Tải bản đầy đủ (.pdf) (268 trang)

Tìm hiểu địa chí Bắc Giang: Di sản Hán Nôm - Phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.6 MB, 268 trang )

UNIVERSITYOF CA RIVERSIDE, LIBRARY

3 1210 02095 0646
UỶ BAN NHÂNDÂN TỈNH

28
128

BẮC GIANG

28
281

ĐỊA CHỈ

BACCIANG

B&

7887

%

B%

Y DISAN HAN NOMY

12

2889


2

***

<

*

>

SỞ VĂN HĨA THƠNG TIN BẮC GIANG
VÀ TRUNG TÂM UNESCO THÔNG TIN TƯ LIỆU LỊCH SỬ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
%

3%

%A8%

%



GAUTE



ĐỊA CHÍ BẮC GIANG

DI SẢN HÁN NƠM



Đọc duyệt
PGS TRẦN NGHĨA – PGS , TS TẠ NGỌC LIỄN
Tổ chức bản thảo
NGUYỄN QUANG ÂN

Sưu tầm , biên soạn , dịch thuật

LÂM GIANG

NGUYỄN MINH TUÂN

NGÔ THẾ LONG

TRẦN VĂN LẠNG

MAI HỒNG

NGUYỄN VĂN PHONG


UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG

ĐỊA CHỈ

NG

GIA

BAC

2

DI

SẢN

HÁN

NÔM

Chủ biên
LÂM GIANG - NGUYỄN ĐÌNH BƯU

SỞ VĂN HĨA THƠNG TIN BẮC GIANG
VÀ TRUNG TÂM UNESCO THÔNG TIN TƯ LIỆU LỊCH SỬ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
HÀ NỘI 2003



5

LỜI MỞ ĐẦU

Bắc Giang vốn là miền Thượng của lộ Bắc Giang thời kỳ Lý - Trần ( TK X
XIV ) , trấn Kinh Bắc thời Lê (TK XV - XVIII ) , tỉnh Bắc Ninh thời Nguyễn

(TK

XIX ) . Ngày mồng 10.10.1895 Tồn quyền Đơng Dương Rútxơ (Rousseau ) ký Nghị
định số 983 thành lập tỉnh Bắc Giang, lấy Phủ Lạng Thương làm


tỉnh lỵ . Ngày

1.10.1959 Phủ Lạng Thương đổi tên thành thị xã Bắc Giang .
Ngày 27.10.1962 , Nghị quyết kỳ họp Quốc hội khoá

II hợp

nhất 2 tỉnh

Bắc Giang và Bắc Ninh thành tỉnh Hà Bắc , bắt đầu hoạt động từ 1.4.1963 , tỉnh
lỵ là thị xã Bắc Giang .
Ngày 6.11.1996 , Nghị quyết kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá IX tách tỉnh Hà
Bắc thành 2 tỉnh

Bắc Giang và Bắc Ninh , bắt đầu từ 1.1.1997 bộ máy hành

chính tỉnh Bắc Giang chính thức hoạt động , tỉnh lỵ là thị xã Bắc Giang .
Tỉnh Bắc Giang là tỉnh miền núi , có nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống
trên 9 huyện và 1 thị xã là : Sơn Động, Lục Ngạn , Lục Nam , Yên Thế , Lạng
Giang , Hiệp Hoà , Tân Yên , Việt Yên , Yên Dũng và thị xã Bắc Giang : với 227 xã ,
phường , thị trấn : diện tích 3822,5 km ; dân số ( tính đến

1.4.1999 ) là

1.129.899

người .
Kể từ ngày thành lập đến nay , Bắc Giang có lịch sử hơn 100 năm , song
trước đó các nhà khảo cổ học đã tìm thấy di chỉ đồ đá cũ ở Khe Táu . Chũ ; di chỉ

đồng thau ở Đông Lâm , Bắc Lý , Song Giang (Hiệp Hồ) ... Những chứng tích ấy
chứng tỏ Bắc Giang là vùng đất cổ phát triển liên tục từ hàng vạn năm

trước cho

đến ngày nay . Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước , nhân dân các
dân tộc Bắc Giang đã lập nên biết bao kỳ tích anh hùng ở Như Nguyệt , Xa Lý Nội Bàng , Cần Trạm

– Xương Giang , Yên Thế ... mà sử sách đã ghi chép . Các di

tích lịch sử văn hố có giá trị để lại đã chứng minh Bắc Giang là vùng đất văn
hiến và cách

mạng . Có thể nói , ở bất kỳ giai đoạn lịch

sử nào Bắc Giang cũng

xuất hiện những tên đất tên người tiêu biểu . Mỗi dân tộc chung sống lâu đời trên
đất Bắc Giang đều có truyền thống tốt đẹp , mỗi địa phương trong tỉnh đều có
những tiềm năng phát triển . Nguồn lực con người Bắc Giang đã , đang và sẽ được
phát huy ở các thế hệ hơm

nay và mai sau .

Trong q trình xây dựng và phát triển , do nhu cầu bức thiết , trước hết là
của các nhà quản lý đất nước muốn hiểu về đất đai , khí hậu , tài nguyên , sản vật ,
phong tục tập quán , truyền thống nhân dân ... của địa phương mình để từ đó xây
dựng chính sách , chế độ phù hợp . Cuốn sách Bắc Giang địa chỉ của

Trịnh Như



6

Tấu ra đời năm
và địa

1937 ; tập sách Địa chí Hà Bắc của tập thể các tác giả

phương xuất bản năm

trung ương

1982 đã đóng góp những tri thức cho cán

bộ và

nhân dân địa phương .
Bước vào thời kỳ đổi mới, thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố . hiện đại hố
đất nước , cán bộ và nhân dân các dân
tìm

tộc Bắc Giang hơn bao giờ hết có nhu cầu

hiểu về đất nước , con người Bắc Giang . Do đó cần có một bộ sách sưu tầm ,

biên soạn vừa tổng hợp vừa cụ thể , vừa nâng cao vừa phổ thông , vừa giới thiệu
vừa gợi ý về các mặt địa lý , lịch sử , chính trị , quân
Bắc Giang từ cổ xưa đến hiện đại. Bộ sách


sự , kinh tế, văn hố - xã hội

đó khơng những thừa hưởng thành

tựu những cơng trình khảo cứu biên soạn của những người đi trước mà còn phải
sưu tầm

mới , bổ sung tư liệu

thống tri thức và

mới , hiểu

biết mới, tinh bày mới một cách có hệ

hướng dẫn tra cứu các tư liệu chuyên nghành về đất nước con

người Bắc Giang .
Nhằm

đáp

ứng yêu cầu trên , ngay sau khi tỉnh Bắc Giang được tái lập ,

ngày 16.9.1997. UBND tỉnh Bắc Giang đã phê duyệt đề án biên soạn xuất bản bộ
sách Địa chí Bắc Giang do Sở Văn hố - Thông tin

đề xuất . Bộ sách gồm

4 tập .


Tập I. Địa lý và kinh tế, Tập II : Lịch sử, văn hoá , giáo dục , khoa học : Tập III : Di
sản Hán Nôm ; Tập IV : Từ điển tra cứu .
Bộ sách được biên soạn với sự giúp đỡ của Trung tâm
Tư liệu Lịch sử và Văn hố Việt Nam

UNESCO Thơng tin

và sự đóng góp trí tuệ của nhiều nhà khoa

học ở trung ương và địa phương .
Địa chí Bắc Giang sẽ là bộ sách bổ ích cho các cán

bộ quản

lý , cán bộ

nghiệp vụ , cán bộ nghiên cứu các ngành , các cấp và nhân dân các dân tộc trong
tỉnh trong việc xây dựng các chương trình , kế hoạch , đề án mới trên cơ sở truyền
thống , tiềm

năng , thực trạng vốn có ... Bạn dọc ngồi tỉnh cũng có thể tìm

thấy

những thơng tin tư liệu về Bắc Giang để hiểu biết , cộng tác đóng góp cho Bác
Giang trong q trình xây dựng và phát triển .
Mặc dù được tổ chức biên soạn công phu , song bộ sách không thể tránh
khỏi còn những điểm


khiếm

khuyết , rất mong được bạn đọc xa gần

đóng góp ý

kiến để khi có điều kiện tái bản , bộ sách đạt chất lượng cao hơn .
Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Giang trấn trọng cảm

ơn các tác giả , các cộng

tác viên và vui mừng giới thiệu bộ sách Địa chỉ Bắc Giang cùng bạn đọc .
Bắc Giang , ngày 24 tháng 12 năm

2001

THÂN VĂN MƯU
Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ
Phó Chủ tịch thường trực UBND tỉnh Bắc Giang


7

LỜI GIỚI THIỆU

Cụm từ "Di sản Hán Nôm ” dùng làm tiêu đề cho Tập ba , một trong số bốn
tập của bộ Địa chí Bắc Giang , khơng bao hàm toàn bộ những thư tịch và tài liệu
được soạn thảo bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm về Bắc giang, của Bắc Giang , hay ở
Bắc Giang. Vì như vậy , phạm vi của Tập ba sẽ quá rộng, gồm cả “kinh ” , “ sử ” ,
“ tử ” , “ tập ” , trong khi “ địa chỉ” , cái mà chúng ta đang quan tâm , lại chỉ là một bộ

phận nhỏ của “ sử ” , theo quan niệm thời trước . Nói khác đi , theo sự phân công
của bộ sách , Tập ba mới bước đầu kiểm kê , phân loại , lược thuật hay phiên
chuyển sang tiếng Việt riêng phần “ địa chỉ trong di sản Hán Nôm Bắc Giang .
Là một trong “ tứ trấn ” xưa , Bắc Giang hiện có một khối lượng di sản Hán
Nơm về địa chí thật khơng nhỏ , bao gồm nhiều loại hình văn bản khác nhau . Có
thể qui tụ vào hai nhóm lớn : Thư tịch và văn khắc .
Thuộc nhóm

thư tịch , có các loại văn bản như địa bạ 66 bản , hương ước 18

bản , tục lệ 55 bản , thần sắc 55 bản , thần tích 51 bản , xã chí 1 cuốn , sách ghi
chép tổng hợp hoặc liên quan đến các lĩnh vực khác của địa chí 120 cuốn .
Đó là nguồn thư tịch hiện đang lưu trữ tại hai thư viện ở trung ương (Thư
viện Viện Thông tin

khoa học xã hội và Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm ) .

Tại địa phương , thư tịch Hán Nơm hiện cịn khá phong phú , được lưu trữ tại các
tư gia như các tập gia phả của các dòng họ lớn ( 11 cuốn ) , các tài liệu ghi chép về
lịch sử , văn hoá , các lệnh dụ , lệnh chỉ , chiếu chỉ , địa bạ , thần tích

( 16 cuốn ) , các

ván khắc để ở các chùa chiền (chùa Vĩnh Nghiêm , huyện Yên Dũng 30 bộ ván in ;
chùa Bổ Đà , huyện Việt Yên trên 50 bộ ván in ... ) .
Vẫn thuộc về thư tịch lưu trữ tại địa phương , phải kể đến các thư

tịch

Hán Nôm của một số dân tộc ít người , như sách của người Sán Chỉ huyện Lục



8

Ngạn . Sơn Động (trên 100 cuốn ) , sách của người Cao Lan huyện Lục Ngạn , Sơn
Động , Yên Thế ( xấp xỉ 50 cuốn ) , của người Sán Dìu huyện Lục Ngạn ( 10 cuốn ) ,
V.V ...

Thuộc nhóm

văn khắc , có 1.298 đơn vị thác bản bia , chuông , biển

gỗ , cột

đá , cột gỗ , cây hương ... cùng trên 2.500 đơn vị hoành phi, câu đối , cuốn thư , đại
tự ... tại hơn 620 di tích lịch sử - văn hố gồm đình , đền , chùa , nghè , miếu , từ
đường, cổng làng , lăng mộ…
Nếu làm

thuộc 10 huyện thị của Bắc Giang .

một so sánh , ta sẽ thấy về mặt thác bản , Hiệp Hoà , Việt Yên ,

Yên Dũng , Lạng Giang , chiếm số lượng lớn
Tân Yên , Lục Ngạn , Yên Thế , chiếm

nhất ; Lục Nam , Thị xã Bắc Giang ,

số lượng ít hơn . Cịn về mặt hồnh phi , câu


đối ... thì Hiệp Hồ , Lạng Giang , Việt n chiếm

số lượng nhiều nhất ; Lục Nam ,

Yên Dũng, Thị xã Bắc Giang , Tân Yên , Lục Ngạn , n Thế, Sơn Động chiếm

số

lượng ít hơn . Nơi có mật độ địa chí cao , phải kể là các huyện Hiệp Hoà , Việt Yên
và Lạng Giang .

Để giúp bạn dọc dễ dàng năm

bắt những thông tin chuyển tải các văn bản

địa chí ở Tập ba này , đặc biệt là mảng hương ước , tục lệ , thần sắc , thần tích và
gắn liền

với chúng là phần lớn văn

khắc , khơng thể khơng nói một chút về

thuyết “ tam tài” cùng phương pháp tư duy của người phương Đông thời cổ mà di
sản Hán Nôm

của ta thường chia sẻ .

Thuyết “ tam

tài ” bắt nguồn từ Kinh Dịch . Phần


thuyết minh về hào và

quẻ ở sách này viết : “ Ngày xưa thánh nhân làm ra Kinh Dịch cốt để thuận
đạo lý tự nhiên , vì vậy mà xác lập đạo trời , gọi là âm

theo

dương ; xác lập đạo đất, gọi

là nhu và cương ; xác lập đạo người , gọi là nhân và nghĩa . Gộp cả thiên , địa , nhân
tức là “ tam tài” lại với nhau theo kiểu từng đội xếp thành nhiều tầng bậc , nên ở
Kinh Dịch , cứ 6 hào tạo thành một quẻ ” (Kinh Dịch . Thuyết quái ) . Sách địa chí
thời cổ khi ghi chép về địa hình , dân cư , chính trị , sản vật, giao thông và đặc biệt
là phong tục , tập

quán , đời sống tâm

linh ... của một đất nước hay một vùng

miền , thường bị chi phối bởi quan niệm “ tam

tài” , thiên địa nhân hợp nhất vừa

nói . Mục tiêu của các nhà biên soạn địa chí thời trước là hướng tới sự hài hoà
giữa ba cõi trời , đất và người; do vậy họ phải khảo sát để am
thiên văn , địa

lý , nhân sự , cũng như mối quan


tường cả ba lĩnh vực

hệ giữa con

người đối với bản


9

thân , đối với xã hội , con người đối với tự nhiên , nhằm giúp cho người cầm quyền
hoạch định đường lối, chính sách .

Về phương pháp tư duy , đặc biệt là trên các lĩnh vực đạo đức , triết học ,
cách tiếp cận của ông cha ta nói riêng và người phương Đơng nói chung là trực
quan , bằng cảm xúc , khác với cách tiếp cận chủ yếu và dựa vào logic và thực
nghiệm của người phương Tây . Dùng đơi nhỡn kính phương Tây để xem xét cac
vấn đề phương Đơng , trong đó có di sản Hán Nơm , e cịn lâu anh mới “ tìm đúng
ngõ , gõ đúng cửa” . Nhất là trước những hiện tượng mà người phương Đơng thấy
khó lịng giải thích , chỉ có thể ghi lại , nhưng rất quan trọng vì nó hầu như là
nguồn gốc của mọi ứng xử .

Giá trị của Tập ba trước hết nằm ở bản thân tư liệu . Đây là một tập văn
bản nguyên viết bằng chữ Hán , chữ Nôm , sản phẩm đặc hữu của một thời ,
khơng cịn được tiếp

tục chế tác ra nữa . Chúng thuộc loại tư liệu gốc , nguồn

thông tin cấp một . nhất là văn khắc gồm bia , chng , hồnh phi câu đối, đại tự ,
những “ trang sử đá ” , có độ tin cậy cao . Chẳng những thế , hầu hết các thư tịch và
tài liệu địa chí giới thiệu ở Tập ba đều ra đời trong hoàn cảnh khoa học chưa

phát triển . Những thông tin mà chúng cung cấp do vậy thường mang tính tổng
hợp , liên ngành , là đối tượng nghiên cứu của khá nhiều bộ môn khoa học hiện
đại .
Như thế , di sản Hán Nơm nói chung , di sản Hán Nơm viết về Bắc Giang ,
viết tại Bắc Giang ... nói riêng là rất phong phú . Đây là nguồn tư liệu q giá
khơng những giúp ích cho các nhà nghiên cứu về chính trị , lịch sử . kinh tế, văn
hố ... mà cịn giúp cho đơng đảo bạn đọc , nhất là nhân dân Bắc Giang hiểu được
truyền thống tốt đẹp của cha ông trong quá khứ , mặt khác cịn giúp cho các nhà
quản lý hoạch định chính sách được phù hợp và có hiệu quả . Chính vì thế Ban
Thường vụ Tỉnh uỷ và Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Giang ngay từ đầu đã chỉ đạo
và tạo mọi điều kiện cho bộ Địa chí Bắc Giang bốn tập , trong đó có Tập ba : Di
sản Hán Nôm

ra mắt bạn đọc . Đây là việc làm hết sức có ý nghĩa của tỉnh Bắc

Giang mà nhiều tỉnh khác hiện chưa làm .

Tập ba với trên 1.200 trang in là một cố gắng đáng kể của nhóm

soạn giả

là các cán bộ nghiên cứu ở trung ương và địa phương do Nhà nghiên cứu Lâm


Giang và Nguyễn Đình Bưu làm

chủ biên , chắc chắn

khuyết , mong độc giả chỉ giáo và cảm


sẽ cịn

có những nhiệm

thông .
Hà Nội , tháng 6 năm

2002

PGS TRẦN NGHĨA
Nguyễn Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm


[!

QUY CÁCH BIÊN SOẠN

Tập sách gồm

bài: Mấy nét về di sản Hán Nơm

tỉnh Bắc Giang và 2 phần

tư liệu chính :

Phần thứ nhất : Thư tịch .
Phần thứ hai: Văn khắc .

I. PHẦN THỨ NHẤT THƯ TỊCH
-Thư tịch Hán Nôm


lưu trữ tại các thư viện Trung ương .

-Thư tịch Hán Nôm

lưu trữ tại địa phương .

1.Thư tịch Hán Nôm
Gồm

lưu trữ tại các thư viện Trung ương

thư tịch tổng hợp và thư tịch chuyên đề

Thư tịch tổng hợp , là những thư tịch Hán Nôm
tác giả là người Bác Giang ... , không chia theo môn
lưu

trữ tại Thư

viện Viện

viết về Bắc Giang, hoặc

loại , hay theo chủ đề , hiện

Nghiên cứu Hán Nôm , với những ký hiệu

Thư viện


A ... ; AB ... ; VHv ... Loại này xếp sắp theo trật tự A B C vần chữ cái của từng tên
sách .
Thư tịch chuyên đề , gồm

những thư tịch Hán Nôm được tập hợp theo chủ

đề nhất định . như thư tịch về Địa bạ . Hương ước , Tục lệ , Thần sắc . Thần tích , Xã
chí hiện

lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán

K.H.X.H , với những ký hiệu
AD ( Thần sắc) ,

Nôm . Thư viện Thông tin

Thư viện AG (Địa bạ ), Hư (Hương ước ) , AF (Tục lệ ) .

AE ( Thần

tích ). AJ ( Xã chí ). Thư tịch chuyên đề được sắp xếp

+ Giữa những nhóm

chuyên đề , cũng theo tên gọi của từng chuyên đề mà

như sau :

sắp xếp theo trật tự vẫn chữ cái A B C tên gọi của từng nhóm
bạ ( vần Đ ) xếp trước nhóm

+ Thư

tịch chuyện

đó , như nhóm Địa

Hương ước ( vẫn H ) ...
đề được tập hợp

theo từng huyện , thứ tự giữa các

huyện , sắp xếp theo trật tự vần chữ cái ABC tên gọi của từng huyện , như Hiệp
Hoà (vẫn H ) xếp trước Lạng Giang (vần L) ...
+ Trong mỗi nhóm

thư tịch chuyên

đề của từng huyện

lại được tập hợp

theo từng xã , thứ tự giữa các xã sắp xếp theo vẫn chữ cái A B C tên gọi của từng
xã , như xã Bích Sơn (vần B ), xếp trước xã Dĩnh Sơn ( vần D )...
Những trật tự sắp xếp trên dây , là theo hệ thống sắp xếp của Thư viện
Trường Viễn Đông Bác Cổ trước Cách mạng Tháng Tám

mà ngày nay vẫn sử


12


dụng . Trong tập sách này sẽ chú thêm
nào , như Địa

bạ

những địa danh ấy nay thuộc xã , huyện

xã An Khê , tổng Mỹ Cầu , huyện

Phất Lộc , phủ Lạng Giang

( Nay thuộc xã Song Khê , huyện Yên Dũng )...
2.Thư tịch Hán Nôm lưu trữ tại địa phương

Gồm

thư tịch của người Kinh và thư tịch của các dân tộc ít người

-Thư tịch Hán Nơm của người Kinh : Số lượng không nhiều , sắp xếp theo
môn loại: Gia phả - Sách vở tài liệu - Ván khắc .
- Thư tịch Hán Nơm

của các dân tộc ít người: Xếp theo vần chữ cái A.B.C

tên huyện : Lục Ngạn - Sơn Động - Yên Thế .

II.PHẦN THỨ HAI VĂN KHẮC : VĂN BIA , HOÀNH PHI VÀ CÂU ĐỐI
1.Văn bia
Gồm toàn bộ những thác bản của bia đá , chuông đồng , biển gỗ , cột đá ... ,

hiện lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên

cứu

Hán Nôm , ký hiệu

Thư viện

N ...

Những thác bản văn khắc này được tập hợp theo từng huyện , thị; mỗi huyện , thị
lại tập hợp theo từng xã ; thứ tự giữa các huyện , thị và các xã , như sau :
+ Thứ tự giữa các huyện , thị , xếp

theo vần

chữ cái ABC

tên gọi từng

huyện , thị : - Thị xã Bắc Giang - Huyện Hiệp Hoà - Lạng Giang - Lục Nam

- Lục

Ngạn - Sơn Động - Tân Yên - Việt Yên - Yên Dũng - Yên Thế và cuối cùng là mục
Những văn khắc có liên quan đến Bắc Giang .
+ Trong mỗi huyện , thị , chia làm
-Sưu tầm

hai mục:


Trước cách mạng Tháng Tám . Thứ tự giữa các xã sắp xếp theo

vần chữ cái ABC tên gọi của từng xã cũ (Theo Thư mục cũ của Thư
có chua thêm

viện

EFEO ) ,

tên xã cũ ấy nay thuộc xã , huyện nào .

-Sưu tầm

trong những năm

gần đây . Thứ tự giữa các xã sắp xếp theo vần

chữ cái ABC tên gọi của từng xã hiện nay đang sử dụng .

2.Hoành phi và câu đối
Gồm toàn bộ số hoành phi , câu đối mới sưu tầm

trong thời gian gần đây

trong địa bàn toàn tỉnh . Thứ tự sắp xếp theo vần chữ cái A

B C của tên gọi từng

huyện , thị . Trong mỗi huyện , thị lại sắp xếp theo vần chữ cái A B


C của tên gọi

từng xã . Trong mỗi xã lại xếp theo vần chữ cái A B C của tên gọi của từng thôn ,
hoặc tên di tích .


13

MẤY NÉT VỀ DI SẢN HÁN NÔM TỈNH BẮC GIANG

Di sản Hán

Nôm viết về Bắc Giang , hoặc viết trên đất Bắc Giang ,

hoặc tác giả là người Bắc Giang v.v ... khá phong phú . Để tiếp cận được nguồn tư
liệu này , xin phân chia ra hai mảng chính như sau :
Những tài liệu , sách vở , bằng , sắc , ván khắc , v.v ... gọi chung là Thư tịch .
Những thác bản văn bia khắc trên chuông đồng , bia đá , khánh đồng,
khánh đá , trên biển

gỗ , cột gỗ , cột đá ... cùng những văn khắc trên

đá , trên gỗ ,

hoặc đắp nổi trên cột xây bằng vôi vữa v.v ... tạo thành hoành phi, đại tự , câu đối ,
bài thơ gọi chung là Văn khắc .

-Về Thư tịch gồm :
I.Thư tịch Hán Nôm


lưu trữ tại các thư viện Trung ương , có :

1.Thư tịch chung .
2.Thư tịch chuyên đề .
II.Thư tịch Hán Nôm
1.Thư tịch Hán Nôm
2.Thư tịch Hán

lưu trữ tại địa phương , có :
của người Kinh .

Nơm của các dân tộc ít người .

-Về Văn khắc gồm :
I.Văn bia (Gồm

những thác bản văn bia khắc trên chuông đồng , bia đá ,

khánh đồng , khánh đá , trên biển gỗ , cột gỗ , cột đá , v.v ... )
II.Hoành phi, câu đối (Gồm hoành phi , đại tự , biển gỗ , câu đối v.v ... )

SỰ PHÂN BỐ VÀ SỐ LƯỢNG

THƯ TỊCH
I.Thư tịch Hán Nôm

lưu trữ tại các thư viện Trung ương : 366 đơn vị

sách

1.Thư tịch chung 120 đơn vị sách .

2.Thư tịch chuyên đề 246 đơn vị sách , trong đó :
-Địa bạ : 66 đơn vị sách ( Hiệp Hoà 25 , Lạng Giang 7 , Yên Dũng 13 , thị xã
Bắc Giang 7 , Lục Nam

3 , Việt Yên

11 ) .

-Hương ước : 18 đơn vị sách (thị xã Bắc Giang 2 , Hiệp Hoà 1 , Lạng Giang 4 ,
Lục Nam 2 , Lục Ngạn 2 , Tân Yên 2 , Việt Yên 1 , Yên Dũng 4) .
-Tục lệ : 55 đơn
Lục Nam 1 , Yên

vị sách ( Hiệp Hoà 9 , thị xã Bắc Giang 7 , Lạng Giang 11 ,

Dũng 17 , Việt Yên 10) .


14

-Thần sắc : 55 đơn vị sách (Hiệp Hoà 14 , Lạng Giang 10 , thị xã Bắc Giang
6 , Lục Nam 2 , Việt Yên 8 , Yên Dũng 15 ) .

-Thần tích : 51 đơn vị sách ( Hiệp Hoà 14 , thị xã Bắc Giang 5 , Lạng Giang 5 ,
Lục Nam 3 , Việt Yên 9, Yên Dũng 15) .

-Xã chí: 1 đơn vị sách (Gồm các xã thuộc huyện Hiệp Hoà ) .
II.Thư tịch Hán Nôm lưu trữ tại địa phương

1.Thư tịch Hán Nôm của người Kinh
-Gia phả : 11 quyển , hiện lưu trữ tại các tư gia :
Họ Giáp ( Dĩnh Kế ), họ Hồng (Mỹ Độ) , họ Ngơ - thị xã Bắc Giang .
Họ Nguyễn Đình , họ Vũ (Đan Hội) - Lục Nam .
Họ Vi (An Châu) Sơn Động.
Họ Phạm

(Xuân Hương ), họ Ngô (Đào Mỹ) - Lạng Giang .

Họ Giáp ( Việt Lập ) - Tân Yên .
Họ Đào ( Song Khê) - Yên Dũng .

Họ Trịnh ( Bố Hạ ) - Yên Thế .
-Sách vở tài liệu : 15 đơn vị , ở các xã : Xuân

Hương (Lạng Giang ); Đan Hội

(Lục Nam) ; Mỹ An (Lục Ngạn) ; Đồng Kỳ ( Yên Thế ).
-Khắc ván : 30 bộ chùa Vĩnh Nghiêm huyện Yên Dũng . Trên 50 bộ tại
chùa Bổ Đà huyện Việt Yên ( Chưa thống kê đủ) .
2.Thư tịch Hán Nôm của các dân tộc ít người
Hiện số sách này đang lưu giữ trong dân , tại các xã thuộc các huyện như :
Huyện Lục Ngạn
-Sách của dân tộc Sán Chí xã Kiên Lao (tủ sách ơng Lâm Quốc Ấn có hơn
20 quyển , tủ sách ơng Ninh Văn Chất có khoảng trên 30 quyển , tủ sách ơng
Trần Văn Thành có trên dưới 70 quyển ) .
-Sách của dân tộc Sán Dìu xã Hồng Giang ( tủ sách cụ Trương Văn Thái có
10 quyển) .
-Sách của dân tộc Cao Lan thôn Đồng Bụt , xã Đèo Gia (tủ sách cụ Hồng
Văn Phùng có 5 quyển) .

Huyện Sơn Động
-Sách chữ Hán của dân tộc Cao Lan lưu tại xã An Bá có 20 quyển .

Huyện Yên Thế
-Sách của dân tộc Cao Lan bản Ven , bản Sơn Lung , xã Xuân Lương , có 14

quyển .


15

VĂN KHẮC
I.Văn bia
Văn bia hiện có 1.298 đơn vị , trong đó : Thị xã Bắc Giang 42 đơn vị ; Hiệp
Hoà 407 ; Lạng Giang 103 ; Lục Nam 98 ; Lục Ngạn 23 ; Sơn Động 1 ; Tân Yên 30 ;
Việt Yên 338 ; Yên Dũng 235 ; Yên Thế 4 ; Văn bia liên quan đến Bắc Giang 17 .
II.Hoành phi , câu đối

-Hoành phi hiện sao chép được 881 bức, trong đó thị xã Bắc Giang 52 ,
huyện Hiệp Hoà 248 , huyện Lạng Giang 137 , huyện Lục Nam 57 , huyện Lục
Ngạn 27 , huyện Sơn Động 1 , huyện Tân Yên 48 , huyện Việt Yên 178 , huyện Yên
Dũng 111 , huyện Yên Thế 22 .
-Câu đối hiện đã sao chép ở tất cả các điểm di tích tại các thơn xã trong
tồn tỉnh là 1.733 đơi , trong đó : Thị xã Bắc Giang 68 đơi , huyện Hiệp Hồ 512
đôi , huyện Lạng Giang 374 đôi , huyện Lục Nam 208 đôi , huyện Lục Ngạn 47 đôi ,
huyện Sơn Động 9 đôi , huyện Tân Yên 68 đôi , huyện Việt Yên 266 , huyện Yên
Dũng 139 đôi , huyện n Thế 42 đơi .

ĐƠI NÉT VỀ NỘI DUNG
Như trên đã thấy , Di sản Hán Nôm về Bắc Giang hiện có số lượng khá lớn ,

bao gồm những tài liệu , sách vở , văn khắc , hoành phi, câu đối v.v ... với nội dung
rất phong phú và đa dạng, phản ánh nhiều mặt về chính trị , quân sự , kinh tế ,
văn hoá , về sinh hoạt làng xã tại các làng quê , xóm bản của vùng trung du và
miền núi tỉnh Bắc Giang thời kỳ trung và cận đại . Dưới đây là mấy nét về tình
hình tư liệu và nội dung .

I.THƯ TỊCH

THƯ TỊCH LƯU TRỮ TẠI CÁC THƯ VIỆN TRUNG ƯƠNG

1.THƯ TỊCH CHUNG
Thư tịch lưu trữ tại các thư viện Trung ương viết riêng về Bắc Giang
không nhiều , thường được viết chung với vấn đề khác , bao gồm các mặt : Lịch sử ,
địa dư, thổ sản , phong tục , đăng khoa , tiểu truyện , văn , thơ ... Trong đó tập trung
nhất là những sách viết về địa dư. Ở đây , thường phản ánh sự thay đổi địa danh
qua các đời , sự biến đổi giữa các phủ , huyện , tổng, xã , những mức thuế phải
đóng hàng năm , những nhân đinh cần phải điều động, những thổ sản của từng
địa phương , những con sông to , nơi bắt nguồn cũng như nơi chúng hội tụ , những
dãy núi lớn với lâm thổ sản quí, với cảnh thiên nhiên hùng vĩ v.v ...
Sách địa dư cịn được diễn Nơm thể song thất lục bát để người đọc dễ thuộc

dễ nhớ :


16

Tỉnh Bắc Giang Lạng Giang phủ cũ,
Chia tỉnh về một phủ một phân .
Chung quanh vừa tám
Phủ kiêm


huyện quân ,

Phất Lộc ở gần lâm

man .

Đã thống hạt Việt Yên Yên Dũng ,
Lại thống thành Phượng Nhãn Lục Ngàn .
Mảng sách về địa dư này , cơ bản lược thuật đủ , chỉ cịn

lại một số sách có

nội dung tương tự , hoặc là dị bản , hoặc có sự khác nhau , nhưng không đáng kể .
Mảng sách

thứ hai cũng khá tập

trung là Đăng khoa lục , ở đây , chép họ

tên , chức danh . quê quán , năm đỗ , tuổi đỗ , chức vụ nắm giữ ... của các Tiến sĩ qua
các đời , trong đó có những Tiến sĩ người Bắc Giang . Sự ghi chép giữa các sách
đăng khoa khơng thống nhất , có sách chép đủ , có sách chép thiếu , có sách viết
đúng , có sách có đơi chỗ cần phải khảo cứu tiếp ... Nhưng những sách đó bổ sung
cho nhau , ghi được khá đầy đủ những Tiến sĩ người Bắc Giang , qua các đời như :
Đào Sư Tích người Song Khê , Yên Dũng

Đào Xuân Lôi người Châu Lỗ ,

Hiệp Hồ . Thân Nhân Trung, Thân Nhân Tín , Thân Nhân Vũ , Thân Cảnh Vân .

Nguyễn Lễ Kính , Ngơ Văn Cảnh đều người n Ninh , Yên
Yên ) . Lê Đức Trung người Cổ Dũng , Yên Dũng . Nguyễn

Dũng (nay là Việt

Xuân Lan người Thời

Mại , Bảo Lộc . Nguyễn Văn Hiến người Yên Dũng, huyện Yên Dũng . Đào Thục
Viện người Song Khê , Yên Dũng . Đỗ Hoảng người Hoàng Mai , Yên Dũng. Ngọ
Doãn Thọ người Ngọ Xá , Việt Yên . Khổng Tư Trực người Đoan

Bái , Việt Yên .

Nguyễn Doãn Địch người Hoàng Vân , Hiệp Hoà . Giáp Hải , Giáp Lễ người Dĩnh
Kế, Phượng Nhãn . Hoàng Sầm người Thù Sơn , Hiệp Hồ . Ngơ Trang người Ninh
Định , Hiệp Hồ . Dỗn Đại Hiệu người n Dũng , huyện Yên Dũng. Đỗ Đồng
Diễn người Nhĩ Lý , Yên Dũng v.v ...
Mảng sách này về cơ bản cũng lược thuật đủ , chỉ còn lại một số là dị bản .
Sách viết về nhân vật Bắc Giang , tập trung ở hai nhân vật chính là Thân
Nhân Trung và Giáp Hải . Thân Nhân Trung là ở thơ văn (Thơ xướng hoạ trong
Hội Tao Đàn và lời bình các bài thơ xướng của Lê Thánh Tơng ), số này nằm rải
rác ở rất nhiều tập thơ văn khác nhau , như : Toàn Việt thi lục của Lê Q Đơn ,
Hồng Việt thi văn tuyển

của Bùi Huy Bích ... cịn

Giáp Hải thường là những

mẩu truyện về truyền thuyết và huyền thoại , cùng một số thơ văn . Ngồi ra , cịn
nhiều nhân vật khác cũng được đề cập tới , trong đó phải kể đến những nhân vật

trong dân gian , đó là gương tiết hạnh được vua ban , hay những người trung
quân ái quốc , những gương tiết liệt , v.v ... Tất nhiên là theo quan niệm

xưa , như :

Nguyễn Vân Lương , người xã Vân Lũng , huyện Lục Ngạn , có học thức , được gọi
là bậc chí hiếu . Dương Đình Tuấn người Yên Thế giúp vua Chiêu

Thống chạy


17

trốn , được nêu là danh thần . Thiếu giám sung Thống binh Hoàng Ngũ Phúc
người Phụng Pháp Yên Dũng , là một võ tướng . Thân Văn Quang người Phúc
Long , Yên Dũng , tước Ninh quận công ; Dương Quốc Cơ người Vân

Cốc , Yên

Dũng là Thượng tướng quân , Hiển quận công ; Nguyễn Trung Nghị người Quang
Biểu , Việt Yên , theo vua Lê đánh giặc lập nhiều công ; Nguyễn Hạnh

Thông

người Vân Cẩm , Việt Yên ; Vũ Chí Hanh người huyện Phượng Nhãn , hộ giá Lê
Chiêu Thống chạy trốn ; Hà Văn Tự người An Dương , Phượng Nhãn ; Nguyễn Tử
Hậu người Dĩnh

Trì , Phất Lộc , theo nhà Lê diệt phỉ , 3 cha con


đều bị chết ;

Nguyễn Tử Trường người Đông Nham , Phất Lộc làm Cai tổng v.v ... đều được coi
là bậc tiết nghĩa . Về gương Tiết phụ thì có : Hồng Thị Kinh người Phụng Pháp ,
Yên

Dũng , Vũ Thị Tứ người Mật Ninh , Yên Dũng , hai người đều được vua Tự

Đức khen : “Tiết phụ khả phong ” Nguyễn Thị Khiêm người Quang Biểu , Việt
Yên , vua Tự Đức ban tộc biểu . Hà Thị Biên người Thái Đào , Phượng Nhãn , được
vua Minh Mệnh ban cho 4 chữ “ Hà Thị trinh nữ ” ...
Mảng sách này có sự xuất nhập , thiếu đủ khác nhau , lần này cơ bản lược
thuật đủ , cũng có thể cịn sót một số , nhưng không nhiều .
Về tác giả là người Bắc Giang , ngoài Thân Nhân Trung với tác phẩm Thiên
Nam

dư hạ tập (100 quyển ) , Giáp Hải với Cổ kim

bang giao bị lãm

ra , cịn có cụ

nghè Nguyễn Đình Tn , người Mai Đình , Hiệp Hồ với Đại Việt quốc sử cải
biên ; Thân Nhân Tín , Thân Cảnh Vân , tác giả một số bài thơ , bài văn bia ... Chắc
rằng còn nữa , nhưng với tư liệu hiện sưu tầm

được thì mới biết được chừng ấy .

2.THƯ TỊCH CHUYÊN ĐỀ


Mảng sách chuyên đề như Địa bạ , Hương ước , Tục lệ , Thần tích , Thần sắc ,
Xã chí của các huyện trong tỉnh hiện không được đầy đủ , mỗi huyện chỉ có một
số xã , thơn :
-Sách Địa bạ , hiện có 66 đơn vị sách của 66 xã được thu thập , trong đó có
đơn vị sách của một số xã chép 2 bản địa bạ ở 2 thời điểm khác nhau , như : Địa
bạ xã Thọ Xương , 1 bản sao tháng 3 năm
20 tháng 10 năm

Gia Long thứ 4 ( 1805) , 1 bản sao ngày

Đồng Khánh thứ 3 ( 1888) ; hay địa bạ xã Da Sơn , tổng Thái Đào

(nay thuộc xã Hương Gián huyện Yên Dũng ) 1 bản sao tháng 3 năm
thứ 4 ( 1805) , 1 bản sao ngày 19 tháng 3 năm

Gia Long

Minh Mệnh thứ 21 (1840 ) v.v ...

Tuy chỉ là sự ghi chép , tập hợp , thống kê về ruộng đất (thổ canh , thổ cư , ao ,
vườn , ... thuộc đất công , đất tư ... ) , nhưng là những tư liệu quý giúp hiểu chế độ
ruộng đất , tình hình đất đai v.v ... của tỉnh nhà hồi cuối thế kỷ 19 đầu thế kỉ 20 .
-Sách Hương ước : Tại Thư viện

Viện Thông tin KHXH và Thư viện tỉnh

Bắc Giang hiện lưu trữ các bản Hương ước của tất cả các làng xã thuộc tỉnh Bắc


18


Giang , được biên chép bằng ba thứ chữ : Hán , Nôm , Quốc ngữ , soạn
năm

Khải Định

thứ 9 ( 1924 ) đến năm

vào những

Bảo Đại thứ 17 ( 1942 ) . Tuy lần này chỉ

lược thuật 18 bản của tỉnh Bắc Giang chép bằng chữ Hán , chữ Nôm , nhưng qua
đây cũng phần nào thấy được những nét sinh hoạt làng xã của các vùng khác
nhau trong tỉnh nhà trong những năm
-Sách

bị thực dân Pháp đô hộ .

Tục lệ : Hiện lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nơm , tỉnh

Bắc Giang chỉ có 55 bản trải ra một cách
Sách Tục lệ có niên đại sớm

không đồng đều trong địa bàn cả tỉnh .

hơn , nội dung phong phú hơn , không bị khuôn lại

trong một số điều như trong Hương ước . Nếu ở Hương ước phản ánh thực trạng
sinh hoạt ở hương thôn


thời kỳ bị thực dân Pháp cai trị , thì ở Tục lệ phản ánh

những tập tục , những luật lệ của nông thôn tỉnh

Bắc Giang thời cuối Lê đầu

Nguyễn .
-Sách Thần sắc : Hiện có 55 đơn vị sách chép thần

sắc của 55 xã với nhiều

sắc phong khác nhau , có niên đại từ đời Tây Sơn trở về trước . Ở đây , có nhiều sắc
phong được nhà vua ban vào khoảng đầu thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX , phản
ánh tục thờ thành hoàng làng cũng như đình đền miếu mạo trong tỉnh nhà thời
ấy khá phát triển , và những vị thành hoàng được thờ cũng nổi tiếng là “ linh
thiêng ” ...
-Sách Thần tích : Hiện có 51 bản , được chép lại hồi trước Cách mạng Tháng
Tám , trong đó có một số bản chép từ bản do Nguyễn

Bính soạn . Tuy thu thập

chưa nhiều , nhưng nội dung cũng khá phong phú . Mỗi thần
những chi tiết gắn

tích

thường có

với từng địa phương , phần lớn phản ánh những chiến


công

đánh giặc giữ nước giữ làng của những định tráng trong trang ấp do sự tập hợp ,
dẫn dắt của một vị thủ lĩnh tài ba , sau vị thủ lĩnh đó trở thành Thành hồng
làng . Hoặc đó là những vị thần Cao Sơn Q Minh âm

phù , hoặc là những vị có

cơng giúp vua Hùng dẹp giặc , hoặc những vị phò giúp nhà Lý , nhà Trần ... Đặc
biệt có bản chép về sự tích tổ nghề sành sứ của làng Thổ Hà , huyện Việt Yên .
-Sách Xã chí : Hiện
sách kê khai các điểm

chỉ có một tập ghi chép về huyện Hiệp Hồ . Đây là

di tích , vị trí , diện tích (có vẽ bản đồ ) ... của từng thơn làng

theo hàng tổng của huyện Hiệp Hồ , gồm đình đền , lăng tẩm , thần

tích , lễ hội ,

các đồ thờ , các biển đề có giá trị , các nhân vật đỗ đạt , quan chức trong triều v.v ...
Tập sách được biên soạn năm 1944 , cho biết khá đầy đủ diện mạo làng quê của
huyện Hiệp Hoà hồi trước Cách mạng Tháng Tám .

THƯ TỊCH HÁN NÔM

1.THƯ TỊCH HÁN NÔM
Số thư tịch này hiện nằm


TẠI ĐỊA PHƯƠNG

CỦA NGƯỜI KINH
rải rác ở các địa phương trong tỉnh , nhưng được

các tư gia bảo vệ khá chu đáo , tiếp cận cũng dễ dàng . Ở đây có những sách , tài


19

liệu quý , góp thêm

tiếng nói cho việc nghiên cứu lịch sử địa phương nói riêng ,

của cả nước nói chung . Đó là những gia phả của các dịng họ nổi tiếng như
phả họ Giáp ở Dĩnh

gia

Kế có Trạng nguyên Giáp Hải . Tiến sĩ Giáp Lễ : gia phả họ

Phạm ở Xuân Hương , Lạng Giang, dòng họ Phạm Văn Liêu là một trong những
khai quốc công thần của Lê Lợi . Đó là những tài liệu cũng ở địa điểm

trên , ghi

chép về các tướng lĩnh của Lê Lợi hồi kháng chiến chống quân Minh , có những
tình tiết chưa thấy ghi lại ở sử sách . Đó là những chiếu chỉ , lệnh chỉ . lệnh dụ vua
ban cho người có cơng với nước, với dân v.v ...

Thư tịch ghi chép về lễ hội , tục thờ thành hoàng ... trước đây ở bất cứ làng
quê nào cũng có , nhưng nay cịn lại rất ít . Tuy là những bài văn tế thành hoàng ,
bài khấn cầu đảo , bài tế hạ điền , tế thượng điền , tế đón dâu , tế xướng ca nhập
tịch ... theo một quy cách chung , nhưng trong đó có những điều gắn

rất chặt với

từng địa phương . Đó là những lời cầu mong cho mưa thuận gió hồ , dân khang
vật thịnh . Đó là những lời giao ước với nhau sao cho trong ấm

ngoài êm ...

Về ván khắc ở Bắc Giang hiện cũng lưu giữ được khá nhiều , chứng tỏ
trước đây việc khắc ván in cũng khá phát triển , tập trung ở hai trung tâm Phật
giáo vào loại lớn nhất nước , đó là chùa Bổ Đà (Việt Yên ) và chùa Vĩnh Nghiêm
(Yên Dũng ). Tại chùa Bổ Đà hiện còn lưu giữ được trên 50 bộ ván khắc in kinh
Phật nói chung , mỗi bộ gồm nhiều quyển . Tại chùa Vĩnh Nghiêm , một trung tâm
Phật giáo lớn của

phái Trúc Lâm đời Trần tổ chức khắc in nhiều

bộ kinh của

thiền phái này , hiện còn lưu giữ được 30 bộ , trong đó có những bộ có những tình
tiết liên quan với dịa phương như Yên Tử nhật trình , Thiền tịch phú , Thần du
phương ký , v.v ...

2.THƯ TỊCH HÁN NƠM CỦA CÁC DÂN TỘC ÍT NGƯỜI

Nguồn thư


tịch này , mới chỉ bước đầu sưu tầm , khảo sát tại ba huyện Lục

Ngạn , Sơn Động . Yên Thế đã thu thập được kết quả đáng kể . Đó là những sách
của dân tộc Sán

Chí , Cao Lan và Sán Dìu ở huyện Lục Ngạn ; sách của dân tộc

Cao Lan ở Yên Thế, Sơn Động . Nội dung của những sách này cũng khá phong
phú . Ở đấy người ta chép những bài dân ca mà mỗi bài thường có những lời ca
ngợi cảnh đẹp của quê hương làng bản mình . Riêng những bài dân ca của người
Sán Chí xã Kiên Lao , huyện Lục Ngạn cũng đã có tới trên một nghìn bài . Ư đấy
là những sách Gia huấn , có nội dung giáo dục con cháu thảo hiền với ông bà , cha
me.

đấy là những sách cúng, sách xem ngày giờ tốt xấu cho việc dựng vợ gả

chồng , ngày đầu năm lên

nương làm rẫy , vào rừng săn bắn , hái lượm . Ở đấy là

những bài kinh được cúng trong một vụ việc cụ thể. Thày cúng , thày mo có thể
đọc , có thể hát từng bài hợp với gia cảnh từng người , như gia đình có việc tang :


20

Người đàn bà có con rồi mà qua đời , thì thày cúng đọc bài “ Hồi thai kinh tụng
thai thử dụng ” kể ơn mẹ khi mang thai đứa con trong bụng . Bài này kể công ơn
người mẹ khi mang thai từ tháng thứ 1 đến tháng thứ 10 , rồi lúc đẻ con , nuôi con

khôn lớn ... với biết bao gian lao cực nhọc ... nhằm giáo dục lịng hiếu thảo cho con
cái . Cũng có khi người mẹ thuộc kinh này để hát ru con .
Nhìn chung thư tịch của các dân tộc ít người ở Bắc Giang chủ yếu chép
các bài hát dân ca. Đây là những bài hát giao duyên , truyền từ đời này sang đời
khác , có nội dung tỏ tình giữa những đôi trai gái :

Vừa đến dây với em ,
Không biết bản em ở bên suối .
Mới đến đây khơng biết lịng em ,
Biết lịng em

đã tìm đến sớm .

(Dân ca Sán Chí xã Kiên Lao , huyện Lục Ngạn )
Và những bài ca ngợi cảnh đẹp thiên nhiên , tình cảm của người ở làng
bản này với người ở làng bản khác :

Khách đến dây với anh ,
Trước khi đón khách , ngựa khách hí .
Trước khi đón khách , trải chiếu chờ ,
Không để bùn dây vào chân khách .

(Dân ca Sản Chí xã Kiên Lao , huyện Lục Ngạn ).

II.VĂN KHẮC

1.VĂN BIA
Tồn tỉnh hiện có 1.298 thác bản văn bia , trong đó có 31 thác bản khắc
trên


chuông đồng , khánh đồng ; 11 thác bản khắc trên biển gỗ , cột gỗ ; số còn lại

đều được khắc trên đá (bia đá , cột đá , sập đá , cây hương đá , bài vị đá ... , hiện lưu
trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nơm . Có được số thác bản trên là nhờ vào
2 đợt sưu tầm

in rập thác bản :

-Trước Cách mạng Tháng Tám , Trường Viễn Đông Bác Cổ in rập được 584
thác bản từ bia đá , cây hương .
Trong thời kỳ này cũng có những đợt sưu tầm khác nhau : Thác bản sưu
tầm , in rập đợt dầu thường có niên đại sớm , phần lớn từ thời Cảnh Hưng trở về
trước , thác bản sưu tầm , in rập đợt sau có niên đại muộn hơn . Như ngồi những
văn khắc có niên đại sớm cịn in rập những văn khắc có niên đại muộn , từ thời
Tây Sơn trở về sau . Riêng huyện Hiệp Hoà được sưu tầm vào những năm 1940
đến khoảng năm

1944 của thế kỉ XX . Sở dĩ nói như vậy vì hiện có khá nhiều thác


21

bản được in rập có niên đại muộn , như tại đình thơn Bảo Mãn , xã Tân Mãn (nay
xã Đại Thành) có Hậu thần bi kí (N20259 ), tạo năm Bảo Đại 8 [ 1933 ]; và Hậu
thần bị kí (N20254 ), tạo năm Bảo Đại 10 [ 1935 ] . V.v ...
-Các năm 1994, 1995 , Viện Nghiên cứu Hán Nôm

in rập được 711 thác bản

từ bia đá , cột đá , khánh đá , cây hương đá , sập đá , bài vị đá , chuông đồng , khánh

đồng , cột gỗ , biển gỗ .
Trong lần sưu

tầm , in rập này , đã thu thập hầu hết số văn khắc hiện cịn

trong địa bàn tồn tỉnh , trong đó tuyệt đại đa số có niên đại thuộc triều Nguyễn .
Song cũng in rập dược khơng ít những thác bản có niên đại sớm

mà lần sưu tầm

hồi trước Cách mạng Tháng Tám chưa thu thập được .
Về phân bố , nhìn chung phân bố đều trong tồn tỉnh , nhưng về mật độ thì
có chênh lệch , có huyện

nhiều , huyện ít ; nhiều : Hiệp Hồ , Việt Yên , Yên Dũng ;

ít : Các huyện miền núi Lục Nam , Lục Ngạn , Yên Thế. Lại trong mỗi huyện , sự
phân bố giữa các xã , thơn cũng khơng đồng đều . Có xã , thơn khơng có đơn vị văn
khắc nào , trái lại có xã , thơn mật độ văn khắc rất cao , như tại huyện Việt Yên ,
xã Ninh Sơn 25 thác bản , xã Vân Trung 60 thác bản , xã Vân Hà có tới 154 thác
bản ( trong đó thôn Thổ Hà 32 thác bản , thôn Yên Viên 122 thác bản , riêng chùa
Diên Phúc của Yên Viện có tới 100 thác bản ); hay tại huyện Hiệp Hồ , xã Bắc Lý
chỉ có 2 thác bản , còn xã Xuân Cẩm 22 thác bản , xã Mai Đình 108 thác bản v.v ...
Về niên đại , văn bia Bắc Giang có niên đại sớm mới chỉ thấy một tấm
đời Trần do Nguyễn
Nham , xã Tân

Văn Phong vừa phát hiện

bia


ở chùa hang Trầm , thôn Liễu

Liễu , huyện Yên Dũng , khắc khoảng năm

Đinh Mão , niên

hiệu

Xương Phù nhà Trần ( 1387 ) , nói về việc xây cất ngôi chùa của một nhà sư thuộc
phái Trúc Lâm

(chưa tập hợp vào sưu tập này ) . Ngoài tấm bia trên , phải kể đến

2 tấm bia có niên

đại thế kỉ XVI : Tấm

bia hộp (mộ chí) , mới phát hiện tại xã

Dĩnh Trì , Lạng Giang : Tiên khảo Thái bảo Giáp phủ quân mộ chí (N34786-87) ,
khắc năm Cảnh Lịch thứ 2 ( 1549) cho mặt chính ; năm Diên Thành thứ 4 ( 1581 )
cho nắp bia , nói về người cha của Giáp Hải là Khánh Sơn tiên sinh . Và tấm

bia

dựng tại chợ xã Cảnh Thụy , huyện Yên Dũng : Tu phục Mỗi Nhu kiều bi minh
(N10234 ) , tạo năm

Diên Thành thứ 3 ( 1580 ) , nói về việc tu sửa cầu Mỗi Nhu . Số


cịn lại đều có niên đại từ thế kỉ XVII trở về sau .
Ở trên là 3
Cịn

thác bản văn bia có niên đại sớm nhất tại tỉnh

văn bia có niên

nhà hiện biết .

đại muộn nhất là Vi lập bi kí (N31262 ) , dựng tại thơn

Trung Đồng , xã Vân Trung , tạo năm Việt Nam

Dân

chủ Cộng hoà 2 ( 1947) , về

một bà giữa đường dứt gánh , khơng có con thờ cúng nên gửi giỗ vào dình với 600
đồng và hơn

1 mẫu

7 sào

ruộng , và thác

bản chng Sùng


Tích

tự

chung

(N34727 /abcd ) , tại chùa Sùng Tích , cụm Tiền Giang 2 , phường Lê Lợi, thị xã
Bắc Giang , tạo năm
năm

Qúi Dậu , kê tên vị tín chủ cúng 5 triệu đồng , nên đốn đó là

Qui Dậu 1993 ( ? ) .


×