Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

chat dan gian duoc the hien trong bai tho tuong tu cua nguyen binh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.33 KB, 17 trang )

Chất dân gian được thể hiện trong bài Tương Tư của Nguyễn Bính - Ngữ văn 11
Dàn ý chi tiết
A. Mở bài:
Giới thiệu về nhà thơ Nguyễn bính và bài thơ Tương Tư
Dẫn dắt vào vấn đề: Chất liệu dân gian được sử dụng trong bài thơ
B. Thân bài:
Khái quát chung:
- Xuất xứ: Trích từ tác phẳm Lỡ bước sang ngang
- Thể thơ: thơ lục bát truyền thống
Bố cục:
- 4 câu đầu: Khái quát nỗi lòng tương tư
- 12 câu tiếp: Những trạng thái của tương tư
- 4 câu cuối: Ước vọng tình u xa xơi
Nội dung:
- Thể thơ lục bát truyền thống
- Đề tài quen thuộc: Tương tư và nỗi nhơ, ước nguyện chân thành trong tình yêu
- Dùng chất liệu ngơn từ:
+ Địa danh: Thơn Đồi, Thơn Đơng
+ Thành ngữ: chín nhớ mười
+ Số từ: một, mười, chín
+ Cách tổ chức lời thơ độc đáo: đẩy đối tượng về hai đầu câu thơ tạo khoảng cách xa giữa
họ là nhịp cầu chín nhớ mười thương
+ Đại từ phiếm chỉ ai ý nhị, duyên dáng, kín đáo. Tất cả các cách diễn dạt từ ca dao dân ca
ấy hào quyện vào từng câu thơ, ý thơ hết sức nhuần nhị.
+ Cấu trúc câu trùng điệp, cách ngắt nhịp truyền thống: gió mưa là, tương tư là
+ Phép điệp và phép đối quen thuộc của ca dao Ngày qua ngày lại qua ngày
+ Hình ảnh quen thuộc: trầu cau
+ Giọng điệu: Là giọng kể lể, giọng của điệu nói Bảo rằng…, đã đành…

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí



C. Kết bài:
Cảm nhận, nhận xét chung về vấn đề
Mở rộng vấn đề bằng liên tưởng và suy nghĩ của cá nhân
Bài văn mẫu 1
Trong khi hầu hết các nhà Thơ mới – theo nhận xét của Hoài Thanh “đều đội lên đầu
dăm bảy nhà thơ Pháp” thì Nguyễn Bính đã tìm một lối đi riêng, trở về với văn hóa dân
gian, với những câu hát cửa đình, rặng mồng tơi, bến đị , cây đa, bến nước….Ơng đã trở
thành “chủ soái” của trường phái “thơ mới dân gian” gồm Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Bàng
Bá Lân. Và cũng như các nhà Thơ mới khác, thơ Nguyễn Bính có tiếng hát tình u song
khơng mãnh liệt, dữ dội như tình u trong thơ Xn Diệu, khơng tang thương như thơ
tình Hàn Mặc Tử. Tình u trong thơ Nguyễn Bính chân thật và mộc mạc như tình yêu
của người bình dân trong ca dao. Bài thơ “Tương tư” rất tiêu biểu cho hồn thơ và giọng
thơ Nguyễn Bính trong lĩnh vực thơ tình. Bài thơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nét
truyền thống và hiện đại, vừa chứa những nét dân gian chân chất vừa mang trong mình cái
hồn thơ mới.
Trong dịng Thơ Mới 1930-1945 ,”Tương tư” của Nguyễn Bính có phong cách cổ
điển dân dã ở cả thi liệu, thể thơ, đề tài. Nếu như thơ Xuân Diệu mới lạ trong màu sắc
phương Tây, Hàn Mặc Tử siêu thực trong thơ Điên… Nguyễn Bính tinh rịng chất ca
dao .Nét truyền thống trước hết thể hiện ở ngay thể thơ- thể lục bát, đây là thể thơ truyền
thống do người Việt Nam sáng tạo nên. Nguyễn Bính vận dụng cách ngắt nhịp đều đặn,
hài hoà như ca dao truyền thống. Đó là nhịp chẵn 2/2/2; 2/4( câu lục ) và 2/2/2/2; 4/4 ( câu
bát ) thường thấy của ca dao:
“ Thơn Đồi / ngồi nhớ / thơn Đơng
Một người / chín nhớ / mười mong / một người”
Về đề tài, bài thơ là nỗi nhớ, tương tư trong tình yêucủa chàng trai dành cho người
con gái. Đây là đề tài thường thấy trong ca dao.
Nhớ ai khổ sở thế nầy
Nhớ ai, ai nhớ, đêm ngày nhớ ai


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


Nhớ ai, ai có nhớ ai
Nhớ sao da diết, biết có ai nhớ mình
(Ca dao)
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt
(Ca dao)
Thơ lục bát của Nguyễn Bính cũng rất tự nhiên, mượt mà, khơng gị ép nhưng cũng
khơng rơi vào diễn ca, vần vè, dễ dãi. Bởi thể lục bát dường như đã nhuyễn vào hồn thơ
Nguyễn Bính. Theo thi sĩ Mộng Tuyết thì Nguyễn Bính làm thơ lục bát rất dễ dàng: “Bính
viết lục bát nhanh như văn xi”. Đọc thơ Nguyễn Bính, ta như được thưởng thức những
khúc nhạc êm dịu của ca dao:
Gió mưa là bệnh của trời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đỏ thành cây lá vàng.
Bảo rằng cách trở đị giang,
Khơng sang là chẳng đường sang đã đành;
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xơi mấy mà tình xa xơi.
Phát huy nhịp điệu trầm buồn, êm ái, mượt mà của thể lục bát, Nguyễn Bính đã tạo
nên những dịng thơ lục bát rất hay, mang đậm phong cách thơ “chân quê”:

Về ngôn ngữ, cũng như ngôn ngữ của thơ ca dân gian, ngôn ngữ trong thơ Nguyễn

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


Bính khơng cầu kì khn sáo mà gần gũi, chân thành. Ta nghe như có tiếng trách móc nhẹ
nhàng đáng u của một chàng trai với người mình thương:
Hai thơn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Hay những lời kể chân chất:
Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phịng.
Ngơn ngữ thơ của Nguyễn Bính gần gũi với ngơn ngữ thơ ca dân gian cịn bởi nó giàu
hình ảnh, màu sắc, nhạc điệu. Nhà thơ đã chọn cho mình cách biểu hiện thế giới tình cảm
trừu tượng thơng qua những sự vật hiện tượng cụ thể xung quanh, những cảnh quan bình
dị nơi thơn dã gần gũi thân quen, đó là thế giới của giàn giầu, hàng cau, mái đình, của
làng quê Việt Nam thân quen, gần gũi.
Một điều đáng chú ý nữa là những từ có vùng mờ nghĩa hết sức đặc sắc của thơ ca dân
gian đã hòa hợp vào “Tương tư” của Nguyễn Bính một cách rất tự nhiên. Những cụm từ
phíếm chỉ tơi- nàng, Thơn Đồi – thơng Đơng, bên ấy – bên này, bến – đị, hoa – bướm
cùng đại từ phiếm chỉ “ai” rất tế nhị, khó xác định chính xác đối tượng nhưng cũng rất dễ
vận vào bất cứ người nào, làm tăng khả năng khái quát tâm trạng điển hình của nhiều
người, tăng khả năng đồng cảm giữa những con người khác nhau.Nguyễn Bính đã làm
người đọc phải suy nghĩ vấn vương bởi những câu có từ mờ nghĩa:
“Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai biết, ai người biết cho
Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này”
Nguyễn Bính cịn làm tăng sắc thái biểu hiện của ngơn ngữ thơ bằng việc sử dụng
thành thạo các biện pháp tu từ mà ca dao hay dùng. Những hình ảnh ẩn dụ, so sánh

thường xuyên đi về trong thơ Nguyễn Bính. Nói tình u đơi lứa, tác giả dùng hình ảnh
“hoa- bướm” (hoa khuê các, bướm giang hồ), “trầu- cau” (giàn giầu/ hàng cau liên phòng),

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


“bến- đị” (Bao giờ bến mới gặp đị).
Nguyễn Bính sử dụng rất thuần thục lối đan chữ thường thấy trong thơ ca dân gian,
“chín nhớ mười mong” được hốn cải từ thành ngữ ” chín nhớ 10 thương” từ thành ngữ
để chàng trai bộc lộ nỗi niềm riêng tư của mình, diễn tả sự xa cách trong tình yêu, yêu
người nhưng khơng được gặp người, tình u khơng được đền đáp, thậm chí người ta cịn
chưa biết nên sinh ra nỗi tương tư. Do đó, từ ngữ khơng cịn ý nghĩa thường có của chúng
bởi vì chính khi tư duy theo kiểu đan lồng những từ tương hợp thì ý nghĩa của từ đã được
nhân lên gấp bội:
“Thơn Đồi ngồi nhớ thơn Đơng
Một người chín nhớ mười mong một người”
Lối đan chữ “chín nhớ mười mong” đã làm tăng nỗi nhớ mong thấp thỏm của chàng
trai đang trong trạng thái “ tương tư”.
Trong bài thơ, chất dân gian vẫn không lấn át được những tình điệu lãng mạn vốn là
sản phẩm đặc thù của thời đại Thơ mới. Nét hiện đại thể hiện rõ nét qua nhịp điệu, hình
ảnh và đặc biệt là cảm xúc – tình cảm cá nhân được bộc lộ trực tiếp.
Trước hết ở nhịp điệu:
Vì mang hơi thở của cái tôi Thơ Mới, lục bát của Nguyễn Bính nhiều khi phá vỡ tính
cân xứng hài hồ của lục bát cổ, đặc biệt là về nhịp điệu. Lục bát trong thơ tình Nguyễn
Bính vừa ngắt nhịp theo kiểu truyền thống vừa có những kiểu ngắt nhịp phá cách linh
động diễn tả tâm hồn của nhân vật trữ tình và cái tơi trữ tình. Tác giả sử dụng kiểu ngắt
nhịp 3/3/2 ở câu bát làm cho lời thơ sinh động hẳn lên. Nhịp thơ ngắt bất ngờ tạo sự xuất
hiện đột ngột của tình huống:
Bao giờ bến mới gặp đò,
Hoa khuê các, / bướm giang hồ /gặp nhau.

Hay sự ngắt nhịp 3/3 trong câu lục biểu thị nỗi chờ đợi mòn mỏi của chàng trai:
Ngày qua ngày/ lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đỏ thành cây lá vàng.
Với lối ngắt nhịp linh hoạt phá cách không tuân theo những quy tắc truyền thống mà

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


tuân theo tần số dao động của tình cảm, Nguyễn Bính đã tạo cho thơ lục bát của ơng
những dấu ấn riêng độc đáo khác với ca dao, đem lại những xúc cảm mới mẻ cho người
đọc.
Về việc sử dụng hình ảnh, Nguyễn Bính khơng phải là nhà thơ gây ấn tượng đối với
người đọc bằng những hình ảnh mới lạ như những nhà Thơ Mới khác như Xuân Diệu,
Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên. Thơ ông là sự trở về với những hình ảnh gần gũi quen thuộc
trong ca dao với những giàn giầu, hàng cau, làng xóm…nhưng điều đáng chú ý là Nguyễn
Bính sử dụng hình ảnh chất liệu dân dã của ca dao nhưng ông đã thổi vào đó cái hồn của
Thơ Mới. Trong ca dao hay thơ trung đại, các tác giả lấy thiên nhiên làm cái cớ, ẩn chứa
trong đó lí do, gửi gắm nỗi niềm, ẩn dụ cho chàng trai – cơ gái
“Bóng trăng anh tưởng bóng đèn
Bóng cây anh ngỡ bóng thuyền em sang”
“Huệ nhớ thương Lan, héo vàng xác Huệ
Anh quá thương nàng, trối kệ thị phi”
Cịn trong thơ Nguyễn Bính, tác giả thể hiện trực tiếp tình cảm của mình và thiên
nhiên, các hình ảnh thơ để tạo khơng gian nhân vật sống, khơng gian quen thuộc ni
dưỡng tình cảm của nhân vật trữ tình:
Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng
Sự thực trong câu thơ đã len vào thứ giọng đậm chất thành thị của con người thời Âu
hóa với đặc điểm dám gọi đích danh sự vật hiện tượng, sự vật, dám chường cái tơi của
mình ra mà giãi bày – một lời giãi bày trần trụi, táo bạo và mãnh liệt. Ngay ở tên nhan đề

bài thơ cũng đã thể hiện rõ ràng: “tương tư” – nó như phơ bày, như khoe lịng mình trước
thiên hạ rằng tơi đang u, tơi đang nhớ. Điều này là một sự hiếm thấy trong ca dao.
“Tương tư” của Nguyễn Bính tuy vẫn đi trên khung truyền thống của dân tộc nhưng
nét mới nhất là nằm ở nội dung. Nguyễn Bính đã làm mới thể thơ lục bát bằng cách sử
dụng từ ngữ, hình ảnh, nhịp điệu mới mẻ, linh động, thấm đẫm cái tình tứ Thơ Mới. Bên

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


cạnh đó đó ơng đã thổi “hồn q” vào bài thơ. Điều này đã làm cho tác phẩm có diện mạo
riêng so với ca dao và các tác phẩm khác trong phong trào Thơ Mới. Nét nổi bật của hồn
quê trong lục bát Nguyễn Bính là thứ hồn quê mang màu sắc cá nhân. Cũng mang “hồn
quê” nhưng lục bát ca dao nó mang tính phổ qt cịn trong thơ lục bát của Nguyễn Bính,
khơng gian đồng q được phủ lên cái tâm tư của con người hiện đại. Bài thơ vừa là sự
kết hợp, kế thừa của những yếu tố truyền thống vừa có những nét mới, tiêu biểu cho
phong cách thơ Nguyễn Bính.
Bài văn mẫu 2
Nguyễn Bính thuộc thế hệ các nhà Thơ mới. Nhưng nếu phần lớn các thi sĩ cùng thời
chịu ảnh hưởng của thơ phương Tây, thì Nguyễn Bính lại tìm về với chất dân ca - điệu thơ
dân tộc.
“Lỡ bước sang ngang” là tác phẩm được chú ye hơn cả trong sự nghiệp sáng tác của
Nguyễn Bính trước cách mạng. Bằng lối ví von mộc mạc duyên dáng, mang phong vị ca
dao: tác phẩm này đã đem đến cho người đọc những hình ảnh thân thương của quê hương
đất nước và một tình người đằm thắm thiết tha. Bài thơ “Tương tư” được in lần đầu trong
tập thơ “Lỡ bước sang ngang”. Đây là bài thơ khá tiêu biểu cho hồn thơ Nguyễn Bính nói
chung và cho lập “Lỡ bước sang ngang” nói riêng.
Tương tư là trai gái nhớ nhau. Dĩ nhiên đây là nỗi niềm u ẩn của những người yêu
nhau phải xa nhau. “Tương tư” là một thi đề quen thuộc trong cả văn chương dân gian lẫn
văn chương bác học. Trước Nguyễn Bính đã có những thi sĩ lừng danh như Nguyễn Du,
Nguyễn Công Trứ… viết về đề tài này. Và ngay trong làng “Thơ mới” đã có bài “Tương

tư chiều” nổi tiếng của Xuân Diệu. Tất cả những điều đó là những thử thách to lớn đối với
những cây bút đi sau. Nguyễn Bính đã vượt qua được thử thách đó, mang đến cho đề tài
này phần nội dung mới và cách nói mới.
Nỗi niềm “Tương tư” của Nguyễn Bính được thể hiện bằng những sắc thái muôn thuở
của chuyện trai gái yêu nhau mà phải xa nhau. Có nhớ nhung, có trách móc, có giận hờn,
và dĩ nhiên cả khắc khoải đợi chờ…Nỗi niềm tương tư ở đây chưa đến độ cháy bóng
mãnh liệt như trong thơ Xuân Diệu (“Bữa ni lạnh, mạt trời đi ngủ - Anh nhớ em, em hỡi

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


anh nhớ em!”), nhưng cũng thật tha thiết chân thành:
“Thôn Đồi thì nhớ thơn Đơng
Một người chín nhớ mười mong một người
Gío mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tơi u nàng”.
Thì ra, nếu gió mưa là “căn bệnh”, là sự vận động thường xuyên của thiên nhiên thì
nhớ mong là căn bệnh cố hữu diễn ra như một quy luật tất yếu của những người đa tình,
đa cảm, dường như có mặt ở trên đời này chỉ để thương thầm nhớ vụng. Giữa chàng trai –
nhân vật trữ tình – và bạn gái dường như chẳng có cách trở gì về cả khơng gian lẫn thời
gian? Họ ở chung một làng, chỉ cách nhau có “một đầu đình”. Cơ gái có thể thuận lợi đủ
điều càng khiến cho nhân vật trữ tình càng thêm băn khoăn thêm hờn dỗi. Nhưng nào có
ai đâu mà chờ với đợi. Cũng như một số bài thơ khác của Nguyễn Bính thường nói đến
mối tình đơn phương (như trong bài Hoa và rượu. Người phương nên lời trách móc, hờn
dỗi kia rõ ràng trở thành vu vơ. Thực ra, những lời nói đó chính là sự tự bộc lộ tâm hồn
nhạy cảm, khao khát yêu thương của chính nhà thơ. Khi cuộc đời cịn những mối tình đơn
phương, khi cịn những con tim ít tn theo những quy tắc rạch rịi; thì người đọc cũng
khơng mấy ai nõ trách Nguyễn Bính đã “tương tư” một cách vu vơ…
Đặc biệt nỗi niềm chờ mong đáng trân trọng ấy đã đựoc nhà thơ thể hiện một cách
mới mẻ. Trước hết là hình ảnh cái “tơi” có nhu cầu giãi bày, phơi trải được Nguyễn Bính

diễn tả một cách trực diện khơng chút vịng vo:
“Gió mưa là bện của giời,
Tương tư là bệnh của tơi u nàng”.
Ngồi ra cịn phải kể đến việc tác giả đã thành công khi đưa vào lời ăn tiếng nói của
người nhà quê trong cuộc sống thường nhật. Những lời ăn tiếng nói ấy xuất hiện một cách
tự nhiên mộc mạc, tạo nên khơng khí dân dã, q mùa cho tồn bài thơ:
“Hai thơn chung lại một làng,
Có sao bên ấy chẳng sang bên này?
Nhưng đây cách một đầu đình,

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


Có xa xơi mấy mà tình xa xơi?”
Đưa vào thơ lời ăn tiếng nói của đời thường, Nguyễn Bính cũng như những nhà Thơ
mới đã gặt hái được một mùa hoa trái bội thu. Thơ của họ trở nên gần gũi với người đọc
và nó góp phần phát hiện ra những cái mới mẻ của con người và tạo vật, mà trước đây ít
nhiều thi ca bác học chưa làm được.
Như vậy, nội dung “Tương tư” có tính chất mn thuở đã được nhà thơ Nguyễn Bính
thể hiện bằng một lời nói hiện dại, mang dấu của thời đại, phản ánh một mảng tâm hồn
của lớp thanh niên tiểu tư sản những năm 30 của thế kỷ này.
Song giá trị cơ bản của bài thơ không chỉ ở chỗ tác giả diễn tả khá mới mẻ cái “tôi”
thiết tha chân thành, khao khát yêu đương; mà điêu chủ yếu nó gợi lên được cái “hồn xưa
đất nước”, theo cách nói của nhà phê bình Hồi Thanh. “Hồn xưa đất nước” không nằm
riêng ở chi tiết nào, câu thơ nào mà tốt ra từ tồn bộ bài thơ qua hệ thống hình ảnh, lời ví
von, cũng như giọng điệu chung.
Vốn sinh ra ở một nước nông nghiệp, cho dù đã từng “dan díu với kính thành” nói
theo Nguyễn Bính, mấy ai trong số chúng ta khơng có trong mình một đơi kỷ niệm về một
làng quê Việt Nam truyền thống? Tương tư có khả năng khơi gợi trong đáy sâu tâm hồn
người đọc. Trong khi các nhà thơ cùng thời Xuân Diệu hay Lưu Trọng Lư chịu ảnh hưởng

sâu đậm thơ phương Tây và chính điều đó đem lại cho phong trào Thơ mới những nét đặc
sắc, thì Nguyễn Bính lại thành cơng khi ơng tìm về với điệu thơ dân tộc, với làng quê Việt
Nam thân thuộc, với những hình ảnh gần gũi tự ngàn xưa: những con bướm trắng, bướm
vàng vẽ vòng trên các vườn hoa cải hoa vàng, những vườn bưởi vườn cam ngào ngạt
hương thơm, ven đê là ruộng dâu bãi đay, bên giậu mùng tơi, cạnh giếng khơi là những cô
thôn nữ đôn hậu, quanh năm dệt lụa chăn tằm, trẩy hội, xem chèo,… với trang phục cổ
truyền: áo đồng lầm, quần lĩnh tía, yếm lụa sồi… Ở bài thơ “Tương tư” dường như có một
sự kết nối giữa hệ thống hình ảnh đã trở thành ước lệ đối với làng quê Việt Nam. Ở đó có
thơn Đồi, thơn Đơng, có con đị và bến nước, có hàng cau và giàn trầu… Ở đó cịn có nơi
sinh thành và nuôi dưỡng lối thơ lục bát và Nguyễn Bính đã sử dụng nhuần nhuyễn lối thơ
này, cách ví von mộc mạc, thực chất là những ẩn dụ: bến – đò, hoa - bướm, trầu – cau,

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


thơn Đơng – thơn Đồi… Hệ thống hình ảnh, lối thơ truyền thống với cách ví von ấy đã
đánh thức con người nhà quê lâu nay ẩn náu trong lòng độc giả, làm cho họ bồi hồi xao
xuyến về một làng quê Việt Nam, một dân tộc Việt Nam gần gũi và thiêng liêng.
Không những thế, “Hồn xưa đất nước” còn được biểu hiện ngay trong lối suy nghĩ
gắn với trời đất, cỏ cây quê hương. Ngày xưa, năm tháng trôi qua đã được ông cha ta miêu
tả qua sự biến đổi của cây lá:
“Nửa năm hơi tiếng vừa quen
Sân ngô cành biếc đã chén lá vàng”.
(“Truyện Kiều” - Nguyễn Du)
Nhân vật trữ tình trong bài thơ này cũng đo đếm thời gian dựa vào chính sự thay đổi
của cảnh sắc thiên nhiên. Điều này được thể hiện bằng những câu thơ dân dã, mộc mạc:
“Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”.
Đồng thời thiên nhiên cịn là chuẩn mực để nhân vật trữ tình nhớ nhung, suy tưởng:
“Gió mưa là bệnh của giời – Tương tư là bệnh của tơi u nàng”.

Do sống hồ hợp gắn bó với cảnh sắc thiên nhiên, nên trong ca dao – dân ca, trai gái
quê ta không chỉ mượn Thuyền và Bến, Sen - Hồ, Mận – Đào… để giãi bày tình u một
cách kín đáo vừa dun dáng, vừa tinh tế. Trong bài “Tương tư”, Nguyễn Bính sử dụng
triệt để các cách nói ấy mang lại hiệu quả nghệ thuật đáng kể. Nếu như ở khổ thơ thứ hai
cịn có câu dường như lạc hệ thốn, thiếu sự dung dị(“Hoa khuê các, “bướm giang hồ gặp
nhau”) thì khổ thơ cuối cùng chính là sự kết tinh nghệ thuật của toàn bài. Ở khổ thơ này
“hồn xưa đất nước” tốt lên từ cách dùng hình ảnh, cách bộc lộ tình cảm kín đáo, mộc
mạc của tác giả. Thay vì lối diễn đạt trực tiếp ở phần đầu đến khổ thơ cuối, Nguyễn Bính
dùng lối diễn đạt gián tiếp rất tinh tế, phảng phất chất hương đồng cỏ nội của ca dao thuần
khiết:
“Nhà em có một giàn giầu
Nhà tơi có một hàng cau liên phịng
Thơn Đồi thì nhớ thơn Đông

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


Cau thơn Đồi nhớ giầu khơng thơn nào?”
Trong phong trào Thơ mới, nhiều thi sĩ như Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ, Bàng Bá Lân…
miêu tả được những bức tranh quê tươi đẹp. Nhưng có lẽ chỉ mình Nguyễn Bính nói đúng
được cái hồn quê Việt Nam. Ngày nay ở nông thôn Việt Nam phong cảnh cũng như hồn
người đã đổi khác rất nhiều. Thanh niên nam nữ thường thích điệu bộ bị hơn là áo tứ thân,
chít khăn mỏ quạ, xe Cub đã thay cho ngựa tía võng điều…
Tuy vậy, phần nào bài thơ “Tương tư” trên đây của Nguyễn Bính vẫn như một dấu
tích tâm hồn dân tộc, góp phần cho tâm hồn người đọc thêm phong phú và tươi sáng. Đấy
chính là sự đóng góp đặc sắc của nhà thơ trong bài thơ này nói riêng và trong phần nhiều
bài thơ của Nguyễn Bính trước Cách mạng nói chung, đấy cũng là lý do khiến nhiều
người yêu thích thơ ông.
Bài văn mẫu 3
Khác với những nhà thơ mới khác Nguyễn Bính khơng ảnh hưởng bởi phương Tây

mà trong nhà thơ ln có một nỗi niềm hồi cổ. Nếu như Xuân Diệu tiếp thu những cái
hay của văn học phương Tây hiện đại thì Nguyễn Bính lại trở về với những hơi thở của ca
dao của những gì gọi là truyền thống. Cái “tơi” của Nguyễn Bính ln là cái tôi bất an,
một tâm hồn tha thiết với những giọt cổ truyền của dân tộc đang nguy cơ mai một trước
sự âu hóa của đơ thị thị dân. Đặc biệt ông mang cái truyền thống ấy vào trong sáng tác của
mình. Tiêu biểu trong những bài thơ mang đậm hồn quê dân tộc ấy phải kể đến tác phẩm
tương tư. Có thể nói tác phẩm ấy mang đạm màu sắc dân tộc Việt Nam.
Bài thơ được trích từ tập lỡ bước sang ngang, viết về đề tài tình yêu đơi lứa. bài thơ là
lời giãi bày nỗi lịng mong nhớ một cách chân thật tinh tế của một chàng trai thơn q. Có
thể nói tương tư là dành cho những người yêu thương nhau nhưng phải cách xa nhau
khiến cho nỗi nhớ cứ thế trào dâng mãnh liệt. Tâm trạng tương tư cũng mang đầy màu sắc
dân tộc.
Màu sắc dân tộc trước hết thể hiện trong hoàn cảnh, khung cảnh tương tư. Đến cái
tương tư ấy cũng mang đầy màu sắc dân tộc:
“Thơn Đồi ngồi nhớ thơn Đơng

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
Màu sắc dân tộc được hiện lên ở đây là hình ảnh Thơn Đồi và Thơn Đơng. Đó là
hình ảnh biểu trưng cho những làng quê mộc mạc mà giản dị nên thơ. Có thể nói tình u
của đồi trai gái ấy khơng diễn ra trên những cảnh trang hồng của phố xá đơng vui mà là
nơi bình n của làng quê mộc mạc.
Thơ Nguyễn Bính mang cái hồn của cảnh vật làng q, của những gì dân dã nhất.
Cũng nói về nỗi nhớ trong tình yêu và trong cùng một thời điểm thế nhưng Xuân Diệu
xưng “anh” gọi “em” và nói thẳng anh rất nhớ em, nhớ rất nhiều cịn Nguyễn Bính vẫn
giữ một thái độ kính cẩn và những từ ngữ xưng hô mang đậm chất ca dao “tôi” và”nàng”,

cảm xúc được diễn tả bằng những từ vô cùng tế nhị ẩn ý có chút thẹn thùng chứ khơng nói
thẳng như Xn Diệu. Câu thơ “ một người chín nhớ mười mong một người” khiến ta nhớ
đến câu ca dao “chín nhớ mười thương”. Có thể nói nhà thơ đã sử dụng một cách sáng tạo
những câu ca dao ấy. Qua đó nó thể hiện nỗi nhớ thiết tha của người con trai dành cho
người con gái. Tác giả tiếp tục thể hiện những cái nỗi nhớ ấy qua việc ví von nếu “nắng
mưa” là bệnh của trời tương tư là bệnh cuả tôi nhớ nàng. Ở đây tác giả thật sự khéo léo
trong việc lấy cái tự nhiên, quy luật kia để chỉ cho tình u. Điều đó thể hiện tương tư là
một lẽ tất yếu như mưa nắng của trời khi con người ta yêu.
Không những thể sang những câu thơ tiếp theo Nguyễn Bính đi sâu vào thể hiện tâm
trạng của mình mà đồng thơi qua đó ta cũng thấy được những màu sắc dân tộc được nhà
thơ thể hiện một cách triệt để:
“Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng
Bảo rằng cách trở đị giang
Khơng sang là chẳng đường sang đã đành

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


Nhưng đây cách một đầu đình
Có xa xơi mấy cho tình xa xơi?
Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?
Bao giờ bến mới gặp đò
Hoa kh các bướm giang hồ gặp nhau?”
Hình ảnh những xóm làng cổ xưa như hiện ra trước mắt chúng ta, nó càng thấm thía
vào chúng ta những màu sắc dân tộc. Gọi là hai thôn đấy nhưng mà cũng chỉ nằm trong
một làng. Tác giả đặt câu hỏi đó để nhằm trách móc cái người mà mình nhớ thương. Nó

phảng phất hương vị của ca dao khi yêu thương thì tương tư nhưng không thể đến bên
nhau năm tay nhau lộ liễu một cách như bây giờ được. Điệp ngữ ngữ “qua ngày” càng làm
tăng thêm sự nhớ nhung của người con trai ấy. Xa cách nhau khiến cho thời gian trơi qua
dẫu có ngắn mà cứ tựa ba thu, những chiếc lá xanh đã chuyển thành màu vàng cũng như
người nhớ nhung ấy đang héo hon vì thương nhớ.
Hình ảnh mang đậm những nét đẹp làng quê. Đó là nét đẹp của mái đình, của những
chuyến đị qua sơng. Bến nước con đị khơng chỉ là hình ảnh mang đầy màu sắc dân tộc
mà nó trở thành hình ảnh tượng trưng cho tình u, khơng riêng thơ Nguyễn Bính mà hình
ảnh ấy đã trở đi trở lại khơng biết bao nhiêu trang thơ của những nhà thơ khác. Nhưng cái
khác ở đây là hình ảnh ấy khơng mang nghĩa của sự đợi chờ một người khác mà nó mang
nghĩa của sự cách trở trong tình yêu. Tuy nhiên ở trong tác phẩm thì sự cách trở đó là giả
thiết để cho người con trái trách móc người con gái vì sao lại khơng sang trong khi khơng
có sự cách trở sơng đị.
Sự cách trở ấy chỉ cách có cái đầu đình mà sao lại thấy tình xa xơi đến thế. Hình ảnh
cái đình kia gợi cho ta biết bao nhiêu là vẻ đẹp của những cảnh làng quê dân tộc ta, ở đó
khơng chỉ là khơng gian cho những sinh hoạt thường ngày mà đó cịn là nơi cho người ta
hò hẹn. chàng trai kia như muốn trách sự vô tâm của người con gái. Thế nhưng là người
con gái vơ tâm thật hay chính là do sự tương tư làm cho chàng trai ngỡ cô gái vô tâm với
mình. Nỗi tương tư ấy làm cho chàng trai thức mấy đêm không ngủ được, câu hỏi tu từ lại

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


được cất lên để cho thấy được sự trách móc cũng là nhớ nhung của anh. “hỏi ai người biết
cho”. Và chính từ những nỗi nhớ ấy mà chàng khát khao được gặp nàng. ở đây tác giả vận
dụng lối nói ước lệ ẩn dụ của ca dao xưa (bến- đò, hoa khuê các- bướm giang hồ).
Đến những câu thơ cuối cùng chàng trai tiếp tục thể hiện tâm trạng và ước muốn của
mình thơng qua đó ta thấy được những hình ảnh mang đậm chất dân tộc:
“Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phịng

Thơn Đồi ngồi nhớ thơn Đơng
Cau thơn Đồi nhớ giầu khơng thơn nào?”
Anh và em vẫn cịn một khoảng cách xa xơi q chừng, hình ảnh trầu cau hiện lên với
số lượng là một thể hiện sự đơn độc lẻ loi của cả hai bên. Đồng thời thể hiện được ước
nguyện của chàng trai là nên duyên cau trầu với hình ảnh đám cưới làng quê giản dị ngọt
ngào lắm.
Không chỉ ở nội dung thơ mà ngày cả đến nghệ thuật thơ Nguyễn Bính cũng mang
đến một màu sắc dân tộc khó quen. Ngồi những câu ca dao kể trên thì ta còn thấy màu
sắc dân tộc thể hiện ở thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc ta. Nó góp phần mang lại
phong cách nghệ thuật cũng như hồn thơ Nguyễn Bính.
Qua đây ta cảm nhận được một cảm xúc mà ai khi yêu đều phải trải qua. Đó chính là
sự tương tư nhớ thương một người khác. Chính vì nhớ thương nên nghĩ người khác vơ
tình với mình và trách móc người ta. Tình u nó làm cho người ta cứ cái buồn vơ cớ mà
trở thành có cớ. Đồng thời qua đó ta cũng thấy được những màu sắc dân tộc trong thơ
Nguyễn Bính giàu đẹp như thế nào.
Bài văn mẫu 4
Thơ Nguyễn Bính mang màu sắc dân gian, khơi gợi cho ta ít nhiều về hồn xưa đất
nước, quy tụ trong những câu thơ mộc mạc, giản dị mà thấm đẫm nghĩa tình.
Tương tư là thi phẩm tiêu biểu cho hồn thơ bình dị của Nguyễn Bính. Bài thơ là xúc
cảm nhớ nhung, tha thiết của chàng trai chân quê với nhiều cung bậc phong phú, đẹp đẽ,
thắm đượm màu sắc dân gian, hồn quê ấm áp. Màu sắc dân gian đã tạo bầu khơng khí

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


thôn quê cho thi phẩm nhưng đồng thời cũng là nét đặc trưng cho phong cách thơ của
Nguyễn Bính.
Một tác phẩm mang đậm màu sắc dân gian là tác phẩm mang tình cảm truyền thống
cũng như phương thức thể hiện thường được bắt gặp ở ca dao, dân ca. Ca dao dân ca là
chuỗi ngọc trong sáng vô ngần của người lao động bình dân. Nó thấm đẫm cách cảm,

cách nghĩ của người lao động
Bài thơ tương tư trước hết là một sản phẩm của nền Thơ mới. Khi tung phá bức màn
ước lệ để nhìn thẳng vào cái tơi cá nhân của mình, Thơ mới thốt ra như một tiếng ca chân
thật, phong phú, mặc sức phô bày không hề giấu giếm. Nhiều nhà thơ chọn viết về đề tài
tình u như Nguyễn Bính ln hướng ngịi bút vào chiều sâu thẳm, huyền bí của cõi thơ
này.
Thế nhưng, Nguyễn Bính đã có một hướng đi khác. Nói rằng ơng có một hướng đi
khác lạ thật là khơng phải bởi ông chưa từng rời đi. Nói ông đã có những sáng tạo vượt
bậc cũng không phải bởi ông chưa từng phá vỡ thi pháp vốn có trong ca dao. Thơ ông
không phải là cái tình thoảng qua, cũng chẳng phải là tình thiên thu. Tình u trong thơ
Nguyễn Bính nằm ngay trong đời sống dân tộc được phản ánh sâu sắc trong ca dao trong
mấy nghìn năm qua. Thơ ơng chứa đựng cái hồn bình dị của dân tộc.
Mở đầu bài thơ, là lời tâm tình của chàng trai:
“Thơn Đồi ngồi nhớ thơn Đơng
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.
Một nỗi niềm nhung nhớ, tương tư ấy vậy mà lắm cung bậc đẹp đẽ. Giọng kể tâm tình
vừa tự nhiên lại vừa hết sức kín đáo. Rõ ràng là chuyện tôi yêu nàng ấy vậy mà cứ vịng
vo khơng nói nên lời. Đó chính là cái tình trong sáng, thánh thiện mà ta thường bắt gặp
trong ca dao dân ca:
“Hơm qua tát nước đầu đình
Bỏ qn chiếc áo trên cành hoa sen

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


Em nhận thì cho anh xin”.
(Ca dao)
Nào phải là chuyên qn chiếc áo mà đó chính là cái cớ để gặp gỡ, để chuyện trị, thổ

lộ tâm tình. hay một cách tỏ tình khác đẹp đẽ, tinh tế hơn:
“Hỡi cơ tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?”
(Ca dao)
Hình ảnh chàng trai ẩn mình trong biểu tượng “thơn Đồi”. Tình cảm cũng được che
giấu tế nhị: “ngồi nhớ”, không hề vồ vập hay lộ liễu. Người xưa là thế, nhẹ nhàng, kín đáo
mà đắm say, nồng nhiệt: “chín nhớ mười mong”. Tiếp đến, chàng trai tiện lời tỏ bày sau
khi đã viện cái cớ:
“Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?”
Lời thơ như trách móc nhưng kì thực là để gợi mở, mời gọi bước chân thơn nữ tìm
đường sang chơi. Đây cũng là cái cớ để trò chuyện, đưa lời, hỏi đáp. Chắc chắn rằng, cô
gái ấy đã thấu hiểu tâm tình của chàng trai. Chân đã muốn tìm đường sang mà ngại đường
chưa tỏ lối. Lí ra, chàng trai sẽ chủ động hơn nhưng trong lòng còn nhiều e ngại, chưa rõ
nguồn cơn để mạnh lời hơn nữa, đành kín đáo gửi lời theo gió theo trăng:
“Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.
Bảo rằng cách trở đị giang,
Khơng sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xơi mấy cho tình xa xơi…
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!”
Tưởng rằng chàng trai đang nói với cơ gái nhưng kì thực đây là một đoạn độc thoại tự
vấn. Nỗi niềm đau đáu trong lịng khơng thể giãi bày, muốn tìm một lời giải đáp để xóa

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


tan u uẩn. Thời gian đằng đẵng trôi càng làm cho tình u trong lịng cuộn cháy, thơi thúc

khơng ngi mà lịng người xa cịn đang mờ mịt. Có một chút ốn trách nhưng nào lỗi tại
ai. Chàng trai khơng dám trực tiếp ngỏ lời e rằng như thế là thơ lỗ. Càng giấu giếm trong
lịng nó càng cào cấu dữ dội. Tưởng chừng, niềm thôi thúc ấy sẽ là nguồn sức mạnh mãnh
liệt đưa bước chàng trai tìm sang thôn Đông. Nhưng không, chàng quyết định im lặng và
chỉ tìm gặp nhau trong mộng tưởng:
“Bao giờ bến mới gặp đị?
Hoa kh các bướm giang hồ gặp nhau?
Mãi mãi, tình u thầm kín được chơn giấu trong lịng. Tình u ấy biến thành khát
vọng đẹp và suốt cuộc đời

chỉ là niềm khao khát xa vời mà thơi:
“Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phịng
Thơn Đồi thì nhớ thơn Đơng

Cau thơn Đồi nhớ giầu khơng thơn nào?”
Đọc thơ Nguyễn Bính thấy nhẹ nhàng và thanh lọc tâm hồn. Mỗi câu thơ đưa ta trở về
với hồn xưa đất nước. Bởi lẽ dù viết về chuyện tình yêu dù hợp duyên hay trắc trở, tất cả
đều đặt trong không gian vườn tược của làng quê tươi xanh, tràn trề sức sống. Màu sắc
dân gian của bài thơ Tương tư tốt lên từ chính khung cảnh làng q bình dị, tĩnh lặng và
thân thuộc. Đó chính là phong nền cho tình u lứa đơi nảy nở. Thơ Nguyễn Bính có sự
vận dụng linh hoạt lời ăn tiếng nói của dân gian. Ngơn ngữ thơ giàu hình ảnh, cảm giác
như ta đã từng đọc thấy hay nghe được ở đâu đó trong ca dao dân ca.

Xem thêm tài liệu tại đây: />
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí




×