Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

TRIẾT học mác LÊNIN và VAI TRÒ của TRIẾT học mác LÊNIN TRONG đời SỐNG xã hội ý NGHĨA của VIỆC NGHIÊN cứu vấn đề này đối với SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (682.58 KB, 41 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH BỘ MƠN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
------------o0o------------

BÁO CÁO BÀI TẬP LỚN
Mơn học: Triết học Mác - Lênin
Chủ đề 1: TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC MÁC
- LÊNIN TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI. Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU
VẤN ĐỀ NÀY ĐỐI VỚI SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY

Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Huỳnh Như
Lớp: DTQ2
Nhóm: 8
Thành viên: 1. Nguyễn Yến Nhi - 2152842
2. Nguyễn Lâm Tâm Như - 2152849
3. Lê Hoàng Thiên Phúc - 2153696
4. Trương Vĩnh Phúc - 2152889
5. Trần Minh Phương - 2152254

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 7, năm 2022


BÁO CÁO PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ VÀ KẾT QUẢ
THỰC HIỆN ĐỀ TÀI CỦA TỪNG THÀNH VIÊN NHÓM 8

ST

Họ và tên

T


Nguyễn Yến

1.

Nhi
Nguyễn Lâm

2.

Tâm Như
Lê Hồng Thiên

3.

Phúc
Trương Vĩnh

4.

Phúc
Trần Minh

5.

Phương

NHĨM TRƯỞNG (ghi rõ họ tên, ký tên)

Nguyễn Lâm Tâm Như


1


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ SỰ RA ĐỜI, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỐI TƯỢNG,
CHỨC NĂNG CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
1.1. Khái quát về sự ra đời, phát triển của triết học Mác - Lênin
1.1.1. Những điều kiện lịch sử dẫn đến sự ra đời triết học Mác
1.1.2. Những thời kỳ chủ yếu trong sự hình thành, phát triển triết học Mác
1.1.3. Giai đoạn V.I. Lênin trong sự phát triển của triết học Mác
1.2. Đối tượng, chức năng của triết học Mác - Lênin
1.2.1. Khái niệm triết học Mác - Lênin
1.2.2. Đối tượng của triết học Mác - Lênin
1.2.3. Chức năng của triết học Mác - Lênin
Tiểu kết Chương 1
Chương 2: VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN TRONG ĐỜI SỐNG
XÃ HỘI VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ NÀY ĐỐI VỚI
SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Vai trò của triết học Mác - Lênin trong đời sống xã hội và sự nghiệp đổi mới
của Việt Nam
2.1.1. Triết học Mác - Lênin là thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách
mạng cho con người trong nhận thức và thực tiễn
2.1.2. Triết học Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học và
cách mạng để phân tích xu hướng phát triển của xã hội trong điều kiện cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ
2.1.3. Triết học Mác - Lênin là cơ sở lý luận khoa học của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội trên thế giới và sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở

Việt Nam
2.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu triết học Mác - Lênin với sinh viên Việt Nam
hiện nay
2.1.1. Ý nghĩa lý luận, nhận thức
2.1.2. Ý nghĩa thực tiễn
Tiểu kết Chương 2
PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

2


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình lịch sử triết học của nhân loại, có thể nói triết học Mác – Lênin là
một cuộc cách mạng vĩ đại, một bước tiến lớn và đang là hình thức phát triển tiến bộ
nhất của các hình thức triết học. Triết học Mác - Lênin là một trong ba bộ phận cơ bản
của Chủ nghĩa Mác - Lênin, đóng vai trò là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam, cơ sở quyết
định mọi hành động của Đảng và Nhà nước, toàn dân toàn quân ta. Hướng con người
đến mục đích cao nhất là xây dựng một xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh; nơi mà
mọi người đều có một cuộc sống ấm no hạnh phúc. Đó là một xã hội mà ở đó "sự phát
triển tự do của tất cả mọi người là điều kiện tiên quyết để tất cả mọi người phát triển tự
do".
Triết học Mác - Lênin ra đời đã trở thành thế giới quan khoa học và phương pháp
luận chung cần thiết cho sự phát triển của mọi khoa học cụ thể. Sự tiến bộ nhanh chóng
của khoa học ngày nay càng nhấn mạnh sự cần thiết của việc phải có tư duy biện chứng
duy vật đúng đắn và ngược lại, chỉ có dựa trên những thành tựu của khoa học hiện đại
để phát triển thì triết học Mác - Lênin mới khơng ngừng nâng cao được sức mạnh “cải
tạo thế giới” của mình. Thế giới quan duy vật biện chứng đóng vai trị là “cặp kính”

triết học, để từ đó các quan điểm khoa học được hình thành. Trong khi phương pháp
luận duy vật biện chứng cung cấp cho con người hệ thống những nguyên tắc phương
pháp luận chung nhất cho toàn bộ nhận thức khoa học. Việc nghiên cứu triết học Mác Lênin sẽ giúp cho con người có được hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật làm
công cụ nhận thức khoa học; hỗ trợ các cá nhân trong việc phát triển tư duy khoa học,
đây là tư vấn duy nhất được phép theo các yêu cầu pháp lý. Bên cạnh đó, chủ nghĩa
Mác - Lênin trang bị cho những người cộng sản Việt Nam phương pháp luận khoa học
để từ đó dẫn dắt con đường cách mạng, là cơ sở lý luận cho sự nghiệp đổi mới theo
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Trọng tâm hàng đầu của giáo dục đại học nước ta là giảng dạy cho sinh viên tư
tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm xây dựng những thế hệ sinh viên Việt Nam có nhân
cách trong sáng và lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, đáp ứng địi hỏi ngày càng
cao của q trình hội nhập và phát triển đất nước. Qua việc nghiên cứu triết học Mác Lênin sẽ giúp các sinh viên Việt Nam hình thành thế giới quan khoa học,

3


phương pháp luận đúng đắn, có khả năng nhận biết, phân tích để từ đó giải quyết các
vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn xã hội dưới cơ sở thế giới quan Mác - Lênin. Triết
học Mác - Lênin cịn góp phần xây dựng nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa cho sinh
viên, giúp cho họ xác định rõ những quan niệm đúng đắn về cuộc đời, về ý nghĩa và lý
tưởng sống cao đẹp. Sinh viên khi đã thấu hiểu sâu rộng những tri thức khoa học Mác
- Lênin sẽ có được sức mạnh từ chính bản thân tri thức ấy để tự mình vươn lên, bồi

dưỡng lý tưởng cộng sản, có được thái độ lạc quan, niềm tin vững vàng để vượt qua
mọi khó khăn, thử thách trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Để sinh viên có thể
thực hiện lý tưởng đó khơng phải là một thứ trừu tượng, xa vời, mà ngay từ khi còn
ngồi trên ghế nhà trường họ cần xác lập ý chí học tập, nỗ lực phấn đấu để sau này góp
phần xây dựng Tổ quốc.
Trên cơ sở đó, nhóm đã thống nhất chọn đề tài “Triết học Mác - Lênin và vai trò
của triết học Mác - Lênin trong đời sống xã hội. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề

này đối với sinh viên việt nam hiện nay” làm bài tập lớn cho môn học Triết học Mác Lênin.
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của tiểu luận
Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận: Triết học Mác - Lênin và vai trò của triết học
Mác - Lênin trong đời sống xã hội.
Phạm vi nghiên cứu: Tiểu luận nghiên cứu sự ra đời, phát triển, đối tượng, chức
năng của triết học Mác - Lênin và vai trò của triết học Mác - Lênin trong đời sống xã
hội.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ của tiểu luận
Mục tiêu của tiểu luận là làm rõ vai trò của triết học Mác - Lênin trong đời sống
xã hội và sự nghiệp đổi mới ở nước ta, từ đó rút ra những ý nghĩa về lý luận, nhận thức,
cũng như thực tiễn đối với sinh viên Việt Nam hiện nay.
Với mục tiêu đó, tiểu luận phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
Trình bày sự ra đời, tiến trình lịch sử dẫn đến sự hình thành và phát triển của triết
học Mác - Lênin.
Trình bày khái niệm, đối tượng và chức năng của triết học Mác - Lênin.
Làm rõ, khẳng định vai trò của triết học Mác - Lênin trong đời sống xã hội và sự
nghiệp đổi mới ở nước ta.

4


Rút ra những ý nghĩa lý luận, nhận thức và thực tiễn đối với thế hệ sinh viên Việt
Nam hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả cũng có tham khảo, sưu tầm, tổng hợp thông
tin thông qua các nguồn tài liệu như sách, giáo trình, Internet….
5. Kết cấu của tiểu luận
Ngồi Phần mở đầu, Phần kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận được

kết cấu thành 2 chương, 4 tiết.
Chương 1: Khái quát về sự ra đời, phát triển và đối tượng, chức năng của triết
học Mác - Lênin
Chương 2: Vai trò của triết học Mác - Lênin trong đời sống xã hội và ý nghĩa của
việc nghiên cứu vấn đề này đối với sinh viên Việt Nam hiện nay.

5


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ SỰ RA ĐỜI, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỐI TƯỢNG, CHỨC NĂNG
CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
1.1. Khái quát về sự ra đời, phát triển của triết học Mác - Lênin
1.1.1. Những điều kiện lịch sử dẫn đến sự ra đời triết học Mác
Triết học Mác là kết quả của sự phát triển lịch sử tư tưởng triết học và khoa học
của nhân loại, là thực tiễn đấu tranh giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản và cũng là
kết quả của việc thống nhất điều kiện khách quan với nhân tố chủ quan của Mác và
Ăngghen.
● Điều kiện kinh tế - xã hội
a) Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong

điều kiện cách mạng công nghiệp.
Triết học Mác xuất hiện vào giữa thế kỷ XIX. Do sự tác động của cuộc cách mạng
công nghiệp nên lực lượng sản xuất phát triển rất mạnh mẽ kéo theo phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa được củng cố. Những nước lớn như Anh, Pháp và Đức đã đạt
được những thành tựu đáng kể trong đời sống kinh tế xã hội. C. Mác và Ph. Ăngghen
đã nhận định về sự phát triển này rằng: “Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai
cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn
lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”1.

Tuy nhiên, những sự phát triển mạnh mẽ này đã gây ra những mâu thuẫn xã hội
vơ cùng gay gắt. Bình đẳng xã hội đã không được thực thi như cách mạng tư tưởng đã
nói dẫn đến những xung đột xã hội đặc biệt là xung đột giữa giai cấp vô sản và giai cấp
tư sản, gây ra những cuộc đấu tranh giai cấp.
b) Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử với tư cách một lực lượng

chính trị - xã hội độc lập là nhân tố chính trị - xã hội quan trọng cho sự ra
đời triết học Mác.
Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời, lớn lên cùng với sự hình thành và phát
triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong lòng chế độ phong kiến. Cả hai
giai cấp đã cùng đấu tranh lật đổ chế độ phong kiến.
1 C. Mác & Ăngghen (1995), Tồn tập, t. 4, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.603.
6


Khi giai cấp tư sản thống trị giai cấp vô sản trong chế độ tư bản chủ nghĩa thì mâu
thuẫn giữa hai giai cấp ngày càng sâu sắc là nguyên nhân gây ra những cuộc chiến tranh
giai cấp, cuộc khởi nghĩa của thợ dệt ở Lyon (Pháp) vào năm 1831 và năm 1834, phong
trào Hiến chương ở Anh vào cuối những năm 30 của thế kỷ XIX là “phong trào cách
mạng vơ sản to lớn đầu tiên, thật sự có tính chất quần chúng và có hình thức chính trị” 2.
Trong khi đó, ở Đức đã có những mầm mống đầu tiên của các cuộc cách mạng tư sản,
giai cấp vô sản phát triển mạnh dẫn đến cuộc đấu tranh của thợ dệt ở Xilêdi và đã đưa
đến sự ra đời một tổ chức vô sản cách mạng là “Đồng minh những người chính nghĩa”.
Trong hồn cảnh lịch sử đó, ở Anh và Pháp, giai cấp tư sản đang là giai cấp thống
trị lại hoảng sợ trước giai cấp vô sản nên khơng cịn là nhân tố chính trong q trình cải
tạo nền dân chủ. Ở Đức tuy giai cấp tư sản đang lớn lên nhưng khi nhìn vào cuộc cách
mạng tư sản ở Pháp và sự phát triển của phong trào cơng nhân Đức, chúng ta có thể
mường tượng được Đức sẽ trở thành nền dân chủ tư sản hịa bình. Vì vậy, giai cấp vơ
sản xuất hiện trên vũ đài lịch sử có sứ mệnh là lực lượng tiên phong trong cuộc đấu
tranh cho nền dân chủ và tiến bộ xã hội.

c) Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản là cơ sở chủ yếu nhất cho sự ra đời

triết học Mác
Theo cách nói của Hegel, triết học là "sự hiểu biết của thời đại thông qua tư duy".
Do đó, lý luận nói chung và triết học nói riêng phải soi sáng cho hoạt động xã hội nói
chung, đặc biệt là thực tiễn của cách mạng vơ sản. Mỗi giai cấp đều có những lập
trường, lý luận khác nhau nên sinh ra những học thuyết, những quan điểm lý luận về
triết học, kinh tế và chính trị - xã hội khác nhau. Sự thay thế những xã hội tư bản đầy
khiếm khuyết theo những lập trường giai cấp khác nhau đã cho ra đời nhiều biến thể
của chủ nghĩa xã hội như: “chủ nghĩa xã hội phong kiến”, “chủ nghĩa xã hội tiểu tư
sản”, “chủ nghĩa xã hội tư sản”,...
Giai cấp vô sản cách mạng đã tạo tiền đề cho lý luận thể hiện thế giới quan cách
mạng của giai cấp cách mạng triệt để nhất trong lịch sử, do đó, về bản chất, kết hợp
một cách hữu cơ các yếu tố cách mạng và khoa học; kết quả là về mặt lý luận, nó có
khả năng ứng phó với những khó khăn do thời đại đặt ra. C. Mác và Ph. Ăngghen đã
2 V.I. Lênin (2005), Tồn tập, t. 38, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.365.
7


phát triển lý luận đó, trong đó triết học đóng vai trò là nền tảng lý luận rộng: cơ sở thế
giới quan và phương pháp luận.
● Nguồn gốc lý luận và tiền đề khoa học tự nhiên

a) Nguồn gốc lý luận
C. Mác và Ph. Ăngghen đã kế thừa những thành tựu của trí óc nhân loại để thiết
lập những ý tưởng của họ ngang hàng với trí thơng minh của con người. Như V.I. Lênin
đã từng nói chủ nghĩa Mác khơng đóng kín và cứng nhắc, khơng nằm ngồi sự phát
triển của văn minh thế giới, là sự kế thừa từ những đại biểu xuất sắc trong triết học.
Từ triết học cổ điển Đức tiêu biểu là từ Hegel và Feuerbach là nguồn gốc lý luận
trực tiếp của triết học Mác vì C. Mác và Ph. Ăngghen trước đây là một người theo học

các ý tưởng của Hegel. Sau này, cả khi đã từ bỏ chủ nghĩa duy tâm của triết học Hegel,
các ông vẫn đánh giá cao tư tưởng biện chứng của nó. C. Mác đã lấy đó làm tiền đổ để
xây dựng phép biện chứng duy vật. Người còn dựa vào chủ nghĩa duy vật triết học của
Feuerbach, cải tạo và khắc phục những hạn chế của nó từ đó xây dựng nên triết học
mới mà đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất với nhau một cách hữu cơ.
Từ việc kế thừa và cải tạo kinh tế chính trị học với những đại biểu xuất sắc là
Adam Smith (A. Xmít) và David Ricardo (Đ. Ricácđô). Đây là những thành phần vô
cùng quan trọng trong việc xây dựng học thuyết kinh tế và hình thành triết học Mác.
C. Mác đã nói rằng nhờ có nghiên cứu về kinh tế học ơng mới có thể xây dựng học

thuyết về kinh tế của mình.
Từ chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu nổi tiếng như Saint
Simon (Xanh Ximông) và Charles Fourier (Sáclơ Phuriê) là một trong ba nguồn gốc lý
luận của chủ nghĩa Mác.
b) Tiền đề khoa học tự nhiên
Những thành tựu về khoa học tự nhiên là tiền đề cho sự ra đời của triết học Mác.
Sự phát triển tư duy triết học phải dựa trên cơ sở tri thức khoa học cụ thể. Kết quả là,
như Ph. Ăngghen đã chỉ ra, bất cứ khi nào khoa học tự nhiên tạo ra những khám phá
mang tính thời đại, thì chủ nghĩa duy vật khơng thể khơng bị sửa đổi hình thức của nó.

8


Trong thế kỷ XIX, tính hạn chế của phương pháp tư duy siêu hình trong việc nhận
thức thế giới đã được bộc lộ khi khoa học tự nhiên phát triển mạnh. Phương pháp tư
duy siêu hình nổi bật ở thế kỷ XVII và XVIII đã trở thành một trở ngại lớn cho sự phát
triển của khoa học. Ph. Ăngghen nêu bật ý nghĩa của ba phát minh lớn đối với sự hình
thành triết học duy vật biện chứng:
Định luật bảo tồn và chuyển hóa năng lượng
Thuyết tế bào và thuyết tiến hóa của Charles Darwin (Đácuyn).

Với những sáng tạo này, khoa học đã mơ tả tính biện chứng của vận động và sự
phát triển của nó, cũng như mối liên hệ chặt chẽ giữa các dạng tồn tại và vận động đa
dạng trong tổng thể vật chất của vũ trụ.
● Nhân tố chủ quan trong sự hình thành triết học Mác

Xuất thân từ tầng lớp cao nhưng C. Mác và Ph. Ăngghen đều tích cực tham gia
các hoạt động thực tiễn.
Yêu thương người lao động, hiểu được cuộc sống khốn khổ của giai cấp công
nhân trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Tạo ra một hệ thống tư duy để cung cấp cho giai cấp công nhân một công cụ quan
trọng để nhìn nhận và cải tạo thế giới.
1.1.2. Những thời kỳ chủ yếu trong sự hình thành, phát triển triết học Mác
● Thời kỳ hình thành tư tưởng triết học với bước quá độ từ chủ nghĩa duy tâm

và dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản
(1841 - 1844)
C.Mác sinh ra ở Trier, Vương quốc Phổ (nay thuộc bang Rheinland Palatinate của
Đức) vào ngày 5 tháng 5 năm 1818. Nhờ có ảnh hưởng tốt từ gia đình, nhà trường và
các mối quan hệ xã hội, C. Mác có được những phẩm chất đạo đức và tinh thần cao
đẹp, đưa ông đến với chủ nghĩa dân chủ cách mạng và quan điểm vô thần.
C. Mác sau khi tìm đến hai nhà triết học nổi tiếng là Hegel và Feuerbach rất tích
cực tham gia tranh luận ở các câu lạc bộ tiến sĩ, việc này giúp Mác củng cố lập trường
dân chủ tư sản. C. Mác xem quan điểm của Hegel là chân lý nhưng lại mâu thuẫn với
tinh thần dân chủ cách mạng của C. Mác. Mâu thuẫn này đã được giải quyết trong quá
trình kết hợp hoạt động lý luận với thực tiễn đấu tranh cách mạng của C. Mác.

9


Vào năm 1841, C. Mác dự định sẽ xuất bản tạp chí “Tư liệu của chủ nghĩa vơ

thần” nhưng khơng thành do nước Phổ dã thực hiện chính sách đàn áp những người dân
chủ cách mạng. Trong hồn cảnh đó, C. Mác cùng một số người trẻ cùng tư tưởng đã
trực tiếp đấu tranh chống chủ nghĩa chuyên chế Phổ, giành quyền tự do dân chủ.
Năm 1842 đánh dấu sự chuyển biến bước đầu về tư tưởng của C. Mác, tư tưởng
dân chủ - cách mạng của C. Mác theo hướng đấu tranh “vì lợi ích của quần chúng
nghèo khổ, bất hạnh về chính trị và xã hội” 3. Trong thời kỳ này, nhân sinh quan của ông
vẫn dựa trên quan điểm duy tâm. Tuy nhiên, chính bằng những cuộc đấu tranh chống
nhà nước, sự nghi ngờ của C. Mác về “tuyệt đối đúng” trong học thuyết nhà nước của
Hegel đã trở thành một bước đột phá của chủ nghĩa duy vật trong việc giải quyết mâu
thuẫn trong thế giới quan của ông giữa tinh thần cách mạng - dân chủ sâu sắc và cốt lõi
lý luận của ông - triết học duy tâm tư biện.
Vào năm 1843, C. Mác đặt ra cho mình nhiệm vụ xem xét lại một cách khách
quan quan điểm của Hegel nhằm đích tìm ra những động lực thực sự để cách mạng hóa
thế giới thơng qua thực tiễn cách mạng. Ơng đã nghiên cứu triết học pháp quyền của
Hegel và phê phán nó. Trong lúc này, C. Mác đã nồng nhiệt tiếp nhận quan niệm duy
vật và nhân văn của triết học Feuerbach nhưng C. Mác cũng đã nhận thấy những điểm
yếu trong quan điểm của Feuerbach khi ông không đề cập tới những vấn đề chính trị
nóng hổi. Chính nhờ những yếu tố trên đã làm tăng thêm xu hướng duy vật trong thế
giới quan của C. Mác.
Sự chuyển đổi của C. Mác sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản được
đánh dấu vào cuối tháng 10/1843. Ông đã đã phân tích một cách sâu sắc theo quan điểm
duy vật ý nghĩa lịch sử to lớn và mặt hạn chế của cuộc cách mạng tư sản. Theo C. Mác,
“gắn bó với cuộc đấu tranh cách mạng, lý luận tiên phong có ý nghĩa cách mạng to lớn
và trở thành một sức mạnh vật chất; rằng triết học đã tìm thấy giai cấp vơ sản là vũ khí
vật chất của mình, đồng thời giai cấp vơ sản cũng tìm thấy triết học là vũ khí tinh thần
của mình”4.
Trong thời gian ấy, Ph. Ăngghen, một người căm ghét sự chuyên quyền và độc
đoán của bọn quan lại, đã hình thành thế giới quan của riêng mình, ơng chỉ trích những
quan niệm thần bí, phản động. Tuy nhiên, sau khi nghiên cứu đời sống kinh tế
3 C. Mác & Ăngghen (1995), Toàn tập, t. 1, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.182.

4 C. Mác & Ăngghen (1995), Tồn tập, t. 4, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.589.
10


và sự phát triển chính trị của nước Anh, ơng bắt đầu chuyển dịch thế giới quan của
mình từ chuyển từ chủ nghĩa duy tâm và dân chủ - cách mạng sang chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa cộng sản.
Tháng 8/1844, Ph. Ăngghen gặp C. Mác đánh dấu sự tương đồng về tư tưởng và
một tình bạn vĩ đại, gắn liền tên tuổi của hai ông với sự ra đời và phát triển một thế giới
quan mới mang tên C. Mác - thế giới quan cách mạng của giai cấp vô sản.
a) Thời kỳ đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch

sử
Là thời kỳ C. Mác và Ph. Ăngghen xây dựng những nguyên lý nền tảng cho một
triết học mới.
C. Mác đã chỉ ra mặt tích cực trong triết học Hegel, ơng đã phân tích phạm trù
“lao động tự tha hóa”, xem sự tha hóa của lao động như một tất yếu lịch sử, việc khắc
phục sự tha hóa chính là sự xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân, giải phóng người cơng nhân
khỏi “lao động bị tha hóa” dưới chủ nghĩa tư bản, cũng là sự giải phóng con người nói
chung. C. Mác cịn luận chứng cho tính tất yếu của chủ nghĩa cộng sản trong sự phát
triển xã hội, tiến xa hơn Feuerbach rất nhiều trong quan niệm về chủ nghĩa cộng sản. C.
Mác đã phê phán tất cả các chủ nghĩa duy vật trước đây và bác bỏ chủ nghĩa duy tâm,
xác lập quan điểm duy vật biện chứng để chỉ ra mặt xã hội của bản chất con người.
Cuối năm 1845 đầu năm 1846, C. Mác và Ph. Ăngghen đã đồng viết cuốn “Hệ tư
tưởng Đức”, trình bày cách hiểu có phương pháp về chủ nghĩa duy vật lịch sử bằng
cách đánh giá lịch sử xã hội qua con mắt của những con người hiện thực, khẳng định:
“Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá
nhân con người sống”5 mà hành vi lịch sử ban đầu của họ là sản xuất vật chất.
Cùng với “Hệ tư tưởng Đức” và việc phát hiện ra quy luật vận động và phát triển
nền sản xuất vật chất xã hội, triết học Mác đã tiếp nhận sự tồn tại xã hội thông qua hệ

thống quan điểm lý luận khoa học đầy đủ, hình thành và tạo cơ sở lý luận khoa học
vững chắc cho sự phát triển của tư tưởng cộng sản chủ nghĩa của C. Mác và Ph.
Ăngghen.

5 C. Mác & Ăngghen (1995), Tồn tập, t. 3, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.11.
11


b) Thời kỳ C. Mác và Ph. Ăngghen bổ sung và phát triển toàn diện lý luận triết

học (1848 - 1895)
Học thuyết Mác còn được bổ sung và phát triển triển trong sự gắn bó mật thiết
hơn nữa với thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân.
Trong thời kỳ này, C. Mác viết hàng loạt tác phẩm quan trọng, trong đó, bộ “Tư
bản” khơng chỉ là tác phẩm đồ sộ của C. Mác về kinh tế chính trị, mà còn là sự bổ
sung, phát triển của triết học Mác nói riêng và lý luận của Mác nói chung.
Ph. Ăngghen cũng phát triển học thuyết Mác với việc khái quát những thành tựu
của khoa học và qua những cuộc đấu tranh với những kẻ thù của chủ nghĩa Mác.
1.1.3. Giai đoạn V.I. Lênin trong sự phát triển của triết học Mác
Triết học Mác là nền móng của các mơn khoa học, là vũ khí tinh thần của giai cấp
vơ sản.
a) Hoàn cảnh lịch sử V.I. Lênin phát triển triết học Mác

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là giai đoạn chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản sang
chủ nghĩa đế quốc. Giai cấp tư sản ngày càng bộc lộ rõ bản chất bạo lực và man rợ ở
mọi mặt của đời sống xã hội. Giai cấp tư sản cũng thực hiện những cuộc đấu tranh gắt
gao trên lĩnh vực tư tưởng. đối đầu với chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử của C. Mác bằng thứ lý luận chiết trung, pha trộn của thế giới quan duy tâm,
tôn giáo. Cùng với sự ra đời của các phát minh vĩ đại trong lịch sử loài người như tia
phóng xạ, phát hiện ra điện tử,... Những người theo chủ nghĩa duy tâm lợi dụng tình

hình đó đã tấn công lại chủ nghĩa duy vật biện chứng của C. Mác.
V.I. Lênin, trước tình hình đó, đã đặt ra những nhiệm vụ cấp bách và quan trọng
cho giai cấp vô sản là bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác nói chung để phù hợp với
hồn cảnh kinh tế - xã hội thay đổi.
b) V.I. Lênin trở thành người kế tục trung thành và phát triển sáng tạo chủ

nghĩa Mác và triết học Mác trong thời đại mới - thời đại đế quốc chủ nghĩa
và quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Lênin sinh ngày 22 tháng 4 năm 1870 tại thành phố Simbirsk (Ulyanovsk của
Nga ngày nay) trong một gia đình có sáu anh chị em. Ngay từ khi còn nhỏ, V.I. Lênin
đã bộc lộ sự chăm chỉ, nhanh nhẹn, tài giỏi của mình. Ơng đã sớm bước vào con đường
cách mạng, tiếp thu tư tưởng Mác ngay chỉ khi mới 17 tuổi. Ông cống hiến

12


toàn bộ sức lực cho các phong trào cách mạng của giai cấp công nhân, thể hiện tư chất
của một nhà lãnh đạo lỗi lạc, một vị lãnh tụ thiên tài và là một nhà tư tưởng kiệt xuất.
Từ 1893 - 1907, Lênin đã thành lập một chính đảng mácxít ở Nga và bảo vệ, phát
triển triết học Mác nhằm chuẩn bị cho cuộc cách mạng dân chủ tư sản lần thứ nhất.
Từ những năm 1880, chủ nghĩa Mác bắt đầu được truyền bá sang Nga. Lê-nin đã
tích cực quảng bá chủ nghĩa Mác trong phong trào công nhân Nga. Đồng thời dấn thân
vào cuộc đấu tranh kiên quyết chống chủ nghĩa duy tâm và phương pháp siêu hình, phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác nói chung, đặc biệt là triết học Mác trên các mặt trận về
chính trị, kinh tế và cả về tư tưởng. Thời kỳ này ông đã viết các tác phẩm chủ yếu như:
“Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội
ra sao?” (1894); “Nội dung kinh tế của chủ nghĩa dân túy và sự phê phán trong cuốn
sách của ơng Xtơruvê về nội dung đó” (1894); “Chúng ta từ bỏ di sản nào?” (1897);
“Làm gì?” (1902),...
Từ 1907 - 1917, V.I. Lênin đã phát triển toàn diện triết học Mác và lãnh đạo

phong trào công nhân Nga chuẩn bị cho cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ
này, cách mạng 1905 - 1907 thất bại dấy lên nỗi lo âu và làm lung lay đội ngũ các nhà
cách mạng. Chủ nghĩa Mác bị tấn công bởi nhiều yếu tố ở mọi mặt, nhất là chủ nghĩa
Makhơ, chủ nghĩa ủng hộ triết học duy tâm và chống đối chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Trước tình hình đó, V.I. Lênin đã viết cuốn “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán” (1908) phê phán toàn diện triết học duy tâm tư sản, chỉ rõ vấn đề cơ
bản của triết học và thực chất của cuộc khủng hoảng vật lý học (cuối XIX - đầu XX) và
sai lầm của những người theo chủ nghĩa Makhơ.
Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Lênin nghiên cứu và phát triển hàng loạt
nguyên lý triết học Mác. Ông cho ra đời tác phẩm “Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột
cùng của chủ nghĩa tư bản” (1913) phân tích chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng
của chủ nghĩa tư bản, phân tích khả năng thắng thể của giai cấp vơ sản ở một số nước
nơi mà trình độ phát triển và kinh tế còn chưa cao, và đề cao sự thống nhất của phong
trào cộng sản thế giới trên tinh thần chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Khi cách mạng vơ sản đã trở nên chín muồi Lênin đã cho ra đời tác phẩm “Nhà
nước và cách mạng” (cuối năm 1917) để chuẩn bị về mặt lý luận cho cách mạng vô

13


sản đang đến gần. Tác phẩm nhấn mạnh tư tưởng Mác chủ yếu là về đấu tranh giai cấp,
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là hai giai đoạn trong sự phát triển của xã hội
cộng sản chủ nghĩa. Công lao to lớn của Lênin là diễn giải được một cách khoa học về
những vấn đề của chiến tranh và hịa bình, phát triển học thuyết Mác về chiến tranh và
quân đội, là người đầu tiên phát triển học thuyết về bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Từ 1917 - 1924, Lênin hoàn thiện kinh nghiệm về thực tiễn của cách mạng, học
thuyết Mác và nghiên cứu về vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là thời kì nước
Nga Xơ Viết bước vào thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và phải
chống lại sự can thiệp của 14 nước đế quốc. Lênin cho ra đời hàng loạt các tác phẩm
như “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô Viết” và “Sáng kiến vĩ đại” đặt ra

nhiệm vụ hàng đầu nâng cao năng suất lao động, “Cách mạng vơ sản và tên phản bội
Cauxky” chỉ rõ vai trị của Nhà nước Xô Viết trong bảo vệ và xây dựng nước Nga Xô
Viết, “Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản” làm rõ mối quan hệ chặt chẽ
của người dân và đảng, “Chính sách kinh tế mới” thảo luận về các chiến lược kinh tế,
áp dụng lý thuyết của Mác vào các liên minh công - nông, và “Về tác dụng của chủ
nghĩa duy vật chiến đấu” được coi như di chúc triết học của Lênin. Vì vậy, chủ nghĩa
Lênin không phải là một sự khái quát của chủ nghĩa Mác, mà nó mở rộng ra và tổng kết
lại về sự đấu tranh của giai cấp công nhân và lao động trên toàn thế giới.
c) Thời kỳ từ năm 1924 đến nay, triết học Mác - Lênin tiếp tục được các đảng

cộng sản và công nhân bổ sung, phát triển
Sau khi Lênin mất, chủ nghĩa Lênin vẫn tiếp tục được bổ sung và phát triển bởi
các công nhân và đảng cộng sản trên toàn thế giới và có những đóng góp quan trọng.
Triết học Mác - Lênin được ứng dụng và truyền bá sâu rộng ở các nước chủ nghĩa xã
hội. Tuy nhiên cũng gặp phải không ít khó khăn thử thách trong q trình đó, cơ bản
như phương thức lý luận lạc hậu, sai lầm và khuyết điểm trong đấu tranh cách mạng và
cơ chế quản lý, hơn nữa trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật được nâng cao đã tạo
ra vô số vấn đề cần giải đáp về mặt lý luận.
Ở Việt Nam, chủ nghĩa Mác - Lênin đã được ứng dụng một cách sáng tạo bởi

Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đóng góp quan trọng vào việc phát triển chủ nghĩa

14


trong điều kiện mới, cụ thể cả trong đấu tranh giải phóng dân tộc và trong xây dựng
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
Hiện nay, trên thế giới, các thế lực thù địch vẫn hết sức xuyên tạc và đối đầu chủ
nghĩa xã hội vậy nên việc làm cấp thiết là cần đấu tranh bảo vệ, vận dụng và biến lý
luận đó thành hiện thực. Thực tế cho thấy không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội nếu xa

rời các luận điểm triết học của Mác - Lênin.
1.2. Đối tượng, chức năng của triết học Mác - Lênin
1.2.1. Khái niệm triết học Mác - Lênin
“Triết học Mác - Lênin là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về tự nhiên, xã
hội và tư duy - thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và các lực lượng xã hội tiến bộ trong nhận thức và cải
tạo thế giới”6.
Người Hy Lạp cổ đại đặt tên cho triết học là Philosophia, họ đã kết hợp các thuật
ngữ Philos (tình yêu) và Sophia (kiến thức). Vì vậy, triết học về cơ bản có nghĩa là
"tình u và kiến thức". Nó được coi là khơn ngoan vì nó có khả năng giải thích bản
chất của các sự vật và hiện tượng thông qua các hệ thống ý tưởng, phạm trù và quy
luật.
Giữa thế kỷ VIII và VI trước Công nguyên (tr. CN), triết học đã xuất hiện ở cả
phương Đông và phương Tây trong một số nền văn minh cổ đại như Trung Quốc, Ấn
Độ, Ai Cập, Trung Đông, v.v… nhưng triết học cổ điển chỉ phát triển ở Hy Lạp cổ đại.
Triết học được định nghĩa là khung kiến thức lý thuyết rộng nhất.
1.2.2. Đối tượng của triết học Mác - Lênin
Là một hình thức tư duy triết học phát triển cao của nhân loại, đề tài nghiên cứu
của triết học Mác - Lênin nhất thiết phải vừa đồng nhất, vừa khác biệt với đối tượng
nghiên cứu của các hệ thống triết học trước đây trong suốt chiều dài lịch sử.
Mặc dù mỗi hệ thống triết học thường xuyên xác định mình là đối tượng nghiên
cứu riêng biệt, sắp xếp để thực hiện chức năng của nó (là hạt nhân lý luận của thế giới
quan và cơ sở phương pháp luận chung nhất), nhưng trước hết mọi hệ thống triết học
đều phải nghiên cứu và giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức theo theo một
lập trường cụ thể của chủ nghĩa duy vật hoặc chủ nghĩa duy vật. Mọi hệ thống triết
6 Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình triết học Mác – Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.45
15


học trong lịch sử đều phải tập trung xem xét những khía cạnh chung nhất của tự nhiên,

xã hội, con người; nghiên cứu mối quan hệ tương tác của con người nói chung và tư
duy của con người nói riêng với thế giới xung quanh về các tính cách riêng biệt - tích
cực hay tiêu cực.
Để khắc phục những hạn chế và mâu thuẫn của quan niệm sai lầm của các hệ
thống triết học khác, triết học Mác - Lênin xác định đối tượng nghiên cứu là giải quyết
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức theo quan điểm duy vật biện chứng, nghiên cứu
những quy luật chung nhất của sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội, và nghĩ.
Triết học Mác - Lênin nêu bật những quy luật vận động, tiến hóa chung nhất của thế
giới - cả về tự nhiên, lịch sử xã hội và tư tưởng - bằng cách giải đáp một cách toàn diện
vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường duy vật biện chứng. Đồng thời, triết học
Mác - Lênin phân tích mối liên hệ giữa phép biện chứng khách quan và phép biện
chứng chủ quan, thực tiễn bên ngồi, q trình nhận thức và tư tưởng của con người
đều tuân theo những quy luật biện chứng như nhau. Các quy luật biện chứng của thế
giới là khách quan về mặt chất, nhưng lại mang tính chủ quan về mặt hình thức. Phép
biện chứng khách quan thể hiện ở phép biện chứng chủ quan.
Khác với các hệ thống triết học trước đây, triết học Mác - Lênin xác định chủ đề
nghiên cứu của mình khơng chỉ chứa đựng những quy luật phổ biến của tự nhiên nói
chung mà cịn là những quy luật chung của các bộ phận tự nhiên đã và đang được nhân
loại hóa - tức là những quy luật chung của lịch sử xã hội. Do đó, câu hỏi của con người
được đưa vào như mục tiêu của triết học Mác - Lênin. Triết học Mác - Lênin xuất phát
từ kinh nghiệm của con người, thể hiện quy luật vận động, tiến hóa xã hội và trí tuệ con
người. Mục tiêu của triết học Mác - Lênin là nâng cao hiệu quả của quá trình nhận thức
và hoạt động thực tiễn nhằm phục vụ lợi ích của con người.
Mục đích của triết học và đối tượng của các khoa học chuyên ngành được phân
biệt trong triết học Mác - Lênin. Khoa học cụ thể nghiên cứu các quy tắc trong các lĩnh
vực cụ thể của tự nhiên, văn hóa hoặc tư tưởng. Triết học là mơn học nghiên cứu các
quy luật chung nhất áp dụng cho cả ba lĩnh vực này.
Triết học Mác - Lênin có quan hệ mật thiết với những ngành khoa học nhất định.
Các khoa học chuyên ngành cung cấp bằng chứng, tạo ra những thách thức khoa học
mới và tạo tiền đề, làm nền tảng cho tiến bộ triết học. Các ngành khoa học cụ thể có


16


mục tiêu và mục tiêu riêng, nhưng chúng đều có chung một thế giới quan và phương
pháp luận triết học. Mối liên hệ giữa các quy luật triết học và khoa học chính là mối
quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Việc tích hợp hai loại hình khoa học và tri thức
này là điều khó tránh khỏi. Mọi khoa học cụ thể, dù tự phát hay không, đều phải dựa
trên nền tảng triết học. Triết học Mác - Lênin là sự khái quát cao những kết luận khoa
học cụ thể, xác lập những nguyên lý chung nhất của tự nhiên, xã hội, trí tuệ; do đó, nó
trở thành nền tảng của thế giới quan và phương pháp luận khoa học cụ thể.
1.2.3. Chức năng của triết học Mác - Lênin
● Chức năng thế giới quan:

Những vấn đề tồn tại trên thế giới và những giải pháp cần phải tìm kiếm trước
hết là những vấn đề về thế giới quan. Thế giới quan là tập hợp những ý tưởng về thế
giới và vai trị của con người trong đó, lấy triết học làm nền tảng lý luận.
Thế giới quan rất cần thiết trong cuộc sống của con người và xã hội. Có thể sử
dụng thế giới quan như một “thấu kính” mà qua đó cá nhân quan sát thế giới xung
quanh cũng như xem xét bản thân để quyết định mục đích, ý nghĩa cuộc sống và cách
thức hoạt động hiệu quả để đạt được mục đích đã định. Đây là nền tảng thích hợp để
mỗi cá nhân tạo dựng nên con người, quyết tâm tham gia tích cực vào công cuộc nhận
thức và cải tạo thế giới. Triết học nổi lên với tư cách là hạt nhân lý thuyết của thế giới
quan, cho phép nó phát triển như một quá trình tự ý thức dựa trên tổng hợp kinh nghiệm
thực tiễn và trí tuệ do các nhà khoa học cung cấp.
Thế giới quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc khuyến khích các cá nhân nhìn nhận thế giới hiện thực một cách phù hợp. Đây là
"lăng kính", triết lý mà các cá nhân sử dụng để đánh giá, nhìn nhận và phán xét mọi sự
vật, cũng như bản thân họ. Nó cung cấp cho con người một nền tảng khoa học để hiểu
bản chất của tự nhiên và xã hội, cũng như mục đích và ý nghĩa của cuộc sống. Thế giới

quan duy vật biện chứng còn hỗ trợ con người phát triển các quan điểm khoa học, xem
xét và nhận diện thế giới, phán đoán mọi sự vật hiện tượng và xem xét bản thân. Nó
cung cấp cho con người một nền tảng khoa học để hiểu bản chất của tự nhiên và xã hội,
cũng như mục đích và ý nghĩa của cuộc sống. Thế giới quan duy vật biện chứng còn hỗ
trợ con người phát triển quan điểm khoa học chi phối mọi hành động, giúp con người
xác định thái độ và phương thức hoạt động của mình. Trong triết học,

17


có một mối liên hệ hữu cơ giữa thế giới quan và phương pháp tiếp cận. Theo những
cách nhất định, thế giới quan cũng đóng vai trị là một kỹ thuật.
Vai trị tích cực và sáng tạo của con người được nâng cao nhờ thế giới quan duy
vật biện chứng. Nền tảng cho các kết nối lành mạnh giữa các cá nhân là quan điểm
thích hợp. Mức độ phát triển thế giới quan của một người là một chỉ số đáng kể về sự
trưởng thành của cá nhân cũng như tư cách thành viên trong một cộng đồng xã hội nhất
định. Tất cả các ngành khoa học đều góp phần xây dựng thế giới quan đúng đắn. Thế
giới quan duy vật biện chứng tạo cơ sở khoa học để đấu tranh với thế giới quan duy vật,
tôn giáo và phản khoa học. Với bản chất khoa học và cách mạng của thế giới quan duy
vật, phép biện chứng là hạt nhân tư tưởng của giai cấp công nhân và các lực lượng tiến
bộ, cách mạng, là nền tảng lý luận trong cuộc đấu tranh chống những quan niệm phản
cách mạng.
● Chức năng phương pháp luận:

Phương pháp luận là một tập hợp các quan điểm và khái niệm hướng dẫn việc áp
dụng các thủ tục trong nhận thức và hành động thực tiễn để tạo ra kết quả tốt nhất có
thể. Phương pháp luận cũng đề cập đến quá trình lý luận về một hệ thống phương pháp.
Triết học Mác - Lênin đóng vai trị phương pháp luận rộng nhất, gắn liền nhất với nhận
thức và hoạt động thực tiễn.
Vai trò phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng trước hết được nêu rõ

với tư cách là kỹ thuật chung của mọi nhận thức khoa học. Bộ nguyên tắc phương pháp
luận chung nhất cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn được cung cấp bởi
phương pháp luận duy vật biện chứng.
Triết học Mác - Lênin cung cấp cho con người một tập hợp các khái niệm, phạm
trù và quy luật để sử dụng làm công cụ nhận thức khoa học; nó hỗ trợ sự phát triển của
tư duy khoa học, tư duy ở cấp độ phạm trù và quy luật.
Mặt khác, hệ tư tưởng Mác - Lênin khơng phải là “toa thuốc vạn năng” có thể sửa
chữa mọi vấn đề. Cùng với sự hiểu biết triết học, con người địi hỏi thơng tin khoa học
chun biệt và kinh nghiệm xã hội thực tế để nhận thức và hành động hiệu quả. Không
được coi nhẹ hoặc tuyệt đối hoá kỹ thuật triết học trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn. Nếu bạn bỏ bê kỹ thuật triết học, bạn sẽ gặp phải gián điệp, nhầm lẫn, thiếu sáng
kiến và thiếu sáng tạo trong cơng việc của mình. Ngược lại, nếu tuyệt đối

18


hóa phương pháp luận triết học thì sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều, dễ bị vấp ngã và thất
bại. Thúc đẩy cách tiếp cận duy vật biện chứng giúp mỗi cá nhân tránh được những sai
lầm do chủ quan, duy ý chí và các kỹ thuật tư duy siêu hình gây ra.

19


Tiểu kết chương 1
Sự ra đời của triết học Mác là một cuộc cách mạng triết học rộng lớn. Nó là sản
phẩm tất yếu của quá trình trưởng thành lịch sử tư tưởng triết học và khoa học của nhân
loại, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội mà trực tiếp là thực tiễn cuộc đấu tranh giai
cấp của giai cấp vô sản với giai cấp tư sản. Triết học Mác - Lênin là hệ thống quan
điểm duy vật biện chứng. Triết học Mác - Lênin nhằm giải quyết mối liên hệ giữa vật
chất và ý thức theo quan điểm duy vật biện chứng, cũng như nghiên cứu những nguyên

lý chung nhất của sự vận động và phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Hai vai trò
cơ bản của triết học Mác - Lênin là chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp
luận.

20


Chương 2
VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VÀ Ý
NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ NÀY ĐỐI VỚI SINH VIÊN VIỆT
NAM HIỆN NAY
2.1. Vai trò của triết học Mác - Lênin trong đời sống xã hội và sự nghiệp đổi mới
của Việt Nam
2.1.1. Triết học Mác - Lênin là thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách
mạng cho con người trong nhận thức và thực tiễn
Với các nguyên lý và quy luật mà phép biện chứng duy vật mang lại đã phản ánh
những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ phổ biến nhất của cả tự nhiên, xã hội
và tư duy nên tác dụng định hướng của chúng có ý nghĩa trong tất cả mọi trường hợp
chứ khơng chỉ gói gọn trong một phạm vi nhất định nào đấy như cái cách mà các
nguyên lý và quy luật mà các khoa học chuyên ngành được ứng dụng. Nhiều người, kể
cả các nhà khoa học chuyên nghiệp, có thành kiến với triết học, từ chối thừa nhận rằng
nó tác động hoặc kiểm soát thế giới quan của họ. Tuy nhiên, tư duy triết học là một yếu
tố hữu cơ trong vũ trụ vì nó là một loại tri thức vĩ mơ giải quyết những khó khăn phổ
biến nhất trong cuộc sống và ẩn sâu trong mọi suy nghĩ và hành động của con người.
Tri thức khoa học, cũng giống như tri thức thông thường, là cơ sở vô thức của kinh
nghiệm con người, bất kể cá nhân có hiểu biết đến đâu hay chức năng của triết học
được thừa nhận ở mức độ nào. Ph. Ăngghen đã viết: “Những ai phỉ báng triết học nhiều
nhất lại chính là những kẻ nơ lệ của những tàn tích thơng tục hóa, tồi tệ nhất của những
học thuyết triết học tồi tệ nhất... Dù những nhà khoa học tự nhiên có làm gì đi nữa thì
họ cũng vẫn bị triết học chi phối. Vấn đề chỉ ở chỗ họ muốn bị chi phối bởi một thứ

triết học tồi tệ hợp mốt, hay họ muốn được hướng dẫn bởi một hình thức tư duy lý luận
dựa trên sự hiểu biết về lịch sử tư tưởng và những thành tựu của nó”7.
Triết học vẫn cịn phổ biến trong quan điểm của mọi người. Điểm khác biệt chỉ là
thứ triết học nào sẽ chi phối con người trong hoạt động của họ. Chúng biến xuất phát
điểm cho những nghiên cứu và hoạt động cải biên sự vật của con người bao giờ cũng
xuất phát từ một lập trường nhất định, dự đoán trước được cách thức vận động chung
của các đối tượng, nhận định sơ bộ các mốc cơ bản của quá trình nghiên cứu
7 C. Mác & Ăngghen (1995), Tồn tập, t. 20, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.692-693.
21


hay hoạt động cải biến sự vật, vạch ra đường đi rõ ràng cũng như giải quyết được
những vấn đề có thể gặp, tránh được những sai lầm khiến ta lạc giữa mối liên hệ chằng
chịt và phức tạp mà khơng tìm ra được lý tưởng của chính mình.
Với vai trò là hạt nhân lý luận, triết học chi phối mọi thế giới quan, dù người ta có
chú ý và thừa nhận điều đó hay khơng. Nghe thì có vẻ xa vời, viển vơng và thật khó để
hiểu được đây là một nhận định sai lầm. Trước hết nó thể hiện qua thái độ coi thường
vai trò của triết học, cho rằng những vấn đề mà triết học bàn luận là những vấn đề quá
chung nên các phát hiện khoa học của nó có giới hạn sử dụng trong thực tế. Nhưng trên
thực tế lại hoàn toàn ngược lại với chức năng là thế giới quan và phương pháp luận
chung nhất, triết học gắn bó hết sức mật thiết với cuộc sống, với thực tiễn, là kim chỉ
nam cho chúng ta trong mọi hành động. Vấn đề ở đây chính là, những vấn đề ta gặp
trong cuộc sống, do hoạt động thực tiễn đặt ra bao giờ cũng là những vấn đề hết sức cụ
thể, trong nhiều trường hợp, khi giải quyết những vấn đề cụ thể này, con người khó có
thể tìm thấy ở triết học một câu trả lời cụ thể chính xác. Nhưng để giải quyết những vấn
đề cụ thể ấy một cách có hiệu quả thì trước hết ta phải tìm lời giải cho những vấn đề
chung có liên quan. V.I. Lênin đã từng nhận xét: “Người nào bắt tay vào những vấn đề
riêng trước khi giải quyết các vấn đề chung, thì kẻ đó, trên mỗi bước đi, sẽ không sao
tránh khỏi “vấp phải” những vấn đề chung đó một cách khơng tự giác. Mà mù quáng
vấp phải những vấn đề đó trong từng trường hợp riêng, thì có nghĩa là đưa chính sách

của mình đến chỗ có những sự dao động tồi tệ nhất và mất hẳn tính nguyên tắc” 8. Từ
một lập trường triết học đúng đắn, cụ thể hơn là xuất phát từ những quan điểm của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chúng ta có thể tìm ra được những cách giải quyết đúng đắn
các vấn đề mà cuộc sống đưa ra. Và theo chiều ngược lại, từ một lập trường triết học
sai lầm, chúng ta không thể tránh khỏi những quyết định sai lầm.
Cái chính ở đây là giá trị định hướng - một trong những biểu hiện cụ thể chức
năng phương pháp luận của triết học.
Hiệu quả từ những nghiên cứu triết học không đơn giản như hiệu quả từ những
nghiên cứu của các bộ môn khoa học - kỹ thuật, càng khác xa với hiệu quả của hoạt
động sản xuất trực tiếp. Kết quả mà nghiên cứu triết học đem lại khơng phải nằm lời
8 V.I. Lênin (2005), Tồn tập, t. 15, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.437.
22


giải đáp trực tiếp, cụ thể cho từng vấn đề cụ thể vô cùng đa dạng của cuộc sống, mà nó
làm tiền đề cho việc xác định những lời giải đáp trực tiếp, cụ thể ấy. Thực tế đã chứng
minh độ hiệu quả của nghiên cứu triết học được quyết định bởi giá trị định hướng cho
các hành động thực tiễn là vô cùng phong phú và đa dạng về các kết luận rộng rãi, có
tính tổng qt cao mà nó đưa ra, nhưng nó khơng thể đưa ra câu trả lời chính xác cho
từng trường hợp. Góp phần tạo nên vai trò hết sức to lớn của triết học trong việc giải
quyết những vấn đề rất cụ thể của cuộc sống.
Để có thể tìm ra cách giải quyết hiệu quả nhất đối với những vấn đề cụ thể vừa
hết sức phức tạp vừa vô cùng đa dạng trong cuộc sống, chúng ta cần lưu ý không để
phạm phải hai thái cực sai lầm sau. Thứ nhất là xem thường triết học, từ đó khiến ta rơi
vào tình trạng mị mẫm tùy tiện, dễ bằng lòng với những biện pháp cụ thể nhất thời tiến
đến sự lầm đường lạc lối, thiếu nhìn xa trơng rộng, thiếu chủ động và sáng tạo trong
cách thức hành động. Thứ hai là tuyệt đối hóa vai trị của triết học qua đó dẫn đến hệ
luỵ khiến ta sa vào chủ nghĩa giáo điều, ứng dụng những nguyên lý, những quy luật
chung của triết học một cách máy móc, thiếu tính linh hoạt mà khơng tính đến tình hình
cụ thể do hình dung được vấn đề đó trong từng trường hợp cụ thể. “Kết hợp chặt chẽ cả

hai loại tri thức trên đây - tri thức chung (trong đó có tri thức triết học và tri thức khoa
học chuyên ngành) và tri thức thực tiễn (trong đó có sự hiểu biết tình hình thực tiễn và
trình độ tay nghề được biểu hiện qua sự nhạy cảm thực tiễn) - đó là tiền đề cần thiết
đảm bảo thành công của chúng ta trong hoạt động cụ thể của mình”9.
2.1.2. Triết học Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học
và cách mạng để phân tích xu hướng phát triển của xã hội trong điều kiện cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ
Một trong những hệ quả mà cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại
mang lại đó chính là việc lồi người bước vào thế kỷ XXI với những vấn đề mới rất cơ
bản và sâu sắc về nhận thức. Trong thời đại đó, vai trị của triết học Mác - Lênin trở nên
vô cùng quan trọng, là tiền đề lý luận - phương pháp luận cho các phát minh khoa học,
cho sự tích hợp và mở rộng mức độ tiếp cận tri thức khoa học hiện đại. Dù tự giác hay
tự phát, khoa học hiện đại muốn phát triển được phải dựa trên cơ sở thế giới quan và
phương pháp luận duy vật biện chứng. Đồng thời, những vấn đề mới của hệ
9 Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Giáo trình triết học Mác – Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.51
23


thống tri thức khoa học hiện đại cũng đang xuất hiện ngày một nhiều qua đó địi hỏi
triết học Mác - Lênin cũng phải có bước phát triển mới.
Ngày nay, tồn cầu hóa đang trở thành một xu thế phổ biến và tốc độ ngày càng
tăng nhanh. Tồn cầu hóa được định nghĩa là quá trình gia tăng đáng kể mối quan hệ,
ảnh hưởng, tác động và sự phụ thuộc lẫn nhau của thế giới giữa các khu vực, các chính
phủ và các dân tộc. Đây là một q trình xã hội phức tạp, chứa đựng nhiều mâu thuẫn,
có cả sự tích cực và tiêu cực, đem đến cơ hội đồng thời cũng là thách thức đối với các
quốc gia, dân tộc, đặc biệt là các nước kém phát triển. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
tư bản đang sử dụng tồn cầu hóa để đạt được tồn cầu hóa tư bản chủ nghĩa. Từ đây đã
làm xuất hiện mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc với các nước đang
phát triển, các dân tộc chậm phát triển tạo nên một cuộc đấu tranh quyết liệt để tranh
giành lợi ích dân tộc. Trước tình hình đó, triết học Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan

và phương pháp luận khoa học, làm nên cách mạng trong việc phân tích sự vận động và
mơ hình tăng trưởng của xã hội hiện đại.
Sự xuất hiện của những mâu thuẫn giai cấp trong xã hội hiện đại đã dẫn đến
những cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc diễn ra ngày một nhiều với điều
kiện hồn tồn mới, dưới những hình thức chưa từng được xuất hiện. Trong thời đại
này, chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng đã trở thành
ngọn đèn soi sáng cho những lý luận khoa học và con đường cách mạng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động trong những công cuộc đấu tranh của họ.
Hiện nay, sự khủng hoảng và suy thoái của chủ nghĩa xã hội đã kéo theo những
bất lợi cho các lực lượng cách mạng, tiến bộ. Chủ nghĩa đế quốc đang tạm thời chiếm
thế thượng phong. Cho dù thế, nhiều phong trào tiêu biểu là phong trào công nhân,
phong trào xã hội chủ nghĩa và phong trào độc lập dân tộc vẫn tồn tại, dần dần phục
hồi, đang được tập hợp, phát triển lực lượng, nghiên cứu để tìm ra các phương thức và
phương pháp đấu tranh mới.
Tuy những mâu thuẫn cơ bản của thời đại vẫn cịn hiện hữu ở đó nhưng đã xuất
hiện them những đặc điểm, tính chất và hình thức mới. Trong khi đó, sự trổi dậy của
một loạt các mâu thuẫn mang tính tồn cầu khác cũng trở nên vơ cùng gay gắt. Thế giới
đầu thế kỷ XXI vẫn tồn tại và phát triển trên nền của các hệ thống mâu thuẫn đó. Đặc
biệt nổi bật nhất và chiếm phần chủ yếu là mâu thuận lợi ích giữa giai cấp tư sản

24


×