Soạn bài văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc
Tác giả
Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888) là ngôi sao sáng của nền văn nghệ đất nước ta
trong nửa sau thế kỷ 18. Bị mù, vừa dạy học, làm thuốc và viết văn thơ. Sống vào thời
kỳ đen tối của đất nước: giặc Pháp xâm lăng, đất Nam Kỳ lần lượt rơi vào tay giặc.
Tinh thần nhân nghĩa, lòng yêu nước thương dân và căm thù giặc Pháp xâm lược là
những tư tưởng, tình cảm sâu sắc, mãnh liệt trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
Tác phẩm:
- Truyện thơ: Lục Vân Tiên, Dương Từ Hà Mậu, Ngư Tiều y thuật vấn đáp.
- Văn tế: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế Trương Định, Văn tế Nghĩa sĩ trận vong
Lục tỉnh.
- Thơ: Nhiều bài thơ Đường luật – cảm hứng yêu nước.
Xuất xứ, chủ đề
- Cần Giuộc thuộc Long An. Trận Cần Giuộc là một trận đánh lớn của quân ta, diễn ra
đêm 14/12 âm lịch (1861). Hơn 20 nghĩa quân đã anh dũng hy sinh. Tuần phủ Gia
Định là Đỗ Quang đã yêu cầu Đồ Chiểu viết bài văn tế này. Ngay sau đó, vua Tự Đức
ra lệnh phổ biến bài văn tế trong các địa phương khác.
- Bài văn tế ca ngợi những nghĩa sĩ – nông dân sống anh dũng, chết vẻ vang trong sự
nghiệp đánh Pháp để cứu dân, cứu nước.
Hình ảnh người nghĩa sĩ
1. Nguồn gốc: Nông dân nghèo khổ “cui cút làm ăn”, cần cù lao động “chỉ biết ruộng
trâu ở trong làng bộ”. Chất phác hiền lành:
“Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó:
2. Tâm hồn: Yêu, ghét dứt khoát, rõ ràng: “ghét thói mọi như nhà ông ghét cỏ” “đâu
dung lũ treo dê bán chó”. Căm thù quyết không đội trời chung với giặc Pháp:
“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan,
Ngày xem ống khói chạy đen sĩ, muốn ra cắt cổ”
Yêu nước, yêu xóm làng quê hương, tự nguyện đứng lên đánh giặc: “Mến nghĩa làm
quân chiêu mộ”, “phen này xin ra sức đoạn kình”, “chuyến này dốc ra tay bộ hổ”
3. Trang bị
- Không phải là lính chính quy của Triều đình, “chẳng phải quân cơ, quân vệ”, chẳng
có “bao tấu, bầu ngòi”. Họ chỉ là “dân ấp dân lân”, vì “bát cơm manh áo” mà đánh
giặc. Trang bị thô sơ, áo mặt chỉ là “một manh áo vải”, vũ khí là một ngọn tầm vông,
một lưỡi gao phay, hoặc “hỏa mai đánh bằng rơm con cúi” …
Kẻ thù của họ là mã tà, ma ní, là thằng Tây “bắn đạn nhỏ đạn to”, có “tàu thiếc, tàu
đồng súng nổ”.
4. Chiến đấu dũng cảm và anh dũng hy sinh:
- Dũng mãnh tiến công như vũ bão, “đạp rào lướt tới”, “kẻ đâm ngang, người chém
ngược”, “bọn hè trước lũ ó sau”.
- Coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, lẫm liệt hiên ngang: “nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ
đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có”, “trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng
nổ”.
- Chiến công oanh liệt: “đốt xong nhà dạy đạo kia”, cũng chém rớt đầu quan hai nọ”,
“làm cho mã tà, ma ní hồng kinh”
- Hy sinh đột ngột trên chiến địa: “Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm
vội bỏ”.
Tóm lại, Nguyễn Đình Chiểu đã ngợi ca, khâm phục và biết ơn các nghĩa sĩ. Ông đã
dựng lên một tượng đài bi tráng về người nông dân đánh giặc cứu nước trong buổi đầu
giặc Pháp xâm lăng đất nước ta.
Tình cảm đẹp, tư tưởng rất tiến bộ
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” hàm chứa những tình cảm đẹp, tư tưởng rất tiến bộ của
nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu.
- Ca ngợi lòng yêu nước, căm thù giặc và tinh thần tự nguyện đánh giặc để cứu nước
của các nghĩa sĩ. Khẳng định vị trí và vai trò của người nông dân trong lịch sử chống
xâm lăng vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
- Tiếc thương những nghĩa sĩ đã anh dũng hy sinh (câu 18, 25)
- Khẳng định một quan niệm về sống và chết: chết vinh còn hơn sống nhục. Không thể
“theo quân tà đạo”, “ở lính mã tà” đánh thuê, làm bia đỡ đạn, sống cuộc đời bán nước
cầu vinh “chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ”. Trái lại, phải sống anh
dũng, chết vẻ vang: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh,
muôn kiếp nguyện được trả thù kia…”.
- Tự hào về các nghĩa sĩ đã bỏ mình vì Tổ quốc. Tên tuổi họ, tinh thần họ bất tử:
“danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen…”, “tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ”,
“cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm”… Tóm lại, lần đầu tiên trong nền văn học dân
tộc, Nguyễn Đình Chiểu đã khắc hoạ và ca ngợi người nông dân Nam Bộ và những
anh hùng thời đại đã sống, chiến đấu và hy sinh vì đại nghĩa.
Tình cảm đẹp, tư tưởng rất tiến bộ
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” hàm chứa những tình cảm đẹp, tư tưởng rất tiến bộ của
nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu.
- Ca ngợi lòng yêu nước, căm thù giặc và tinh thần tự nguyện đánh giặc để cứu nước
của các nghĩa sĩ. Khẳng định vị trí và vai trò của người nông dân trong lịch sử chống
xâm lăng vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
- Tiếc thương những nghĩa sĩ đã anh dũng hy sinh (câu 18, 25)
- Khẳng định một quan niệm về sống và chết: chết vinh còn hơn sống nhục. Không thể
“theo quân tà đạo”, “ở lính mã tà” đánh thuê, làm bia đỡ đạn, sống cuộc đời bán nước
cầu vinh “chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ”. Trái lại, phải sống anh
dũng, chết vẻ vang: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh,
muôn kiếp nguyện được trả thù kia…”.
- Tự hào về các nghĩa sĩ đã bỏ mình vì Tổ quốc. Tên tuổi họ, tinh thần họ bất tử:
“danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen…”, “tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ”,
“cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm”… Tóm lại, lần đầu tiên trong nền văn học dân
tộc, Nguyễn Đình Chiểu đã khắc hoạ và ca ngợi người nông dân Nam Bộ và những
anh hùng thời đại đã sống, chiến đấu và hy sinh vì đại nghĩa.
Xúc cảnh
Nguyễn Đình Chiểu
Hoa cỏ ngùi ngùi ngóng gió đông,
Chúa xuân đâu hỡi có hay không?
Mây giăng ải Bắc trông tin nhạn,
Ngày xế non Nam bặt tiếng hồng.
Bờ cõi xưa đà chia đất khác,
Nắng sương nay há đội trời chung.
Chừng nào Thánh đế ân soi thấu.
Một trận mưa nhuần rửa núi sông
Bài thơ “Xúc cảnh” còn có một cái tên khác nữa: “Ngóng gió đông”. Cái tên ấy do
người đời sau đặt ra. Vốn là lời cảm khái của nhân vật Đường Nhập Môn trong truyện
thơ “Ngư Tiều y thuật vấn đáp”. Mượn chuyện chữa bệnh cứu người, Nguyễn Đình
Chiểu kín đáo gửi gắm nỗi niềm tâm sự u uất về vận nước và cảnh lầm than của dân
tộc. Tác giả viết “Ngư Tiều y thuật vấn đáp” trong những năm cuối của đời mình, và
sau khi đất Lục tỉnh Nam kỳ đã rơi trọn vào tay giặc Pháp.
“Xúc cảnh” là một bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú mang vẻ đẹp toàn bích, cổ
kính và trang nghiêm. Qua một hệ thống “tượng trưng” với những “ẩn dụ”, nhà thơ
mù Gia Định đã bày tỏ một cách cảm động nỗi đau vong quốc và ước mong phục
quốc khi đồng bào và quê hương “đều mắc hại cùng cờ ba sắc”.
1. Hai câu đề là mọt nỗi chờ mong:
“Hoa cỏ ngùi ngùi ngóng gió đông,
Chúa xuân đâu hỡi có hay không?”
Hoa cỏ đang tàn lụi mong ngóng gió đông (gió mùa xuân) thổi về được hồi sinh.
Chúa xuân – chúa của muôn loài có thấu nỗi chờ mong ấy? Câu hỏi tu từ diễn tả nỗi
khắc khoải ngóng trông, có ít nhiều trách móc, vì ngóng mãi trông hoài rồi. Câu thơ
mang hàm nghĩa. Hoa cỏ là một ẩn dụ, là một cách nói của nho gia, của các nhà thơ
xưa, chỉ sĩ phu và dân chúng. “Ngùi ngùi là buồn lặng, buồn lâu, là sự héo hon tàn lụi.
Có ngóng có trông đã nhiều ngày đêm mới có tâm trạng “ngùi ngùi” đau đáu ấy. Chúa
xuân là ai? Ở đâu và có hay không? Chúa xuân được nói rõ ở câu 7, ấy là Thánh đế,
trong tâm hồn nhà thơ là một ông vua lý tưởng, ra tay dẹp loạn, cứu nước yên dân. Hai
câu đầu gợi tả cảnh tang thương của đất Nam Kỳ và nỗi đau thương khắc khoải chờ
mong của đồng bào Lục tỉnh, mà tác giả nhiều lần nói tới: “Tiếng phong hạc phập
phồng hơn mười tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa” (Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc), hoặc: “Cỏ cây đưa nhánh đón đường – Như tuồng muốn hỏi Đông Hoàng ở
đâu?” (Ngư Tiều y thuật vấn đáp). Vần thơ tuy chỉ nói hoa cỏ nhưng tràn ngập tình
cảm thương xót nhân dân lầm than. Đó là chất thơ thâm trầm, đậm đà màu sắc cổ
điển.
2. Phần thực mở rộng và khắc sâu ý thơ “ngóng gió đông” ở hai câu đề:
“Mây giăng ải Bắc trông tin nhạn,
Ngày xế non Nam bặt tiếng hồng.”
Ải Bắc thì “mây giăng” mù mịt. Trông mãi trông hoài một tin nhạn – một đạo hùng
binh từ ải Bắc kéo vào. Nhưng ở non Nam, chờ đợi mãi, bao tháng bao ngày đã trôi
qua, ngày đã “xế” trong cảnh hoàng hôn vẫn “bặt tiếng hồng”. Ải Bắc và non Nam là
hai miền đất nước, là xứ sở quê hương. Nhạn và hồng (ngỗng trời), trong thi văn cổ, là
loài chim đưa tin, là biểu tượng cho tin tức. “Trông tin nhạn” với “bặt tiếng hồng” đối
nhau làm nổi bật sự ngóng và trông đến tuyệt vọng. Đó là nỗi lòng của đồng bào Lục
tỉnh và thảm cảnh của đất nước ta trước và sau năm 1884. Nguyễn Đình Chiểu là nhà
thơ mù đầy mẫn cảm. Trong thơ ông, những từ như “ngóng”, “trông”, “chừng nào”,
“đợi”,… mang nhiều ám ảnh và đầy tâm trạng:
“Nhớ câu vạn bệnh hồi xuân,
Đôi ngày luống đợi Đông quân cứu đời”
(Ngư Tiều y thuật vấn đáp)
Nguyễn Đình Chiểu còn “trông tin nhạn”, còn “luống đợi Đông quân cứu đời”,…
nhưng hơn 20 năm sau, Yên Đổ thao thức giữa đêm thu và bồn chồn; ngơ ngác hỏi:
“Một tiếng trên không ngỗng nước nào?” (Thu vịnh).
3. Giọng thơ từ thương cảm nghẹn ngào ở 4 câu đầu chuyển thành căm thù uất hận,
vang lên như một lời thề nung nấu. Cách ngắt nhịp 3–4 tạo thành một biến tấu đầy
rung động:
“Bờ cõi xưa/ đà chia đất khác
Nắng sương nay/ há đội trời chung”
“Bờ cõi xưa” là Tổ quốc ngàn đời” đã chia đất khác”, đã bị quân thù giày xéo, đã bị
Triều đình cắt cho giặc Pháp 3 tỉnh miền Đông, rồi cắt nốt 3 tỉnh miền Tây, dâng nộp
cho chúng. “Nắng sương” là ngày, đêm. “Há” - tiếng cổ, nghĩa quyết không thể. “Há
đội trời chung” là quyết không đội trời chung với giặc Pháp. Cũng là cách nói truyền
thống biểu lộ một tinh thần quyết tử trong thơ văn cổ. Trong phần luận bài thơ này là
một lời thề trang nghiêm. Trong “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”, ông đã nguyền: “Sống
đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được
trả thù kia…”. Thái độ quyết liệt ấy còn được thể hiện ở sự chối từ của nhà thơ khi
chính quyền thực dân hứa trả lại ruộng cho ông, ông đã dứt khoát bảo chúng: “Đất
chung còn bị mất, đất riêng còn có được sao?”. Thái độ quyết không đội trời chung
với giặc của Nguyễn Đình Chiều, của các chiến sĩ yêu nước mãi mãi là bài học về
lòng trung nghĩa cho mỗi chúng ta.
4. Nếu ở câu 1 là “ngóng gió đông”, câu 3 là “trông tin nhạn”, thì câu 7 là một tiếng
hỏi, một lời chất vấn, là một sự mong đợi:
“Chừng nào Thánh đế ân soi thấu.
Một trận mưa nhuần rửa núi sông”
Câu thứ 2 hỏi: “Chúa xuân đâu hỡi có hay không?”, hỏi bằng một ẩn dụ. Câu 7 hỏi
trực tiếp. “Thánh đế” tức là hỏi vua. Đằng sau câu hỏi là một lời trách nhà vua chưa
“soi thấu”, chưa hết lòng vì nước vì dân. Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho, cho nên
trong cảnh “súng giặc đất rền”, tâm hồn ông trước sau vẫn hướng về một “Thánh đế”,
một “Đông quân”, một “Đông hoàng”. Vua đã phản bội đầu hàng rồi, còn đâu “Thánh
đế” nữa? Đó là một hạn chế của thời đại mà Nguyễn Đình Chiểu một nhà nho khó
lòng vượt qua.
Câu thứ 8, niềm mơ ước được thể hiện qua hình ảnh ẩn dụ “một trận mưa nhuần”.
Trận mưa ấy “rửa núi sông”, rửa sạch hận thù, rửa sạch nỗi đau, nỗi nhục mất nước,
rửa sạch “mùi tinh chiên vấy vá”… mùi dơ bẩn của loài dê chó, của lũ sài lang. Đất
nước trở lại thanh bình, hoa cỏ được hồi sinh, nhân dân sống trong yên vui hạnh phúc
là mơ ước của ông.
Tóm lại, “Xúc cảnh” là một bài thơ tuyệt bút. Một hệ thống ẩn dụ tượng trưng tạo nên
tính đa nghĩa của bài thơ. Nỗi niềm chờ trông, mong đợi, một quyết tâm không đội
trời chung với giặc, lúc cảm thương, khi căm giận, giọng điệu đa thanh, biến hóa vô
cùng xúc động. “Xúc cảnh” đích thực là một bài ca yêu nước, thể hiện tâm hồn trung
nghĩa của nhà thơ mù miền Nam mãi mãi vằng vặc như sao Bắc đẩu.