Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

cam nhan ve bai van te nghia si can giuoc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (391.36 KB, 17 trang )

Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Đề bài: Cảm nhận về bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc Ngữ văn 11
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
- Giới thiệu về tác phẩm
- Bài văn tế là khúc tráng ca của những người nghĩa sĩ tuy thất thế nhưng vẫn
hiên ngang.
2. Thân bài
a. Giới thiệu hoàn cảnh ra đời bài văn tế:
- Được viết bởi Nguyễn Đình Chiểu dưới yêu cầu của tuần phủ Gia Định – Đỗ
Quang.
- Được ra đời sau khi đội quân nghĩa sĩ Cần Giuộc tấn công vào đồn Pháp,
giết chết tên quan hai mang người Việt. Nhưng có hơn hai mươi nghĩa sĩ tử
trận.
- Bài văn đã khích lệ tinh thần yêu nước của nhân dân và được hưởng ứng nhiệt
liệt.
- Là khúc tráng ca về tượng đài bất tử của người nghĩa sĩ Cần Giuộc.
b. Mở đầu bài thơ là sự khái quát về tình hình thời đại và khẳng định sự bất
tử về tiếng thơm của người nghĩa sĩ nơng dân.
- Mở đầu "Hỡi ơi!": lời than khóc, tiếc thương, lời hiệu triệu vong linh nghĩa sĩ.
- Tái hiện khung cảnh thời đại "Súng giặc … trời tỏ: Đất nước đang bị xâm
lược - lòng căm thù quân giặc của người dân thấu tận trời xanh.
- Khẳng định sự bất tử của tượng đài người nghĩa sĩ
- Nghệ thuật đối lập (chưa ắt danh nổi như phao - tiếng vang như mõ).
c. Hình ảnh những người nghĩa sĩ nông dân
- Nguồn gốc xuất thân:
+ Là những người dân nghèo, chỉ biết chăm chỉ, hiền lành, "cui cút làm ăn" =>
Họ là những người dân chất phác, nghèo khổ quanh năm bán mặt cho đất, bán
lưng cho trời.
+ Tác giả sử dụng những từ "chưa quen, chỉ biết", "vốn quen, chưa biết" : Họ là


những người nông dân chỉ biết làm ăn, lao động, chưa từng động binh đao.
- Tấm lịng u nước của những người nơng dân.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

+ Diễn biến tâm trạng của người nông dân: Giặc đến, người nông dân lo sợ
"tiếng phong hạc… tháng" => trông chờ quan quân tới giúp "trông tin … mưa"
=> ghét bọn ngoại xâm "ghét thói … cỏ" => căm thù "bữa thấy …cắn cổ" =>
đứng lên chống lại kẻ thù "nào ai … bộ hổ". => Diễn biến trong tâm trạng của
người nơng dân có sự chuyển hóa phi thường.
+ Họ nhận thức về trách nhiệm với Tổ quốc nên tự nguyện ra nhập quân đội,
chiến đấu tự nguyện, dù biết sẽ hi sinh: "Nào đợi ai … bộ hổ", "Một chắc sa …
treo mộ", "chẳng phải án …đáng số".
+ Họ nhận thức được sự tàn bạo trong sự cai quản của thực dân Pháp, nên nhất
tề đứng dậy khởi nghĩa "Vì ai …thêm buồn".
- Tinh thần chiến đấu quả cảm, không ngại hi sinh của người nghĩa sĩ:
+ Họ chỉ là những người nông dân "dân ấp dân lân" không phải "quân cơ quân
vệ" những vẫn hăm hở tòng quân "mến … chiêu mộ".
+ Họ ra sức rèn luyện "Mười tám …bày bố" để có thể đi đánh giặc.
+ Quân trang của họ thô sơ: "Ngoài cật … con cúi" đối lập với quân trang tối
tân của giặc "thằng Tây … to", "tàu sắt tàu đồng".
=> Thế nhưng họ vẫn chiến đấu hết mình "nào sợ …chẳng có", lập được chiến
cơng "đốt xong… kia", "chém rớt …hai nọ", khiến cho lũ giặc kinh hồn "làm
cho … hồn kinh".
+ Nghệ thuật đối lập giữa đội quân áo vải và lũ giặc Pháp => tăng sự anh dũng,
hào hùng của những người nghĩa sĩ. Nhịp văn khẩn trương, cao độ như khí thế
đánh trận sục sơi.

- Bức tượng đài người nông dân nghĩa sĩ sừng sững hiên ngang.
-

Sự tiếc thương, cảm phục của tác giả dành cho nghĩa sĩ đã hi sinh:

+ Hình ảnh những gia đình tang tóc "Đau đớn …trước ngõ": Bầu khơng khí
tang thương + Niềm cảm thương sâu sắc của tác giả.
+ Sự hi sinh anh dũng của họ được nói lên bằng cảm xúc tơn kính, tự hào,
thương tiếc.
-

Ca ngợi chiến cơng và bức tượng đài bất tử của người nghĩa sĩ:

+ Khẳng định sự tiếc thương của người dân cả nước dành cho những người
nghĩa sĩ "Nước mắt …vương thổ".
+ Nêu cao tinh thần xả thân vì nghĩa lớn của những người lính "Ơi … tiết rỡ".
=> Khúc ca bi tráng dành cho những anh linh nghĩa sĩ anh hùng.
+ Nghệ thuật: Nhịp văn bồi hồi, chậm rãi, xúc động như để tưởng nhớ.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

3.

Kết bài

-


Khẳng định hình tượng bất tử của người nghĩa sĩ

- Nghệ thuật xây dựng hình tượng kết hợp nhuần nhuyễn với trữ tình. Ngơn
ngữ bình dị, gần gũi, trong sáng.
Bài Mẫu Số 1:
Nguyễn Đình Chiểu - một con người được mệnh danh là ngôi sao sáng trên bầu
trời dân tộc. Ơng khơng chỉ là một người thầy giáo mẫu mực, một người thầy
lang y đức mà cịn là một nhà thơ, nhà văn tài năng. Ơng ln dùng văn chương
để chiến đấu vì chính nghĩa. Ta có thể thấy rõ sự chính nghĩa ấy thơng qua tác
phẩm nổi tiếng và vang mãi sau này của ông " Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc". Ông
đã dựng lên bức tượng đài bất tử về nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc. Tác phẩm là
tiếng khóc bi tráng trong thời kỳ lịch sử bi thương của dân tộc.
Mở đầu tác phẩm nhà văn đã kết hợp một câu cảm thán với nghệ thuật đối lập:
"Hỡi ơi!
Súng giặc đất rền; lịng dân trời tỏ
Mười năm cơng vỡ ruộng, chưa ắt cịn danh nổi như phao; một trận nghĩa
đánh Tây, tuy mà mất tiếng vang như mõ."
Phần đầu lung khởi của bài tế đã luận chung về lẽ sống chết. Nguyễn Đình
Chiểu đã sử dụng biện pháp nghệ thuật đối: "Súng giặc đất rền" với " lòng dân
trời tỏ". Nghệ thuật ấy đã mở ra một hồn cảnh tình thế bão táp của lịch sử. Đó
là một sự đụng độ quyết liệt giữa thế lực xâm lăng tàn bạo với ý chí, nghị lực,
kiên cường bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta. Tiếp đó tác giả lại sử dụng nghệ
thuật đối về thời gian: "mười năm công vỡ ruộng" và "một trận nghĩa đánh
Tây", chính "mười" và "một" ấy đã khẳng định ý chí cao quý, những hy sinh
oanh liệt của chiến sĩ Cần Giuộc.
Với những người nghĩa sĩ, nông dân mộc mạc ấy đã dâng hiến cả cuộc đời
mình cho đất nước kể từ lúc chưa có chiến tranh hay điểm diễn ra chiến tranh
xảy ra . Qua phần thích thực, tác giả đã ca ngợi công đức phẩm hạnh của người
nông dân- anh hùng dân tộc.
"Nhớ linh xưa:

Cui cút làm ăn; lo toan nghèo khó....."
Nguồn gốc xuất thân của những nghĩa sĩ ấy là những người nông dân cui cút
làm ăn, chịu thương chịu khó, sống cuộc sống của mình với đồng ruộng xóm
làng với cơng việc quen thuộc: cuốc, cày, bừa, cấy... đâu biết đến "cung ngựa,
trường nhung", đâu biết tập khiên súng gì. Nghe thấy "phong hạc", họ ngóng
trơng triều đình đưa ra kế sách để chống lại qn giặc, thế mà triều đình nhu
nhược, khơng lo toan được việc nước, làm lòng dân càng thêm căm phẫn: "
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Bữa thấy bịng bong, che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy
đen sì, muốn ra cắn cổ."
Trước khi cầm vũ khí đánh giặc, họ đều là những người nông dân xa lạ với
chiến tranh, nhưng từ khi thực dân Pháp xâm lược đã làm nên một sự chuyển
biến trong tâm hồn họ, họ đã trở thành những người lính can trường, yêu nước
căm thù giặc, tự nguyện đứng lên chiến đấu, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc.
Nguyễn Đình Chiểu đã miêu tả một cách chân thực sinh động gần gũi với tiếng
ăn tiếng nói của người nơng dân lao động. Họ ra trận chiến đấu mà chỉ được
trang bị những dụng cụ thô sơ, thiếu thốn (manh áo vải, ngọn tầm vông, dao tu,
nón gõ) và nó đối lập hồn tồn với những vũ khí hiện đại tối tân của kẻ xâm
lược (tàu thiếc, tàu đồng, đạn to, đạn nhỏ). Thử hỏi hai thứ vũ khí đối lập ấy
khi tham gia trận chiến bên nào sẽ thiệt thòi và chịu cái kết đau thương? Thiệt
thòi là thế, ấy vậy mà tinh thần của người nghĩa sĩ ấy sắt thép kiên cường, khí
thế tấn công như vũ bão, coi cái chết nhẹ tựa lơng hồng. Bằng loạt ngơn ngữ
góc cạnh, động từ mạnh: đốt, chém, đạp, xơ, xơng,.. Nguyễn Đình Chiểu đã
cho thấy khí thế xơng lên trận chiến của người dân với tinh thần bất khuất, xả
thân vì nghĩa lớn của dân tộc. Cái chết- sự thật phũ phàng- nó là một tấn bi kịch
đối với đất nước ta trong thời kỳ lịch sử đen tối ấy.

Trong phần cuối của bài văn tế, đó là tiếng ai vãn, tiếc thương của dân tộc
trước sự hi sinh của những người đã ngã xuống. Tác giả đã bày tỏ nỗi đau đớn
của người dân của chính tác giả qua từng câu chữ thấm đượm tình của mình.
Những nghĩa sĩ ấy đã dùng cái chết của mình để làm sáng tỏ ra một chân lý
"chết vinh còn hơn sống nhục", đấu tranh tới cùng dù chết, cịn hơn chung sống
làm nơ lệ cho bọn ngoại xâm. Những dịng cuối là những tiếng khóc thể hiện
niềm tiếc thương ấy, bi mà khơng lụy, nó tiếp tục ca ngợi cơng lao của chiến
binh , nó cịn cổ động, thúc giục, khích lệ những người cịn sống sẽ tiếp tục sự
nghiệp chiến đấu của các chiến sĩ Cần Giuộc.
Nguyễn Đình Chiểu đã rất thành cơng trong việc xây dựng nhân vật, những
nghĩa sĩ giản dị, mộc mạc mà sắt thép, kết hợp với chất trữ tình, tính hiện thực,
ngôn ngữ trong sáng, đậm chất Nam Bộ đã tạo ra một bài ca không tuổi, ca
ngợi về tinh thần oanh liệt của nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Bài văn tế đã kể lại công đức phẩm hạnh của những người đã mất đồng thời
cũng bày tỏ lòng tiếc thương của người sống đối với họ với âm hưởng bi tráng.
Những người chiến binh Cần Giuộc ấy sẽ sống mãi trong câu chữ của Nguyễn
Đình Chiểu, sẽ mãi là là bức tượng đài bất tử của của dân tộc Việt Nam ta.
Bài Mẫu Số 2:
Thời gian cứ thế trôi qua nhưng những gì là giá trị, là vẻ đẹp cao quý thì ln
cịn mãi. Lịch sử dân tộc ta đã trải qua biết bao cuộc kháng chiến chống giặc
ngoại xâm, oanh liệt có những mất mát cũng quá nhiều. Trong cuộc nổi dậy
chống Pháp, những người nghĩa sĩ Cần Giuộc tuy đã hi sinh nhưng vẻ đẹp hào

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

hùng, bi tráng của họ mãi trường tồn cùng thời gian. Bởi vậy, “Văn tế nghĩa sĩ
Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu là áng văn bất hủ ca ngợi vẻ đẹp của

những người nghĩa sĩ nông dân.
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta. Trong nước, nổi lên những cuộc
khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm. Đến năm 1861, những người nghĩa sĩ nông
dân quả cảm đã tập kích đồn giặc ở Cần Giuộc, khiến một số quan quân của
giặc và tên tri huyện tay sai bị tiêu diệt. Song thật khơng may, đã có khoảng
hơn 20 nghĩa sĩ đã hi sinh. Xúc động trước tình cảnh đó, Nguyễn Đình Chiểu
đã làm bài văn tế để đọc tại buổi truy điệu các nghĩa sĩ hy sinh trong trận này.
Mở đầu tác phẩm, trong phần Lung khởi, tác giả tái hiện tình cảnh đau thương
của dân tộc với tiếng súng xâm lược của thực dân Pháp: “Súng giặc đất rền,
lòng dân trời tỏ”. Tác giả đã ca ngợi tấm lịng của nhân dân tỏa sáng dù vũ khí
qn đội vắng mặt. Đồng thời, nhà thơ cũng khái quát về hai quãng đời của
người nông dân nghĩa sĩ: “Mười năm cơng vỡ ruộng, chưa ắt cịn danh nổi như
phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ”. Tuy quãng thời
gian làm nông dân rất dài, sống một cuộc sống bình yên, song họ sẵn sàng làm
nghĩa sĩ chống giặc trong thời gian ngắn, để rồi danh thơm cịn mãi với mn
đời. Họ là những người trượng nghĩa, mang tinh thần xả thân sẵn sàng đứng lên
chống lại quân giặc.
Trong phần Thích thực từ câu 3 đến câu 15, tác giả ca ngợi vẻ đẹp của người
nghĩa sĩ nông dân trong cuộc sống đời thường và trong chiến tranh. Họ vốn
xuất thân là những người nông dân quanh năm ngày tháng chỉ biết “cui cút làm
ăn, toan lo nghèo khó”, nhưng khi giặc xâm lược, họ giờ đây khơng cịn “trơng
tin quan như trời hạn trơng mưa”. Vẻ đẹp bình dị của những người nơng dân
chân lấm tay bùn giờ đây trở nên huy hoàng hơn bao giờ hết bởi tinh thần căm
thù giặc sâu sắc ngùn ngụt chất chồng. Họ bày tỏ cảm xúc của mình một cách
chân thật “ghét thói mọi như nhà nơng ghét cỏ”. Họ nhận thức sâu sắc về trách
nhiệm của mình trong cơng cuộc bảo vệ nền độc lập dân tộc – đó là tham gia
chiến đấu. Họ vào trận với “manh áo vải làm đồng” và những dụng cụ lao động
thô sơ như ngọn tầm vông, rơm con cúi, lưỡi dao phay,… Vậy mà, chỉ với tinh
thần dũng cảm, họ có thể tham gia trận cơng đồn: “Chi nhọc quan quản gióng
trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng

Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xơ cửa xơng vào, liều mình như chẳng có”. Họ chiến
đấu với hành động dứt khốt, mạnh mẽ: “đốt”, “chém”, “đạp rào”, “xô cửa
xông vào”, “đâm ngang chém ngược”,… Bởi vậy, họ khiến cho kẻ thù phải
khiếp sợ: “mã tà ma ní hồn kinh, bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng
súng nổ”.
Phần Ai vãn từ câu 16 đến câu 25 bày tỏ lòng tiếc thương, sự cảm phục của tác
giả và của nhân dân đối với người nơng dân nghĩa sĩ. Đó là nỗi đau đớn khôn
nguôi của thân nhân nghĩa sĩ: “Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn
khuya leo lét trong lều; não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật
dờ trước ngõ”. Đó cịn là nỗi căm giận tội ác kẻ thù hòa chung tiếng khóc
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

nghẹn ngào trước tình cảnh đau thương của đất nước: “Tấc đất ngọn rau ơn
chúa, tài bồi cho nước nhà ta; bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ơng cha nó”.
Xót xa là thế nhưng Nguyễn Đình Chiểu vẫn khẳng định sự hi sinh của những
nghĩa sĩ Cần Giuộc là anh dũng, là cao cả: “Thà thác mà đặng câu địch khái, về
theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ”.
Năm câu thơ kết đã ca ngợi công lao bất diệt của những người nghĩa sĩ. Họ là
những người “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ bình,
mn kiếp nguyện được trả thù kia; sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy
đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó”. Thái độ tơn kính mà đau xót của
tác giả không chỉ thể hiện qua từ ngữ trang trọng mà còn ở giọng điệu trầm
buồn. Sự mặc niệm, nấc nghẹn đau đớn của Nguyễn Đình Chiểu ở cuối bài:
“Hỡi ơi thương thay/ Có linh xin hưởng” cũng thể hiện tấm lịng ngợi ca cơng
đức theo hướng vĩnh viễn, mn đời.
Qua việc sử dụng thủ pháp tương phản đối lập, bút pháp hiện thực cùng giọng
điệu trữ tình thống thiết, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là tượng đài ca ngợi

người nghĩa sĩ Cần Giuộc, đồng thời cũng là tiếng khóc lớn của tác giả dành
cho những người hi sinh và cho cả tình cảnh đau thương của đất nước. Bởi vậy,
tác phẩm luôn song hành cùng thời gian bởi giá trị vĩnh hằng mà nó đóng góp.
Bài mẫu số 3
Nguyễn Đình Chiểu là nhà văn tài ba khi đã nêu lên hình ảnh người nơng dân
trong văn học mà trong suốt các thời gian qua chưa được nhắc đến thông qua
bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.Trong bài văn tế, hình ảnh người nơng dân được
khắc hoạ rõ ràng. Hình ảnh người nông dân nghèo khổ chỉ biết làm ăn một cách
thầm lặng, quanh năm chỉ biết ruộng trâu, cần cù lao động. Họ là những người
nông dân yêu ghét rõ ràng, căm thù quyết không đội trời chung với giặc khi
thực dân Pháp xâm lược. Họ đã anh dũng chiến đấu và anh dũng hi sinh, trong
lời văn là những lời lẽ bi thương đầy nước mắt nhưng không hề rơi nước mắt.
Đó chính là cái hay của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ra đời vào năm 1858, khi thực dân Pháp nổ
súng vào Đà Nẵng, Việt Nam. Sau khi chiếm được thành Gia Định vào đầu
năm 1859, quân Pháp bắt đầu một quá trình mở rộng tấn cơng ra các vùng lân
cận như Tân An, Cần Giuộc, Gị Cơng... Ngày 15 tháng 11 năm Tân Dậu,
những nghĩa sĩ mà là nơng dân, vì quá căm phẫn kẻ ngoại xâm, đã dũng cảm
đứng lên chiến đấu tập kích đồn Pháp ở Cần Giuộc, tiêu diệt được một số quân
của đối phương và viên tri huyện người Việt đang làm cộng sự cho Pháp.
Khoảng mười lăm nghĩa sĩ bỏ mình. Những tấm gương đó đã gây nên niềm xúc
động lớn trong nhân dân. Theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang,
Nguyễn Đình Chiểu làm bài "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" để đọc tại buổi truy
điệu các nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đánh này.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí


Như chúng ta biết thì "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" là một "tác phẩm nghệ
thuật" hiếm có. "Bi tráng" là tầm vóc và tính chất của tác phẩm nghệ thuật ấy:
vừa hoành tráng, hùng tráng, vừa thống thiết, bi ai. Hùng tráng ở nội dung
chiến đấu vì nghĩa lớn. Hùng tráng ở phẩm chất anh hùng, ở đức hi sinh quyết
tử. Hùng tráng ở chỗ nó dựng lên một thời đại sóng gió dữ dội, quyết liệt của
đất nước và dân tộc.
Mở đầu bài văn tế là hai tiếng "Hỡi ơi!" vang lên thống thiết, đó là tiếng
khóc của nhà thơ đối với nghĩa sĩ, là tiếng nấc đau thương cho thế nước hiểm
nghèo:
"Súng giặc, đất rền; lịng dân trời tỏ" có ý nghĩa là Tổ quốc lâm nguy, súng
giặc nổ vang rền trời đất và quê hương .
Trong cảnh nước mất nhà tan, chỉ có nhân dân đứng lên gánh vác sứ
mệnh lịch sử, đánh giặc cứu nước cứu nhà. Và người nông dân chỉ biết cui cút
làm ăn một cách tội nghiệp đã dũng cảm đứng lên đánh giặc giành lại nền độc
lập cho Tổ quốc thân yêu mà sự dũng cảm đó xuất phát từ tấm lịng u nước
có trong mỗi con người. Tấm lịng u nước, căm thù giặc của những người
nơng dân, của những người áo vải mới tỏ cùng trời đất và sáng ngời chính
nghĩa. Hình ảnh chính của bài văn tế chính là những chiến sĩ nghĩa quân Cần
Giuộc.
Nguồn gốc của họ là nông dân nghèo sống cuộc đời "côi cút" sau luỹ tre
làng. Chất phác và hiền lành, cần cù là chịu khó trong làm ăn, quanh quẩn
trong xóm làng, làm bạn với con trâu, đường cày, sá bừa, rất xa lạ với cung
ngựa trường nhung:
"Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó"
Cui cút làm ăn: có nghĩa là làm ăn lẻ loi, thầm lặng một cách tội nghiệp.
Dù mệt mỏi hay vất vả thì họ vẫn âm thầm, lặng lẽ chịu đựng một mình mà
chẳng nói với ai. "Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó" đã hiện lên đầy đủ một
vịng đời khơng lối thốt của người nơng dân Việt, người "dân ấp dân lân" Nam
Bộ. Bắt đầu bằng cui cút, vật lộn làm ăn, toan lo để cuối cùng kết thúc trong

nghèo khó. Họ là những người nông dân mà quanh năm chỉ biết làm với làm,
chưa hề biết đến cái gì gọi là cung, cái gì gọi là ngựa.
"Chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng
bộ".
Họ là lớp người đông đảo, sống gần gũi quanh ta. Quanh năm chân lấm
tay bùn với nghề nông, "chưa hề ngó tới" việc binh và vũ khí đánh giặc:
"Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng,
tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó".
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Thế nhưng khi đất nước quê hương bị giặc Pháp xâm lược, những người
dân chân lấm tay bùn ấy đã đứng lên tình nguyện làm quân tự nguyện đánh
giặc cứu nước cứu nhà, bảo vệ cái nghề làm lụng mà họ coi là bát cơm manh áo
của họ là cái nghĩa lớn mà họ "mến" là đeo đuổi:
"Bữa thấy bong bong che trắng lốp, muốn tới an gan; ngày xem ống khói chạy
đen sì, muốn ra cắn cổ".
Đối với giặc Pháp và lũ tay sai bán nước, họ chỉ có một thái độ: "ăn gan"
và "cắn cổ",chỉ có một chí hướng: "phen này xin ra sức đoạn kình..., chuyến
này dốc ra tay bộ hổ".
Trong bài văn tế Nguyễn Đình Chiểu đã có khắc nên sự đối lập giữa
đoàn dũng sĩ của quê hương và giặc Pháp xâm lược. Giặc xâm lược được trang
bị tối tân, có "tàu thiếc, tàu đồng", "bắn đạn nhỏ, đạn to", có bọn lính đánh thuê
"mã tà, ma ní" thiện chiến. Trái lại, trang bị của nghĩa quân lại hết sức thô sơ.
Quân trang chỉ là "một manh áo vải". Vũ khí chỉ có "một ngọn tầm vơng", hoặc
"một lưỡi dao phay", một súng hoả mai khai hoả "bằng rơm con cúi". Thế mà
họ vẫn lập được chiến công: "đốt xong nhà dạy đạo kia" và "chém rớt đầu quan
hai nọ".

Bài văn tế đã tái hiện lại những giờ phút giao tranh ác liệt của các chiến
sĩ nghĩa quân với giặc Pháp:
"Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng
như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xơ cửa xơng vào, liều mình
như chẳng có."
"Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho ma ní, mã tà hồn kinh; bọn hè
trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ".
Khơng khí chiến trận có tiếng trống thúc quân giục giã, "có bọn hè trước,
lũ ó sau" vang dậy đất trời cùng tiếng súng nổ. Các nghĩa sĩ của ta coi cái chết
như khơng, tấn cơng như vũ bão, tung hồnh giữa đồn giặc: "đạp rào lướt tới",
"xô cửa xông vào", "đâm ngang chém ngược", "hè trước, ó sau". Giọng văn của
Nguyễn Đình Chiểu đã tô đậm tinh thần dũng cảm, kiên cường bất khuất của
các nghĩa sĩ nơng dân Cần Giuộc. Ơng cũng thể hiện rõ lòng khâm phục đối với
người nghĩa sĩ nông dân. Từ trước đến nay, đây là tác phẩm đầu tiên có đưa
hình ảnh của nghĩa sĩ nơng dân.
Trong bài "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" cịn có tiếng khóc của mẹ già nơi
q nhà trơng chờ con về, vợ thương nhớ về chồng, con ngóng cha về nghe
thống thiết, bi ai. Nhiều nghĩa sĩ đã ngã xuống trên chiến trường trong tư thế
người anh hùng:
"Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ".

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Đất nước, q hương vơ cùng thương tiếc. Một khơng gian rơng lớn bùi
ngùi, đau đớn:
"Đối sơng Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già
trẻ hai hàng lụy nhỏ".

Tiếng khóc của người mẹ già, nỗi đau đớn của người vợ trẻ, nỗi nhớ
thương của con cái được nói đến vơ cùng xúc động:
"Đau đớn bấy, mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng
thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ".
Các nghĩa sĩ đã sống anh dũng chiến đấu, và hi sinh rất vẻ vang. Tấm
gương chiến đấu và hi sinh của họ là để ta biết rằng đất nước nào cũng là độc
lập, tự chủ, không ai được quyền xâm chiếm. Họ là tấm gương sáng rất đáng tự
hào:
"Ơi!
Một trận khói tan; nghìn năm tiết rỡ"
Sự hi sinh của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc là bài học quý báu mà họ
đã để lại: Thà chết vinh còn hơn sống nhục. Họ là tấm gương sáng để dân tộc
Việt Nam noi theo mà làm, là ngọn đèn soi sáng cho dân tộc Việt Nam.
"Sống đánh giặc, thác cũng đánh giăc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp
nguyện được trả thù kia;...".
Công lao của người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc sẽ đời đời nằm trong
lòng mỗi người dân Việt Nam về tấm gương anh dũng, sẵn sàng xả thân vì độc
lập Tổ Quốc.
"Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương
nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ".
Tóm lại, "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" khẳng định tấm lòng yêu thương
dân thiết tha của Nguyễn Đình Chiểu. "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" là niềm tự
hào và biết ơn sâu sắc của nhân dân ta đối với người nghĩa sĩ nông dân Cần
Giuộc đã anh dũng chiến đấu chống giặc ngoại xâm bảo vệ nền độc lập vững
chắc của quê nhà, nơi họ đã sinh ra và lớn lên hay đó là Tổ quốc mà đối với họ
"nó" rất quan trọng trong cuộc đời. Nghĩa sĩ nơng dân Cần Giuộc chính là tấm
gương về tinh thần dũng cảm, lòng yêu nước sâu sắc để cho các thế hệ đi sau
khi đọc được bài văn tế này mà noi theo để xây dựng đất nước càng ngày giàu
mạnh hơn.
Bài mẫu số 4

Có những cuộc đời cịn sống mãi cùng non sơng, đó là những con người dâng
hiến tất cả tình yêu, sự hi sinh và cả sự sống cho sự trường tồn của non sông
đất nước. Những người nghĩa sĩ Cần Giuộc đã bỏ mình trong cuộc khởi nghĩa
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

chống Pháp năm nào tuy hi sinh khi tuổi đời cịn trẻ nhưng tình u nước, tấm
lịng của họ mãi được hậu thế trân trọng và lưu danh đến muôn đời. Và bài tế
"Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" của Nguyễn Đình Chiểu viết ra để tế lễ họ có thể
coi là một khúc tráng ca của những người anh hùng tuy thất thế nhưng vẫn hiên
ngang, lẫm liệt.
Vào năm 1859, thực dân Pháp đánh phá ba tỉnh miền đông Nam Bộ. Đến tháng
12/1861, chúng đánh úp ba xứ Cần Giuộc, Tân An, Gị Cơng. Ngày 16/12/1861,
nghĩa quân ba xứ nhất tề tập hợp, nổi dậy, tập kích đồn giặc của Pháp, giết
được tên quan người Việt theo Pháp và một số lính thuộc địa. Trong trận chiến
này, hơn hai mươi người của nghĩa quân đã hi sinh nhưng nó đã làm dậy lên
tinh thần yêu nước, ý chí sục sơi quyết bảo vệ non sơng của những người dân
Việt Nam. Bởi vậy, Đỗ Quang – tuần phủ Gia Định đã yêu cầu Nguyễn Đình
Chiểu viết bài văn tế này nhằm khích lệ tinh thần của các nghĩa sĩ với lý tưởng
"chết vinh còn hơn sống nhục". Bài văn đã được hưởng ứng và truyền tụng đi
khắp nơi và lần đầu tiên trong văn học dân tộc, hình ảnh người nơng dân nghĩa
sĩ chống ngoại xâm được dựng thành một tượng đài nghệ thuật bất tử.
Mở đầu bài văn tế, Nguyễn Đình Chiểu luận về lẽ sống chết, tái hiện bối cảnh
lịch sử thời đại hào hùng và khẳng định tượng đài bất tử của người nghĩa sĩ
nông dân. Mở đầu bằng từ "Hỡi ôi!", ông như muốn bày tỏ sự thương tiếc,
tiếng nấc nghẹn dành cho những người đã ngã xuống và cũng như lời gọi mời
những anh linh các nghĩa sĩ yêu nước trở về nghe lại chiến tích của mình ngày
nào. Câu tiếp theo, ông gợi lên hình ảnh của thời đại với cuộc xâm lược của

thực dân Pháp với sức mạnh của những vũ khí tối tân "súng giặc đất rền" làm
rung chuyển cả đất trời. Phía bên kia đối lập là hình ảnh những người nghĩa sĩ
với một lòng quyết tâm giết giặc thấu tỏ đến tận trời xanh "lòng dân trời tỏ".
Những người nghĩa sĩ Cần Giuộc vốn chỉ là những người nông dân hiền lành,
quanh năm chân lấm tay bùn, chỉ biết quen thân với đồng ruộng, "mười năm vỡ
ruộng, chưa ắt danh nổi như phao", thế nhưng khi giặc đến dày xéo quê hương,
họ quyết tâm đứng dậy đánh đuổi giặc ngoại xâm. Tuy rằng hi sinh nhưng tiếng
thơm vì tình u nước thì cịn lưu truyền mãi "tuy mất nhưng tiếng vang như
mõ". Nghệ thuật đối lập mà Nguyễn Đình Chiểu dùng ở đây đã làm nổi bật lên
khung cảnh của thời đại khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam đồng thời cũng
khẳng định sự quyết tâm đánh đuổi giặc của những người nghĩa sĩ nông dân và
tiếng thơm của họ cịn lưu danh mn thuở.
Sau phần khẳng định về sự bất tử của hình tượng người nghĩa sĩ, Nguyễn Đình
Chiểu tiếp tục làm rõ thêm về hình ảnh những người nghĩa sĩ đã quên mình vì
đất nước ấy.
Những người nghĩa sĩ ấy vốn chỉ là những người nông dân hiền lành, "cui cút
làm ăn, toan lo khó nghèo", chẳng hề biết tới binh đao, cung trường ngựa đấu.
Họ "cui cút làm ăn" trong âm thầm, lặng lẽ, khơng có ai để nương tựa, vậy mà
vẫn khó nghèo cả một đời. Chỉ một câu thôi cũng đã làm hiện lên đầy đủ cái
vịng luẩn quẩn khơng lối thốt của những người nơng dân Việt. Bắt đầu "cui
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

cút" làm ăn từ sớm, vật lộn để có cái ăn, chỉ quanh quẩn với xóm làng, con trâu
cái cày, vậy mà kết thúc vẫn trong nghèo khó. Họ nào biết tới "cung ngựa,
trường nhung", cả đời "mắt chưa từng ngó" tới "tập khiên, tập súng, tập mác,
tập cờ". Thế nhưng, đất nước lại bị bọn quân thù giày xéo, họ - những người
nông dân chất phác ấy lại phải sống hàng ngày trong lo sợ bị quân giặc đuổi

đánh "tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng", trông chờ quan quân tới
dẹp lũ giặc mà "như trời hạn trông mưa", càng trông lại càng chẳng thấy. Họ
căm ghét lúc giặc mọi rợ, "vấy vá "tanh hôi" như “nhà nông ghét cỏ". Họ căm
hờn những kẻ "văn minh" đang giẫm đạp đất nước họ bằng "bòng bong che
trắng lốp, muốn tới ăn gan", bằng "ống khói chạy đen xì, muốn ra cắn cổ". Vậy
nên, khi có lời hiệu triệu đứng lên chống lại quân thù, họ đã chẳng ngại ngần
mà đứng lên trở thành những dũng sĩ chống lại giặc Pháp, cứu nước cứu nhà,
bảo vệ manh áo miếng cơm. Nguyễn Đình Chiểu đã khéo léo nhấn mạnh vào
tinh thần yêu nước và tinh thần tự giác của những người nông dân ấy:
"Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu; hai vầng nhật nguyệt chói
lịa, đâu dung lũ treo dê bán chó".
"Nào đợi ai đòi ăn bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trống ngược
trốn xi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ".
Vì u nước, những người nơng dân quyết đem tâm sức để đánh đuổi quân thù,
tự nguyện ra nhập hàng ngũ, chẳng chờ đợi "ai đòi ai bắt".
Ở đây, Nguyễn Đình Chiểu đã tái hiện chân thực cuộc sống của những người
nông dân trước và sau khi giặc tới bằng bút pháp hiện thực và cả trữ tình nữa.
Ơng sử dụng biện pháp đối lập "chưa quen, chỉ biết", "vốn quen, chưa từng" để
làm nổi bật lên tầm vóc anh hùng của họ. Đồng thời qua đó, ông cũng bộc lộ
niềm kính phục xen lẫn tự hào đối với những người nghĩa sĩ Cần Giuộc chí
cơng vơ tư ấy. Nếu như khi xưa, những người nông dân bị bắt đi lính cho
những cuộc chiến tranh phi nghĩa với thái độ đau khổ:
"Thùng thùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền, nước mắt như mưa"
Thì những người lính nông dân ở đây lại tự giác xung vào quân đội với sự vui
vẻ, thái độ vô tư, tinh thần yêu nước và trách nhiệm với dân tộc. Họ chẳng chờ
ai giục ai đòi đã hăm hở nhập ngũ. Dẫu họ biết rằng, ra trận "chữ hạnh" khó giữ,
"nào ngờ da ngựa bọc thây, trăm năm âm phủ ấy chữ quy". Thế nhưng, ngối
trơng nhìn thấy sự tàn bạo của quân giặc, sự tàn phá chúng để lại khiến "cây cỏ
mấy dặm sầu giăng", "già trẻ hai hàng lụy nhỏ" khiến cho họ càng muốn tự

giác xung quân "vi binh" để đánh tan lũ giặc "cho cam tâm".
Ở đây, Nguyễn Đình Chiểu đã dùng diễn biến tâm trạng của những người nghĩa
sĩ để thổi lên tượng đài người nông dân nghĩa sĩ anh hùng. Họ từ những người
nông dân hiền lành, chịu khó làm ăn, chỉ biết trơng chờ tin quan tới dẹp giặc,
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

vậy mà càng trơng càng khơng thấy trở thành những nghĩa sĩ anh dũng, tự mình
chống lại kẻ thù. Họ căm hờn những kẻ đã phá tan ruộng vườn của họ "bát cơm
manh áo ở đời, mắc mớ chi ơng cha nó", căm ghét những kẻ khiến "quan quân
khó nhọc, ăn tuyết nằm sương", những kẻ đã "quăng vùa hương, xô bàn độc"
của họ. Vậy nên họ đứng lên theo tinh thần của tổ tiên truyền lại "đặng câu địch
khái, về theo tổ phụ"
Tinh thần những người nghĩa sĩ ở đây đã chuyển hóa phi thường, từ lo sợ, đợi
chờ, tới khi quyết tâm tự mình đứng lên chống trả, tạo nên hình tượng những
người nghĩa sĩ anh dũng, bất tử trong lòng người dân quê hương.
Hai ngày để tập hợp đội nghĩa binh, chỉ hai ngày ngắn ngủi mà khơng có sự
giúp sức của quan qn triều đình. Họ thiếu thốn đủ thứ, vũ khí, trang bị, lại chỉ
là những "dân ấp dân lân" chỉ vì "mến nghĩa làm quân chiêu mộ", thế nhưng họ
vẫn hăm hở rèn luyện hết sức:
"Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn; chín chục trận binh thư, khơng chờ
bày bố".
Những người nghĩa sĩ ấy chẳng có gì ngồi sức mạnh tinh thần. Nguyễn Đình
Chiểu đã tạo nên sự khắc họa đối lập giữa quân giặc với đội quân dũng sĩ quê
hương. Giặc Pháp với vũ khí tối tấn, với "tàu sắt, tàu đồng", rồi "đạn to đạn
nhỏ", với bọn lính đánh th thiện chiến "mã tà ma ní".Cịn đội quân của chúng
ta chỉ có "một manh áo vải", vũ khí là "một ngọn tầm vơng", "dao tu, nón gõ",
"hỏa mai đánh bằng rơm cơm cúi". Thế nhưng đội quân ấy lại lập được những

chiến công vang lừng "đốt xong nhà dạy đạo kia", "chém rớt đầu quan hai nọ".
Bài văn tế cũng tái hiện lại cảnh giao tranh ác liệt, sục sơi ý chí giữa hai bên:
"Chi nhọc quan quản trống kì thúc giục, đạp rào lướt tới, coi giặc như không;
nào sợ thằng Tây bắn đạn to đạn nhỏ, xơ cửa xơng tới, liều mình như chẳng
có".
"Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bộn hè
trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ".
Khơng khí trận chiến thật ác liệt, có tiếng trống thúc quân, tiếng gọi nhau vang
dậy đất trời, hòa cùng tiếng súng nổ liên hồi. Các nghĩa sĩ Cần Giuộc chẳng
quản tính mạng "liều mình như chẳng có" xơng vào đồn giặc như vũ bão, "đâm
ngang, chém ngược" khiến cho kẻ thù phải "hồn kinh". Nguyễn Đình Chiểu đã
tơ đậm tinh thần quyết tử, dũng cảm, kiên cường của những người lính Cần
Giuộc. Đồng thời ơng cũng bày tỏ lòng khâm phục sâu sắc trước họ - những
người nghĩa sĩ nông dân. Đây là tác phẩm đầu tiên trong đời của ơng với hình
tượng là người nghĩa sĩ nông dân áo vải. Nhưng ông đã dựng lên tượng đài bất
tử về người nghĩa sĩ nông dân đánh giặc, cứu dân cứu nước.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Kết lại bài văn tế là sự cảm thương, sự thương tiếc của tác giả trước sự hi sinh
anh dũng của những người nghĩa sĩ và lời khẳng định tấm gương của họ sẽ còn
lưu mãi tới mn đời sau.
Nguyễn Đình Chiểu đã dùng những lời văn đẹp đẽ nhất để dựng lên hình tượng
người nghĩa sĩ. Thế nhưng, ông cũng không che giấu đi những sự tiếc thương,
sự thật đau lòng khi những người nghĩa sĩ đã phải ngã xuống. Hình ảnh người
"mẹ già khóc trẻ", "vợ yếu chạy tìm chồng" khiến cho chúng ta cảm thấy thật
thống thiết, bi thương:

"Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não
nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chống, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ".
Lời văn thật thống thiết, lâm li, bi ai. Hình ảnh những người nghĩa sĩ ngã
xuống:"đâu biết xác phàm vội bỏ" khiến chúng ta vơ cùng đau xót. Tiếng khóc
nghẹn của người mẹ già, người vợ trẻ đều khiến chúng ta vô cũng xúc động,
cảm thương.
Họ - những người nghĩa sĩ đã sống và chiến đấu anh dũng, hết mình cho Tổ
quốc. Họ hi sinh với sự vẻ vang, với tiếng thơm muôn đời con mãi. Họ ngã
xuống nhưng khẳng định một điều rằng: Đất nước của họ là độc lập, tự chủ,
khơng một ai có quyền xâm lấn, nếu không, họ sẽ cầm súng, cầm dao, giáo mác,
đứng lên mà đánh đuổi kẻ thù. Họ chính là những tấm gương anh dũng nhất,
đáng tự hào nhất:
"Ôi!
Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ"
Sự hi sinh của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc ấy là ngọn đèn, là tấm gương
soi sáng cho dân tộc Việt Nam về tinh thần yêu nước, về bài học quý báu: "chết
vinh còn hơn sống nhục":
"Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp
được nguyện trả thù kia"
Cơng lao của họ sẽ cịn mãi được ghi danh trong dòng lịch sử dân tộc:
"Nước mắt anh hùng chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương nghĩa
sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ".
"Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" là tiếng khóc bi tráng dành cho tượng đài những
người lính nghĩa sĩ nơng dân Cần Giuộc dũng cảm trong thời kì đầu tiên của
cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược. Kết hợp với nghệ thuật xây dựng hình
tượng độc đáo, nhuần nhuyễn với chất liệu trữ tình, tính hiện thực cùng ngơn
ngữ bình dị, sinh động đã tạo nên một trong những tượng đài người nghĩa sĩ
đẹp nhất trong dòng lịch sử dân tộc ta.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188



Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Bài "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" khơng chỉ khẳng định một lịng u nước thiết
tha của những người nông dân áo vải, của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu mà cịn
là lời tự hảo, lời cảm tạ sâu sắc của những người dân Việt Nam tới những
người nghĩa sĩ áo vải kiên trung đã anh dũng đứng lên chống lại kẻ thù, bảo vệ
quê hương. Họ là những tấm gương sáng về sự dũng cảm, tinh thần bất khuất,
chí cơng vơ tư, về lịng u nước nồng nàn mà các thế hệ chúng ta sau này phải
luôn ghi nhớ và học tập.
Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ
Mười năm cơng vỡ ruộng, chưa ắt cịn danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh
Tây, tuy mà mất tiếng vang như mõ."
Phần đầu lung khởi của bài tế đã luận chung về lẽ sống chết. Nguyễn Đình
Chiểu đã sử dụng biện pháp nghệ thuật đối: "Súng giặc đất rền" với " lòng dân
trời tỏ". Nghệ thuật ấy đã mở ra một hồn cảnh tình thế bão táp của lịch sử. Đó
là một sự đụng độ quyết liệt giữa thế lực xâm lăng tàn bạo với ý chí, nghị lực,
kiên cường bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta. Tiếp đó tác giả lại sử dụng nghệ
thuật đối về thời gian: "mười năm công vỡ ruộng" và "một trận nghĩa đánh
Tây", chính "mười" và "một" ấy đã khẳng định ý chí cao quý, những hy sinh
oanh liệt của chiến sĩ Cần Giuộc.
Với những người nghĩa sĩ, nông dân mộc mạc ấy đã dâng hiến cả cuộc đời
mình cho đất nước kể từ lúc chưa có chiến tranh hay điểm diễn ra chiến tranh
xảy ra . Qua phần thích thực, tác giả đã ca ngợi công đức phẩm hạnh của người
nông dân- anh hùng dân tộc.
"Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn; lo toan nghèo khó....."
Nguồn gốc xuất thân của những nghĩa sĩ ấy là những người nông dân cui cút
làm ăn, chịu thương chịu khó, sống cuộc sống của mình với đồng ruộng xóm

làng với cơng việc quen thuộc: cuốc, cày, bừa, cấy... đâu biết đến "cung ngựa,
trường nhung", đâu biết tập khiên súng gì. Nghe thấy "phong hạc", họ ngóng
trơng triều đình đưa ra kế sách để chống lại qn giặc, thế mà triều đình nhu
nhược, khơng lo toan được việc nước, làm lòng dân càng thêm căm phẫn: "
Bữa thấy bòng bong, che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy
đen sì, muốn ra cắn cổ."
Trước khi cầm vũ khí đánh giặc, họ đều là những người nông dân xa lạ với
chiến tranh, nhưng từ khi thực dân Pháp xâm lược đã làm nên một sự chuyển
biến trong tâm hồn họ, họ đã trở thành những người lính can trường, yêu nước
căm thù giặc, tự nguyện đứng lên chiến đấu, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc.
Nguyễn Đình Chiểu đã miêu tả một cách chân thực sinh động gần gũi với tiếng
ăn tiếng nói của người nông dân lao động. Họ ra trận chiến đấu mà chỉ được
trang bị những dụng cụ thô sơ, thiếu thốn ( manh áo vải, ngọn tầm vông, dao tu,
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

nón gõ) và nó đối lập hồn tồn với những vũ khí hiện đại tối tân của kẻ xâm
lược ( tàu thiếc, tàu đồng, đạn to, đạn nhỏ). Thử hỏi hai thứ vũ khí đối lập ấy
khi tham gia trận chiến bên nào sẽ thiệt thòi và chịu cái kết đau thương? Thiệt
thòi là thế, ấy vậy mà tinh thần của người nghĩa sĩ ấy sắt thép kiên cường, khí
thế tấn cơng như vũ bão, coi cái chết nhẹ tựa lơng hồng. Bằng loạt ngơn ngữ
góc cạnh, động từ mạnh: đốt, chém, đạp, xơ, xơng,.. Nguyễn Đình Chiểu đã
cho thấy khí thế xơng lên trận chiến của người dân với tinh thần bất khuất, xả
thân vì nghĩa lớn của dân tộc. Cái chết- sự thật phũ phàng- nó là một tấn bi kịch
đối với đất nước ta trong thời kì lịch sử đen tối ấy.
Trong phần cuối của bài văn tế, đó là tiếng ai vãn, tiếc thương của dân tộc
trước sự hi sinh của những người đã ngã xuống. Tác giả đã bày tỏ nỗi đau đớn
của người dân của chính tác giả qua từng câu chữ thấm đượm tình của mình.

Những nghĩa sĩ ấy đã dùng cái chết của mình để làm sáng tỏ ra một chân lí
"chết vinh cịn hơn sống nhục", đấu tranh tới cùng dù chết, cịn hơn chung sống
làm nơ lệ cho bọn ngoại xâm. Những dòng cuối là những tiếng khóc thể hiện
niềm tiếc thương ấy, bi mà khơng lụy, nó tiếp tục ca ngợi cơng lao của chiến
binh , nó cịn cổ động, thúc giục, khích lệ những người còn sống sẽ tiếp tục sự
nghiệp chiến đấu của các chiến sĩ Cần Giuộc.
Nguyễn Đình Chiểu đã rất thành cơng trong việc xây dựng nhân vật, những
nghĩa sĩ giản dị, mộc mạc mà sắt thép, kết hợp với chất trữ tình, tính hiện thực,
ngơn ngữ trong sáng, đâm chất Nam Bộ đã tạo ra một bài ca không tuổi, ca
ngợi về tinh thần oanh liệt của nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Bài văn tế đã kể lại công đức phẩm hạnh của những người đã mất đồng thời
cũng bày tỏ lòng tiếc thương của người sống đối với họ với âm hưởng bi tráng.
Những người chiến binh Cần Giuộc ấy sẽ sống mãi trong câu chữ của Nguyễn
Đình Chiểu, sẽ mãi là là bức tượng đài bất tử của của dân tộc Việt Nam ta.
Bài mẫu số 5
Những người nghĩa sĩ Cần Giuộc năm xưa đã đứng dậy chống Pháp và lựa
chọn cho mình một cái chết thật oanh liệt: “thác mà trả nước non rồi nợ, danh
thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay
trải mn đời ai cũng mộ”. Có thể nói, bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là “khúc
ca của những người thất thế nhưng vẫn hiên ngang” theo như cố thủ tướng
Phạm Văn Đồng đã nói.
Hơn một thế kỷ đã trôi qua, cuộc khởi nghĩa của những người nông dân
Cần Giuộc đã đi vào thất bại. Họ phải ngã xuống giữa những chiến trường
trong cảnh da ngựa bọc thây, xác phàm vội bỏ. Họ là những người thất thế, quả
thực là như vậy. Nhưng bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu
đã khiến cho họ sống lại trong những hình tượng mang đầy khí phách và hiên
ngang. Những tấm gương đại nghĩa vằng vặc như trăng sao đã hiển hiện trong
bài văn tế với âm hưởng của một khúc ca bi tráng. Người nghĩa quân Cần

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188



Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Giuộc chỉ là những nơng dân hiền lành, quanh năm cơi cút làm ăn, toan lo
nghèo khó, chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung… Ấy thế mà khi giặt
đến, họ liền trở thành những người dũng sĩ. Ở họ, nhà thơ nhấn mạnh tinh thần
hoàn toàn tự nguyện, tự giác tham gia đánh giặc: “Nào đợi ai địi, ai bắt, phen
này xin ra sức đoạn kình; Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra
tay bộ hổ.
Trong khi triều đình nhu nhược, chỉ bàn những kẻ nhượng bộ, đầu hàng
quân giặc thì họ đã tự mình đứng dậy. Tinh thần: mến nghĩa làm quân chiêu mộ
của những người dân cày thật là đáng khâm phục. Cuộc chiến đấu của họ rất
nhiều khó khăn với những gian nan: lực lượng địch, lực lượng ta quá chênh
lệch, thiếu kĩ thuật quân sự, thiếu quân trang, vũ khí. Đồn nghĩa qn nơng
dân lại rất nghèo khổ, lam lũ. Họ gần như đi thẳng đến chiến trường từ những
túp lều tranh rách nát và những luống cày quen thuộc, khơng mũ nón, khơng
giáp trụ và cũng chẳng gươm giáo cung tên…
Tất cả trang bị của họ đều rất thô sơ, là những đồ dùng thường ngày,
quen thuộc nhưng lại khiến cho kẻ thù thích điên bát đảo. Sức mạnh của họ
khơng chỉ là sức mạnh thể lực mà đó còn là sức mạnh tinh thần. Họ đã lấy danh
vàng đỏ với đạo, lấy lòng dũng cảm để chống lại những chiếc tàu sắt, tàu đồng.
“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đèn xì, muốn ra cắn cổ”
Lịng căm thù giặc ấy đã đem đến cho những người nghĩa sĩ sự dũng cảm
và sức mạnh đến phi thường. Họ tả xung hữu đột, tung hồnh ngang dọc như ở
chỗ khơng người.
Nguyễn Đình Chiểu đã ca ngợi những nghĩa sĩ nông dân bằng những
hình tượng thật chói lọi và những lời văn đầy trang trọng, đẹp đẽ. Nhưng ông
lại không thể che dấu sự thật đau lòng… Bài văn tế còn là đời ai ốn, là tiếng

khóc của ơng trước sự thất thế và cái chết của nghĩa quân Cần Giuộc. Cái chết
của họ khiến cho những người đọc chúng ta cảm thấy đau lịng. Đất trời, cỏ cây
cũng phải rung động:
“Đối trơng Cần Giuộc; cỏ cây mấy dặm sầu giăng, nhìn chợ Trường Bình
già trẻ hai hàng luỵ nhỏ.”
Đó cịn là tiếng khóc của chính tác giả:
“Ơi thơi thơi!
Chùa Tân Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lịng son gửi lại bóng trăng
rằm, đồn Lang Sa một khách đặng trả hờn, tủi phận bạc trơi theo dịng nước đổ.
Cái bi bao trùm lên cả đoạn văn, nhưng đại bi ở đây không phải là bi
thảm mà là bi tráng. Đây là nỗi đau đớn vì nước nhà, vì nhân dân. Đau mà
khơng khiến cho người ta nản lịng thối chí, bi mà giục giã mọi người đứng dậy,
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

hiên ngang chống lại kẻ thù. Cuộc khởi nghĩa tuy đã thất bại, nhiều người đã
phải ngã xuống nhưng chết vinh còn hơn sống nhục. Họ đã để lại danh thơm
muôn đời. Ra đi như những tấm gương sáng, trái lại vẫn cịn sống mãi và có
sức động viên lớn đối với cuộc chiến sau này…
Mời các em tham khảo thêm các tài liệu khác tại mục Tài liệu học tập lớp 11

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188



×