Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

thị trường chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.61 KB, 54 trang )

KIẾN THỨC VỀ CHỨNG KHOÁN

Bài 01: Khái quát về thị trường chứng khoán
I.Thị trường chứng khoán là gì?
Thị trường chứng khoán là một thị trường mà ở nơi đó người ta mua bán, chuyển nhượng, trao
đổi chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời. Tuy nhiên, đó có thể là TTCK tập trung hoặc phi tập
trung. Tính tập trung ở đây là muốn nói đến việc các giao dịch được tổ chức tập trung theo một
địa điểm vật chất.
Hình thái điển hình của TTCK tập trung là Sở giao dịch chứng khoán ( Stock exchange). Tại Sở
giao dịch chứng khoán (SGDCK), các giao dịch được tập trung tại một địa điểm; các lệnh được
chuyển tới sàn giao dịch và tham gia vào quá trình ghép lệnh để hình thành nên giá giao dịch.
TTCK phi tập trung còn gọi là thị trường OTC (over the counter). Trên thị trường OTC, các giao
dịch được tiến hành qua mạng lưới các công ty chứng khoán phân tán trên khắp quốc gia và
được nối với nhau bằng mạng điện tử. Giá trên thị trường này được hình thành theo phương
thức thoả thuận.
II.Chức năng của TTCK
1. Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế:
Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được
đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Thông
qua TTCK, Chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho
mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội.
2. Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn
phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi
ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại hàng hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và
sở thích của mình.
3. Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán
KIẾN THỨC VỀ CHỨNG KHOÁN

Bài 02: Giới thiệu về Cổ phiếu


I. Khái niệm Cổ phiếu:
Khi một công ty gọi vốn, số vốn cần gọi đó được chia thành nhiều phần nhỏ bằng nhau gọi là cổ
phần. Người mua cổ phần gọi là cổ đông. Cổ đông được cấp một giấy chứng nhận sở hữu cổ
phần gọi là cổ phiếu và chỉ có công ty cổ phần mới phát hành cổ phiếu. Như vậy, cổ phiếu chính
là một chứng thư chứng minh quyền sở hữu của một cổ đông đối với một công ty cổ phần và cổ
đông là người có cổ phần thể hiện bằng cổ phiếu.
Thông thường hiện nay các công ty cổ phần thường phát hành 02 dạng cổ phiếu: Cổ phiếu
thường và cổ phiếu ưu đãi:
Các cổ đông sở hữu cổ phiếu thông thường có quyền hạn và trách nhiệm đối với công ty như:
Được chia cổ tức theo kết quả kinh doanh; Được quyền bầu cử, ứng cử vào bộ máy quản trị và
kiểm sóat công ty; Và phải chịu trách nhiệm về sự thua lỗ hoặc phá sản tương ứng với phần vốn
góp của mình.
Các cổ đông sở hữu cổ phiếu ưu đãi cũng là hình thức đầu tư vốn cổ phần như cổ phiếu thông
thường nhưng quyền hạn và trách nhiệm hạn chế như: lợi tức cố định; không có quyền bầu cử,
ứng cử..v.v.
II. Tác dụng của việc phát hành Cổ phiếu:
Đối với Công ty phát hành: Việc phát hành Cổ phiếu sẽ giúp cho Công ty có thể huy động vốn
khi thành lập hoặc để mở rộng kinh doanh. Nguồn vốn huy động này không cấu thành một
khoản nợ mà công ty phải có trách nhiệm hoàn trả cũng như áp lực về khả năng cân đối thanh
khoản của công ty sẽ giảm rất nhiều, trong khi sử dụng các phương thức khác như phát hành
trái phiếu công ty, vay nợ từ các tổ chức tín dụng ...thì hoàn toàn ngược lại. Tuy nhiên, mỗi
phương thức huy động đều có những ưu nhược điểm riêng và nhà quản lý công ty phải cân
nhắc, lựa chọn tùy từng thời điểm và dựa trên những đặc thù cũng như chiến lược kinh doanh
của công ty để quyết định phương thức áp dụng thích hợp.
Đối với nhà Đầu tư Cổ phiếu: Các nhà đầu tư trên thị trường sẵn sàng mua Cổ phiếu được công
ty phát hành. Giấy chứng nhận sở hữu cổ phần được phát hành dưới dạng chứng thư có giá và
được xác định thông qua việc chuyển dịch, mua bán chúng trên thị trường chứng khoán giữa
các chủ thể đầu tư và được pháp luật bảo vệ. Mặt khác, người mua cổ phiếu nghĩ rằng đồng vốn
họ đầu tư được các nhà quản lý công ty sử dụng có hiệu quả, tạo ra nhiều lợi nhuận hoặc đánh
giá hoạt động cũng như tiềm năng phát triển, sinh lợi của công ty dự định đầu tư là cao, và

đương nhiên họ sẽ được hưởng một phần từ những thành quả đó thông qua việc thanh toán cổ
tức cho các cổ đông, đồng thời giá trị cổ phần sở hữu cũng sẽ gia tăng trên cơ sở thực tại và
Bài 04: Giới thiệu trái phiếu
1. Khái niệm:
Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành (người vay tiền) phải
trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền xác định, thường là trong
những khoảng thời gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn.
2. Đặc điểm:
a. Một trái phiếu thông thường có ba đặc trưng chính:
+ Mệnh giá.
+ Lãi suất định kỳ (coupon)
+ Thời hạn.
b. Trái phiếu thể hiện quan hệ chủ nợ – con nợ giữa người phát hành và người đầu tư .
Phát hành trái phiếu là đi vay vốn. Mua trái phiếu là cho người phát hành vay vốn và như vậy,
trái chủ là chủ nợ của người phát hành. Là chủ nợ, người nắm giữ trái phiếu (trái chủ) có quyền
đòi các khoản thanh toán theo cam kết về khối lượng và thời hạn, song không có quyền tham
gia vào những vấn đề của bên phát hành.
c. Lãi suất của các trái phiếu rất khác nhau, được quy định bởi các yếu tố:
Cung cầu vốn trên thị trường tín dụng. Lượng cung cầu vốn đó lại tuỳ thuộc vào chu kỳ kinh tế,
động thái chính sách của ngân hàng trung ương, mức độ thâm hụt ngân sách của chính phủ và
phương thức tài trợ thâm hụt đó.
Mức rủi ro của mỗi nhà phát hành và của từng đợt phát hành. Cấu trúc rủi ro của lãi suất sẽ quy
định lãi suất của mỗi trái phiếu. Rủi ro càng lớn, lãi suất càng cao.
Thời gian đáo hạn của trái phiếu. Nếu các trái phiếu có mức rủi ro như nhau, nhìn chung thời
gian đáo hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
3. Phân loại trái phiếu.
3.1. Căn cứ vào việc có ghi danh hay không:
- Trái phiếu vô danh: là trái phiếu không mang tên trái chủ, cả trên chứng chỉ cũng như trên sổ
sách của người phát hành. Những phiếu trả lãi đính theo tờ chứng chỉ, và khi đến hạn trả lãi,
người giữ trái phiếu chỉ việc xé ra và mang tới ngân hàng nhận lãi. Khi trái phiếu đáo hạn, người

nắm giữ nó mang chứng chỉ tới ngân hàng để nhận lại khoản cho vay.
- Trái phiếu ghi danh: là loại trái phiếu có ghi tên và địa chỉ của trái chủ, trên chứng chỉ và trên
Bài 05: Chứng khoán có thể chuyển đổi

1. Khái niệm:
Chứng khoán có thể chuyển đổi là những chứng khoán cho phép người nắm giữ nó, tuỳ theo lựa
chọn và trong những điều kiện nhất định có thể đổi nó thành một chứng khoán khác.
Những loại chứng khoán có thể chuyển đổi thành cổ phiếu thường phổ biến là:
- Cổ phiếu ưu đãi.
- Trái phiếu.
3. Mục đích của việc phát hành và đầu tư vào chứng khoán chuyển đổi:
Phát hành chứng khoán có thể chuyển đổi là nhằm huy động thêm vốn vào những thời điểm
chưa thích hợp cho việc phát hành cổ phiếu thường. Việc phát hành chứng khoán có thể chuyển
đổi cũng có thể nhằm mục đích tăng thêm tính hấp dẫn cho đợt phát hành, nhất là khi thị
trường trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi đang xuống giá.
4. Lợi ích của trái phiếu chuyển đổi:
* Đối với bên phát hành: do việc người đầu tư sẽ được hưởng quyền chuyển đổi trái phiếu này
ra cổ phiếu thường khi đến hạn, nên:
+ Nếu là trái phiếu: bên phát hành sẽ bán trái phiếu ra với lãi suất thấp.
+ Nếu là cổ phiếu ưu đãi: bên phát hành sẽ chào bán với giá cao.
Khi các chứng khoán được chuyển đổi, nhà phát hành còn có lợi vì loại bỏ được các khoản cố
định phải trả, đồng thời tăng thêm số lượng cổ đông của công ty, một chỉ báo có lợi cho danh
tiếng của công ty.
* Đối với người đầu tư:
+ Chứng khoán có thể chuyển đổi có sức hấp dẫn ở chỗ chúng kết hợp được tính an toàn của
trái phiếu (thu nhập cố định) với tính có thể đầu cơ của cổ phiếu thường.
+ Chứng khoán có thể chuyển đổi cho phép nhà đầu tư có thể được bảo hiểm trước tình trạng
lạm phát.
Tuy nhiên, những lợi ích của việc thực hiện chuyển đổi tuỳ thuộc nhiều vào giá chuyển đổi, tỷ lệ
chuyển đổi, và tương quan giá giữa công cụ có thể chuyển đổi với những công cụ mà chúng có

thể chuyển đổi thành. Đó là những yếu tố thường không nằm trong tầm kiểm soát của người
đầu tư.
Ví dụ 1: một trái phiếu có mệnh giá là 1.000.000 đồng; nếu cứ 50.000 đồng được đổi lấy một cổ
Bài 06: Các công cụ phái sinh
I. Khái niệm:
Công cụ phái sinh là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ đã có như cổ
phiếu, trái phiếu nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo
lợi nhuận.
II. Các loại công cụ phái sinh:
1. Quyền lựa chọn (Option)
a. Khái niệm: Quyền lựa chọn là một công cụ cho phép người nắm giữ nó được mua (nếu là
quyền chọn mua) hoặc bán (nếu là quyền chọn bán) một khối lượng nhất định hàng hoá với một
mức giá xác định, và trong một thời gian nhất định.
Các hàng hoá cơ sở này có thể là cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số trái phiếu, thương
phẩm, đồng tiền hay hợp đồng tương lai.
b. Những yếu tố cấu thành một quyền lựa chọn
- Tên của hàng hoá cơ sở và khối lượng được mua theo quyền.
- Loại quyền (chọn mua hay chọn bán).
- Thời hạn của quyền.
- Mức giá thực hiện theo quyền.
c. Những mức giá liên quan tới một quyền lựa chọn là:
- Giá thị trường hiện hành của loại hàng hoá cơ sở.
- Giá hàng hoá cơ sở thực hiện theo quyền.
- Giá quyền lựa chọn.
Đối với quyền chọn mua, nếu giá thực hiện thấp hơn giá hiện hành của chứng khoán cơ sở, thì
quyền đó được gọi là đang được tiền (in the money), tức là người có quyền có thể có lợi từ việc
thực hiện quyền. Nếu giá thực hiện bằng với giá thị trường, quyền đang ở trạng thái hoà vốn
( at the money), và nếu cao hơn, gọi là đang mất tiền (out of money). Đối với quyền chọn bán
thì ngược lại, người thực hiện quyền sẽ có lợi nếu giá bán thực hiện quyền cao hơn giá thị
trường của hàng hoá cơ sở và sẽ bị mất tiền nếu giá thực hiện quyền thấp hơn giá thị trường

của hàng hoá cơ sở.
Giá trị mà người nắm giữ quyền lựa chọn sẽ nhận được bằng cách thực hiện quyền được gọi là
giá trị nội tại (intrinsic value). Nếu quyền ở trạng thái bị mất tiền, giá trị nội tại bằng 0. Giá thị
Bài 07: Thị trường sơ cấp

I. Khái niệm, chức năng:
1. Khái niệm thị trường sơ cấp:
Thị trường sơ cấp là nơi diễn ra quá trình mua bán lần đầu các chứng khoán mới phát hành. Thị
trường sơ cấp còn được gọi là thị trường cấp một hay thị trường phát hành.
2. Chức năng của thị trường sơ cấp
Thị trường sơ cấp thực hiện chức năng quan trọng nhất của thị trường chứng khoán, đó là huy
động vốn cho đầu tư.
Thị trường sơ cấp vừa có khả năng thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm lớn nhỏ của từng hộ dân
cư, vừa có khả năng thu hút nguồn vốn to lớn từ nước ngoài; các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi
từ các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ tạo thành một nguồn vốn khổng lồ tài trợ
cho nền kinh tế, mà các phương thức khác không thể làm được.
Như vậy, thị trường sơ cấp tạo ra môi trường cho các doanh nghiệp gọi vốn để mở rộng sản
xuất kinh doanh, giúp Nhà nước giải quyết vấn đề thiếu hụt ngân sách thông qua việc phát hành
trái phiếu, có thêm vốn để xây dung cơ sở hạ tầng. Nó cũng trực tiếp cải thiện mức sống của
người tiêu ding bằng cách giúp họ chọn thời điểm cho việc mua sắm của mình tốt hơn.
II. Các phương pháp phát hành chứng khoán:
Có 2 phương pháp phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp. Đó là phát hành riêng lẻ và
phát hành ra công chúng.
1. Phát hành riêng lẻ
Phát hành riêng lẻ là quá trình trong đó chứng khoán được bán trong phạm vi một số người
nhất định (thông thường là cho các nhà đầu tư có tổ chức), với những điều kiện (khối lượng
phát hành) hạn chế.
Việc phát hành chứng khoán riêng lẻ thông thường chịu sự điều chỉnh của Luật công ty. Chứng
Bài 08: Phát hành CK lần đầu ra công chúng (IPO).
Như đã đề cập ở phần trước, khái niệm phát hành lần đầu ra công chúng (IPO) chỉ được hiểu

đối với việc phát hành cổ phiếu. Do vậy sau đây, chúng ta sẽ chủ yếu đề cập đến việc phát hành
cổ phiếu lần đầu ra công chúng.
1. Điều kiện phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng:
Mỗi nước có những qui định riêng cho việc phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng. Tuy
nhiên, để phát hành chứng khoán ra công chúng thông thường tổ chức phát hành phải đảm bảo
năm điều kiện cơ bản sau:
- Về qui mô vốn: tổ chức phát hành phải đáp ứng được yêu cầu về vốn điều lệ tối thiểu ban
đầu, và sau khi phát hành phải đạt được một tỷ lệ phần trăm nhất định về vốn cổ phần do công
chúng nắm giữ và số lượng công chúng tham gia.
- Về tính liên tục của hoạt động sản xuất kinh doanh: công ty được thành lập và hoạt động
trong vòng một thời gian nhất định (thường khoảng từ 3 đến 5 năm).
- Về đội ngũ quản lý công ty: công ty phải có đội ngũ quản lý tốt, có đủ năng lực và trình độ
quản lý các hoạt động sản xuất, kinh doanh của công ty.
- Về hiệu quả sản xuất kinh doanh: công ty phải làm ăn có lãi với mức lợi nhuận không thấp
hơn mức qui định và trong một số năm liên tục nhất định (thường từ 2-3 năm).
- Về tính khả thi của dự án: công ty phải có dự án khả thi trong việc sử dụng nguồn vốn huy
động được.
Tuy nhiên, các nước đang phát triển thường cho phép một số trường hợp ngoại lệ, tức là có
những doanh nghiệp sẽ được miễn giảm một số điều kiện nêu trên, ví dụ: doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực công ích, hạ tầng cơ sở có thể được miễn giảm điều kiện về hiệu quả sản
xuất kinh doanh.
ở Việt Nam, theo qui định của Nghị định 48/1998/-NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng
khoán và Thông tư 01/1998/TT-UBCK hướng dẫn Nghị định 48/1998/-NĐ-CP, tổ chức phát hành
phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng phải đáp ứng được các điều kiện sau:
- Mức vốn điều lệ tối thiểu là 10 tỷ đồng Việt Nam;
- Hoạt động kinh doanh có lãi trong 2 năm liên tục gần nhất;
- Thành viên Hội đồng quản trị và Giám đốc (Tổng giám đốc) có kinh nghiệm quản lý kinh
doanh.
- Có phương án khả thi về việc sử dụng vốn thu được từ đợt phát hành cổ phiếu.
- Tối thiểu 20% vốn cổ phần của tổ chức phát hành phải được bán cho trên 100 người đầu tư

ngoài tổ chức phát hành; trường hợp vốn cổ phần của tổ chức phát hành từ 100 tỷ đồng trở lên
thì tỷ lệ tối thiểu này là 15% vốn cổ phần của tổ chức phát hành.
- Cổ đông sáng lập phải nắm giữ ít nhất 20% vốn cổ phần của tổ chức phát hành và phải nắm
Bài 09: Quy trình phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng

Thông thường việc phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng được thực hiện theo các bước
sau:
- Tổ chức đại hội cổ đông để xin ý kiến chấp thuận của đại hội cổ đông về việc phát hành chứng
khoán ra công chúng, đồng thời thống nhất mục đích huy động vốn; số lượng vốn cần huy
động; chủng loại và số lượng chứng khoán dự định phát hành; cơ cấu vốn phát hành dự tính
phân phối cho các đối tượng: Hội đồng quản trị, cổ động hiện tại, người lao động trong doanh
nghiệp, người bên ngoài doanh nghiệp, người nước ngoài…
- Hội đồng quản trị ra quyết định thành lập ban chuẩn bị cho việc xin phép phát hành chứng
khoán ra công chúng. Chức năng chủ yếu của ban chuẩn bị là chuẩn bị các hồ sơ xin phép phát
hành để nộp lên cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán; lựa
chọn tổ chức bảo lãnh phát hành (nếu cần), công ty kiểm toán và tổ chức tư vấn và cùng với
các tổ chức này xây dựng phương án phát hành và dự thảo bản cáo bạch để cung cấp cho các
nhà đầu tư.
- Ban chuẩn bị lựa chọn người đứng đầu tổ hợp bảo lãnh phát hành. Trong phần lớn các trường
hợp phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng, để đảm bảo sự thành công của đợt phát
hành thì tổ chức phát hành phải chọn ra được một tổ chức bảo lãnh phát hành. Tổ chức bảo
lãnh phát hành với uy tín và mạng lưới rộng lớn của mình sẽ giúp cho việc phân phối chứng
khoán của tổ chức phát hành diễn ra một cách suôn sẻ. Chính vì vậy, khi tiến hành phát hành
chứng khoán ra công chúng thì việc lựa chọn tổ chức bảo lãnh phát hành có ý nghĩa rất quan
trọng, và mang tính quyết định đến sự thành bại của đợt phát hành.
- Người đứng đầu tổ hợp bảo lãnh phát hành lựa chọn các thành viên khác của tổ hợp. Trong
trường hợp khối lượng chứng khoán phát hành là quá lớn, vượt quá khả năng của một tổ chức
bảo lãnh phát hành thì tổ chức bảo lãnh phát hành chính (tổ chức bảo lãnh đã được lựa chọn)
sẽ đứng ra lựa chọn các thành viên khác để cùng với mình tiến hành bảo lãnh cho toàn bộ đợt
phát hành.

- Ban chuẩn bị cùng với tổ hợp bảo lãnh phát hành, công ty kiểm toán và tổ chức tư vấn tiến
hành định giá chứng khoán phát hành. Định giá chứng khoán là khâu khó khăn nhất và phức
tạp nhất khi tiến hành phát hành chứng khoán ra công chúng. Nếu định giá chứng khoán quá
cao thì sẽ khó khăn trong việc bán chứng khoán, còn nếu định giá chứng khoán quá thấp thì sẽ
làm thiệt hại cho tổ chức phát hành. Vì thế, việc định giá chứng khoán một cách hợp lý sao cho
người mua và người bán đều chấp nhận được là hết sức quan trọng và cần phải được phối hợp
của tổ chức bảo lãnh, công ty kiểm toán và tổ chức tư vấn của công ty.
- Chính thức thành lập tổ hợp bảo lãnh phát hành và ký hợp đồng bảo lãnh phát hành với tổ
chức phát hành.
- Công ty kiểm toán xác nhận các báo cáo tài chính trong hồ sơ xin phép phát hành.
- Tổ chức phát hành nộp hồ sơ lên Uỷ ban chứng khoán. Thông thường tổ chức phát hành sẽ
được trả lời về việc cấp hay từ chối cấp giấy phép trong một thời hạn nhất định kể từ ngày nộp
Bai 10: Bảo lãnh phát hành

a. Khái niệm:
Bảo lãnh phát hành là quá trình một công ty chứng khoán giúp tổ chức phát hành thực hiện các
thủ tục trước và sau khi chào bán chứng khoán như định giá chứng khoán, chuẩn bị hồ sơ xin
phép phát hành chứng khoán, phân phối chứng khoán và bình ổn giá chứng khoán trong giai
đoạn đầu.
Thông thường, để phát hành chứng khoán ra công chúng, tổ chức phát hành cần phải có được
sự bảo lãnh của một công ty nhỏ, và số lượng phát hành không lớn, thì chỉ cần có một tổ chức
bảo lãnh phát hành. Nếu đó là một công ty lớn, và số lượng chứng khoán phát hành vượt quá
khả năng của một tổ chức bảo lãnh thì cần phải có một tổ hợp bảo lãnh phát hành, bao gồm
một hoặc một tổ chức bảo lãnh chính và một số tổ chức bảo lãnh phát hành thành viên.
Các tổ chức bảo lãnh phát hành được hưởng phí bảo lãnh hoặc một tỷ lệ hoa hồng nhất định
trên số tiền thu được từ đợt phát hành. Phí bảo lãnh phát hành là mức chênh lệch giữa giá bán
chứng khoán cho người đầu tư và số tiền tổ chức phát hành nhận được.
Ví dụ: nếu công chúng mua chứng khoán phải trả 20.000 đ một cổ phiếu, trong khi công ty phát
hành nhận 18.000 đ một cổ phiếu thì tiền phí bảo lãnh phát hành là 2.000 đ một cổ phiếu.
Phí bảo lãnh hoặc hoa hồng bảo lãnh cao hay thấp là tuỳ thuộc vào tính chất của đợt phát hành

(lớn hay nhỏ, thuận lợi hay khó khăn). Nói chung, nếu đợt phát hành đó là đợt phát hành chứng
khoán lần đầu ra công chúng thì mức phí hoặc hoa hồng phải cao hơn lần phân phối sơ cấp. Đối
với trái phiếu, phí bảo lãnh hoặc hoa hồng phụ thuộc vào lãi suất trái phiếu (lãi suất trái phiếu
thấp thì phí bảo lãnh phát hành phải cao và ngược lại)
b.Các phương thức bảo lãnh phát hành
Việc bảo lãnh phát hành được thực hiện theo một trong các phương thức sau:
- Bảo lãnh với cam kết chắc chắn: là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo lãnh cam
kết sẽ mua toàn bộ chứng khoán phát hành cho dù có phân phối hết hay không.
- Bảo lãnh với cố gắng cao nhất: là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo lãnh thoả
thuận làm đại lý cho tổ chức phát hành. Tổ chức bảo lãnh phát hành không cam kết bán toàn bộ
số chứng khoán mà cam kết sẽ cố gắng hết mức để bán chứng khoán ra thị trường nhưng phần
không phân phối hết sẽ được trả lại cho tổ chức phát hành.
- Bảo lãnh theo phương thức bán tất cả hoặc không bán gì: là phương thức bảo lãnh mà theo đó
tổ chức phát hành chỉ thị cho tổ chức bảo lãnh phát hành nếu không bán hết số chứng khoán thì
huỷ bỏ toàn bộ đợt phát hành.
Như vậy, phương thức bảo lãnh phát hành này hoàn toàn khác với phương thức bảo lãnh với cố
gắng cao nhất. Ở phương pháp bảo lãnh phát hành trước, có thể chỉ có một phần chứng khoán
được bán, còn ở phương thức bảo lãnh phát hành này thì hoặc là tất cả chứng khoán được bán
hết hoặc là huỷ bỏ toàn bộ đợt phát hành và tiền đã bán chứng khoán được hoàn trả lại cho
người mua.
- Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu - tối đa: là phương thức bảo lãnh trung gian giữa phương
Bài 11: Thị trường thứ cấp

A. Tổ chức và hoạt động của thị trường thứ cấp
Sau khi chứng khoán mới được phát hành trên thị trường sơ cấp, chúng sẽ được giao dịch trên
thị trường thứ cấp. Khác với thị trường sơ cấp, tiền bán chứng khoán trên thị trường thứ cấp
thuộc về các nhà đầu tư và nhà kinh doanh chứ không thuộc về các công ty phát hành chứng
khoán.
Xét về phương thức tổ chức và giao dịch, thị trường chứng khoán bao gồm 3 loại: Sở giao dịch
chứng khoán, Thị trường phi tập trung (OTC), và thị trường thứ 3.

- Thị trường tập trung (Sở giao dịch chứng khoán): là thị trường trong đó việc giao dịch mua
bán chứng khoán được thực hiện tại một địa điểm tập trung gọi là sàn giao dịch (trading floor).
Các chứng khoán được niêm yết tại Sở giao dịch thông thường là chứng khoán của những công
ty lớn, có danh tiếng, đã qua thử thách của thị trường. Phương thức giao dịch tại Sở giao dịch là
phương thức đấu giá, trong đó các lệnh mua, bán được ghép với nhau để hình thành giá cả
cạnh tranh tốt nhất.
- Thị trường phi tập trung (OTC): là thị trường trong đó việc giao dịch mua bán chứng khoán
không diễn ra tại một địa điểm tập trung mà thông qua hệ thống computer nối mạng giữa các
thành viên của thị trường. Các chứng khoán được giao dịch trên thị trường phi tập trung là
chứng khoán của các công ty vừa và nhỏ. Phương thức giao dịch tại thị trường OTC là phương
thức thoả thuận, giá cả chứng khoán được xác định trên cơ sở thoả thuận giữa các thành viên
của thị trường.
- Thị trường thứ 3: là thị trường, trong đó hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán không
được thực hiện thông qua hệ thống đấu giá của các Sở giao dịch và hệ thống computer của thị
trường OTC.
I. Sở giao dịch chứng khoán
1. Hình thức sở hữu của Sở giao dịch
Sở giao dịch chứng khoán là một tổ chức có tư cách pháp nhân được thành lập theo quy định
của pháp luật. Lịch sử phát triển Sở giao dịch chứng khoán các nước đã và đang trải qua các
hình thức sở hữu sau đây:
- Hình thức sở hữu thành viên: Sở giao dịch chứng khoán do các thành viên là công ty chứng
khoán sở hữu, được tổ chức như một công ty trách nhiệm hữu hạn, có Hội đồng quản trị mà
Bài 12: Thị trường thứ cấp (Tiếp theo)

2. Mô hình tổ chức của Sở giao dịch:
a. Hội đồng quản trị:
Hội đồng quản trị bao gồm các đại diện là những người có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến
thị trường chứng khoán. Nói chung, thành viên Hội đồng quản trị gồm đại diện của các công ty
chứng khoán thành viên, và một số người bên ngoài như đại diện các công ty có chứng khoán
niêm yết, các tổ chức công nghiệp, các nhà chuyên môn và đại diện của Chính phủ.

b. Các vụ chức năng: thông thường các Sở giao dịch chứng khoán các nước có khoảng 20 – 30
Vụ chức năng. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu, các sở có mức tối thiểu khoảng 7 vụ chức năng
như sau:
- Các Vụ chuyên môn: Vụ giao dịch; Vụ niêm yết; Vụ kinh doanh.
- Các Vụ phụ trợ: Vụ công nghệ tin học; Vụ nghiên cứu và phát triển; Vụ kế toán; Văn phòng.
3. Thành viên Sở giao dịch chứng khoán:
Thành viên Sở giao dịch chứng khoán là các công ty chứng khoán được Uỷ ban chứng khoán
cấp giấy phép hoạt động và được Sở giao dịch chứng khoán chấp nhận là thành viên của Sở
giao dịch chứng khoán.
a. Tiêu chuẩn để trở thành thành viên:
Các Sở giao dịch chứng khoán khác nhau có những tiêu chuẩn khác nhau trong việc kết nạp
thành viên. Sự khác nhau này do trình độ phát triển thị trường qui định. Dưới đây là một số tiêu
chuẩn chính trong việc kết nạp thành viên.
- Yêu cầu về tài chính:
Các chỉ tiêu về vốn cổ đông, vốn điều lệ, và tổng tài sản có là những chỉ tiêu chủ yếu thường
được sử dụng khi xem xét kết nạp thành viên.
Vốn cổ đông là tổng tài sản có trừ tài sản nợ của công ty. Vốn cổ đông bao gồm vốn cổ phần,
thặng dự vốn và các khoản lợi nhuận giữ lại. Tại Mỹ, vốn cổ đông quy định tối thiểu là 250.000
USD, ở Thái Lan là 200 triệu Baht.
Ngoài ra, tỷ lệ nợ trên vốn cổ đông và thu nhập trên cổ phiếu cũng là những chỉ tiêu hay được
tính đến khi xét kết nạp thành viên. Thông thường tỷ lệ nợ trên vốn cổ đông không được vượt
quá 1,5 lần và thu nhập trên cổ phiếu phải đạt một tỷ lệ nhất định trong vòng 2-3 năm.
- Tiêu chuẩn về nhân sự:
Công ty chứng khoán thành viên phải có đội ngũ cán bộ kinh doanh có đủ trình độ, có hiểu biết
trong kinh doanh chứng khoán và tư cách đạo đức tốt.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật:
Bài 13: Thị trường thứ cấp (Tiếp theo)

Hệ thống giao dịch
Hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán được khởi đầu bằng việc đặt lệnh mua bán tại Văn

phòng giao dịch của Công ty chứng khoán đặt tại các địa điểm khác nhau trong cả nước. Trước
khi đặt lệnh, khách hàng phải làm thủ tục mở tài khoản tại Công ty chứng khoán. Lệnh của
khách hàng được chuyền từ Văn phòng công ty chứng khoán đến người đại diện của công ty tại
sàn giao dịch của Sở giao dịch chứng khoán. Các lệnh mua bán được đấu giá với nhau. Kết quả
giao dịch sẽ được thông báo lại cho công ty chứng khoán và khách hàng của công ty. Những
lệnh được thực hiện sẽ chuyển sang hệ thống thanh toán và lưu ký chứng khoán làm các thủ tục
thanh toán chuyển giao chứng khoán và tiền.
Khách hàng <---> Công ty CK <---> Sở giao dịch CK
I. Mở tài khoản:
Trước khi đặt lệnh, khách hàng mở tài khoản tại công ty chứng khoán. Việc mở tài khoản phải
được thực hiện trên cơ sở hợp đồng giữa khách hàng và công ty chứng khoán.
1. Các thông tin liên quan đến tài khoản
Khi mở tài khoản, khách hàng phải cung cấp các thông tin sau cho công ty chứng khoán:
- Tên đầy đủ
- Địa chỉ thường trú.
- Số điện thoại
- Số chứng minh thư.
- Các thông tin khác như số tài khoản tại ngân hàng, số tài khoản chứng khoán tại công ty
chứng khoán khác (nếu có), thu nhập và kiến thức về thị trường chứng khoán.
- Khi có bất kỳ sự thay đổi nào liên quan đến các thông tin trên, khách hàng phải thông báo
ngay cho công ty chứng khoán.
2. Loại tài khoản:
- Tài khoản lưu ký:
Bài 14: Thị trường thứ cấp (Tiếp theo)

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×