Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Kinh tế thế giới và việt nam quý 1 năm 2019, triển vọng và hàm ý cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (511.2 KB, 20 trang )

VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-20

Original article

Tên bài bằng tiếng Anh
Nguyen Cam Nhung*
VNU University of Economics and Business,
144 Xuan Thuy Str., Cau Giay Dist., Hanoi, Vietnam
Received 22 March 2019
Revised 28 March 2019; Accepted 28 March 2019

Abstract: ……..
Keywords: …….
*

_______

*

Corresponding author.
E-mail address:
/>
1


VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-20

Kinh tế thế giới và Việt Nam quý 1 năm 2019,
triển vọng và hàm ý cho Việt Nam
Nguyễn Cẩm Nhung*
r



n

n t ,

u

H

44 u n

C uG

H

t

m

Nhận ngày 22 tháng 3 năm 2019
Chỉnh sửa ngày 28 tháng 3 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 28 tháng 3 năm 2019

Tóm tắt: Sau sự mở rộng hoạt động sản xuất mạnh mẽ trong năm 2017, động lực kinh tế
toàn cầu vẫn tiếp tục được duy trì trong nửa đầu năm 2018. Tuy nhiên, do bị tác động bởi
cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, khủng hoảng ở một số nền kinh tế mới nổi,
cùng với đầu tư toàn cầu sụt giảm khiến cho kinh tế toàn cầu năm 2018 kém “tươi sáng”
so với dự báo ban đầu của các tổ chức quốc tế. Những sai lầm về chính sách cùng biến
động khó lường về địa chính trị và kinh tế đã phần nào gây ảnh hưởng tới sức khỏe kinh
tế của nhiều nước trên thế giới, góp phần làm cho đầu tư toàn cầu giảm và tăng trưởng
của nhiều nền kinh tế giảm sút. Trong quý 1 năm 2019, xu hướng bảo hộ mậu dịch chưa

có dấu hiệu giảm, nội bộ châu Âu chia rẽ, bất đồng giữa các nước lớn vẫn chưa được giải
quyết, các cuộc xung đột địa - chính trị vẫn đang tiếp diễn... khiến cục diện kinh tế toàn
cầu bị ảnh hưởng. Tăng trưởng kinh tế thế giới đã “đi ngang” và dần dần chuyển hướng đi
xuống. GDP tồn cầu ước tính giảm khoảng 400 tỷ USD. Hai đầu tàu kinh tế thế giới
mạnh nhất là Mỹ và Trung Quốc đều chứng kiến sự suy giảm tăng trưởng vào những
tháng cuối năm 2018 và đầu năm 2019.
ừ k ó : ……...
hướng chậm lại. Nguy cơ khủng hoảng tại các
nền kinh tế mới nổi do ảnh hưởng từ chính sách
thắt chặt tiền tệ của Mỹ, lệnh trừng phạt của Mỹ
lên Iran, đầu tư tồn cầu sụt giảm góp phần làm
cho mức độ tăng trưởng không đồng đều giữa
các nước trên thế giới gia tăng. Cụ thể, tăng
trưởng kinh tế của Trung Quốc, EU, Nhật Bản,
ASEAN và các nền kinh tế mới nổi đều chậm
lại từ quý 3 và quý 4 nhưng bức tranh kinh tế vĩ
mô của Mỹ và một số nước phát triển vẫn khá
tươi sáng.

1. Tổng quan kinh tế thế giới quý 1
năm 2019*
1.1. ăn tr ởn k n t to n

u

Kinh tế thế giới duy trì tốt trong nửa đầu
năm 2018 sau đó đã xuất hiện những thách thức
mới khiến tăng trưởng kinh tế toàn cầu có xu

_______

*

Tác giả liên hệ.

ỉ Em l:
/>
2


N.C. Nhung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-20

Kinh tế Mỹ năm 2018 giảm nhẹ so với dự
báo báo của các tổ chức quốc tế hồi đầu năm.
Nhờ chính sách kích thích tài khóa (cắt giảm
thuế và tăng chi tiêu) được thực hiện từ đầu
năm 2018 đã phát huy hiệu quả và lan tỏa kích
thích đầu tư của các doanh nghiệp trong nước
nên dù khối lượng thương mại bị giảm đặc biệt
là thương mại song phương với Trung Quốc,
tăng trưởng cả năm 2018 vẫn đạt mức 2,9%
(thấp hơn so với dự báo 3,1%). Tỷ lệ thất
nghiệp giảm xuống mức kỷ lục còn 3,7% trong
năm 2018. Tuy nhiên, lạm phát tháng 1 năm
2019 đã tăng lên 4% do chính phủ Mỹ đóng cửa
một phần trong hơn 1 tháng đã khiến 800.000
nhân viên chính phủ nghỉ việc trong thời gian
này và buộc khoảng 500.000 người phải làm
công việc bán thời gian. Tỷ lệ thất nghiệp tháng
2 năm 2019 đã giảm xuống 3,8% nhờ việc
chính phủ Mỹ mở cửa trở lại. Nhờ chính sách

thắt chặt tiền tệ tiếp tục thực hiện trong năm
2018 với 4 đợt nâng lãi suất của FED, tỷ lệ lạm
phát cả năm 2018 đạt kỳ vọng của chính phủ ở
mức 2,44%. Trong tháng 1 năm 2019, lạm phát
của Mỹ giảm còn 1,6% trong tháng 1 và xuống
còn 1,5% trong tháng 2.
Thâm hụt thương mại của Mỹ tăng lên tới
59,8 tỷ USD vào tháng 12 năm 2018 khiến
thâm hụt thương mại của nước này trong cả
năm 2018 cao nhất trong 10 năm qua. Đó là do
đồng USD mạnh và thuế quan trả đũa nhằm vào
hàng Mỹ gây sức ép giảm khối lượng xuất
khẩu. Nhu cầu tiêu dùng trong nước vững chắc
tiếp tục là động lực quan trọng cho tăng trưởng
kinh tế của Mỹ và tạo thuận lợi cho các nhà bán
lẻ nước này. Với các chỉ số kinh tế vĩ mơ tích
cực như vậy, FED đã tự tin tiếp tục tăng lãi suất
lần 4 trong năm 2018 lên 2,25-2,5%. Tổng
thống Donald Trump luôn coi thâm hụt thương
mại là bất lợi cho các nhà sản xuất trong nước
và đặt mục tiêu loại bỏ tình trạng này. Tuy
nhiên, thâm hụt thương mại của Mỹ đã mở rộng
lên 59,8 tỷ USD vào tháng 12 năm 2018, nâng
tổng thâm hụt thương mại hàng hóa lên mức kỷ
lục 891,3 tỷ USD năm 2018. Với động lực tăng
trưởng từ nội tại nền kinh tế yếu dần do tác
động của chính sách thắt chặt tiền tệ cùng sự
suy giảm hoạt động thương mại do tác động của

3


chiến tranh thương mại sẽ khiến tăng trưởng
kinh tế của Mỹ năm 2019 thấp hơn so với năm
2018 và có thể chỉ đạt mức 2,6%.
Tăng trưởng khu vực EU tiếp tục chậm lại
và chỉ đạt 1,9% năm 2018, thấp hơn so với năm
2017 ở mức 2,3%. Do trải qua nhiều yếu tố bất
lợi về kinh tế và chính trị như căng thẳng
thương mại, sự suy giảm tốc độ tăng trưởng
thương mại toàn cầu, sự sụt giảm tăng trưởng
của nền kinh tế Đức và sự suy thối kinh tế của
Ý, cùng tác động của chính sách thắt chặt tiền
tệ của Mỹ, đồng Euro đã mất giá liên tục so với
đôla Mỹ từ tháng 2 năm 2018 đến nay. Tình
trạng kinh tế Đức suy giảm đang trở thành mối
lo đối với EU do nhu cầu ôtô nhập khẩu tại
Trung Quốc, một thị trường tiêu thụ lớn đã
giảm mạnh. Sản lượng công nghiệp của Đức
tháng 1 năm 2019 cũng giảm 3,3% so với cùng
tháng năm 2018. Trong bức tranh kinh tế ảm
đảm của châu Âu, lãi suất thấp khơng khuyến
khích tiết kiệm nên tiêu dùng nội địa là chỗ dựa
đáng tin cậy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cho
khu vực này.
Kinh tế Nhật Bản suy giảm tăng trưởng
trong Q3/2018 ở mức (-0,6%) rồi nhích lên
0,5% trong quý 4/2018 đến nay. Tuy nhiên, sự
phục hồi kinh tế của Nhật Bản vẫn còn yếu do
nhu cầu cá nhân yếu. Tâm lý tiêu dùng đã giảm
từ 42,7 điểm trong tháng 12 năm 2018 xuống

còn 41,9 điểm trong tháng 1 năm 2019, đánh
dấu mức giảm thấp nhất kể từ tháng 12 năm
2016. Người tiêu dùng đã chú ý hơn về khả
năng tăng thuế tiêu dùng từ 8% lên 10% dự
kiến được thực hiện vào tháng 10/2019. Vì vậy,
chính phủ đã dành 2.030 tỷ Yên cho các biện
pháp tài chính, bao gồm chương trình hồn tiền
cho các giao dịch mua hàng khơng dùng tiền
mặt, và phiếu giảm giá cho những hộ gia đình
thu nhập thấp hay có con nhỏ. Việc chi tiêu gia
tăng phục vụ công tác tổ chức Thế vận hội 2020
cũng sẽ duy trì đà tăng trưởng trong 2019. Tuy
nhiên, đối với lĩnh vực sản xuất, sản xuất công
nghiệp của Nhật Bản đã giảm 0,1% trong tháng
12/2018, sau khi giảm 1,0% trong tháng
11/2018. Các đơn hàng máy móc suy giảm do
tác động của sự trì trệ trong thương mại tồn
cầu và tranh chấp thương mại đang diễn ra giữa


4

N.C. Nhung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-20

Mỹ và Trung Quốc đã khiến xuất khẩu của
Nhật Bản giảm 8,4% trong tháng 1 năm 2019,
mức cao nhất kể từ tháng 10 năm 2016 đến nay.
Do vậy, thâm hụt thương mại lên tới 1,415
nghìn tỷ yên vào tháng 1 năm 2019. Với điều
kiện như vậy, tăng trưởng của đất nước mặt trời

mọc dự kiến sẽ đạt 0,9% vào năm 2019.
Tăng trưởng kinh tế Trung Quốc đạt mức
6,6% năm 2018, mức tăng thấp nhất kể từ năm
1990 đến nay. Do ảnh hưởng của cuộc chiến
tranh thương mại, hoạt động thương mại của
nước này bị ảnh hưởng khá lớn. Kim ngạch
xuất khẩu và nhập khẩu của Trung Quốc trong
tháng 2/2019 đã giảm lần lượt 20,7% và 5,2%
xuống 135,24 tỷ USD và 131,12 tỷ USD. Chiến
lược “Made in China 2025” (MIC2025) đang
gặp khơng ít thách thức trong bối cảnh cuộc
chiến thương mại Mỹ-Trung đang kéo dài. Chỉ
số PMI tháng 12-2018 giảm xuống mức 49,7
điểm từ mức 50,2 điểm trong tháng 11-2018,
mức thấp nhất trong 19 tháng trước đó. Để có
thể vượt qua được nhiều áp lực khi tăng trưởng
nền kinh tế chững lại và những tác động của
cuộc chiến thương mại với Mỹ, ngoài việc nới
lỏng hơn nữa hoạt động kiểm sốt đối với việc
các cơng ty nước ngồi tiếp cận thị trường
Trung Quốc, nước này cịn kích thích các hoạt
động kinh tế bằng cách thúc đẩy chi tiêu và cắt
giảm hàng tỷ USD tiền thuế, cụ thể cắt giảm
gần 2.000 tỷ NDT (298 tỷ USD) tiền thuế và
các loại phí. Chính phủ dự tính giảm thuế giá trị
gia tăng (VAT) từ 16% xuống còn 13% trong
ngành công nghiệp chế biến và trong các lĩnh vực
khác. Thuế VAT đối với các ngành vận tải và xây
dựng sẽ được giảm từ 10% xuống 9% và VAT
cho các công ty sản xuất sẽ giảm từ 16% xuống

13%. Thêm vào đó, chính phủ nước này đã tăng
cường hỗ trợ tín dụng cho các công ty tư nhân,
các doanh nghiệp nhỏ để góp phần thúc đẩy tăng
trưởng và tạo việc làm. Với điều kiện kinh tế như
hiện nay, dự đoán tăng trưởng kinh tế Trung Quốc
trong năm 2019 ước đạt 6-6,5%.
ASEAN chỉ giữ được tốc độ tăng trưởng ổn
định trong 9 tháng đầu năm 2018 nhưng bước
sang quý 4 bức tranh kinh tế khá đa dạng. Do bị
ảnh hưởng bởi cuộc chiến tranh thương mại Mỹ
- Trung, tác động của môi trường kinh tế toàn

cầu cùng sự tăng trưởng chậm lại của các nền
kinh tế lớn trên thế giới nên chỉ số PMI trong
lĩnh vực sản xuất của các nền kinh tế ASEAN
(ngoại trừ Brunei, Campuchia và Lào) bị đình
trệ trong tháng 10 và tháng 11/2018. Đối với
lĩnh vực thương mại, Singapore và Malaysia có
sự tăng trưởng trong xuất khẩu, và Malaysia có
thặng dư thương mại đạt mức cao trong quý
4/2018. Tuy nhiên, Philippines đã liên tục bị
thâm hụt thương mại trong những năm gần đây.
Hoạt động thương mại của Thái Lan cũng
không khả quan, ghi nhận mức thâm hụt thương
mại ở mức 4.032 tỷ USD trong tháng 1/2019.
Tại Hội nghị cấp cao ASEAN ở Singapore vào
giữa tháng 11/2018, các nước ASEAN đã ký
thỏa thuận thương mại điện tử đầu tiên, tạo điều
kiện thuận lợi cho các giao dịch thương mại
điện tử xuyên biên giới. Đây được coi là điểm

sáng góp phần thúc đẩy tăng trưởng thương mại
nội khối và tạo đà tăng trưởng cho các các nước
thành viên ASEAN.
1.2.

ơn m

to n

u

Thương mại hàng hố tồn cầu
Bất chấp những biến động phức tạp của tình
hình thương mại thế giới năm 2018 như chiến
tranh thương mại Mỹ - Trung, những chia rẽ
trong quan điểm của các quốc gia tại Hội nghị
G20, những khó khăn của WTO trong việc điều
chỉnh thương mại đa phương, tín đ n t 11
t án đ u năm t ơn m to n u năm 20 8
vẫn tăn tr ởn m n mẽ so vớ ùn kỳ năm
tr ớ . Tổng kim ngạch xuất khẩu toàn cầu đến
hết tháng 11 năm 2018 đạt 16.351 tỷ USD so
với mức 13.461 tỷ USD của năm 2016 và
14.819 tỷ USD năm 2017 (Hình 1).
So với 11tháng năm 2017, thương mại tồn
cầu 11 tháng năm 2018tăn tr ởn ở mứ đ
r t o tăn 1.532tỷ USD t ơn đ ơn vớ
mứ tăn tr ởn 0,34% (Biểu 1). Đây cũng là
mức tăng cao nhất của kể từ năm 2012 đến nay.
Đặc biệt,tổng kim ngạch thương mại thế giới 11

tháng năm 2018 đã vượt mức 15.000 tỷ USD
của 11 tháng năm 2014 - mức cao của thương
mại toàn cầu kể từ sau khủng hoảng tài chính
tiền tệ 2019.


N.C. Nhung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-20

5

j

Hình 1: Kim ngạch xuất khẩu toàn cầu từ tháng 1 đến tháng 11 giai đoạn 2011-2018 (Đơn vị: Tỷ USD).
Nguồn: Tính tốn của tác giả từ WTO (2019a)

- Thương mại theo khu vực
Trong năm 2018, khu vực châu Á, Châu Âu
và Bắc Mỹ tiếp tục là 3 khu vực chiếm tỷ trọng
cao nhất trong tổng giá trị thương mại toàn cầu,
chiếm đến 92% tổng kim ngạch xuất khẩu tồn
cầu. Trong đó, khu vực châu Âu chiếm 40%,
châu Á 38% và Bắc Mỹ 14%. Trong tương
quan so sánh giữa ba khu vực, châu Á có tốc độ
tăng trưởng thương mại cao nhất và thấp nhất là
châu Mỹ.

u vự C u Á năm 20 8 t p tụ
ứn k n sự
tăn m n mẽ
t ơn

m tron ả xu t k ẩu v n ập k ẩu. Khu vực
này chiếm 38% tổng xuất khẩu và 35% tổng
nhập khẩu của thế giới. Trong năm này, giá trị
thương mại châu Á đạt 12.1063 tỷ USD, tăng
11,95%, tương đương 1293 tỷ USD so với cùng
kỳ năm ngối; trong đó xuất khẩu tăng 9,73%
và nhập khẩu tăng 14,35%. Điều đó cho thấy
châu Á là k u vự
ữ v tròđ n lự qu n
tr n t ú đẩ tăn tr ởn t ơn m to n
u năm 20 8. Trong khu vực châu Á, xuất
khẩu tăng trưởng cao nhất ở Malaysia
(13,59%), Việt Nam (13,23%), Australia
(11,10%), Singapore (10,36%) và Trung Quốc
(9,90%).Trong khi đó, xuất khẩu tăng chậm ở
Hàn Quốc và Nhật Bản - khoảng 5,5 % với mỗi
nước và giảm ở Philippines (-1,78%) (WTO,
2019a). Như vậy, xuất khẩu tăng trưởng mạnh

của các nước châu Á
u do sự dẫn dắt
xu t k ẩu ở á n ớ
ôn
m Ávà Trung
Quốc. Đặc biệt đối với Trung Quốc, bất chấp
những lo lắng về sự phát triển chậm lại của
Trung Quốc, quốc gia này cũng kết thúc năm
2018 với con số khá ấn tượng về tăng trưởng
thương mại, trong đó xuất khẩu tăng 9,90% và
nhập khẩu tăng 15,83%, đạt thặng dư thương

mại hơn 352 tỷ USD. Tuy thặng dư thương mại
của Trung Quốc đã giảm mạnh từ mức 420 tỷ
USD năm 2017 nhưng mức tăng trưởng thương
mại thể hiện nỗ lực của quốc gia này trong bối
cảnh thương mại với Mỹ giảm mạnh do ảnh
hưởng của cuộc chiến thương mại với Mỹ.
u vự C u Âuchiếm 40% xuất khẩu
toàn cầu và 39% nhập khẩu toàn cầu. Trong 11
tháng đầu năm 2018, kim ngạch nhập khẩu của
khu vực châu Âu đạt 6574 tỷ USD, tăng
10,58%; xuất khẩu đạt 6553 tỷ USD, tăng
10,51% so với cùng kỳ năm ngoái. Mức tăng
trưởng này cao hơn của năm 2017 với 9,22%
cho xuất khẩu và 9,74% cho nhập khẩu. Khu
vực EU 28 - nòng cốt cho hoạt động thương
mại của cả khu vực cũng vẫn duy trì được tốc
độ tăng trưởng tương đối cao với nhập khẩu
tăng 11,42% và xuất khẩu tăng 10,65%, cao
hơn mức chung của cả khu vực châu Âu.Các
nền kinh tế đầu tàu của EU như Đức, Pháp, Bỉ,
Áo, Ý, Tây Ban Nha , Hà Lan… đều duy trì tốc


6

N.C. Nhung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-20

độ tăng trưởng xuất khẩutương đối cao, ở mức
9-12%. Các nền kinh tế nhỏ hơn của EU-28 duy
trì được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao và

năng động như Estonia, Hy Lạp, Ireland và
Malta (WTO, 2019a).

u vự Bắ Mỹ theo WTO (2019a),
á trị t ơn m
k u vự Bắ Mỹ tăn vớ
t đ t p ơn mứ bìn qu n
t
ớ.
Theo đó, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của
khu vực đạt 2.358 tỷ USD, tăng 8,73%, trong
khi tổng kim ngạch nhập khẩu đạt 3.265 tỷ
USD, tăng 9,02% trong 11 tháng đầu năm 2018.
Trong các nước Bắc Mỹ, Mexico có tốc độ tăng
trưởng xuất khẩu cao nhất (10,61%) trong khi
Mỹ duy trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu khá ổn
định ở mức 8,47%. Tuy nhiên, tốc độ tăng
trưởng nhập khẩu của Mỹ vẫn cao hơn tốc độ
tăng trưởng nhập khẩu, dẫn đến thâm hụt
thương mại của Mỹ vẫn tiếp tục gia tăng và
đứng ở mức rất cao là 891,3 tỷ USD năm 2018
- mức kỷ lục trong một thập kỷ qua. Điều này
t p tục l d u
u p ản án
ín sá
t ơn m
ứn rắn m
ín qu ền Mỹ t eo
đuổ để ảm t m ụt t ơn m l k ơn
u quả. Do đó, thâm hụt cán cân thương mại

vẫn là thách thức cho Tổng thống Donald
Trump nhằm hiện thực hoá những cam kết từ

chiến dịch tranh cử của mình và chuẩn bị cho
chiến dịch tranh cử trong tương lai.
1.3. G á ả to n

u

Giá dầu thế giới đột ngột giảm mạnh trong
tháng 11 và 12 sau khi chứng kiến xu hướng
tăng liên tục từ tháng 6 năm 2017 do Mỹ và hai
quốc gia khác trong top 3 nước sản xuất dầu lớn
hàng đầu thế giới là Saudi Arabia và Nga đã
nâng sản lượng khai thác dầu với tốc độ kỷ lục
trong khi nhu cầu dầu thế giới quay đầu giảm
do tăng trưởng kinh tế toàn cầu chậm lại. Tuy
nhiên, từ tháng 1 năm 2019 đến nay, giá dầu đã
liên tục tăng trở lại và đạt 67,5 đơla Mỹ/1 thùng
dầu Brent. Đó là nhờ quyết tâm của OPEC
trong việc nỗ lực tái lập cân bằng trên thị
trường dầu thô. OPEC và các nước đồng minh
thống nhất sẽ với việc thỏa thuận cắt giảm sản
lượng sẽ tiếp tục được duy trì đến hết tháng
6/2019 để giữ được đà tăng giá dầu.
Do đồng đôla Mỹ tăng giá so với các đồng
tiền chủ chốt khác, giá dầu thô tăng trong 3 quý
đầu năm 2018 góp phần làm tăng CPI của nhiều
nước nên lạm phát toàn cầu năm 2018 tăng
3,78% cao hơn so với mức 3,2% năm 2017.

k

Hình 2. Biến động giá dầu thế giới.
uồn: EIA


N.C. Nhung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-20

Thị trường hàng hóa 2019 sẽ phải vượt qua
những thách thức từ tăng trưởng toàn cầu yếu
hơn, thắt chặt các điều kiện tín dụng hơn, và gia
tăng sức mạnh của đồng USD. Nếu đà tăng giá
dầu thô tiếp tục diễn ra trong thời gian tới thì
lạm phát tồn cầu có thể tiếp tục tăng nhẹ trong
năm 2019.
.4.

u t to n

u

Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới có
nhiều biến động bao gồm những căng thẳng
thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc, chính sách
giảm thuế và gia tăng việc của chính quyền
Donald Trum khiến FDI tồn cầu trong năm
2018 có những đặc điểm chính sau đây:
FDI to n u đã ảm l ên t p tron 3
năm. Dịng vốn FDI tồn cầu trong năm 2018

sụt giảm 19% so với năm 2017, ước đạt 1,2 tỷ
USD. Năm 2018, FDI đã rơi xuống mức thấp
k

l

7

nhất kể từ khi xảy ra khủng hoảng tài chính
năm 2007. Nguyên nhân chính là do điều khoản
đánh thuế một lần của TCJA của Mỹ được đưa
ra từ cuối năm 2017 đã khiến khoản thu nhập ở
nước ngoài quay trở về cơng ty mẹ ở Mỹ thay
vì tái đầu tư. Từ đầu năm 2018, các MNE đã
chuyển thu nhập đang nắm giữ tại các chi
nhánh ở nước ngoài về nước để không phải trả
thêm thuế. Tái đầu tư thu nhập ở nước ngồi
ln chiếm tỷ trọng lớn nhất trong dịng vốn
FDI của Mỹ ra nước ngồi. Dịng vốn FDI ra
nước ngoài của Mỹ trong thời gian này đã sụt
giảm nghiêm trọng khiến cho dịng FDI tồn
cầu cũng sụt giảm.
Dịn v n đ u t v o á n ớ p át tr ển
ảm đ n 40% ước tính khoảng 451 tỷ USD,
Đây là mức vốn FDI vào khu vực các nước phát
triển thấp nhất kể từ năm 2004, thấp hơn mức
652 tỷ USD trong năm 2009 và mức 595 tỷ
USD trong năm 2014.

Hình 3. FDI tồn cầu và FDI theo nhóm nước, giai đoạn 2007-2018.

Đơn vị: Tỷ USD
uồn: UNCTAD (2019)

• Dịng FDI chay vào Mỹ giảm 18% trong
năm 2018 do các siêu thương vụ M&A diễn ra
ở châu Âu. Năm 2018 chỉ có 6 thương vụ M&A
ở Mỹ so với con số 12 dự án trong năm 2017.
Giá trị ròng các thương vụ M&A của Mỹ giảm
1/3 xuống còn 201 tỷ USD.
• Dịng FDI chảy vào châu Âu giảm xuống
chỉ cịn ¼ so với năm 2017, tương đương 100 tỷ
USD. FDI của Mỹ đổ vào châu Âu chỉ còn 1/5.

Sự sụt giảm dòng FDI của Mỹ tuy chỉ tác động
đến rất ít các nước trong khu vực châu Âu là
những nước chủ yếu nhận đầu tư của Mỹ, song
quy mơ tác động lại rất lớn. Dịng vốn FDI của
Mỹ năm 2018 vào Ireland và Thụy Sĩ lần lượt
là -121 tỷ USD và -141 tỷ USD.
Tốc độ tăng trưởng vốn FDI ở các nước
đang phát triển diễn ra không đồng đều giữa các
vùng. Dòng FDI vào các nước đang phát triển


8

N.C. Nhung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-20

chỉ tăng 3%, chiếm đến 56% FDI tồn cầu
trong năm 2018, ước tính khoảng 694 tỷ USD.

FDI tập trung chủ yếu ở các nước Đông Á và
các nước Đông Nam Á lên đến 1/3 FDI toàn
cầu. FDI vào các nền kinh tế chuyển đổi đạt 44
tỷ USD trong năm 2018, giảm 8% so với
năm 2017.
• Dòng vốn tăng trưởng 5% ở các nước phát
triển trong khu vực châu Á và 6% ở Châu Phi
trong đó, dịng vốn FDI ở các nước Mỹ Latinh
lại giảm 4%.
• Các nước phát triển ở châu Á thu hút được
nhiều vốn FDI nhất, đồng thời cũng là khu vực
có giá trị các dự án đầu tư mới cao nhất trên thế
giới. Trung Quốc dẫn đầu các nước đang phát
triển trong khu vực về thu hút nhiều vốn đầu tư,
FDI tăng nhanh trong lĩnh vực chế tạo. Vị trí
thứ hai thuộc về Hongkong (Trung Quốc) với
vốn FDI tập trung vào lĩnh vực dịch vụ.
• Khu vực Đơng Nam Á lập kỷ lục về thu
hút vốn đầu tư trong 3 năm liên tiếp đạt mức
145 tỷ USD. Trong khu vực ASEAN,
Singapore, Indonesia, Thái Lan là 3 nước dẫn
đầu về thu hút FDI.
Một nửa trong số 10 nước tiếp nhận đầu tư
nhiều nhất là các nền kinh tế đang phát triển,
trong đó có 03 đại diện đến từ châu Á là Trung
Quốc, Hồng Kông và Singapore. Mặc dù FDI bị
giảm mạnh, Hoa Kỳ vẫn tiếp tục là nước tiếp
nhận FDI lớn nhất thế giới với 226 tỷ USD thu
hút được trong năm 2018. Tiếp theo là Trung
i


Giá trị các thương vụ M&A

Quốc với tổng giá trị FDI đạt mức 142 tỷ USD,
và nước Anh với tổng vốn FDI thu hút là 122
tỷ USD.
ề ìn t ứ đ u t đ lập vớ xu ớn
ảm tron tá đ u t t u n ập tron năm 20 8
á trị á t ơn vụ M&A tăn 9% do số
lượng các siêu thương vụ tăng thêm 17 thương
vụ. Những siêu thương vụ tập trung vào lĩnh
vực truyền thơng, hóa chất và viễn thơng. Đồng
thời giá trị các dự án đầu tư mới tăng 29% so
với năm 2017.
Hoạt động M&A xuyên biên giới trong năm
2018 tăng do các MNE đang tận dụng chi phí
vay thấp. Tuy khơng đủ lớn để bù đắp cho mức
sụt giảm dòng vốn FDI từ Mỹ đổ vào khu vực
các nước phát triển song các quyết định đầu tư
M&A ở khu vực này vẫn khá sôi động. Hoạt
động M&A của Mỹ tăng 23% về giá trị, tăng
gấp đôi số thương vụ so với năm 2017 và chiếm
1/3 tổng số thương vụ trên thế giới. Các thương
vụ M&A tập trung chủ yếu vào lĩnh vực dịch vụ
và ngành khai thác khoáng sản. Số lượng các
thương vụ liên quan đến dịch vụ tài chính, bảo
hiểm, khai thác dầu và khí đốt tăng nhanh
chóng. Số lượng các thương vụ M&A trong
ngành sản xuất giảm nhẹ. Các nước châu Âu
chiếm đến 60% giá trị hoạt động M&A thế giới

trong khi con số này ở châu Á chỉ ở mức khiêm
tốn 9%. Như vậy, hình thức đầu tư chủ yếu ở
các nước châu Á là các dự án đầu tư mới hoặc
mở rộng dự án.
Giá trị các dự án đầu tư mới

Hình 4. Tổng giá trị các thương vụ M&A và các dự án đầu tư mới giai đoạn 2007-2018.
Đơn vị: Tỷ USD
uồn: UNCTAD (2019)


9

N.C. Nhung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-20

eo dự báo
U C AD (20 9) tr ển
v n FDI to n u năm 20 9 ũn k ôn m
k ả qu n. Do vốn FDI vào các nước đang phát
triển diễn ra không đồng đều chỉ tập trung ở
khu vực Đông Á và Đông Nam Á, nên việc
khôi phục mức thu hút FDI ở các nước phát
triển (từ mức thấp bất thường trong năm 2018)
sẽ là yếu tố chủ lực để thúc đẩy mức tăng
trưởng FDI toàn cầu. Tuy nhiên, đây là nhiệm
vụ hết sức khó khăn cho các nước phát triển.
Trước năm 2018, tái đầu tư thu nhập của các
MNE Mỹ luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số
vốn FDI đầu tư ra nước ngồi của Mỹ. Khi
chính sách cải cách thuế của chính quyền

Donald Trump có hiệu lực từ tháng 1/2018, tái
đầu tư thu nhập của Mỹ trong nửa đầu năm
2018 đã giảm xuống mức -200 tỷ USD so với
mức 168 tỷ USD cùng kỳ năm 2017. Mặc dù,
khoản tái đầu tư của các MNE Mỹ đã tăng lên
42 tỷ USD trong quý III năm 2018 nhưng đây
vẫn chỉ là con số khiêm tốn trong tổng lợi
nhuận của các công ty con của Mỹ ở nước
ngoài. Tác động tiêu cực của chính sách này
đến dịng đầu tư sẽ cịn kéo dài, gây ảnh hưởng
đến quy mô và cơ cấu các khoản tái đầu tư của
các MNE Mỹ cũng như FDI toàn cầu trong
năm 2019.
Hơn nữa, triển vọng gia tăng FDI là khơng
chắc chắn trong bối cảnh có nhiều rủi ro tiềm ẩn
từ địa chính trị, rủi ro tài chính – tiền tệ và tác
động từ các yếu tố chính sách của các nước lớn.
Thứ nhất viễn cảnh tăng trưởng kinh tế toàn cầu
năm 2019 hết sức ảm đạm. Thứ hai, điều kiện
tài chính thắt chặt khiến sản xuất cơng nghiệp
của một số nền kinh tế chủ chốt chuẩn bị phải
thu hẹp quy mô. Thứ ba căng thẳng thương mại
giữa Mỹ và Trung Quốc và xu hướng bảo hộ
vẫn tồn tại. Mỹ xác nhận hoãn tăng thuế vào
ngày 1/3 như kế hoạch trước đó. Hiện tại, Mỹ
và Trung Quốc đang đàm phán để đạt được thỏa
thuận thương mại trong đó dỡ bỏ hầu hết các
khoản thuế mà Mỹ nhằm vào Trung Quốc.
Song một vấn đề còn tồn tại là thuế sẽ được gỡ
bỏ ngay lập tức hay sau một khoảng thời gian,

đủ để Mỹ có thể giám sát Trung Quốc xem
nước này có thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết
hay khơng. Tình trạng căng thẳng thương mại

o

kéo dài đã và tiếp tục làm chậm tốc độ tăng
trưởng của thương mại quốc tế, suy yếu các
hoạt động sản xuất, tất yếu sẽ dẫn đến sự gián
đoạn chuỗi giá trị toàn cầu và ảnh hưởng đến
dịng vốn FDI.
Đầu tư gián tiếp nước ngồi
Mặc dù các nhà đầu tư vẫn tiếp tục quan
ngại về tốc độ tăng trưởng tồn cầu nhưng thị
trường chứng khốn toàn cầu đã hồi phục sau
khi chạm đáy vào tháng 12/2018. Việc FED và
ngân hàng trung ương châu Âu ECB vẫn duy trì
đổi chính sách lãi suất là yếu tố chủ chốt tại
điều kiện cho thị trường phục hồi.
Cá dòn v n
v o á n ớ p át tr ển
v mớ nổ ũn đ ợ ồ p ụ . Quỹ đầu tư cổ
phiếu và trái phiếu của nhóm nước này đã thu
hút được 7,7 tỷ USD trong tuần đầu của tháng
2/2019. Đây là mức thu hút tính theo tuần cao
nhất kể từ tháng 7/2016.
1.5. C ín
đố




t ền t v

b n đ n

tỷ

á

Chính sách tiền tệ tại các nền kinh tế
Năm 2018 chứng kiến diễn biến trái chiều
về chính sách tiền tệ tại các nền kinh tế trên thế
giới. Mỹ đã tăng 4 đợt lãi suất trong năm 2018
và duy trì mức mới là 2.25%-2.5%. Kế hoạch
Mỹ có thể tăng lãi suất thêm 1 lần nữa chưa
được nhắc đến trong quý 1 năm 2019. Anh đã
tăng lãi suất từ tháng 8/2018 và đang duy trì ở
mức 0,75%, đạt mức cao nhất kể từ tháng 3
năm 2009 đến nay. Trong khi các nền kinh tế
lớn khác như EU, Nhật Bản và Trung Quốc đều
giữ nguyên lãi suất cho đến nay. Việc Mỹ tăng
lãi suất trong khi EU, Nhật và Trung Quốc
không tăng lãi suất đã và sẽ tiếp tục tác động
đến hoạt động chi tiêu, đầu tư, tác động đến
diễn biến luồng vốn cũng như các dịng chu
chuyển tài chính trên tồn cầu, đồng thời đặt thế
giới trước áp lực gia tăng nợ cơng.
Biến động tỷ giá hối đối
Đồng Euro mất giá liên tục so với đồng
đôla Mỹ trong suốt năm 2018 và kéo dài đến

quý 1 năm 2019. Đồng Yên Nhật cũng mất giá
liên tục so với đôla Mỹ, ngoại trừ quý 4 năm
2018. Đồng Nhân dân tệ mất giá mạnh trong
quý 2, sau đó giữ được ổn định cho tới nay.


10

N.C. Nhung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-20

Những xu hướng biến động của đồng đôla Mỹ
so với các đồng tiền mạnh là do Fed đã tăng 4
đợt lãi suất trong năm 2018 vào ngày
22/3/2018, 13/6/2018, 27/9/2018 và 19/12/2018
trong khi EU, Nhật Bản và Trung Quốc giữ
nguyên lãi suất. Xu hướng này diễn ra tương tự
với đồng bảng Anh. Tuy nhiên, đồng bảng Anh
đã tăng giá trở lại so với đôla Mỹ ngay sau khi
Anh quyết định tăng lãi suất từ tháng 8/2018
lên mức 0,75% và có xu hướng biến động tăng
giảm cho đến nay.
k

Hình 5. Tỷ giá hối đối giữa USD và các đồng tiền
của các nền kinh tế đối tác chủ chốt.
(Thời gian từ 1/1/2018 đến 19/3/2019)
uồn: Pacific Exchange Rate Services

Kinh tế Mỹ năm 2019 khó giữ được đà tăng
trưởng như năm 2018. Tuy nhiên, trong bối

cảnh kinh tế châu Âu, Anh, Nhật và Trung
Quốc đều đang đà giảm dần sẽ tiếp tục hỗ trợ
cho đồng đôla Mỹ tăng giá. Như vậy, đồng đôla
Mỹ sẽ vẫn tiếp tục tăng giá nhẹ và sẽ vẫn được
các nhà đầu tư lựa chọn làm kênh trú ẩn
an toàn.
2. Tổng quan kinh tế Việt Nam
Tăng trưởng kinh tế
Khép lại năm 2018, kinh tế Việt Nam ghi
nhận tăng trưởng ấn tượng ở mức 7,08%, vượt
xa mục tiêu đặt ra từ đầu năm ở mức 6,7%. Con
số này cao hơn nhiều các nước trong khu vực
và cao nhất trong 10 năm qua kể từ cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới năm 2008 nhờ vào động
lực chính là ngành công nghiệp chế biến chế tạo
và ngành dịch vụ. Đó là nhờ năm 2018 là năm
có giá trị xuất siêu lớn nhất từ trước đến nay với
mức 7,2 tỷ USD. Ngồi ra, đó cũng một phần
nhờ nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư kinh
doanh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát
triển, tăng năng lực cạnh tranh toàn cầu (Global
Competitiveness Index, GCI) của Việt Nam (từ
vị trí mức 60 năm 2016-2017 lên vị trí 55 năm
2017-2018 trong số 137 nước được đánh giá).
Tuy nhiên, nếu so sánh trong ASEAN, Việt
Nam đứng sau hầu hết các nước, chỉ đứng trên
Phillipinese 1 bậc và cách xa Lào và
Campuchia. Chỉ số sản xuất cơng nghiệp (IIP)
tháng 2/2019 ước tính giảm 16,8% so với tháng
1/2019. Mức giảm này là do đợt nghỉ dài Tết

nguyên đán trong tháng 2. Tuy nhiên, nếu so
với cùng kỳ năm 2018, chỉ số IIP tháng 2/2019
tăng 10,3%. Tính chung 2 tháng đầu năm 2019,
chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng
9,2% so với cùng kỳ năm 2018, thấp hơn mức
tăng 13,7% của cùng kỳ năm 2018 nhưng cao
hơn nhiều mức tăng của cùng kỳ năm 2017
(tăng 2,4%), và 2016 (tăng 6,6%). Doanh thu
bán lẻ hàng hóa 2 tháng đầu năm nay ước tính
đạt 613,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 77,3% tổng
mức và tăng 14,4% so với cùng kỳ năm trước.


N.C. Nhung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-20

Lạm phát được duy trì ở mức mục tiêu dưới
4%. Năm 2018 tiếp tục là năm Việt Nam kiểm
sốt lạm phát thành cơng với chỉ số CPI bình
quân năm 2018 tăng 3,54% so với năm 2017 và
tăng 2,98% so với tháng 12 năm 2017. Tỷ lệ
lạm phát hàng năm ở Việt Nam tăng lên 2,64%
trong tháng 2 năm 2019 từ 2,56% trong tháng 1,
do giá thực phẩm tăng nhanh hơn (7,08% so với
6,6%) và vật liệu xây dựng và nhà ở (1,72% so
với 0,94%). Trong khi đó, lạm phát giảm nhẹ
đối với cả thực phẩm ngũ cốc (1,15% so với
2,06%) và hàng may mặc, giày dép, mũ (1,67%
so với 1,73%). Giá dầu thế giới có xu hướng
tăng trở lại trong quý 1 năm 2019 và có thể tiếp
tục tăng trong thời gian tới có thể sẽ tác động

nhất định tới lạm phát của Việt Nam.
Nợ cơng và cân đối ngân sách được kiểm
sốt đảm bảo các mục tiêu Quốc hội đề ra. Về
nợ, Việt Nam đã siết khá chặt, không để phát
sinh nợ mới và phần trả nợ lãi đã đưa vào chi
ngân sách hàng năm. Thâm hụt ngân sách giảm
nhờ thu NSNN tăng. Tổng thu cân đối ngân
sách Nhà nước trong năm 2018 đạt khoảng
1,422 triệu tỷ đồng, vượt 7,8% so với dự toán
năm. Trong đó, thu ngân sách Trung ương vượt
4,3%, thu ngân sách địa phương cũng vượt
12,5% so với dự toán. Doanh thu từ thoái vốn
nhà nước tại DNNN là nguồn bổ sung quan
trọng đối với sự ổn định tài khóa. Sau thành
cơng từ thối vốn và IPO năm 2017, q trình
này đã chậm lại trong năm 2018. Sang năm
2019, Bộ Tài chính lên kế hoạch ghi nhận 50
nghìn tỷ đồng từ thoái vốn và IPOs của DNNN,
cao hơn 50% so với kết quả ghi nhận 2018.
Bức tranh thương mại Việt Nam
• Những đặc điểm chính trong hoạt động
thương mại của Việt Nam
ép l năm 20 8 t ơn m
t
m
đ t đ ợ n ữn k t quả lớn đón óp v o sự
p át tr ển un
nền k n t . ăm 2018,
t ơn m
t

m đã đ t mụ t êu đặt
ra (tổn k m n
xu t k ẩu tăn k oản
0% tỷ l n ập s êu so vớ tổn k m n
xu t
k ẩu d ớ 3%) v t p tụ tăn tr ởn
o
tron đó xu t k ẩu t p tụ du trì đ tăn
tr ởn m n v tăn
o ơn
o ơn
n ậpk ẩu. Cán n t ơn m
t
m

11

đ t t ặn d năm t ứ b l ên t p ở mứ t ơn
đ
o.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa
của cả nước năm 2018 đạt 480,17 tỷ USD, tăng
12,2% (tương ứng tăng 52,05 tỷ USD) so
với năm trước. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu
đạt 243,48 tỷ USD, tăng 13,2% và nhập khẩu
đạt 236,69 tỷ USD, tăng 11,1%.Kết thúc năm
2018, cán cân thương mại của Việt Nam đạt
thặng dư là 6,8 tỷ USD (Tổng cục Hải quan,
2019a).
Tuy nhiên, 2 t án đ u năm 20 9 t ơn

m
t m ó d u u su ảm.
Hai tháng đầu năm 2019, xuất khẩu có dấu
hiệu tăng trưởng chậm lại. Tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu hàng hóa của cả nước hai tháng đầu
năm 2019 đạt 72,29 tỷ USD, tăng 5% so với
cùng kỳ năm trước. Trong đó,kim ngạch xuất
khẩu đạt 36,11 tỷ USD, tăng 4,2% và nhập
khẩu đạt 36,18 tỷ USD, tăng 5,8% (Tổng cục
Hải quan, 2019b), dẫn đến thâm hụt 70 triệu
USD. Tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu 2
tháng đầu năm 2019 thấp hơn nhiều so với mức
2 tháng đầu năm của năm 2018 (nhập khẩu tăng
20,4% và xuất khẩu tăng 25,8%). Điều đó ngồi
lý do ảnh hưởng của nghỉ Tết nguyên đán, một
nguyên nhân quan trọng khác là xuất nhập khẩu
của khối FDI giảm mạnh.
ơn m
t
m vẫn p ụ t u
nặn nề v o k u vự FDI.
do n n
p
FDI ữ v trò l tá n n
t t ú đẩ
o t đ n t ơn m
t m v t p tụ
du trì t ặn d t ơn m
o. u n ên
m t đ ểm sán l t đ tăn tr ởn xu t k ẩu

k
do n n
p tron n ớ
o ơn
k
do n n
p FDI tron
t án đ u
năm 20 9.
Kim ngạch xuất nhập khẩu của khối doanh
nghiệp FDI trong năm 2018 đạt 313,21 tỷ USD,
tăng 11,7 so với năm 2017 và chiếm 65,2%
tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hóa của cả
nước. Trong đó, xuất khẩu hàng hóa của khối
doanh nghiệp FDI năm 2018 đạt 171,53 tỷ
USD, tăng 12,4% so với năm trước. Ở chiều
ngược lại, trị giá nhập khẩu của khối doanh
nghiệp FDI trong năm 2018 đạt 141,68 tỷ USD,
tăng 10,8% so với năm 2017. Điều đó dẫn đến


12

N.C. Nhung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-20

cán cân thương mại hàng hóa của khối doanh
nghiệp FDI trong năm đạt mức 29,85 tỷ USD.
Trong hai tháng đầu năm 2019, tổng trị giá
xuất nhập khẩu của khối doanh nghiệp FDIđạt
46,14 tỷ USD, tăng 2,6%so với cùng kỳ năm

2018. Trong đó, xuất khẩu hàng hóa của khối
doanh nghiệp FDI ở mức 24,95 tỷ USD, tăng
1,7% so với cùng kỳ năm trước. Ở chiều ngược
lại, trị giá nhập khẩu của khối doanh nghiệp
FDI đạt 21,19 tỷ USD, tăng 3,7% so với năm
2018. Từ đó, cán cân thương mại hàng hóa của
khối doanh nghiệp FDI đạt mức thặng dư trị giá
3,76 tỷ USD.Trong khi đó, cán cân thương mại
của khối doanh nghiệp nội địa tiếp tục mất cân
đối với mức thâm hụt trong 2 tháng đầu năm là
3,83 tỷ USD (tuy nhiên thấp hơn mức 4,80 tỷ
USD của 2 tháng đầu năm 2018).
Tuy nhiên, cần lưu ý là tốc độ tăng trưởng
thương mại của khối doanh nghiệp FDI thấp
hơn rất nhiều so với mức của cùng kỳ năm 2018
(xuất khẩu tăng 27,5% và nhập khẩu tăng
21%).Thêm vào đó, một điểm lạc quan trong 2
tháng đầu năm 2019 là tốc độ tăng xuất nhập
khẩu của khối doanh nghiệp trong nước tiếp tục
cao hơn tốc độ tăng của doanh nghiệp FDI. Đây
là điều khác biệt so với xu thế nhiều năm trước
bởi những năm trước đây, doanh nghiệp FDI
luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn doanh
nghiệp trong nước. Tuy nhiên, kể từ nửa cuối
năm 2018 đến nay,đã có sự đảo chiều khi tốc độ
tăng trưởng xuất nhập khẩu của doanh nghiệp
trong nước vượt doanh nghiệp FDI và xu hướng
này vẫn duy trì trong 2 tháng đầu năm 2019. Cụ
thể, trong 2 tháng đầu năm tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu của khối doanh nghiệp trong nước

đạt 26,15 tỷ USD, tăng 9,5%, trong khi đó, xuất
nhập khẩu của khu vực doanh nghiệp FDI đạt
46,14 tỷ USD, tăng 2,6%.
Cơ u xu t n ập k ẩu
t
m u
n
k ơn
ó sự b n đ n so vớ n ữn
năm tr ớ
8 nhóm hàng tăng trưởng xuất khẩu mạnh
trong năm 2018 là: hàng dệt may (tăng 4,37 tỷ
USD); điện thoại các loại và linh kiện (tăng
3,81 tỷ USD); máy móc thiết bị dụng cụ và phụ
tùng (tăng 3,64 tỷ USD); máy vi tính sản phẩm
điện tử và linh kiện (tăng 3,43 tỷ USD); giày

dép các loại (tăng 1,56 tỷ USD); máy ảnh máy
quay phim và linh kiện (tăng 1,44 tỷ USD); sắt
thép các loại (tăng 1,4 tỷ USD); gỗ và sản phâm
gỗ (tăng 1,21 tỷ USD)(Tổng cục Hải quan,
2019a).
10 nhóm hàng đóng góp lớn nhất vào kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2018 lần
lượt là: (i) điện thoại các loại và linh kiện; (ii)
hàng dệt may; (iii) máy vi tính, sản phẩm điện
tử & linh kiện; (iv) máy móc thiết bị dụng cụ &
phụ tùng; (v) giầy dép các loại; (vi) gỗ và sản
phẩm từ gỗ; (vii) phương tiện vận tải và phụ
tùng;(viii)máy ảnh, máy quay phim, linh kiện;

(ix); sắt thép và (x)sản phẩm từ sắt thép. Trong
hai tháng đầu năm 2019, đóng góp quan trọng
vào quy mơ hàng hố xuất khẩu là hàng dệt
may; tiếp đó là máy vi tính, sản phẩm điện tử và
linh kiện; giầy dép các loại; gỗ và sản phẩm gỗ.
Tuy nhiên, xuất khẩu của nhóm hàng lớn nhất
năm 2018 là điện thoại và linh kiện suy giảm.
Cơ u n ập k ẩu
Trong năm 2018, 10 nhóm hàng nhập khẩu
lớn nhất của Việt Nam lần lượt là: (i) máy vi
tính, sản phẩm điện tử & linh kiện; (ii)nguyên
phụ liệu ngành dệt may, da giầy; (iii)chất dẻo
nguyên liệu và sản phẩm; (iv) vải các loại; (v)
hoá chất và sản phẩm; (vi) sắt thép; (vii) kim
loại thường khác; (viii) dầu thô; (ix) than các
loại; (x) sản phẩm từ kim loại thường. Trong
hai tháng đầu năm 2019, các nhóm có kim
ngạch nhập khẩu tăng thêm nhiều nhất là Máy
móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng; dầu thơ tăng;
máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; ô tô
nguyên chiếc các loại. Trong khi đó, giống xuất
khẩu, nhập khẩu điện thoại và linh kiện
giảm sút.
Như vậy, cơ cấu nhập khẩu cũng hầu như
khơng có sự thay đổi so với các năm trước và
tập trung vào các máy móc thiết bị, linh kiện và
nguyên vật liệu phục vụ cho xuất khẩu. Điều đó
tiếp tục đặt ra bài tốn cho Việt Nam về câu
chuyện “phát triển các ngành phụ trợ”, “nền
kinh tế gia công” và những giải pháp để vượt

qua “bẫy kinh tế gia công”.
Cơ u t ị tr n xu t n ập k ẩu k á ổn
địn vớ run u vẫn l t ị tr n lớn n t


N.C. Nhung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-20

Trong năm 2018, thị trường xuất nhập khẩu
lớn nhất của Việt Nam là châu Á, đạt 321 tỷ
USD, chiếm đến 66,9% tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu cả nước, trong đó riêng thương mại
với Trung Quốc đạt 106,71 tỷ USD. Tiếp theo
là khu vực châu Mỹ (78,37 tỷ USD) và châu Âu
(64,11 tỷ USD). Châu Đại Dương và châu Phi
vẫn là hai thị trường thương mại nhỏ của Việt
Nam với kim ngạch tương ứng là 9,31 tỷ USD
và 6,98 tỷ USD. Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn
nhất của Việt Nam, tiếp theo là EU và Trung
Quốc. Trong khi đó, thị trường nhập khẩu lớn
nhất của Việt Nam là Trung Quốc, tiếp đó là
Hàn Quốc và ASEAN.
Tình hình đầu tư của Việt Nam
Theo Báo cáo của Bộ Tài chính, tổng số
vốn chi đầu tư phát triển theo kế hoạch là
416.800 tỷ đồng. Trong đó, vốn trong nước là
369.300 tỷ đồng và vốn nước ngoài là 47.500 tỷ
đồng. Tổng kế hoạch vốn đầu tư đã được Thủ
tướng Chính phủ giao là 355.617,901 tỷ đồng,
đạt 85,32% so với kế hoạch Quốc hội giao.
Như vậy còn hơn 58.319 tỷ đồng chưa được

Thủ tướng giao vốn do chưa đủ điều kiện.
Ước giải ngân trong 2 tháng đầu năm vừa
qua là 4,52% kế hoạch vốn, cao gấp 2,31 lần
cùng kỳ năm 2018 nhưng vẫn ở mức thấp.
Nguyên nhân dẫn tới việc giải ngân thấp là do
những tháng đầu năm trùng với kỳ nghỉ lễ và kế
hoạch vốn đầu tư nguồn ngân sách nhà nước
mới được giao Hiện nay, các bộ, ngành, địa
phương mới cơ bản hoàn thành việc phân bổ chi
tiết cho các dự án, nhập dự toán trên hệ thống,
các chủ đầu tư đang hoàn thiện thủ tục đấu
thầu, hoàn thiện hồ sơ tạm ứng, thanh toán theo
quy định.
Để đẩy nhanh tiến độ giải giao vốn, Bộ Tài
chính đã có hoạt động chỉ đạo các bộ, ngành và
địa phương đến nay chưa phân bổ chi tiết hoặc
chưa phân bổ hết kế hoạch vốn năm 2019 khẩn
trương phân bổ chi tiết kế hoạch vốn cho các dự
án theo đúng quy định và gửi các cơ quan chức
năng làm cơ sở triển khai thực hiện và thanh
toán vốn cho các dự án. Để tăng tốc độ giải
ngân đầu tư công trong những tháng tới, các
chủ đầu tư được chỉ đạo phải khẩn trương hoàn
thiện các thủ tục về phê duyệt thiết kế, dự tốn,

13

thủ tục đấu thầu; đơn đốc các nhà thầu đẩy
nhanh tiến độ thi cơng để có khối lượng giải
ngân; tập trung hồn thiện các thủ tục nghiệm

thu, thanh tốn vốn ngay từ các tháng đầu năm;
rà soát các vướng mắc trong việc thực hiện và
thanh toán để kịp thời xử lý.
u t n ớc ngoài ở Vi t Nam
Năm 2018 ghi nhận những thành công nổi
bật của Việt Nam trong thu hút đầu tư nước
ngoài, với tổng vốn đầu tư cấp mới, tăng thêm
và cả vốn đầu tư qua góp vốn, mua cổ phần là
trên 35,46 tỷ USD. Đặc biệt, theo Cục đầu tư
nước ngoài trong năm 2018, vốn đầu tư nước
ngoài giải ngân đã đạt mức kỷ lục, với 19,1 tỷ
USD, tăng 9,1% so với cùng kỳ năm 2017.
Tính đến 20/2/2019, tổng vốn đăng ký cấp
mới, tăng thêm và góp vốn mua cổ phần của
nhà đầu tư nước ngoài là 8,47 tỷ USD, tăng hơn
2,5 lần so với cùng kỳ năm 2018. Ước tính các
dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giải ngân
được 2,58 tỷ USD, tăng 9,8% so với cùng kỳ
năm 2018. Đây cũng là mức tăng cao nhất của 2
tháng đầu năm trong vòng 3 năm trở lại đây cả
về giá trị và tốc độ tăng.
u t trực ti p n ớc ngoài ti p tục là m t
kênh cung c p v n đ u t qu n tr ng cho nền
kinh t Vi t
m đồng th đón óp lớn cho
kim ng ch xu t nhập khẩu. Xuất khẩu của các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi (kể cả
dầu thơ) đạt 25,95 tỷ USD, tăng 3,7% so với
cùng kỳ năm 2018 và chiếm 70,7% kim ngạch
xuất khẩu. Nhập khẩu của khu vực này đạt

21,47 tỷ USD, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm
2018 và chiếm 58,4% kim ngạch nhập khẩu.
Tính chung trong 2 tháng đầu năm 2019, trong
khi cả nước nhập siêu 84 triệu USD thì khu vực
đầu tư nước ngồi vẫn xuất siêu 4,48 tỷ USD kể
cả dầu thô và xuất siêu 3,84 tỷ USD không kể
dầu thô.
Cơ u lĩn vự FDI v o
t
m năm
20 8 v quý đ u năm 20 9 t p tụ
u ển b n

ự vớ p n lớn á dự án FDI tập trun
v o lĩn vự ôn n
p
b n
t o; x
dựn k n do n b t đ n sản dị vụ bán
buôn bán lẻ. Trong 2 tháng đầu năm
2019, các nhà đầu tư nước ngồi đã ập trung
nhiều nhất vào lĩnh vực cơng nghiệp chế biến,


14

N.C. Nhung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-20

chế tạo với tổng số vốn đạt 6,93 tỷ USD, chiếm
81,8% tổng vốn đầu tư đăng ký. Lĩnh vực hoạt

động kinh doanh bất động sản đứng thứ hai với
tổng vốn đầu tư 478 triệu USD, chiếm 5,6%
tổng vốn đầu tư đăng ký. Điểm sáng trong lĩnh
vực thu thút vốn FDI là hoạt động chuyên môn,
khoa học công nghệ đứng thứ 3 với tổng vốn
đầu tư đăng ký là 306,7 triệu USD, chiếm 3,6%
tổng vốn đầu tư đăng ký.
óm á n đ u t lớn vào Vi t Nam duy
trì ồn định trong nhữn năm n đ . Nhật
Bản, Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc,
Hongkong, Thái Lan thuộc nhóm các đối tác
đầu tư lớn tại Việt Nam. Trong 2 tháng đầu năm
2019, Hồng Kông dẫn đầu với tổng vốn đầu tư
4,3 tỷ USD, chiếm 51% tổng vốn đầu tư;
Singapore đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư
979,1 triệu USD, chiếm 11,5% tổng vốn đầu tư
vào Việt Nam; Hàn Quốc đứng vị trí thứ 3 với
tổng vốn đầu tư đăng ký là 873 triệu USD,
chiếm 10,3% tổng vốn đầu tư. Các ví trí tiếp
theo thuộc về Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan.
ut
a Vi t m r n ớc ngồi
Tính chung trong 2 tháng đầu năm 2019,
tổng vốn đầu tư Việt Nam ra nước ngoài cấp
mới và tăng thêm đạt 6,25 triệu USD bao gồm
có 01 dự án tại Myanmar điều chỉnh vốn đầu tư
với vốn đầu tư Việt Nam tăng thêm là 200
nghìn USD và 5 dự án được cấp giấy chứng
nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài với tổng vốn
đầu tư bên Việt Nam là 6 triệu USD. Trong đó

có 3 dự án thuộc lĩnh vực bán buôn bán lẻ với
tổng vốn đầu tư bên Việt Nam là 5,6 triệu USD,
chiếm 89,5% tổng vốn đầu tư. Hai dự án còn lại
thuộc lĩnh vực hoạt động chuyên môn khoa học
công nghệ và thông tin và truyền thông. Các
nước nhận đầu tư của Việt Nam trong 2 tháng
đầu năm 2019 là Hoa Kỳ, Singapore, Phần Lan,
Nhật Bản.
Biến động lãi suất và tỷ giá hối đoái
Thị trường tiền tệ và ngoại hối chứng kiến
sự biến động của lãi suất huy động và tỷ giá có
xu hướng tăng mạnh vào những tháng cuối năm
2018. Đối với lãi suất liên ngân hàng, tính đến
ngày 31/10/2018, lãi suất liên ngân hàng đã
tăng ở tất cả các kỳ hạn so với đầu năm, tăng
trong khoảng từ 1,9 – 3,39 điểm phần trăm ở

các kỳ hạn ngắn và từ 0,01 – 0,62 điểm phần
trăm đối với các kỳ hạn từ 3 tháng trở lên. Mặc
dù lãi suất huy động tăng, nhưng do Ngân hàng
Nhà nước (NHNN) điều tiết chính sách tiền tệ
linh hoạt như bơm tiền qua OMO, phát hành tín
phiếu, ổn định lãi suất USD, và giảm mặt bằng
lãi suất cho vay trong nền kinh tế, mặt bằng lãi
suất cho vay VND không tăng mà phổ biến ở
mức 6 - 9%/năm đối với ngắn hạn; 9 11%/năm đối với trung và dài hạn.
Trong khi thị trường ngoại hối quốc tế
chứng kiến đôla Mỹ tăng giá so với hầu hết các
đồng tiền mạnh khác trong năm 2018 thì VND
biến động khá trái chiều so với các đồng tiền

mạnh ở thị trường ngoại hối trong nước. VND
chỉ mất giá gần 1,8% so với đồng đôla Mỹ, mất
giá so với Euro 3,6%, mất giá so với JPY 1,8%
và mất giá so với CNY 4,2% tính từ đầu năm
2018 đến nay. Như vậy, việc áp dụng chính
sách tỷ giá hối đoái trung tâm gắn VND với rổ
tiền tệ gồm 8 đồng tiền chưa thực sự thực chất.
Cụ thể, xu hướng biến động của VND/Euro có
nét tương đồng hoàn toàn so với biến động của
USD/Euro và JPY/USD trong suốt năm 2018.
Điều này chứng tỏ VND và CNY đều vẫn được
gắn khá chặt so với đồng đôla Mỹ. Tuy nhiên,
Trung Quốc điều hành để CNY mất giá sâu hơn
so với đồng đôla Mỹ nhằm tạo thuận lợi cho
các nhà xuất khẩu trong bối cảnh căng thẳng
thương mại Mỹ - Trung đang gia tăng. VND
tăng giá mạnh so với CNY lại là điều bất lợi
cho các nhà xuất khẩu của Việt Nam sang
Trung Quốc. Nhưng đối với các nhà nhập khẩu
hàng hóa từ Trung Quốc nếu họ sử dụng đồng
CNY thì lại có lợi hơn so với lựa chọn đồng
đơla Mỹ để thanh tốn. Bởi vì, đồng đơla Mỹ
tăng giá làm hàng hóa nhập khẩu quy ra VND
có giá cao hơn trong khi CNY mất giá so với
VND thì hàng hóa nhập khẩu thanh tốn bằng
CNY quy ra VND có giá rẻ hơn (Hình 8).
3. Triển vọng kinh tế tồn cầu và Việt Nam
năm 2019, hàm ý chính sách cho Việt Nam
Những bất ổn địa chính trị và tranh chấp
thương mại giữa Mỹ và các nước đối tác vẫn



N.C. Nhung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-20

chưa có chiều hướng giảm sẽ tiếp tục gây ảnh
hưởng tiêu cực đến dòng chảy thương mại và
đầu tư của các nền kinh tế chủ chốt và từ đó sẽ
tác động tới tăng trưởng kinh tế tồn cầu.

Hình 8. Tỷ giá hối đối giữa VND và các đồng tiền
của các nền kinh tế đối tác chủ chốt.
(Thời gian từ 1/1/2018 đến 19/3/2019)
uồn: Pacific Exchange Rate Services

Dự đoán tron năm 20 9 t ơn m to n
u vẫn t p tụ tăn tr ởn n n vớ t đ
ậm ơn, phản chiếu bức tranh của những

15

căng thẳng và mâu thuẫn giữa các đối tác
thương mại lớn tồn cầu, những bất ổn trong
chính sách kinh tế tồn cầu và những phản ứng
của chính sách tài chính tiền tệ trước những
căng thẳng đó. Theo dự báo của WTO, lượng
thương mại toàn cầu sẽ tăng với tốc độ 3,7%
trong năm 2019 (đã điều chỉnh theo thời vụ),
trong đó lượng thương mại của các nước phát
triển tăng 3,3% và của các nước đang phát triển
tăng 4,5%. Dự báo lượng thương mại của các

nước châu Á vẫn tăng với tốc độ cao nhất là
4,9%, tiếp theo là châu Mỹ (3,6%) và châu Âu
(3,2%). Sự su
ảm t ơn m to n u năm
20 9 do m t s n u ên n n.
ứ n t các biện pháp hạn chế thương
mại mà các quốc gia áp dụng trong năm 2018
bắt đầu thể hiện những tác động tiêu cực dến
thương mại toàn cầu, thêm vào đó là xu hướng
tiếp tục gia tăng các biện pháp bảo hộ trong
năm 2019.

, những tác động tiêu cực đó có thể
dẫn đến giảm đầu tư ở nhiều quốc gia trên thế
giới, thúc đẩy xu hướng đưa sản xuất về nước
của một số nước phát triển và các dòng vốn
chảy ra khỏi các nước đang phát triển, từ đó
quay trở lại tác động vào dịng thương mại tồn
cầu. Thêm vào đó, các chính sách tiền tệ thắt
chặt ở các nền kinh tế phát triển cũng làm
những bất ổn về tỷ giá hối đoái tăng lên trong
suốt năm 2019.
ứ b các yếu tố liên quan đến cơ cấu, ví
dụ như sự tái cấu trúc của nền kinh tế Trung
Quốc, theo đó Trung Quốc đang tái cân bằng lại
nền kinh tế bằng cách giảm đầu tư và hướng tới
tiêu dùng nội địa nhiều hơn, từ đó sẽ ảnh hưởng
đến nhu cầu nhập khẩu. Bên cạnh đó, sự tăng
trưởng kinh tế chậm lại của Trung Quốc và EU
cũng làm hạn chế sự gia tăng nhu cầu nhập

khẩu của thế giới.
ứ t những lo ngại về diễn biến khó
lường của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung,
khả năng leo thang của cuộc chiến và khả năng
gia tăng phạm vi của cuộc chiến thương mại
này là một trong những yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến thương mại toàn cầu năm 2019.
Ngày2/12/2018, sau cuộc gặp song phương
giữa Tập Cận Bình và Donald Trump bên lề hội


16

N.C. Nhung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-20

nghị thượng đỉnh G20, hai bên đã đạt được một
số thoả thuận mới,đồng ý sẽ tránh cho cuộc
chiến thương mại leo thang và hoãn áp đợt thuế
mới lên hàng hoá của nhau trong 90 ngày. Thoả
thuận 90 ngày đình chiến mà hai nước đạt được
vào tháng cuối cùng của năm 2018 có thể coi là
một diễn biến khá tích cực.
Kể từ sau ngày 2/12, khi Mỹ quyết định
hoãn kế hoạch tăng thuế từ 10% lên 25% dự
kiến áp dụng vào 1/1/2019 và không áp thuế
mới lên 267 tỷ USD hàng hóa từ Trung Quốc,
những căng thẳng trong cuộc chiến dường như
lắng xuống trong khoảng thời gian đầu năm
2019. Ngày 30/1/2019, Mỹ và Trung Quốc đã
bắt đầu tiến hành vòng đàm phán thương mại

quan trọng tại Washington. Gần đây nhất, Mỹ
và Trung Quốc đã tiến hành đàm phán thương
mại cấp cao vào ngày 14-15/2/2019. Tuy không
thật sự đạt được một kết quả cụ thể, nhưng hai
bên cũng thể hiện rõ thiện chí trong việc đi đến
một thoả thuận cuối cùng, đặc biệt Trung Quốc
đang phải nhượng bộ nhiều hơn. Bước nhượng
bộ gần đây nhất là vào ngày 15/3/2019, Quốc
hội Trung Quốc chính thức thơng qua Luật đầu
tư nước ngoài nhằm cải thiện sự minh bạch của
các chính sách đầu tư nước ngồi ở Trung Quốc
và đảm bảo doanh nghiệp nội địa, doanh nghiệp
nước ngoài được cạnh tranh bình đẳng. Luật
sửa đổi có 3 điểm nổi bật: (i) Nhập ba bộ Luận
gồm Luật doanh nghiệp liên doanh nước ngoài,
Luật doanh nghiệp tài trợ nước ngoài và Luật
doanh nghiệp Trung Quốc hợp tác với nước
ngoài; (ii) Hạ thấp các rào cản thị trường; (iii)
Yêu cầu chính quyền các cấp khơng được ban
hành bất kỳ quy định mang tính hành chính nào
về việc u cầu doanh nghiệp nước ngồi phải
chuyển giao cơng nghệ. Thay vào đó, việc
chuyển giao hay không là quy định vấn đề kĩ
thuật do các bên tự thoả thuận với nhau. Luật
Đầu tư nước ngoài này được thông qua cũng
nhằm vào một mục tiêu quan trọng là giảm áp
lực từ cuộc chiến thương mại với Mỹ.
Tuy nhiên, đình chiến chưa phải là kết thúc,
và liệu cuộc đình chiến này sẽ thật sự kéo dài
được bao lâu là những yếu tố khó lường.

ều
k ả năn u
n t ơn m n k ó
m
dứt sớm bở ả n ữn lý do xu t p át từ p í

Mỹ v run
u . Về phía Mỹ, cuộc chiến
tranh thương mại được khởi xướng có ngun
nhân địa chính trị sâu sa, chứ không phải là lý
do bề nổi về thâm hụt chiến tranh thương mại
và thương mại không công bằng. Thêm vào đó
việc đánh thuế và duy trì sức ép thương mại với
Trung Quốc dường như sẽ là một phần trong
chiến lược tái tranh cử vào năm 2020 của
Donald Trump, do vậy khó có thể kết thúc sớm.
Về phía Trung Quốc, mặc dù Trung Quốc đã
nhượng bộ nhiều hơn, nhưng những nhượng bộ
của Trung Quốc dường như chưa đủ. Ví dụ
Trung Quốc đã cam kết thực hiện các chương
trình trợ cấp cơng nghiệp tuân thủ các quy tắc
của Tổ chức Thương mại thế giới và khơng gây
méo mó thị trường, nhưng khơng đưa ra thông
tin chi tiết về cách Trung Quốc sẽ đạt được điều
này như thế nào. Hay những sửa đổi trong Dự
thảo Luật đầu tư nước ngoài của Trung Quốc
vẫn còn nhiều điều khoản mơ hồ, thiếu các chi
tiết về thực thi và chưa đủ để đáp ứng các yêu
cầu của Mỹ đưa ra. Ngồi ra, hai bên vẫn cịn
những bất đồng về vấn đề doanh nghiệp nhà

nước, trợ cấp. Trung Quốc tuy nhượng bộ
nhưng vẫn có những kiên định trong chính sách
kinh tế như các chính sách liên quan đến vai trị
của doanh nghiệp nhà nước và Chương trình
“Made in China 2025”. Do đó, khi những nguy
cơ tiếp tục leo thang chiến tranh thương mại
vẫn tồn tại, đây sẽ là sức ép lớn làm giảm tốc
thương mại toàn cầu năm 2019.
ứ năm sự suy giảm vai trò của WTO vẫn
tiếp tục trầm trọng thêm khi WTO chưa đưa ra
được các chiến lược và giải pháp để cải tổ hệ
thống thương mại đa phương này, thêm vào đó
là khả năng Mỹ sẽ rút khỏi WTO như Donald
Trump đã tuyên bố. Do đó, với WTO, cải tổ
WTO sẽ cần là ưu tiên hàng đầu cho năng 2019
để tạo ra những động lực mới cho tăng trưởng
thương mại toàn cầu.
Các nước OPEC đang nỗ lực tái cân bằng
cung cầu trên thị trường dầu mỏ nên giá dầu thế
giới có thể sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới.
Những căng thẳng thương mại có thể vẫn tiếp
diễn và sẽ tạo ra những bất ổn định ngay trên
các thị trường tài chính, tiền tệ toàn cầu, gây
cản trở tăng trưởng toàn cầu trong những năm


N.C. Nhung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-20

tới. Tăng trưởng của Mỹ có giảm nhẹ nhưng
nhờ có sự tăng trưởng của một số nước ở châu

Á nên tăng trưởng toàn cầu năm 2019 chỉ giảm
nhẹ so với năm 2018.
Triển vọng kinh tế Việt Nam
Kinh tế Việt Nam đón nhận nhiều tín hiệu
tích cực như bội chi ngân sách giảm đáng kể,
cán cân thương mại thặng dư trong đó FDI vẫn
giữ vai trị là tác nhân chủ chốt thúc đẩy hoạt
động thương mại của Việt Nam gia tăng. Tuy
nhiên, thương mại của Việt Nam vẫn tiếp tục
phụ thuộc lớn vào khu vực FDI (FDI chiếm tới
75% giá trị xuất khẩu) mà khơng có nhiều sản
phẩm thể hiện sự chuyển giao công nghệ ở Việt
Nam cũng như chưa có sức bật nội lực từ các
doanh nghiệp trong nước. Lĩnh vực mà dòng
vốn FDI vào chủ yếu tập trung vào ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo góp phần đẩy mạnh
q trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Năm 2019, thương mại Việt Nam sẽ đối
mặt với những thách thức. Ngồi những thách
thức như đã phân tích ở trên cho thương mại
toàn cầu như những diễn biến khó lường của
chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, gia tăng
hàng rào thương mại, thay đổi chuỗi cung ứng
và dòng vốn đầu tư, chính sách tiền tệ thắt
chặt…, Việt Nam cịn phải đối mặt với những
khó khăn nội tại như việc tham gia các Hiệp
định thương mại tự do thế hệ mới (CPTPP,
EVFTA…) yêu cầu Việt Nam cần có những cải
cách cao hơn để thực hiện đầy đủ các cam kết
quốc tế cả về thuế quan, hàng rào phi thuế quan,

sở hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ, phát triển
bền vững… Thêm vào đó, hạn chế về trình độ
cơng nghệ dẫn đến Việt Nam sẽ có nhiều thách
thức trong việc phát triển các xu hướng thương
mại mới một cách bền vững như thương mại số,
thương mại điện tử qua biên giới…
Mỹ và Trung Quốc là hai đối tác lớn của
Việt Nam nên cả tác động tích cực và tác động
tiêu cực từ cuộc chiến thương mại giữa hai
quốc này đến Việt Nam đều lớn. Do đó, nếu
Việt Nam biết tận dụng những khía cạnh tích
cực, vượt qua những khía cạnh tiêu cực thì Việt
Nam có khả năng tạo đột phá trong thương mại.
M t mặt
n tr n t ơn m Mỹ - Trung
đem đ n n ữn sứ ép mớ khi Việt Nam sẽ

17

đứng trước nguy cơ nhập siêu trầm trọng hơn từ
thị trường Trung Quốc, gia tăng cạnh tranh trên
thị trường nội địa khi cả Mỹ và Trung Quốc có
thể đẩy mạnh xuất khẩu sang Việt Nam. Các
nước khác cũng muốn chớp cơ hội từ cuộc
chiến thương mại để đẩy mạnh xuất khẩu sang
Mỹ và Trung Quốc nên việc Việt Nam tăng
xuất khẩu sang hai thị trường này không phải là
điều dễ dàng. Thêm vào đó, Việt Nam cịn đứng
trước nguy cơ Trung Quốc có thể mượn đường
Việt Nam, lách luật để xuất khẩu vòng sang thị

trường Mỹ và từ đó ảnh hưởng đến quan hệ
thương mại Việt Nam - Mỹ, khiến qua Việt
Nam có thể nằm trong nguy cơ bị Mỹ áp thuế
trong tương lai. u n ên u
n t ơn
m Mỹ - run m t mặt ũn ó n ữn tá
đ n tí
ự vớ
t m như đem lại cơ hội
tăng xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ và Trung
Quốc đối với các sản phẩm hai bên áp thuế lẫn
nhau, với các sản phẩm sử dụng sản phẩm bị áp
thuế làm nguyên liệu đầu vào. Việt Nam có thể
sẽ được hưởng lợi từ những thay đổi trong
chuỗi cung ứng khi các doanh nghiệp nước
ngoài chuyển một phần sản xuất ra khỏi Trung
Quốc để tránh các biện pháp khắt khe của Mỹ
áp dụng với hàng hoá sản xuất tại Trung Quốc.
Bên cạnh đó, ũn ó m t s n ữn
ut k á
t ú đẩ tí
ự t ơn m
t
m tron
năm 20 9.Đó là Việt Nam sẽ chịu những tác
động tiêu cực từ nền kinh tế thế giới và cuộc
chiến thương mại Mỹ Trung, nhưng khả năng
chống chịu của nền kinh tế đã tốt hơn và nền
kinh tế đang được điều hành tốt hơn thông qua
các đợt điều chỉnh ngân hàng, thị trường chứng

khốn. Đó là tín hiệu lạc quan về khả năng Hiệp
định Thương mại Tự do Việt Nam - EU sẽ có
thể được thơng qua vào khoảng cuối tháng 5
năm nay; hiệp định CPTPP có hiệu lực sẽ đem
đến các cơ hội mới để đa dạng hoá thị trường
xuất khẩu. Ngoài ra, sự tăng trưởng kinh tế
mạnh mẽ của Hàn Quốc và sự tăng trưởng khá
vững vàng của EU -hai trong các đối tác thương
mại hàng đầu của Việt Nam cũng sẽ là những
yếu tố thúc đẩy thương mại của Việt Nam.
Bên cạnh đó, kinh tế vĩ mơ về cơ bản vẫn
được đảm bảo, lạm phát được dự báo trong tầm
kiểm soát, thanh khoản hệ thống ngân hàng


18

N.C. Nhung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-20

được duy trì tốt, dự trữ ngoại hối được duy trì ở
mức cao là căn cứ để đảm bảo tỷ giá và lãi suất
khơng có biến động quá lớn là điều kiện thuận
lợi ổn định kinh tế vĩ mô giúp cho tăng trưởng
kinh tế 2019.
4. Kết luận
Mơ hình tăng trưởng mặc dù có sự cải thiện
song chưa rõ rệt, tăng trưởng vẫn chủ yếu dựa
vào các nguồn lực như vốn đầu tư và tín dụng,
trong khi chất lượng, hiệu quả sử dụng các
nguồn lực này chưa cao. Chính sách mở cửa

cho hoạt động thương mại quốc tế và đầu tư
quốc tế đã giúp đẩy mạnh việc Việt Nam hội
nhập với nền kinh tế toàn cầu, tham gia vào
mạng lưới sản xuất khu vực và đa dạng hóa
xuất khẩu, tạo cơng ăn việc làm, cải thiện được
nguồn thu của nhà nước và cán cân thanh toán
quốc gia. Dòng FDI vào Việt Nam là động lực
quan trọng để Việt Nam phát triển kinh tế và
hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới. Số
lượng các dự án và quy mô các dự án FDI vào
Việt Nam đã tăng dần qua các năm. Tuy nhiên,
chất lượng lao động chưa được cải thiện cùng
năng lực khoa học - công nghệ ở mức thấp sẽ
ảnh hưởng tới lợi thế cạnh tranh của Việt Nam
trên thị trường quốc tế và gây khó khăn trong
khả năng thu hút các dịng vốn tới Việt Nam.
Trên cơ sở đánh giá tình hình kinh tế 2018,
cũng như xem xét triển vọng phát triển của các
nhân tố có thể tác động đến tăng trưởng kinh tế
Việt Nam trong năm 2019 bao gồm: tăng
trưởng kinh tế giới; chỉ số giá tiêu dùng thế
giới; giá dầu thế giới; một số đánh giá tác động
của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung; tỷ lệ
đầu tư/GDP; biến động tỷ giá, biến động lãi
suất; tăng trưởng tín dụng; nợ cơng, nhóm
nghiên cứu dự báo tăng trưởng GDP của Việt
Nam 2019 sẽ dao động trong khoảng
6,9%-7,1%.
H m ý ín sá
o

t m
Chính phủ Việt Nam cần chủ động đánh
giá, phân tích, dự báo tình hình thế giới và khu
vực để có chủ trương, đối sách phù hợp. Cần
tăng cường nền tảng kinh tế vĩ mô, cơ cấu lại

các ngành, lĩnh vực gắn với đổi mới mơ hình
tăng trưởng bao trùm, nâng cao năng suất, hiệu
quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
vớ lĩn vự t ơn m
Cần theo sát từng động thái và dự đoán các
kịch bản của cuộc chiến thương mại Mỹ Trung, hoạch định ra các giải pháp cho từng
kịch bản đó để ở thế s n sàng chuẩn bị cho mọi
khả năng, kể cả là khả năng xấu nhất. Chính
phủ cần cập nhật thường xun và nhanh chóng
danh mục hàng hoá bị áp thuế của Mỹ và Trung
Quốc cũng như tỷ giá USD/Nhân dân tệ và có
kênh thơng tin nhanh chóng cho doanh nghiệp
để doanh nghiệp có phản ứng kịp thời. Việt
Nam cũng cần tiếp tục thực hiện hiệu quả tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế, tiếp tục cải thiện
mơi trường đầu tư để đón đầu thu hút các doanh
nghiệp nước ngoài, gồm cả doanh nghiệp Mỹ
và doanh nghiệp nước khác đang đầu tư tại
Trung Quốc, nếu như có sự chuyển dịch đầu tư
ra khỏi Trung Quốc của các doanh nghiệp này.
Đồng thời, Việt Nam cũng nên cân nhắc một số
biện pháp để ngăn hàng hoá Trung Quốc
chuyển hướng ồ ạt sang thị trường Việt Nam
như sử dụng chính sách tỷ giá, áp dụng các biện

pháp phi thuế quan hợp lý và theo đúng luật
pháp quốc tế như tăng cường kiểm tra chất
lượng hàng hoá Trung Quốc tại các điểm kiểm
soát biên giới, nâng cao yêu cầu về chất lượng
đối với hàng hoá nhập khẩu Trung Quốc. Việc
Chính phủ nỗ lực giảm chi phí cho các nhà xuất
khẩu cũng như các doanh nghiệp sản xuất bằng
cách cắt giảm tối đa các thủ tục và giấy phép,
đồng thời tích cực hỗ trợ doanh nghiệp tìm
kiếm thị trường mới cũng là giải pháp cần thiết.
Về dài hạn, cần xác định rằng chiến lược cốt lõi
của Việt Nam để đối phó với những biến động
của tình hình kinh tế thế giới nói chung, cuộc
chiến thương mại nói riêng là thúc đẩy ổn định
vĩ mô, ổn định giá trị của VND,tăng cường thực
hiện các FTA đã ký kết để tăng xuất khẩu và
duy trì đà tăng trưởng, đồng thời tận dụng được
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 để thúc
đẩy sự phát triển của thương mại điện tử,
thương mại số, theo kịp những xu hướng mới
của thương mại quốc tế.


N.C. Nhung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-20

ớ do n n
p
t
m, cần quan sát
chặt chẽ động thái từ các thị trường, từ các

quyết định cấp vĩ mơ của các Chính phủ, các
diễn biến ở các thị trường quan trọng liên quan
đến tình hình tài chính, thị trường mua bán
hàng hóa tương lai, đến các quyết định của các
đối tác thương mại hiện tại và tiềm năng để có
ứng xử kịp thời với từng biến động. Các doanh
nghiệp cũng cần tìm hiểu kỹ cơ hội ở đâu, cơ
hội ở những mặt hàng nào, biên độ cơ hội như
thế nào và có hành động để chớp cơ hội. Ngoài
ra, các doanh nghiệp cần tận dụng triệt để
những FTA đang hoặc sẽ có hiệu lực, đặc biệt
là đón đầu được EVFTA và CPTPP để chủ
động tính tốn các biện pháp thích hợp tận dụng
cơ hội hoặc tránh thiệt hại ở mức có thể.
vớ đ u t n ớ n o
• Chủ động, theo dõi, đánh giá xu hướng
dịch chuyển dòng FDI trên thế giới đồng thời
không ngừng cải thiện môi trường đầu tư để tận
dụng vị thế của Việt Nam trong thị trường
ASEAN và cơ hội do các hiệp định thương mại
tự do tạo ra để thu hút vốn FDI.
• Trên thế giới, các đặc khu kinh tế đang
tiếp tục phát triển và đa dạng về hình thức.
Nhiều quốc gia đã chuyển đổi các khu chế xuất
thành các khu kinh tế mới khác như các khu
công nghệ cao, khu công nghiệp, khu kinh tế
mở xuyên biên giới.Tuy có nhiều rủi ro những
đây là chiến lược của một số quốc gia đã áp
dụng chính sách cơng nghiệp xây dựng và bắt
kịp, hướng đến mục tiêu thu hút một số ngành

công nghiệp cụ thể, kết nối các đặc khu để hỗ
trợ tăng trưởng kinh tế, tham gia vào chuỗi giá
trị tồn cầu. Do đó, Việt Nam cần sớm quyết
định hình thành các đặc khu kinh tế hoặc các
khu kinh tế xuyên biên giớinNghiên cứu, ban
hành cơ chế, chính sách thu hút các nhà đầu tư
chiến lược, các tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào
các đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt này.
• Trong ngắn hạn, Việt Nam cần tiếp tục thu
hút FDI vào các ngành có lợi thế như dệt may,
da giày nhưng ưu tiên tập trung vào các khâu
tạo giá trị gia tăng cao, gắn với quy trình sản
xuất thơng minh, tự động hóa. Trong dài hạn,
ưu tiên thu hút FDI vào các ngành công
nghệ cao, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo,

19

các ngành dịch vụ hiện đại, quy trình sản xuất
thơng minh, phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật
hiện đại, đặc biệt là các ngành nghề mới trên
nền tảng công nghiệp 4.0.
• Duy trì bền vững và khai thác hiệu quả
mối quan hệ với các đối tác chiến lược nhằm
tiếp cận với cơng nghệ hiện đại, trình độ quản
trị tiên tiến. Tạo sự liên kết, lan tỏa giữa doanh
nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước để các
doanh nghiêp Việt Nam dần nâng cấp cơng
nghệ, hình thành phát triển cơng nghiệp hỗ trợ
và phát triển cụm liên kết ngành theo từng

chuỗi giá trị, gia nhập mạng sản xuất và chuỗi
giá trị toàn cầu,
• Đầu tư FDI ra nước ngồi góp phần đáng
kể vào hoạt động đa dạng hóa hoạt động kinh
tế, chuyển giao công nghệ và nâng cấp năng lực
trong nước trong các ngành nghề ưu tiên.
Không chỉ thực hiện chức năng giám sát hành
chính và phê duyệt, cơ quan quản lý phải đẩy
mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư, tăng cường
công tác hỗ trợ, tư vấn và cung cấp thông tin
hữu tích về hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước
ngồi cho các doanh nghiệp Việt Nam
vớ lĩn vự t
ín t ền t
Việc điều hành tỷ giá, sau đúng 3 năm kể từ
ngày NHNN công bố áp dụng tỷ giá trung tâm
gắn theo 8 đồng tiền, thực tế diễn ra VND vẫn
luôn được gắn theo đồng đôla Mỹ. Trong bối
cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng, sự đa dạng
hóa các đồng tiền trong thanh tốn ngày càng
gia tăng thì việc áp dụng thực chất hơn nữa tỷ
giá trung tâm là rất cần thiết. Tuy nhiên, theo
kết quả của nhóm nghiên cứu, NHNN chỉ nên
áp dụng tỷ giá trung tâm gắn vào 5 đồng tiền
gồm USD, EUR, JPY, CNY và SGD trong đó
tỷ trọng của đồng USD là lớn nhất chứ khơng
nhất thiết phải gồm 8 đồng tiền như NHNN đã
công bố.
NHNN cần tiếp tục điều hành chính sách
tiền tệ chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ

với chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mơ
khác. Nếu Fed vẫn tiếp tục tăng lãi suất thêm 1
lần nữa trong năm 2019 như đã tuyên bố thì
trong thời gian tới VND sẽ tiếp tục có xu hướng
mất giá so với USD. Với sự kết hợp của chính
sách thắt chặt tiền tệ dần dần, chính sách quản


20

N.C. Nhung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-20

lý nhằm thu hẹp thâm hụt thương mại, và
khuyến khích các cơng ty Mỹ hồi hương tiền
mặt đang ở nước ngoài, cũng như những thay
đổi về quy định hạn chế việc tài trợ mua lại và
tài trợ xuyên biên giới có thể dẫn đến áp lực
huy động USD ở châu Á, tăng chi phí thanh
tốn bằng USD và sự mất giá của đồng nội tệ
trong khu vực. Việt Nam cần theo dõi và có
những phương án đối phó kịp thời với biến
động tỷ giá trong khu vực.
Tài liệu tham khảo
[1] Tổng cục Hải quan (2019a), Tình hình xuất khẩu,
nhập khẩu hàng hố của Việt Nam tháng 12 và
năm 2018, truy cập ngày 15/01/2019 tại
/>uan/ViewDetails.aspx?ID=1559&Category=Phân
%20t%C3%ADch%20định%20kỳ&Group=Phân
%20t%C3%Adch
[2] Tổng cục Hải quan (2019b), Tình hình xuất khẩu,

nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam tháng 2 và 2
tháng đầu năm 2019, truy cập ngày 15/03/2019 tại

[3]

[4]

[5]

[6]
[7]
[8]
[9]
[10]
[11]

/>uan/ViewDetails.aspx?ID=1612&Category=&Gro
up=Phân%20t%C3%ADch
WTO. (2019a). Monthy world trade data.
Retrieved
from:
/>erm_stats_e.htm
WTO. (2019b). World Trade Outlook Indicator.
Retrieved
from
Geneva
/>toi_19feb19_e.pdf
UNCTAD (2019).Investment Trends Monitor
Issue 31: Global FDI flows continue their in
2018. New York and Geneva: United Nation

WB (2018), Development Economics – Prospects,
December 2018
WB (2019a), Development Economics –
Prospects, January 2019
WB (2019b), Development Economics –
Prospects, February 2019
Websites:
/> />


×