vị hoặc cá nhân nhận chứng từ kế toán.
5. Nội dung nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh.
6. Số lượng, đơn giá và số tiền của nghiệp vụ kinh tế, tài chính ghi bằng số; tổng số
tiền của chứng từ kế toán dùng để thu, chi tiền ghi bằng số và bằng chữ.
7. Chữ ký, họ và tên của người lập, người duyệt và những người có liên quan đến
chứng từ.
Ngoài 7 nội dung chủ yếu của chứng từ kế toán nêu trên, chứng từ kế toán có thể có
thêm những nội dung khác theo từng loại chứng từ.
Dưới đây chúng tôi giới thiệu ba mẫu chứng từ thường gặp như Phiếu thu, Phiếu nhập
kho, Hoá đơn GTGT.
Mẫu Phiếu thu
Đơn vị:
Địa chỉ:
Số đăng ký doanh nghiệp (môn bài) Quyển số:
Telefax: PHIẾU THU Số:
Ngày tháng năm 200
Nợ…………………
Có:
Họ và tên người nộp tiền:
Địa chỉ:
Lý do nộp:……………………………………………………………………………………….
Số tiền (
*
):……………………………………………………………………………………….
Kèm theo:……………………………………………………………………… Chứng từ gốc
Kế toán trưởng Người lập phiếu
(Ký, họ tên) (Ký, họ tên)

Đã nhận đủ số tiền (viết bằng chữ)……………………………………………………………
Ngày…… tháng……năm 200….
Thủ quỹ
(Ký, họ tên)
+ Tỷ giá ngoại tệ (vàng, bạc, đá quý)
+ Số tiền quy đổi:
68
Mẫu Phiếu nhập kho
Đơn vị:
Địa chỉ: Số:
PHIẾU NHẬP KHO
Ngày tháng năm
Nợ:
Có:
Họ và tên người giao hàng:
Theo số ngày … tháng …năm……………
của
Nhập tại kho:
STT Tên, nhãn hiệu, qui
cách, phẩm chất vật
tư sản phẩm, hàng
hoá
Mã số Đơn vị
tính
Số lượng Đơn giá Thành tiền
Cộng
Người nhận hàng Người lập phiếu Thủ kho Thủ trưởng đơn vị
(Ký, họ tên) (Ký, họ tên) (Ký, họ tên) (Ký, họ tên)
Mẫu Hoá đơn Giá trị gia tăng
HOÁ ĐƠN Mẫu số: 01GTKT-3LL

GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ký hiệu: AA/02
Liên 1 (Lưu) Số: 0000001
Ngày tháng năm 200
Đơn vị bán hàng
Địa chỉ: Số tài khoản:
Điện thoại: MS:     
Họ tên người mua hàng
Tên đơn vị:
Địa chỉ Số tài khoản
Hình thức thanh toán MS:
STT Tên hàng hoá, dịch vụ Đơn vị tính Số lượng Đơn giá Thành tiền
A B C 1 2 3=1x2
Cộng tiền hàng:
Thuế suất GTGT: % Tiền thuế GTGT:
Tổng cộng tiền thanh toán:
Số tiền bằng chữ:
Người mua hàng Người bán hàng Thủ trưởng đơn vị
69
(Ký, ghi rõ họ, tên) (Ký, ghi rõ họ, tên) (Ký, đóng dấu, ghi rõ họ, tên)
Với mẫu Hoá đơn GTGT trên đây, cần lưu ý một số điểm sau:
Thứ nhất, về chi tiết "Mẫu số: 01GTKT-3L-01" đối với hoá đơn tự in, đuôi 01 chỉ số
lượng mẫu hoá đơn tự in mà tổ chức, cá nhân đang sử dụng. Chẳng hạn đơn vị đăng ký 5 loại
hoá đơn tự in GTKT thì ký hiệu là "Mẫu số: 01GTKT-3L-01 (02,03,04,05)". (Phương Nam.
2003).
Thứ hai, về số liên của hoá đơn. Thông thường hoá đơn GTGT phát hành 3 liên, trong
đó Liên 1 để lưu, Liên 2 để giao cho khách hàng và Liên 3 để luân chuyển nội bộ.
2.1.4. Ý nghĩa, tác dụng và tính chất pháp lý của chứng từ
Ý nghĩa của chứng từ
Chứng từ có ý nghĩa quan trọng trong việc tổ chức công tác kế toán, kiểm soát nội bộ
bởi vì nó chứng minh tính pháp lý của các nghiệp vụ và của số liệu ghi chép trên sổ kế toán.

Tác dụng của chứng từ
Tác dụng của chứng từ được thể hiện dưới như sau:
Thứ nhất, việc lập chứng từ kế toán giúp thực hiện kế toán ban đầu. Nó là khởi điểm
của tổ chức công tác kế toán và xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị. Nếu thiếu
chứng từ sẽ không thể thực hiện được kế toán ban đầu cũng như toàn bộ công tác kế toán.
Thứ hai, việc lập chứng từ kế toán là để ghi nhận nghiệp vụ kinh tế tài chính đã phát
sinh và đã hoàn thành. Điều này đảm bảo tính hợp lệ và hợp pháp của nghiệp vụ.
Thứ ba, việc lập chứng từ kế toán là để tạo ra căn cứ để kế toán ghi sổ nghiệp vụ phát
sinh.
Thứ tư, việc lập chứng từ kế toán là để ghi nhận đơn vị, cá nhân chịu trách nhiệm
trước pháp luật về nghiệp vụ phát sinh.
Tính chất pháp lý của chứng từ
Tính chất pháp lý của chứng từ thể hiện:
Thứ nhất, chứng từ kế toán là căn cứ pháp lý chứng minh cho số liệu kế toán thể hiện
trên các tài liệu kế toán.
Thứ hai, chứng từ kế toán là căn cứ cho công tác kiểm tra việc thi hành mệnh lệnh sản
xuất kinh doanh, tính hợp pháp của nghiệp vụ, phát hiện các vi phạm, các hành vi lãng phí tài
sản của đơn vị.
Thứ ba, chứng từ kế toán là căn cứ để cơ quan tư pháp giải quyết các vụ tranh chấp,
khiếu nại, khiếu tố.
Thứ tư, chứng từ kế toán là căn cứ cho việc kiểm tra tình high thực hiện nghĩa vụ thuế
đối với Nhà nước của đơn vị.
Thứ năm, chứng từ kế toán là căn cứ xác định trách nhiệm về nghiệp vụ phát sinh của
các cá nhân, đơn vị.
2.1.5. Phân loại chứng từ
Chứng từ là bằng chứng, là bản “photo”, là “dấu vết” để lại sau khi các nghiệp vụ kinh
tế tài chính phát sinh trong đơn vị và đã hoàn thành. Trong mỗi đơn vị có rất nhiều nghiệp vụ
phát sinh một cách thường xuyên, do vậy để có thể “chụp” lại tất cả các nghiệp vụ kinh tế tài
chính phát sinh, trong các đơn vị khác nhau cần thiết phải sử dụng các loại chứng từ khác
70

nhau. Có thể nói, chứng từ rất phong phú và có nhiều loại. Tuy nhiên người ta có thể căn cứ
vào một số tiêu thức để phân loại các chứng từ thành các nhóm khác nhau, mỗi nhóm sẽ bao
gồm các chứng từ có cùng một đặc tính chung nào đó. Chẳng hạn như có thể phân loại theo
vật mang tin, theo công dụng hay tính chất pháp lý của chứng từ hoặc theo nội dung kinh tế
của nó.
Trước hết, theo vật mang tin, chứng từ có thể phân biệt thành hai loại: chứng từ bằng
giấy và chứng từ điện tử. Chứng từ bằng giấy là những chứng từ mà các nội dung của nó
được lưu giữ trên vật liệu làm bằng giấy. Trong khi đối với chứng từ điện tử, thông tin được
mã hoá và lưu giữ trên vật mang tin như băng, đĩa từ, các loại thẻ thanh toán.
Theo công dụng, chứng từ có thể phân loại thành chứng từ gốc và chứng từ ghi sổ.
Chứng từ gốc là một khái rất quan trọng mà mỗi học viên cần hiểu rõ và nhận biết
chúng. Chứng từ gốc là chứng từ được lập trực tiếp ngay khi nghiệp vụ kinh tế phát sinh, là
chứng từ có giá trị pháp lý quan trọng nhất. Ví dụ như Hoá đơn GTGT, Phiếu nhập kho, Phiếu
thu v.v. Chứng từ gốc được chia thành hai loại nhỏ là chứng từ mệnh lênh và chứng từ chấp
hành, trong đó chứng từ mệnh lệnh là chứng từ dùng để truyền đạt các lệnh sản xuất, kinh
doanh hoặc công tác nhất định như lệnh xuất kho, lệnh chi v.v. Chứng từ mệnh lệnh không
được dùng làm căn cứ ghi sổ kế toán. Trong khi chứng từ chấp hành là chứng từ dùng để ghi
nhận các lệnh sản xuất kinh doanh đã được thực hiện và là căn cứ để ghi sổ kế toán như Phiếu
thu, Phiếu chi v.v. Các chứng từ gốc có thể do đơn vị tự lập hoặc thu nhận từ bên ngoài. Ví
dụ như Phiếu xuất kho là do đơn vị tự lập, Hoá đơn GTGT mà đơn vị nhận được từ người
cung ứng vật tư là thu nhận từ bên ngoài.
Khác với chứng từ gốc, chứng từ ghi sổ là những chứng từ dùng để tập hợp số liệu của
các chứng từ gốc cùng loại, cùng nội dung nghiệp vụ để trên cơ sở đó kế toán ghi chép số liệu
vào sổ kế toán. Chứng từ ghi sổ không có giá trị pháp lý như chứng từ gốc. Nó chỉ có giá trị
khi có các chứng từ gốc liên quan đi kèm.
Dưới đây là Mẫu chứng từ ghi sổ.
CHỨNG TỪ GHI SỔ
Số: …………….
Ngày …… tháng…… năm 200……
Trích yếu Tài khoản ghi Nợ Tài khoản ghi Có Số tiền

Nợ Có
Kèm theo ………… chứng từ gốc.
Kế toán trưởng Người lập
(Ký, học tên) (Ký, họ tên)
Theo tính chất pháp lý, chứng từ kế toán có thể phân biệt thành hai loại là chứng từ bắt
buộc và chứng từ hướng dẫn.
Chứng từ bắt buộc là những chứng từ phản ánh các quan hệ kinh tế giữa các pháp
nhân hoặc do yêu cầu quản lý chặt chẽ mang tính chất phổ biến rộng rãi. Ví dụ như Hoá đơn
GTGT. Đối với loại chứng từ bắt buộc, Nhà nước tiêu chuẩn hoá về quy cách, biểu mẫu, chỉ
tiêu phản ánh trong chứng từ, mục đích và phương pháp lập chứng từ. Loại chứng từ bắt buộc
71
được áp dụng thống nhất cho các lĩnh vực kinh tế và các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế.
Chứng từ hướng dẫn là những chứng từ kế toán sử dụng trong nội bộ đơn vị. Nhà
nước chỉ hướng dẫn các chỉ tiêu đặc trưng làm cơ sở để các đơn vị dựa trên đó mà vận dụng
một cách thích hợp vào từng tình huống cụ thể. Chẳng hạn như Phiếu xuất kho, Phiếu nhập
kho.
Theo nội dung kinh tế, chứng từ có thể phân biệt thành năm loại sau đây:
- Chứng từ về lao động tiền lương, chẳng hạn như Bảng chấm công.
- Chứng từ về hàng tồn kho, chẳng hạn như Phiếu xuất kho.
- Chứng từ về tiền tệ, chẳng hạn như Phiếu thu.
- Chứng từ về bán hàng, chẳng hạn như Thẻ quầy hàng.
- Chứng từ về TSCĐ, chẳn꩖ hạn như Biên bản bàn giao TSCĐ.
Đây cũng chính là năm loại chứng từ trình bày trong Chế độ chứng từ kế toán doanh
nghiệp là một phần của Chế độ kế toán doanh nghiệp ban hành theo số:15/2006/QĐ-BTC
ngày 20 tháng 3 năm 2006 của Bộ tài chính. (xem Phụ lục 2.1). Ngoài ra còn có các loại
chứng từ khác được ban hành theo các văn bản pháp luật khác không phải là Chế độ kế toán
doanh nghiệp.
2.2. Lập và luân chuyển chứng từ kế toán
Chứng từ kế toán được lập hoặc thu nhận từ bên ngoài, sau đó nó được chuyển đến bộ

phận kế toán của đơn vị có liên quan, nó sẽ được kiểm tra và sử dụng làm căn cứ ghi sổ, cuối
cùng thì sẽ được lưu trữ, bảo quản và sau khi hết thời hạn lưu trữ theo qui định đối với từng
loại chứng từ, nó sẽ được huỷ. Đây chính là bốn bước trong qui trình luân chuyển chứng từ
được thể hiện trên Hình 2.1.
Hình 2.1. Quy trình luân chuyển chứng từ kế toán
Trong bước lập, tiếp nhận chứng từ kế toán cần lưu ý những điểm sau:
Thứ nhất, mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh liên quan đến hoạt động của
doanh nghiệp đều phải lập chứng từ kế toán. Chứng từ kế toán chỉ lập 1 lần cho một nghiệp
vụ kinh tế, tài chính phát sinh. Nội dung chứng từ kế toán phải đầy đủ các chỉ tiêu, phải rõ
ràng, trung thực với nội dung nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh. Chữ viết trên chứng từ
72
Lập hoặc thu nhận chứng từ
Kiểm tra chứng từ
Sử dụng ghi sổ kế toán
Bảo quản, lưu trữ, huỷ
phải rõ ràng, không tẩy xoá, không viết tắt. Số tiền viết bằng chữ phải khớp, đúng với số tiền
viết bằng số.
Thứ hai, chứng từ kế toán phải được lập đủ số liên theo quy định cho mỗi chứng từ.
Đối với chứng từ lập nhiều liên phải được lập một lần cho tất cả các liên theo cùng một nội
dung bằng máy tính, máy chữ hoặc viết lồng bằng giấy than. Trường hợp đặc biệt phải lập
nhiều liên nhưng không thể viết một lần tất cả các liên chứng từ thì có thể viết hai lần nhưng
phải đảm bảo thống nhất nội dung và tính pháp lý của tất cả các liên chứng từ.
Thứ ba, các chứng từ kế toán được lập bằng máy vi tính phải đảm bảo nội dung quy
định cho chứng từ kế toán.
Thứ tư, mọi chứng từ kế toán phải có đủ chữ ký theo chức danh quy định trên chứng từ
mới có giá trị thực hiện. Riêng chứng từ điện tử phải có chữ ký điện tử theo quy định của
pháp luật. Tất cả các chữ ký trên chứng từ kế toán đều phải ký bằng bút bi hoặc bút mực,
không được ký bằng mực đỏ, bằng bút chì, chữ ký trên chứng từ kế toán dùng để chi tiền phải
ký theo từng liên. Chữ ký trên chứng từ kế toán của một người phải thống nhất và phải giống
với chữ ký đã đăng ký theo quy định, trường hợp không đăng ký chữ ký thì chữ ký lần sau

phải khớp với chữ ký các lần trước đó.
Các doanh nghiệp chưa có chức danh kế toán trưởng thì phải cử người phụ trách kế
toán để giao dịch với khách hàng, ngân hàng, chữ ký kế toán trưởng được thay bằng chữ ký
của người phụ trách kế toán của đơn vị đó. Người phụ trách kế toán phải thực hiện đúng
nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền quy định cho kế toán trưởng.
Chữ ký của người đứng đầu doanh nghiệp (Tổng Giám đốc, Giám đốc hoặc người
được uỷ quyền), của kế toán trưởng (hoặc người được uỷ quyền) và dấu đóng trên chứng từ
phải phù hợp với mẫu dấu và chữ ký còn giá trị đã đăng ký tại ngân hàng. Chữ ký của kế toán
viên trên chứng từ phải giống chữ ký đã đăng ký với kế toán trưởng.
Kế toán trưởng (hoặc người được uỷ quyền) không được ký “thừa uỷ quyền” của
người đứng đầu doanh nghiệp. Người được uỷ quyền không được uỷ quyền lại cho người
khác.
Các doanh nghiệp phải mở sổ đăng ký mẫu chữ ký của thủ quỹ, thủ kho, các nhân viên
kế toán, kế toán trưởng (và người được uỷ quyền), Tổng Giám đốc (và người được uỷ quyền).
Sổ đăng ký mẫu chữ ký phải đánh số trang, đóng dấu giáp lai do Thủ trưởng đơn vị (hoặc
người được uỷ quyền) quản lý để tiện kiểm tra khi cần. Mỗi người phải ký ba chữ ký mẫu
trong sổ đăng ký.
Những cá nhân có quyền hoặc được uỷ quyền ký chứng từ, không được ký chứng từ
kế toán khi chưa ghi hoặc chưa ghi đủ nội dung chứng từ theo trách nhiệm của người ký.
Việc phân cấp ký trên chứng từ kế toán do Tổng Giám đốc (Giám đốc) doanh nghiệp
quy định phù hợp với luật pháp, yêu cầu quản lý, đảm bảo kiểm soát chặt chẽ, an toàn tài sản.
Trong bước kiểm tra chứng từ kế toán, cần lưu ý những điểm sau:
Thứ nhất, tất cả các chứng từ kế toán do doanh nghiệp lập hoặc từ bên ngoài chuyển
đến đều phải tập trung vào bộ phận kế toán doanh nghiệp. Bộ phận kế toán kiểm tra những
chứng từ kế toán đó và chỉ sau khi kiểm tra và xác minh tính pháp lý của chứng từ thì mới
dùng những chứng từ đó để ghi sổ kế toán.
Thứ hai, những nội dung cần kiểm tra trong chứng từ bao gồm:
(1) kiểm tra tính rõ ràng, trung thực, đầy đủ của các chỉ tiêu, các yếu t ghi chép trên
chứng từ kế toán;
(2) kiểm tra tính hợp pháp của nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh đã ghi trên chứng

từ kế toán, đối chiếu chứng từ kế toán với các tài liệu khác có liên quan;
(3) kiểm tra tính chính xác của số liệu, thông tin trên chứng từ kế toán.
73
Thứ ba, khi kiểm tra chứng từ kế toán nếu phát hiện có hành vi vi phạm chính sách,
chế độ, các quy định về quản lý kinh tế, tài chính của Nhà nước, phải từ chối thực hiện, đồng
thời báo ngay cho Giám đốc doanh nghiệp biết để xử lý kịp thời theo pháp luật hiện hành.
Chẳng hạn khi kiểm tra một Phiếu chi phát hiện có vi phạm chế độ, kế toán không xuất quỹ.
Trong bước sử dụng chứng từ để ghi sổ kế toán cần lưu ý mấy điểm sau:
Thứ nhất, đối với những chứng từ kế toán lập không đúng thủ tục, nội dung và chữ số
không rõ ràng thì người chịu trách nhiệm kiểm tra hoặc ghi sổ phải trả lại, yêu cầu làm thêm
thủ tục và điều chỉnh sau đó mới làm căn cứ ghi sổ.
Thứ hai, sau khi kiểm tra, nhân viên kế toán thực hiện việc tính giá trên chứng từ và
ghi chép định khoản để hoàn thiện chứng từ.
Thứ ba, chỉ khi nào chứng từ kế toán đã được kiểm tra và hoàn chỉnh mới được sử
dụng để làm căn cứ ghi sổ.
Đối với bước bảo quản, lưu trữ và huỷ chứng từ kế toán cần lưu ý:
Thứ nhất, chứng từ kế toán phải được đơn vị kế toán bảo quản đầy đủ, an toàn trong quá
trình sử dụng và lưu trữ.
Thứ hai, chứng từ kế toán lưu trữ phải là bản chính. Trường hợp tài liệu kế toán bị tạm
giữ, bị tịch thu thì phải có biên bản kèm theo bản sao chụp có xác nhận; nếu bị mất hoặc bị
huỷ hoại thì phải có biên bản kèm theo bản sao chụp hoặc xác nhận.
Thứ ba, chứng từ kế toán phải đưa vào lưu trữ trong thời hạn mười hai tháng, kể từ ngày
kết thúc kỳ kế toán năm hoặc kết thúc công việc kế toán.
Thứ tư, người đại diện theo pháp luật của đơn vị kế toán chịu trách nhiệm tổ chức bảo
quản, lưu trữ tài liệu kế toán theo thời hạn sau đây:
a) Tối thiểu năm năm đối với tài liệu kế toán dùng cho quản lý, điều hành của đơn vị kế
toán, gồm cả chứng từ kế toán không sử dụng trực tiếp để ghi sổ kế toán và lập báo cáo tài
chính;
b) Tối thiểu mười năm đối với chứng từ kế toán sử dụng trực tiếp để ghi sổ kế toán và
lập báo cáo tài chính, sổ kế toán và báo cáo tài chính năm, trừ trường hợp pháp luật có quy

định khác;
c) Lưu trữ vĩnh viễn đối với chứng từ kế toán có tính sử liệu, có ý nghĩa quan trọng về
kinh tế, an ninh, quốc phòng.
Thứ n ăm, chỉ cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới có quyền tạm giữ, tịch thu hoặc
niêm phong chứng từ kế toán. Trường hợp tạm giữ hoặc tịch thu thì cơ quan nhà nước có
thẩm quyền phải sao chụp chứng từ bị tạm giữ, bị tịch thu và ký xác nhận trên chứng từ sao
chụp; đồng thời lập biên bản ghi rõ lý do, số lượng từng loại chứng từ kế toán bị tạm giữ hoặc
bị tịch thu và ký tên, đóng dấu.
Thứ sáu, cơ quan có thẩm quyền niêm phong chứng từ kế toán phải lập biên bản, ghi
rõ lý do, số lượng từng loại chứng từ kế toán bị niêm phong và ký tên, đóng dấu.
Ngoài ra, trong khi sử dụng, quản lý, in và phát hành biểu mẫu chứng từ kế toán
cần lưu ý:
Một là, tất cả các doanh nghiệp đều phải sử dụng thống nhất mẫu chứng từ kế toán quy
định trong chế độ kế toán này. Trong quá trình thực hiện, các doanh nghiệp không được sửa
đổi biểu mẫu chứng từ thuộc loại bắt buộc.
Hai là, mẫu chứng từ in sẵn phải được bảo quản cẩn thận, không được để hư hỏng,
mục nát. Séc và giấy tờ có giá phải được quản lý như tiền.
74
Ba là, biểu mẫu chứng từ kế toán bắt buộc do Bộ Tài chính hoặc đơn vị được Bộ Tài
chính uỷ quyền in và phát hành. Đơn vị được uỷ quyền in và phát hành chứng từ kế toán bắt
buộc phải in đúng theo mẫu quy định, đúng số lượng được phép in cho từng loại chứng từ và
phải chấp hành đúng các quy định về quản lý ấn chỉ của Bộ Tài chính.
Bốn là, đối với các biểu mẫu chứng từ kế toán hướng dẫn, các doanh nghiệp có thể
mua sẵn hoặc tự thiết kế mẫu, tự in, nhưng phải đảm bảo các nội dung chủ yếu của chứng từ
quy định tại Điều 17 Luật Kế toán.
Dưới đây giới thiệu qui trình luân chuyển chứng từ trong kế toán thu tiền mặt (Hình
2.2).
Người nộp tiền Kế toán tiền mặt Kế toán trưởng Kế toán liên
quan
Thủ quỹ

Hình 2.2. Sơ đồ xử lý và luân chuyển chứng từ thu tiền mặt
Giải thích sơ đồ:
A- Người nộp tiền chuẩn bị tiền
(1) Kế toán tiền mặt viết phiếu thu (3 liên)
75
Bắt đầu
Tiền
viết
Phiếu thu
3 liên
Duyệt, ký
Phiếu thu
Phiếu thu
Thu tiền
Ký nhận
Nộp tiền
Phiếu thu
(2, 3)
TiềnTiền
Ghi sổ quỹ
Ghi sổ kế
toán liên
quan
A
(1) (2)
Phiếu thu
(2, 3)
Phiếu thu
(2, 3)
Phiếu thu

(2)
Phiếu thu
(2)
Phiếu thu
(2)
Ghi sổ kế
toán tiền mặt
quan
Lưu CT
B
(3)
(4)
(5)
(5)
(6)
(7)
(8)
(9)
(10)
(11)
(7)
(12)
(2) Trình kế toán trưởng ký duyệt (3 liên)
(3) Phiếu thu chuyển trả lại cho kế toán tiền mặt (3 liên, lưu liên 1)
(4) Chuyển liên 2, 3 cho thủ quỹ
(5) Thủ quỹ thu tiền và ký nhận vào phiếu thu (2 liên)
(6) (7) Chuyển phiếu thu cho người nộp tiền ký nhận (2 liên) - người nộp tiền giữ lại liên 3, chuyển trả
liên 2 cho thut quỹ; thủ quỹ ghi sổ quỹ
(8) Thủ quỹ chuyển phiếu thu (liên 2) cho kế toán tiền mặt
(9) Kế toán tiền mặt ghi sổ kế toán tiền mặt

(10) (11) Chuyển phiếu thu cho bộ phận liên quan ghi sổ, sau đó chuyển trả phiếu thu về cho kế toán
tiền mặt
(12) Kế toán tiền mặt lưu phiếu thu
B - Kết htúc
2.3. Ví dụ về lập chứng từ kế toán
Lập Phiếu thu theo tình huống sau đây:
Có những thông tin cho biết:
Vào lúc 8h25 phút sáng ngày 25 tháng 4 năm 20A, sinh viên Nguyễn Thị Thanh Bình,
lớp K38A Kế toán, Trường ĐH Kinh tế Huế đến phòng kế toán để nộp tiền học phí HKI năm
học 20A-20B, bằng tiền mặt, số tiền 800.000đ. Kế toán đã lập chứng từ và sinh viên đã nộp
đủ số tiền nêu trên.
Hãy đóng vai là kế toán của Trường ĐH Kinh tế lập Phiếu thu học phí cho sinh viên
này.
Với tình huống này, kế toán sẽ lập Phiếu thu như dưới đây.
Đơn vị: Trường Đại học Kinh tế
Địa chỉ: Số 100, Phùng Hưng, Huế
Số đăng ký doanh nghiệp (môn bài) Quyển số: 05
Telefax: PHIẾU THU Số: 15
Ngày 25 tháng 4 năm 2006
Họ và tên người nộp tiền: Nguyễn Thị Thanh Bình
Địa chỉ: Sinh viên lớp K38A Kế toán, Trường Đại học Kinh tế
Lý do nộp: Học phí học kỳ I năm học 20A-20B
Số tiền (
*
): 800.000đ (Tám trăm ngàn đồng)
Kèm theo: 01 Chứng từ gốc
Kế toán trưởng Người lập phiếu
(Ký) (Ký)
Nguyễn Văn Lạc Nguyễn Thị Thuỷ
Đã nhận đủ số tiền (viết bằng chữ): Tám trăm ngàn đồng chẵn.

Ngày 25 tháng 4 năm 2006
Thủ quỹ
(Ký)
Võ Thị Hoa
76
+ Tỷ giá ngoại tệ (vàng, bạc, đá quý)
+ Số tiền quy đổi:
2.4. Kiểm kê
Để đảm bảo tính chính xác của thông tin kế toán, ngoài việc tổ chức tốt chứng từ kế
toán, người ta còn phải thực hiện kiểm kê để kiểm tra tài sản hiện có để đối chiếu với sổ sách
kế toán để phát hiện kịp thời những hiện tượng, nguyên nhân gây ra sự chênh lệch và điều
chỉnh số liệu kế toán cho phù hợp với thực tế. Do vậy, kiểm kê không những có tác dụng bổ
sung cho chứng từ kế toán để phản ánh chính xác tài sản hiện có mà các tài liệu mà kiểm kê
cung cấp còn là cơ sở để qui trách nhiệm vật chất một cách đúng đắn.
2.4.1. Khái niệm kiểm kê
Một trong những yêu cầu đối với công tác kế toán là phải phản ánh chính xác số hiện
có của các loại tài sản trong doanh nghiệp, số dư các tài khoản trên sổ sách kế toán phải phù
hợp với số thực tế. Tuy nhiên, trên thực tiễn công tác kế toán, có nhiều trường hợp mà số liệu
kế toán với sô sliệu thực tế có thể chênh lệch do những nguyên nhân nhưu khi thu phát hoặc
đo lường không chính xác, do lập chứng từ hoặc ghi sổ kế toán bị sai, do hao hụt tự nhiên
trong quá trình bảo quản tài sản nào đó hoặc do mất mát, tham ô v.v.
Theo Luật kế toán, kiểm kê là việc cân đong, đo, đếm số lượng, xác nhận và đánh giá
chất lượng, giá trị của tài sản, nguồn vốn hiện có tại thời điểm kiểm kê để kiểm tra, đối chiếu
số liệu trong sổ kế toán.
Đơn vị cần phải tiến hành kiểm kê tài sản trong những trường hợp sau:
(1) Cuối kỳ kế toán năm, trước khi lập báo cáo tài chính;
(2) Khi thực hiện chia, tách, sát nhập, giải thể, chấm dứt hoạt động, phá sản hoặc bán,
cho thuê doanh nghiệp;
(3) Khi chuyển đổi hình thức sở hữu doanh nghiệp;
(4) Khi đánh giá lại tài sản theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền;

(5) Và các trường hợp khác theo qui định của pháp luật.
2.4.2. Phân loại kiểm kê và phương pháp tiến hành kiểm kê
Thông thường người ta thường nói đến hai cách phân loại kiểm kê bao gồm phân loại
theo phạm vi và đối tượng kiểm kê và theo thời gian kiểm kê.
Thứ nhất, theo phạm vi và đối tượng kiểm kê có thể phân biệt kiểm kê toàn bộ và kiểm
kê từng phần. Kiểm kê toàn bộ là tiến hành kiểm kê đối với tất cả các loại tài sản, vật tư, tiền
vốn của doanh nghiệp. Kiểm kê từng phần chỉ tiến hành kiểm kê một hoặc một số loại tài sản
nào đó.
Thứ hai, theo thời gian, kiểm kê được phân biệt thành kiểm kê định kỳ và kiểm kê bất
thường. Kiểm kê định kỳ thường tiến hành vào cuối kỳ báo cáo. Cần lưu ý rằng tuỳ vào đặc
điểm của từng loại tài sản và đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp mà định kỳ kiểm kê có thể
khác nhau. Ví dụ, đối với tiền mặt có thể tiến hành kiểm kê hàng ngày, nhưng đối với nguyên
vật liệu lại có thể tiến hành kiểm kê định kỳ hàng tháng hoặc hàng quí, đối với TSCĐ chúng
ta có thể tiến hành kiểm kê hàng năm.
77
Kiểm kê bất thường hay còn gọi là kiểm kê đột xuất được tiến hành trong trường hợp
có sự thay đổi về nhân sự quản lý tài sản, khi có phát sinh tổn thất, hư hao bất thường hay khi
cơ quan chủ quản tiến hành kiểm tra tài chính hoặc kiểm tra kế toán.
Một số điểm cần lưu ý khi tiến hành kiểm kê:
Thứ nhất là kiểm kê là một việc làm quan tọng có liên quan đén nhiều bộ phận, đén
nhiều người và rất chi li, phức tạp, khối lượng nhiều, tốn nhiều công sức và thời gian, hơn nữa
lại thường phải tiến hành khẩn trương, do vậy muốn làm tốt cần phải có sự phối hợp và lãnh
đạo chặt chẽ và nên thu hút quần chúng cũng như công nhân tỏng đơn vị cùng tham gia.
Thứ hai là khi tiến hành kiểm kê, cần phải lập một ban kiểm kê do giám đốc doanh
nghiệp chỉ định. Thành phần của ban này phải có sự tham gia của kế toán để giúp giám đốc
chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ kiểm kê, phải hoàn thành việc ghi sổ kế toán đến thời điểm
kiểm kê, có như vậy mới có tác dụng đối chiếu với số liệu thực tế khi kiểm kê.
2.4.3. Phương pháp kiểm kê
Theo Nguyễn Việt & Võ văn Nhị (2006), có ba phương pháp tiến hành kiểm kê bao
gồm kiểm kê hiện vật, kiểm kê tiền, chứng phiếu có giá trị và chứng khoán và kiểm kê tiền

gửi ngân hàng và các khoản thanh toán.
Kiểm kê hiện vật
Kiểm kê hiện vật là việc cân, đông, đo, đếm tại chỗ đối với các loại tài sản bằng hiện
vật là đối tượng kiểm kê như vật liệu, sản phẩm, hàng hoá. Để thuận tiện cho kiểm kê, trước
khi tiến hành kiểm kê cần sắp xếp các tài sản hiện vật theo thứ tự, chuẩn bị đủ phương tiện
cho quá tình kiểm kê. Cầnphải có mặt những nguâoì bảo quản tài sản được kiểm kê cùng
tham gia, khi kiểm kê cần chú ý tình trạng chất lượng của tài sản. Đối với các tài sản hiện vật
thuộc sở hữu của doanh nghiệp nhưng hiện đang nằm ngoài phạm vi doanh nghiệp và đang do
một doanh nghiệp bạn bảo quản giúp thì khi kiểm kê cũng cần phải đối chiếu với đơn vị bạn
để xác minh số liệu thực tế có phù hợp với số liệu kế toán không.
Kiểm kê tiền mặt, chứng phiếu có giá và chứng khoán
Đối với các đối tượng tài sản kiểm kê là tiền mặt, chứng phiếu có giá và chứng khoán
cần phải kiểm kê toàn bộ bằng cách đếm trực tiếp từng loại, đối chiếu và lập báo cáo kiểm kê
theo mẫu qui định.
Kiểm kê tiền gửi ngân hàng và các khoản thanh toán
Kiểm kê tiền gửi ngân hàng và các khoản thanh toán được tiến hành bằng cách đối
chiếu số dư của từng tài khoản giữa sổ kế toán của doanh nghiệp và số dư trên sổ của ngân
hàng hoặc với các đơn vị có quan hệ thanh toán với doanh nghiệp. Nếu có phát hiện chênh
lệch thì phải tiến hành đối chiếu lại theo từng chứng từ liên quan để tìm nguyên nhân và sau
đó lập chứng từ đính chính để điều chỉnh. Khi kiểm kê phải đối chiếu từng khoản, lập báo cáo
kiểm kê, nêu rõ tên tài khoản kiểm kê và số dư từng khoản đối chiếu với đơn vị liên quan, nếu
có số chênh lệch cần ghi rõ nguyên nhân chênh lệch và người nào chịu trách nhiệm về sự
chênh lệch này.
Vai trò của kế toán trong quá trình kiểm kê
78

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×