Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Kinh tế thế giới - kinh tế đối ngoại của Việt Nam và ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.71 KB, 17 trang )

Kinh tế thế giới - kinh tế đối ngoại của Việt Nam và
ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế
(27/04/2004)
Trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới gần đây, công tác ngoại giao phục vụ nhiệm vụ
phát triển kinh tế đang đứng trước những nhiệm vụ cụ thể không thể thoái thác.
Sau thời kỳ tăng trưởng nhanh trong thập kỷ 90 (tốc độ đạt 3 – 4,5% năm), nền kinh tế thế
giới bước vào giai đoạn trì trệ và nhiều bất ổn do những tác động về an ninh, chính trị phức
tạp như sự kiện 11/9, cuộc chiến tại Ap-gan-nistan, cuộc chiến Iraq, bệnh dịch SARS. Bên
cạnh đó, sự đổ vỡ của thị trường chứng khoán công nghệ cao, thất bại của vòng đàm phán
Cancun, sự suy giảm của nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Tốc độ tăng trưởng trong 3 năm
trở lại đây giảm sút. Năm 2001 mức tăng trưởng thấp nhất (1,9%). Năm 2002 là 2,8%.
Năm 2003 khoảng 3,2%.
1. Kinh tế thế giới trong thời gian gần đây
1.1. Tình hình phát triển kinh tế thế giới.
Kinh tế Mỹ chiếm 30,5% GDP của thế giới, 25% buôn bán quốc tế, 46% thị trường cổ
phiếu và đóng góp 40% tăng trưởng kinh tế thế giới. Trong suốt hơn 9 năm (1991-2000),
kinh tế Mỹ tăng trưởng cao, liên tục và ổn định ở mức 2-4% và đạt mức kỷ lục 5,2% vào
năm 2000. Lần đầu tiên kể từ năm 1969, Mỹ có thặng dư ngân sách và duy trì trong 3 năm
liên tục (1998-2000), cao nhất đạt 237 tỷ USD vào năm 2000. Tỷ lệ lạm phát thấp, trung
bình 2%/năm (10 năm trước là 3,7%). Tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất, trung bình là 5,3% trong
10 năm. Chỉ trong 10 năm, năng suất lao động tăng gấp đôi, từ 1,5%/năm lên 3%/năm.
Nhưng từ khi Bush lên cầm quyền, kinh tế Mỹ bắt đầu trì trệ và khó khăn, đặc biệt từ sau
sự kiện 11/9/2001. Tốc độ tăng trưởng năm 2002 đạt 2,2% (2001 là 1,1%), thất nghiệp cao
(5,9%); thâm hụt thương mại ở mức cao kỷ lục (khoảng 420 tỷ USD, tăng 17% so với năm
2001); ngân sách thâm hụt 159 tỷ USD do chương trình cắt giảm thuế lớn (1350 tỷ USD
trong 11 năm từ 2002).
Các chính sách nới lỏng tài chính tiền tệ nhằm phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đã
được thực hiện : (i) duy trì lãi suất thấp nhất trong vòng 50 năm qua (1%); (ii) tăng đầu tư
công cộng, nhất là chi tiêu quốc phòng; (iii) giảm giá đồng Đô La để thúc đẩy xuất khẩu ;
(iv) tình trạng thâm hụt kép (cán cân thương mại và ngân sách).
Kinh tế các nước EU dần phục hồi những năm cuối thập kỷ 90. Nhưng trong mấy năm gần


đây lại tiếp tục trì trệ; chỉ đạt 1,1% vào năm 2002, trong đó khu vực đồng euro tăng 0,75%.
Kinh tế Đức, Pháp và Italia đều gặp khó khăn: tốc độ tăng trưởng giảm, thâm hụt ngân
sách tăng vượt quá 3% GDP (Đức, Pháp), tỷ lệ thất nghiệp ở mức cao (hơn 10% ở Đức và
9,3% ở Pháp), sản lượng công nghiệp giảm và đang có xu hướng giảm phát. Nếu vượt qua
khó khăn ngắn hạn, sức mạnh của cả khối được tăng cường (đồng EURO mạnh lên, kỳ luật
tài chính được duy trì, việc mở rộng Liên minh…) sẽ tạo động lực phát triển mới.
Kinh tế Nhật Bản suy thoái từ cuối những năm 1980. Riêng thập kỷ 90, Nhật Bản đã 3 lần
suy thoái. Kinh tế tăng trưởng chỉ khoảng 0,5% - 1%/ năm, thất nghiệp gia tăng cao, giảm
phát, tổng cầu nội địa thấp. Tổng số nợ khó đòi của 15 ngân hàng lớn nhất nước lên tới 395
tỷ USD (bằng 10% GDP), nợ của Chính phủ Nhật lên đến 140% GDP so với 62% của năm
1992. Các lĩnh vực được bảo hộ như tài chính, dịch vụ, nông nghiệp có sức cạnh tranh
thấp; xếp hạng cạnh tranh chung của kinh tế Nhật ngày càng giảm. Năm 2003, kinh tế Nhật
qua thời kỳ khó khăn nhất, tăng trưởng trên 1%. Xuất khẩu và dự trữ ngoại tệ tăng.
- Kinh tế các nước đang phát triển. Nhờ sự tăng trưởng cao và liên tục từ thập kỷ 60 đến
giữa những năm 90, kinh tế Đông á đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế
thế giới ( tăng trung bình 5-6%/năm). Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu á 1997
-1998 khiến khu vực này gặp nhiều khó khăn về kinh tế, chính trị và an ninh. Song quyết
tâm cải cách kinh tế của khu vực, đặc biệt cải thiện môi trường đầu tư nước ngoài, cải
cách hệ thống tài chính - ngân hàng, giải quyết các khoản nợ khó đòi; giảm lệ thuộc vào
các nền kinh tế lớn ... kinh tế các nước này đã phục hồi và phát triển song vẫn chưa ổn định
và còn nhiều bất ổn về kinh tế. Năm 2002, các nước đang phát triển Châu á tăng trưởng
6,1% (IMF), trong đó, Trung Quốc tăng gần 8%, Hàn Quốc đạt khoảng 6%, các nền kinh tế
Đông Nam á tăng trung bình 3,8%. Kinh tế Châu Mỹ Latinh gặp nhiều khó khăn trong hai
năm qua, chỉ tăng 0,6% ( 2002), trong đó nhiều nước không tăng trưởng (Achentina:
-13,5% do khủng hoảng kinh tế- tài chính).
- Kinh tế Trung Quốc duy trì tốc độ tăng trưởng cao trung bình gần 10%/năm suốt từ đầu
thập kỷ 80 đến nay. Đến nay, Trung Quốc đứng thứ hai thế giới về dự trữ ngoại tệ (trên
270 tỷ USD); thu hút đầu tư nước ngoài nhiều nhất khu vực; trở thành thị trường tiêu thụ
hàng đồng thời là nơi cung cấp hàng hoá cho thế giới (kim ngạch xuất nhập khẩu đứng
thứ 5 thế giới). Trong mấy năm gần đây, kinh tế Trung Quốc phát triển chậm lại, tuy vẫn

rất cao.
Nguyên nhân của sự khó khăn và trì trên của kinh tế thế giới trong mấy năn qua có
nhiều, trong đó phải kể đến khủng hoảng chu kỳ và cơ cấu, sự kiện 11/9, các cuộc chiến
tranh tại Ap-gan-nistan, Iraq, bất ổn về chính trị, an ninh của một số nước, khủng hoảng
kinh tế, tiền tệ khu vực và một số nước, dịch bệnh SARS....
Năm 2004 kinh tế thế giới có bước phục hồi mạnh mẽ hơn. Theo IMF, kinh tế thế giới có
thể tăng trưởng 4,1%, mức cao nhất kề từ năm 2000 trở lại đây, trong đó có nước công
nghiệp phát triển tăng trưởng 2,9%, các nước đang phát triển gần 6%. Một số nguyên nhân
có thể kể đến: (i) Chu kỳ suy thoái của các nước đã qua thời kỳ yếu nhất vào bước vào quá
trình phục hồi; (ii) Sự phục hồi của các ngành công nghệ cao (máy tính, phần mềm…); (iii)
Thương mại thế giới tăng trưởng, là động lực thúc đẩy kinh tế thế giới (dự kiến năm 2004
thương mại thế giới tăng 6,1%); (iv) Sự nổi lên về kinh tế và mở cửa của Trung Quốc sau
khi gia nhập WTO đưa Trung Quốc thành thị trường hấp dẫn trong những năm tới, nhất là
đối với các công ty xuyên quốc gia.
1.2. Quan hệ kinh tế quốc tế.
1.2.1. Thương mại quốc tế.
Những năm 90, thương mại thế giới phát triển mạnh và đạt mức cao kỷ lục trong năm
2000 với thương mại hàng hoá đạt 6,2 nghìn tỷ USD (tăng 12,5% so với năm 1999) và
thương mại dịch vụ đạt trên 1,4 nghìn tỷ USD (tăng 5%). Nếu tính chung tổng kim ngạch
thương mại hàng hoá và dịch vụ thì thương mại thế giới năm 2000 tăng khoảng 70% so với
thương mại thế giới năm 1990 (4,3 nghìn tỷ USD). Trong giai đoạn 1990-2000, thương
mại thế giới tăng trung bình 7%/năm trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới chỉ đạt
2,7%/năm.
Tuy nhiên, từ 2001 đến nay, thương mại quốc tế giảm hẳn tốc độ phát triển. Năm 2002,
thương mại thế giới chỉ tăng 1% so với năm 2001 với tổng kim ngạch thương mại hàng
hoá và dịch vụ trên 7,7 nghìn tỷ USD. Đáng chú ý, tốc độ tăng trưởng thương mại của các
nước đang phát triển trong năm qua (nhập khẩu tăng 3,8%, xuất khẩu tăng 3,2%) đạt khá
hơn các nước phát triển (nhập khẩu tăng 1,7% và xuất khẩu tăng 1,2%).
Với việc ra đời WTO (1995), xu hướng tự do hoá thương mại toàn cầu phát triển mạnh.
Song trong thời gian gần đây, người ta thấy xu thế này có sự chững lại do kinh tế thế giới

trì trệ, khủng hoảng kinh tế, tiền tệ ở nhiều nước, khu vực và làn sóng phản đối toàn cầu
hoá.
Năm 2001, tại Quatar, vòng đàm phán phát triển Doha đã được phát động với thời hạn 5
năm, theo đó các nước phát triển đưa ra cam kết hỗ trợ các nước nghèo nâng cao năng lực
để tăng cường hội nhập vào kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, vòng đàm phán gặp nhiều khó
khăn và bế tắc. Kể từ sau thất bại của Hội nghị Cancun (năm 2003), các nước không sẵn
sàng đi vào đàm phán thực chất trên các lĩnh vực nhạy cảm như nông nghiệp, thuận lợi hoá
thương mại, chính sách cạnh tranh, lao động và mua sắm chính phủ... Tổ chức thương mại
thế giới bị đặt trước những thách thức lớn. Việc hoàn tất vòng đàm phán đúng hạn (tháng
12/2005) gần như không khả thi.
- Bế tắc trong tiến trình tự do hoá thương mại toàn cầu thúc đẩy các nước xúc tiến ký kết
các hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và khu vực. Trong bối cảnh cạnh tranh
ngày càng gay gắt, xu hướng bảo hộ gia tăng tại một số nền kinh tế lớn, đây là biện pháp
khá chủ động và mạnh mẽ của các nước nhằm phát triển thị trường xuất khẩu hàng hoá,
dịch vụ. Bên cạnh đó các thoả thuận cũng mang mục tiêu về địa chính trị, an ninh ngày
càng nổi trội, tăng cường ảnh hưởng và vai trò (Khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc –
ASEAN, Quan hệ hợp tác kinh tế gần gũi ASEAN – Nhật Bản). FTA tập trung nhiều tại
khu vực Châu á nơi chưa có thể chế vững chắc cho hợp tác liên kết kinh tế khu vực.
ASEAN đặt trước những cơ hội và thách thức mới. Vai trò và vị trí của ASEAN được đề
cao, được nhiều nước lớn tranh thủ. Tuy nhiên FTA có thể làm yếu đi sức mạnh mặc cả
của cả khối; đòi hỏi các nước ASEAN phải tăng cường nỗ lực và hiệu lực của tiến trình hội
nhập AFTA.
1.2.2. Tài chính quốc tế.
- Nhờ sự phát triển của quá trình toàn cầu hoá, cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt là
cách mạng thông tin, hoạt động của thị trường tài chính - tiền tệ quốc tế diễn ra sôi động.
Thị trường tài chính - tiền tệ trong vài năm gần đây thường ít ổn định, phụ thuộc vào sự
lên xuống của các nền kinh tế lớn, biến động của tỷ giá hối đoái các đồng tiền mạnh, chỉ
số các thị trường chứng khoán lớn ....
- Từ 2002, thị trường tài chính - tiền tệ thế giới lại đặc trưng bởi: sự sụt giảm giá cổ phiếu
trên các thị trường chủ chốt do hàng loạt tập đoàn kinh tế lớn phá sản; đồng USD mất giá

so với đồng Euro và Yên; nhiều nền kinh tế đứng trước nguy cơ giảm phát (lạm phát của
các nước phát triển: 1,4%, các nước đang phát triển là 5,6%); nhiều nước áp dụng chính
sách tiền tệ nới lỏng để kích thích nền kinh tế và kiềm chế giảm phát. Bất ổn tài chính -
tiền tệ ở nhiều nước Mỹ Latinh....
- Đồng Euro liên tục lên giá so với đồng USD, tới gần 30% trong vài năm gần đây do
kinh tế Mỹ ảm đạm và các chính sách hạ lãi xuất kích thích đầu tư và giảm giá đồng đô la
yếu để tăng xuất khẩu. Chính sách này của Mỹ đã có tác động xấu tới kinh tế Tây Âu.
Theo một số tính toán nếu đồng Euro lên giá 10% so với đồng USD sẽ làm giảm 1,5%
tốc độ tăng trưởng kinh tế khu vực đồng Euro trong 5 năm. Đến nay, đồng EURO đã đạt
mức kỷ lục 1€ = 1,3$.
1.2.3. Đầu tư nước ngoài ( ĐTNN).
- Luồng vốn ĐTNN trên thế giới tăng nhanh trong hơn hai thập kỷ qua, đặc biệt trong thập
kỷ 90, và đạt kỷ lục hơn 1 nghìn tỷ USD vào năm 2000, tăng hơn sáu lần so với 151 tỷ
USD của năm 1990.
- Từ năm 2001, suy thoái, bất ổn về kinh tế, tiền tệ, tài chính đã tác động đến các luồng
vốn ĐTNN. Năm 2002, ĐTNN trên thế giới chỉ đạt khoảng 534 tỷ USD vào năm 2002,
giảm 27% so với năm 2001 và tới 64% so với năm 2000. Năm 2003, đầu tư trực tiếp nước
ngoàămtng lên hơn 600 tỷ đô lam nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với thời kỳ cao điểm năm
2000.
- Trong số các nước đang phát triển, Châu á thu hút nhiều ĐTNN nhất, chiếm tới 14% FDI
toàn thế giới vào năm 2001 (năm 2000: 9%) và 70-75% FDI vào các nước đang phát triển
(số liệu năm 2000). Năm 2002, các nước đang phát triển Châu á thu hút được 90 tỷ USD,
trong đó Trung Quốc là nước thu hút được 50 tỷ đô la, chiếm già nửa tổng số vốn đầu tư
nước ngoài vào các nước đang phát triển.
1.2.4 Viện trợ phát triển.
- ODA là nguồn viện trợ phát triển chính thức (hoàn lại hoặc không hoàn lại) của chính
phủ các nước, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ cho các nước đang phát triển
để phát triển kinh tế, chủ yếu là xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cao năng lực của nền kinh
tế, phục vụ cho phát triển bền vững (bảo vệ môi trường và xoá đói giảm nghèo)... Theo
nghị quyết của Liên hợp quốc, các nước phát triển phải dành 0,7% GDP hàng năm của họ

cho ODA.
- Tuy nhiên, rất ít nước thực hiện được chỉ tiêu của LHQ. Xu hướng chung trong mấy năm
gần đây là ODA vừa giảm cả tỷ lệ so với GDP và khối lượng tuyệt đối. Chỉ trong vòng 5
năm từ 1992 đến 1997, viện trợ của OECD cho các nước đang phát triển giảm từ tỷ lệ
0,33% GNP xuống 0,22%. Năm 2000, ODA toàn thế giới 53,1 tỷ USD, giảm 6% so với
năm 1999.
1.3. Dự báo một số đặc điểm và xu thế lớn của kinh tế thế giới.
a. Cuộc cách mạng KHCN lần thứ tư sẽ tiếp tục phát triển theo chiều sâu, tác động sâu
rộng hơn nữa đến sự phát triển của nền kinh tế thế giới.
Thế giới sẽ chứng kiến sự phát triển với tốc độ chóng mặt của ba cuộc cách mạng lớn
mang tính đột phá, đó là cách mạng về lượng tử, cách mạng về máy tính và cách mạng về
sinh học. Nếu ở thế kỷ XIX, thời gian trung bình để đưa một phát minh khoa học vào sử
dụng trong công nghiệp phải mất 60-70 năm; vào đầu thế kỷ XX thời gian đó là 30 năm, và
vào cuối thế kỷ XX thời gian đó chỉ còn ba năm, thì nhiều dự đoán cho rằng tới đây thời
gian trung bình để đưa một phát minh khoa học vào sử dụng sẽ chỉ còn trên dưới một năm.
Những thành quả KHCN mới, đặc biệt là về công nghệ gen, công nghệ sinh học, công nghệ
nano, công nghệ thông tin,... sẽ làm cho khoa học-công nghệ ngày càng trở thành lực lượng
sản xuất nòng cốt và trực tiếp của xã hội, tạo nên động lực chính của sự phát triển của kinh
tế thế giới trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI.
b. Gắn liền với cuộc cách mạng KHCN mới, nền kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ sẽ là
một đặc trưng nổi bật của kinh tế thế giới trong những thập kỷ đầu thế kỷ XXI.
Kinh tế thế giới sẽ chuyển dần từ giai đoạn quá độ từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri
thức. Trong nền kinh tế mới này, trí tuệ và tri thức đóng vai trò là nội dung chủ yếu của sản
xuất, phân phối, trao đổi và tiêu thụ. Với sự phát triển như vũ bão của các công nghệ ICT
và mạng Internet, các hoạt động của nền kinh tế sẽ được số hoá và vận hành trong những
siêu xa lộ thông tin tạo nên “xã hội thông tin toàn cầu”. Thương mại điện tử sẽ có những
bước phát triển mạnh mẽ hơn và đóng góp nhiều hơn vào tăng trưởng kinh tế thế giới.
Theo đà phát triển nhanh chóng của KHCN, các quốc gia đều tiến hành điều chỉnh lại cơ
cấu kinh tế nhằm tạo độ thích nghi cao và tăng khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế toàn
cầu. Định hướng của việc tái cấu trúc này là nâng cao vai trò chủ đạo, dẫn đầu của các

ngành kinh tế dựa trên các công nghệ có hàm lượng chất xám cao để làm động lực kéo toàn
bộ nền kinh tế phát triển. Bởi vậy, xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức đang và sẽ
tiếp tục là ưu tiên chính sách của nhiều quốc gia trong những thập kỷ tới, trước hết là ở các
nước công nghiệp phát triển Bắc Mỹ và Tây Âu, đi đầu là Mỹ. Còn trong cuộc chạy đua số
hoá này, các nước ĐPT ở vào thế bất lợi do chưa đáp ứng được những yêu cầu về hạ tầng
cơ sở, nguồn lực con người,... của nền kinh tế tri thức. Bởi vậy, tuy cơ cấu kinh tế ở một số
nước ĐPT cũng đã chuyển đổi với sự góp mặt đáng kể vào tăng trưởng của ngành công
nghệ thông tin, có thể nói sự chuyển đổi này sẽ chưa diễn ra một cách phổ biến và đồng
đều ở tất cả các nước đang phát triển. Và trong vòng 20 năm tới, phần lớn các nước ĐPT
vẫn chủ yếu tiến hành công nghiệp hoá để trở thành nước công nghiệp.
c. Quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá gắn liền với tự do hoá thương mại, đầu tư và các
liên kết kinh tế quốc tế tiếp tục gia tăng mạnh mẽ.
- Tự do hoá thương mại tiếp tục được đẩy mạnh và thương mại quốc tế vẫn là động lực
thúc đẩy kinh tế thế giới tăng trưởng: Hai thập niên đầu thế kỷ XXI là khoảng thời gian có
tính chất “quyết định” đối với sự phát triển của thương mại thế giới trong nhiều thập niên
tới. Trong thập niên đầu tiên sẽ diễn ra Vòng đàm phán Doha của WTO, và những thoả
thuận đạt được trong đàm phán về hai lĩnh vực nông nghiệp và dịch vụ nhiều khả năng sẽ
đưa lại một thời kỳ tăng trưởng sống động hơn cho thương mại thế giới. Mặt khác, năm
2010, 2015 và 2020 là những thời điểm bước ngoặt, đánh dấu sự hoàn tất việc dỡ bỏ hoàn
toàn các rào cản thuế quan và giảm thiểu các hàng rào phi quan thuế của các khối kinh tế-
thương mại khu vực lớn như: AFTA, APEC, NAFTA, MERCOSUR, COMESA,... dẫn đến
sự hình thành những thị trường tự do rộng lớn ở hầu hết các khu vực. Hàng loạt các thoả
thuận thành lập các khu vực mậu dịch tự do song phương và đa phương từ cấp độ khu vực

×