Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Cam nhan tieng long cua mot con nguoi trong hai kho tho dau cua bai tho day thon vi da

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.01 KB, 7 trang )

Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Cảm nhận tiếng lịng của một con người trong hai khổ
thơ đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Dàn ý Cảm nhận tiếng lòng của một con người trong hai khổ
thơ đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
1. Mở bài
Giới thiệu khái quát về tác giả Hàn Mặc Tử, bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ và dẫn vào hai
khổ thơ đầu.
2. Thân bài
a. Khổ thơ thứ nhất
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”: Câu hỏi làm sống dậy kỷ niệm về thôn Vĩ trong
tâm hồn đằm thắm và thơ mộng của Hàn Mặc Tử.
Cảnh buổi sớm nơi thơn Vĩ: Nắng mới lên, chiếu sáng, lấp lống những hàng cau
vượt lên trên các mái nhà và những tán cây.
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”: những vườn cây tươi tốt, xum xuê của Vĩ Dạ
bao bọc, gắn với ngôi nhà xinh xinh thành một cấu trúc thẩm mĩ chặt chẽ.
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Đã gọi là cách điệu hóa thì khơng nên hiểu theo
nghĩa tả thực, tuy rằng cách điệu hoá cũng xuất phát từ sự thực: thấp thoáng đằng
sau những hàng rào xinh xắn, những khóm trúc, có bóng ai đó kín đáo, dịu dàng,
phúc hậu.
b. Khổ thơ thứ hai
"Gió theo lối gió mây đường mây/ Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay": làn gió thổi
rất nhẹ, khơng đủ cho mây bay, khơng đủ cho nước gợn, nhưng gió vẫn run lên nhè
nhẹ cho hoa bắp lay.
"Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó/Có chở trăng về kịp tối nay?": Phải ở trong
mộng thì sơng mới có thể là “sơng trăng” và thuyền mới có thể “chở trăng về” như
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí



một du khách trên sơng Hương... Hình ảnh thuyền chở trăng khơng gì mới, nhưng
“sơng trăng” thì có lẽ là của Hàn Mặc Tử.
3. Kết bài
Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của hai đoạn thơ cũng như của tác
phẩm.

Văn mẫu Cảm nhận tiếng lòng của một con người trong hai
khổ thơ đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Trong số các thi nhân của phong trào thơ mới 1932 – 1945 có lẽ ta khơng thấy ai
có số phận ai ốn nghiệt ngã như Hàn Mặc Tử, số mệnh cay đắng của thi sĩ được
tiên đoán trước qua ý nghĩa các biệt danh Phong Trần (Gió Bụi), Lệ Thanh (tiếng
của nước mắt). Hàn Mặc Tử người đi trong màn lạnh với tấm lòng quặn thắt, ơng
đã trải lịng mình trên giấy mong manh và cho ra đời nhiều thi phẩm đặc sắc. Một
trong số đó là bài thơ Đây Thơn Vĩ Dạ, đọc bài thơ người đọc sẽ có ấn tượng ngay
với hai khổ thơ đầu:
“Sao anh khơng về chơi thơn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Hàn Mặc Tử là một trong ba đỉnh cao của phong trào thơ mới, ông là một hiện
tượng Thơ rất mới lạ. Hồn thơ mãnh liệt luôn chất chứa sự mâu thuẫn giữa cảnh
sắc và tinh thần vì những nỗi đau đớn về bệnh tật nên ông luôn khát vọng sống,
khát vọng giao hòa giao cảm với cuộc đời, với con người. Bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ
được sáng tác năm 1938, lấy cảm hứng từ một mối tình đơn phương của Hàn Mặc
Tử với một cô gái Huế, bài thơ được in trong tập “Thơ điên” sau đổi thành “Đau

thương”.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Như chúng ta đã biết thơ là cuộc đời nhưng đó khơng phải là sự sao chép máy móc,
mà phải được thanh lọc cảm nhận qua tâm hồn thi sĩ để thành thơ. Thơ là hình ảnh
sống tươi ngun, được tái hiện qua lăng kính tình cảm của người nghệ sĩ. Vì vậy
nếu thơ khơng có tư tưởng, tình cảm thì đó chỉ là những lời sáo rỗng nhạt nhẽo vô
vị tầm thường, chỉ là chọn làm xiếc, ngôn từ chẳng thể đánh lừa được người đọc.
Vai trị là một nhà thơ, Hàn Mặc Tử khơng ngừng sáng tạo cho ra đời những tác
phẩm đặc sắc, khác với các nhà thơ cùng thời. Đọc Đây Thôn Vĩ Dạ ta càng cảm
thấy rõ điều đó, mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ:
“Sao anh không về chơi thơn Vĩ”
Câu hỏi đó chính là sự phân thân của nhà thơ, nhà thơ hóa thân vào cơ gái Huế để
hờn dỗi, trách móc nhẹ nhàng nhưng đằng sau ấy là sự mời mọc rất chân thành,
nhà thơ sử dụng từ “chơi” gợi lên sự thân mật gần gũi… Mặt khác câu hỏi tu từ
này là nhà thơ đang tự hỏi mình, tự trách mình sao cảnh Huế đẹp như vậy mà anh
khơng vào chơi. Đó là một câu hỏi lớn, nỗi đau khắc khoải, bây giờ đây trở về xứ
Huế đã trở thành một niềm khao khát của nhà thơ. Có lẽ khi sáng tác bài thơ này,
nhà thơ đang ở giai đoạn cuối của bệnh phong nên ông chỉ có thể trở về chơi thôn
vĩ trong tâm tưởng, nhưng dù là trong tâm tưởng thì cảnh thiên nhiên về thơn Vĩ
vẫn đẹp lung linh:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Bức tranh thôn Vĩ xinh xắn thơ mộng được chiêm ngưỡng từ xa đến gần. câu thơ
với điệp từ “nắng” đã gợi lên trong mắt người đọc một khơng gian tràn ngập ánh

sáng, cau đó là một loại cây mang vẻ đẹp đặc trưng của thôn Vĩ, với thân hình
thẳng tắp tán lá xanh tươi, vườn cây thôn Vĩ tươi tốt đến mức khách ở xa về phải
trầm trồ “vườn ai mướt quá xanh như ngọc” vườn ai khơng xác định nhưng người
đọc vẫn có thể hiểu là vườn của cô gái Huế. “mướt quá” là sự đặc tả sắc xanh của
cây lá. Tại sao tác giả không dùng màu xanh da trời, xanh thẫm mà dùng màu xanh
ngọc bích, có lẽ đó là màu xanh tinh khiết, tinh túy, quyến rũ và bức tranh thôn Vĩ
ngày càng đẹp hơn, hiện lên đầy đủ hoàn hảo hơn, khi có sự xuất hiện của người
con gái “lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Vĩ Dạ nổi tiếng với màu xanh của trúc
một loại cây được trồng trước ngõ, trong tâm tưởng của thi nhân bất chợt hiện về
qua mặt chữ điền lấp ló sau hàng trúc. Lá trúc thì mảnh mai, mặt chữ điền gợi lên
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

sự vng vắn, phúc hậu… Tất cả tạo nên vẻ đẹp hài hòa giữa con người với thiên
nhiên, nếu ở khổ thơ thứ nhất nhà thơ nhìn cảnh vật bằng sự lạc quan yêu đời, Thì
khổ thơ thứ hai đã có sự thay đổi đó chính là sự mặc cảm về cảnh chia lìa, tan tác
“gió theo lối gió mây đường mây”, “dịng nước buồn thiu hoa bắp lay”.
Hai câu thơ nói lên vẻ đẹp đặc trưng của xứ Huế, đó là dịng sơng Hương chảy
lững lờ hai bên bờ sông, là những vườn bắp, những bông hoa nhẹ nhàng lay động
cịn trên cao thì gió đi theo lối gió mây đi theo đường mây. Trong thực tế ta thấy
Gió và Mây là hai sự vật khơng thể tách rời, bởi có gió thổi thì mây trời có thể bay.
Vậy mà hai chữ chia lìa vẫn đến cịn dịng nước buồn thiu như mang trong mình
một tâm trạng khơng gì tả nổi.
Đến hai câu thơ tiếp theo vẫn là dịng sơng Hương, là Huế mộng mơ nhưng nó
khơng cịn nắng, khơng cịn xanh của Vỹ Dạ mà trước mắt người đọc là không gian
tràn ngập ánh trăng, con thuyền trở thành thuyền Trăng, dịng sơng trở thành sông
trăng và bến trở thành bến trăng
“Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay”
Từ xưa đến nay, ta thường bắt gặp hình ảnh thuyền trăng, bến chăng, Nhưng nay ta
lại bắt gặp một hình ảnh mới đó là sơng trăng, đọc câu thơ người đọc mới có cảm
tưởng như đang vào cõi mộng, dường như nhà thơ đang sống trong khắc khoải, chờ
mong. Ở thơ thứ nhất câu hỏi tu từ xuất hiện với câu thơ đầu còn đối với khổ thơ
thứ hai câu hỏi tu từ lại xuất hiện ở câu cuối. Câu thơ như mang nhiều cảm xúc
“Có chở trăng về” là sự mong ngóng hi vọng “kịp tối nay” là khắc khoải, lo âu, là
sự hoài nghi, là sự khẩn thiết yêu cầu. Nhưng dường như nhà thơ đã dự cảm được
sự thất vọng, nhà thơ như ý thức được rằng nếu trăng khơng về kịp thì mình sẽ
vĩnh viễn rơi vào thế giới đau đớn, tuyệt vọng.
Thành công của đoạn thơ là nhờ sử dụng các biện pháp tu từ như điệp từ, câu hỏi
tu từ, so sánh bằng thủ pháp nghệ thuật liên tưởng, cùng với những câu hỏi tu từ
xuyên suốt đoạn thơ. Nhà thơ đã khắc họa ra trước mắt ta một khung cảnh nên thơ,
đầy sức sống và bản trong đó là nỗi lịng của chính nhà thơ.
Đây Thôn Vĩ Dạ là một bức tranh đẹp về cảnh và người của miền quê, đất nước
qua tâm hồn thơ mộng giàu trí tưởng tượng và đầy yêu thương của nhà thơ đa tình,
đa cảm. Xin thành kính thắp lên một nén nhang trước một nghệ sĩ tài hoa, một trái
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

tim suốt đời thổn thức vì tình yêu, một tâm hồn đã thăng hoa từ nỗi đau bất hạnh
của mình để mang đến cho đời những đóa hoa thơm và trong đó đau thương nhất,
tinh khiết nhất là bài thơ Đây Thơn Vĩ Dạ.

Cảm nhận tiếng lịng của một con người trong hai khổ thơ
đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - Bài làm 2
Hàn Mặc Tử là nhà thơ có tâm hồn nhạy cảm, những sáng tác của ơng được sáng
tác và đi vào lịng cũng một cách rất tự nhiên, sâu lắng, để lại nhiều suy ngẫm cho

độc giả. Một trong những bài thơ như thế chính là bài Đây thơn Vĩ Dạ, bài thơ
nhắc nhiều đến xứ Huế thơ mộng, với vẻ đẹp vừa giản dị vừa yêu kiều như chính
người con gái mà tác giả đang thầm thương trộm nhớ. Không những thế bài thơ
cịn nói lên niềm khát khao được sống, được yêu một cách tha thiết của thi sĩ.
Trong đó, hai khổ thơ đầu đã diễn tả một khung cảnh bình yên, hình ảnh con người
đẹp e ấp bên lá trúc cùng diễn biến tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ.
Khơng giống với các bài thơ khác, mở đầu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ lại không phải
là một câu miêu tả hay một câu cảm thán, mà là một câu hỏi tu từ:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Cảm hứng của bài thơ được khơi gợi từ một tấm thiếp của Hoàng Thị Kim Cúc
viết cho Hàn Mặc Tử, những lời thơ khiến cảm xúc của tác giả lại ùa về, gợi nhắc
về một miền quê xứ Huế thơ một hữu tình.
Câu đầu của bài thơ, mở đầu bằng một câu hỏi đã lạ mà đằng này lại cịn là một
câu hỏi tu từ khơng có người trả lời càng khiến cho mạch cảm xúc của bài thơ trở
nên bâng khng khó tả. Tuy khơng được ở gần, không được một lần về thăm lại
Vĩ Dạ nhưng với nỗi nhớ da diết đã đưa Hàn Mặc Tử trở về với xứ Huế. Câu hỏi tu
từ như một lời trách móc, hờn dỗi của một cơ gái muốn thủ thỉ rằng: sao lâu rồi mà
anh không về thăm xứ Dạ lấy một lần. Câu hỏi đưa ra vốn khơng để tìm câu trả lời
nên nó gợi lên cảm giác bâng khuâng, khó tả. Nói giống như một lời mời gọi, vừa
như một lời giới thiệu mà cũng là sự tiếc nuối của chính tác giả đã lâu khơng có
dịp về thăm chốn xưa: “Sao anh khơng về thăm thôn Vĩ?” – một lời tự vấn, tự trách
bản thân mình.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Khung cảnh Vĩ Dạ dần hiện ra với bao nhiêu cảnh, vừa có nắng vừa có màu sắc
rực rỡ lại vừa có hình ảnh của những lá trúc đung đưa trước ngõ nhà ai. Cái tài cái

độc đáo của tác giả là gợi ra sự tưởng tượng mới lạ cho chính người đọc.
Khơng trực tiếp sống ở Vĩ Dạ nhưng với nỗi niềm nhớ Vĩ Dạ tha thiết đã khiến cho
tác giả có thể tự phân thân mình đang đặt bước về thăm thơn Vĩ thân thương. Mỗi
câu thơ như dẫn ra một vẻ đẹp của nơi đây, không những thế ngôn từ dùng để miêu
tả khung cảnh vừa đẹp mà cịn vừa có tính gợi. Mọi thứ đều hòa hợp và ánh lên
một vẻ đẹp thanh tú, thuần khiết. Hình ảnh hàng cau gợi ra những vẻ đẹp thanh
thốt, cao vút và vươn lên đón ánh sớm mai. Len lỏi vào đó là những tia nắng bình
minh vừa rực rỡ vừa dịu dàng như trải lên cho Vĩ Dạ một vẻ thân thiện lại đầy sự
mời gọi. Nắng ở đây càng trở nên đẹp hơn, kỳ lạ hơn khi tác giả khốc cho nó một
chiếc áo ngôn từ “nắng mới lên”. Cái nắng ấy thật tinh khiết mà cũng thật trong
trẻo, không một chút gợn của một đêm dài đã trải qua.
Tác giả như dẫn dắt người đọc đi sâu hơn vào khung cảnh của thôn Vĩ. Với biện
pháp so sánh, những khu vườn nơi đây đã trở nên hữu tình trước mắt người đọc
thơng qua con mắt nghệ sĩ của Hàn Mặc Tử: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”.
Dường như cây cối ở thôn Vĩ quanh năm đều tốt tươi. Từ “mướt” được sử dụng ở
đây quả thực không quá chút nào, xanh mướt, mơn mởn và đầy sức sống. Nhịp thơ
uyển chuyển kết hợp với từ ngữ mang tính tượng hình cao, cảnh vật nơi đây như
càng thêm huyền bí, đẹp đẽ, vừa có màu của nắng mới lên, vừa có màu xanh mướt
của những khu vườn, mọi thứ đều tươi mới và tràn trề nhựa sống.
Hình ảnh trăng hiện ra khơng chỉ ở bài thơ này mà còn còn là thi liệu của nhiều bài
thơ của nhiều thi sĩ khác. Ánh trăng là biểu tượng cho cái đẹp, tượng trưng cho
hạnh phúc và thanh bình. Đối với Hàn Mặc Tử hình ảnh trong thơ gợi cho người
đọc một niềm tin yêu, một niềm hy vọng. Chỉ có trong thơ mới có sơng trăng và
hình ảnh thuyền chở trăng thi vị đến vậy. Nghệ thuật ẩn dụ này đã mang đến một
cảm giác được chờ đợi, được khao khát nhưng đồng thời nó cũng như một sự dự
cảm, một nỗi phân vân: “có chở trăng về kịp tối nay?”. Lời thơ cất lên như một câu
hỏi khơng có đáp án. Hai câu thơ đặc tả tâm trạng khát khao được gặp gỡ nhưng
đồng thời cũng thể hiện nỗi lo lắng khôn nguôi.
Mặc dù bài thơ đã ra đời từ cách đây rất lâu, nhưng bài thơ Đây thơn Vĩ Dạ nói
chung và hai khổ thơ đầu nói riêng đã tạo nên nhiều cảm xúc của độc giả từ cổ chí

kim. Nó khơng chỉ gợi mở vẻ đẹp thiên nhiên mà còn là những tác phẩm tiêu biểu
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

cho hồn thơ Hàn Mặc Tử, một tâm hồn thơ nhạy cảm muốn giao hòa với đời và với
người.
---------------------Mời bạn đọc cùng tham khảo />
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188



×