257
Chương V
XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN
T
ổ chức toàn dân, vũ trang toàn dân, xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân là một trong những nội dung
cơ bản trong đường lối quân sự của Đảng. Trong chiến tranh,
quân sự là việc chủ chốt. Chiến tranh càng phát triển thì lực
lượng quân sự và đấu tranh quân sự càng trở nên quan trọng,
vì nó giữ vị trí quyết định trong việc tiêu diệt lực lượng quân sự
của đối phương, làm thất bại mọi âm mưu quân sự, và thông
qua đó làm thất bại những âm mưu chính trị của đối phương.
Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vũ
trang quần chúng và xây dựng quân đội thường trực kiểu
mới của giai cấp vô sản, kế thừa và phát huy truyền thống
quân sự của dân tộc, trong quá trình lãnh đạo nhân dân tiến
hành khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng, Đảng
chủ trương động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, xây dựng
lực lượng vũ trang với những hình thức tổ chức thích hợp. Đó
là hình thức tổ chức lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ
qn làm nịng cốt cho tồn dân đánh giặc. Hình thức đó thể
hiện đường lối vũ trang quần chúng cách mạng đi đôi với xây
dựng quân đội nhân dân. Đảng luôn chú trọng xây dựng lực
258
ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
lượng vũ trang ba thứ quân và chế độ động viên toàn dân
tham gia lực lượng vũ trang.
I- TỔ CHỨC LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN
Để tiến hành thắng lợi khởi nghĩa toàn dân và chiến
tranh nhân dân, “đi đôi với việc tuyên truyền, giác ngộ và tổ
chức nhân dân, xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng,
coi đó là điều cơ bản nhất trong mọi thời kỳ của đấu tranh
cách mạng”, Đảng rất chú trọng “xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân, giải quyết tốt vấn đề tổ chức quân sự, coi đó
là điều kiện rất cơ bản”1.
1. Vũ trang quần chúng cách mạng đi đôi với xây
dựng quân đội nhân dân
Trong lãnh đạo khởi nghĩa và chiến tranh, Đảng chủ
trương động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, đồng thời xây
dựng lực lượng vũ trang với những hình thức tổ chức thích
hợp trong từng hồn cảnh lịch sử cụ thể làm nòng cốt.
Lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam từ Nhân dân mà
ra, vì Nhân dân mà chiến đấu. Nó là cơng cụ chủ yếu để tiến
hành đấu tranh vũ trang giành và bảo vệ chính quyền nhân
dân, bảo vệ mọi thành quả cách mạng, chống mọi kẻ thù của
giai cấp công nhân và của dân tộc.
Trong lịch sử cách mạng Việt Nam, sự phát triển của lực
lượng vũ trang nhân dân gắn liền với sự phát triển của
____________
1. Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tổng tập luận văn, Sđd, tr. 1272.
Chương V: XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN
259
phong trào cách mạng, từ đấu tranh chính trị lên đấu tranh
vũ trang, từ tổ chức chính trị lên tổ chức vũ trang. Đảng căn
cứ vào yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng từng thời kỳ, trên cơ
sở phong trào chính trị rộng lớn của quần chúng, chủ yếu là
của công nông, lựa chọn những người trung kiên để tổ chức
lực lượng vũ trang cách mạng.
C. Mác và Ph. Ăngghen là những người đầu tiên nêu
khẩu hiệu vũ trang cho giai cấp công nhân để đập tan quân
đội thường trực của giai cấp tư sản, giành lấy chính quyền.
Con đường đấu tranh của giai cấp vô sản là con đường dùng
bạo lực cách mạng đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp tư
sản, lập nên nhà nước chun chính vơ sản. C. Mác và
Ph. Ăngghen đã làm nổi bật sức mạnh vĩ đại của giai cấp vô
sản và nhân dân vũ trang. C. Mác và Ph. Ăngghen nêu luận
điểm: Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, quân đội
thường trực của giai cấp tư sản phải được thay thế bằng
nhân dân vũ trang, bằng lực lượng dân cảnh xã hội chủ
nghĩa. Đó là con đường tạo nên một tổ chức quân sự hoàn
toàn mới, sinh ra từ cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt để
phục vụ cho lợi ích của giai cấp vô sản và nhân dân lao động.
Kế thừa và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác về tổ
chức quân sự của giai cấp vô sản trong điều kiện lịch sử mới,
V.I. Lênin nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của việc vũ
trang giai cấp vô sản, đồng thời nêu luận điểm về sự cần
thiết phải xây dựng một quân đội thường trực kiểu mới của
nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, ngay từ khi mới ra đời,
260
ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
Đảng chủ trương vũ trang quần chúng công nông, nêu lên sự
cần thiết phải “tổ chức đội tự vệ công nông để chống lại
khủng bố trong lúc tranh đấu”1. Và chủ trương sau khi giành
được chính quyền sẽ thành lập “quân đội công nông”. Trong
Nghị quyết về đội tự vệ, Đại hội lần thứ I của Đảng (tháng
3/1935) nhấn mạnh:
“a) Nếu không huấn luyện quần chúng về đường quân sự;
b) Nếu không sớm dự liệu dự bị võ trang quần chúng thì
cách mạng khơng thành cơng được”2.
Đại hội khẳng định lại vai trò quan trọng của việc thành
lập đội tự vệ công nông. Đại hội chỉ rõ: “Tự vệ đội càng
mạnh thì tức là có điều kiện thuận tiện để sau này tổ chức
du kích chiến tranh, võ trang bạo động”3. Đại hội chủ trương
thành lập “Đội tự vệ cơng nơng thường trực”, một tổ chức
“có tính chất bán quân sự” để cùng quần chúng “chuẩn bị
những điều kiện cần thiết sau này, sẽ hóa thành những bộ
phận tiên tiến, chỉ huy trong các du kích đội trong cuộc võ
trang bạo động cướp chính quyền, trong Hồng quân của Nhà
nước công nông”4.
Trong thời kỳ trực tiếp chuẩn bị khởi nghĩa giành chính
quyền (1940 - 1945) qua kinh nghiệm thực tiễn của các cuộc
khởi nghĩa Bắc Sơn và Nam Kỳ, Đảng phát hiện ra quy luật
của khởi nghĩa vũ trang ở Việt Nam. Đó là ở một nước thuộc
địa, nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, khởi nghĩa vũ trang
____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 103.
2, 3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd,
t. 5, tr. 93, 92, 140.
Chương V: XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN
261
phải bắt đầu từ khởi nghĩa từng phần và chiến tranh du kích
ở nơng thơn trong những điều kiện nhất định, để mở đường
tiến lên tổng khởi nghĩa ở cả nông thơn và thành thị khi có
thời cơ thuận lợi. Bởi vậy, đi đơi với chủ trương xây dựng lực
lượng chính trị quần chúng ở cả nông thôn và thành thị,
Đảng chủ trương thành lập các đội du kích chính thức ở
những nơi có điều kiện để cùng tồn dân đẩy mạnh công cuộc
chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, phát động tổng khởi nghĩa khi
điều kiện chín muồi.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng
11/1940 quyết định duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn, tiền
thân của các đơn vị Cứu quốc quân. Hội nghị lần thứ tám
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 5/1941) chủ trương
“tổ chức Việt Nam nhân dân cách mạng quân và võ trang
dân chúng”1. Cuối năm 1944, Hồ Chí Minh ra chỉ thị thành
lập Đội Việt Nam Tun truyền giải phóng qn.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Tên ĐỘI VIỆT NAM TUYÊN
TRUYỀN GIẢI PHÓNG QUÂN nghĩa là chính trị trọng hơn
qn sự”2. “Vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến của
toàn dân cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, cho
nên trong khi tập hợp lực lượng để lập một đội quân đầu tiên
cần phải duy trì lực lượng vũ trang trong các địa phương cùng
phối hợp và giúp đỡ về mọi phương diện. Đội quân chủ lực trái
lại có nhiệm vụ dìu dắt các đội vũ trang của các địa phương,
giúp đỡ huấn luyện, giúp đỡ vũ khí nếu có thể được, làm cho
____________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng tồn tập, Sđd, t. 7, tr. 150.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 539.
262
ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
các đội này trưởng thành mãi mãi”1. Đến đây, quan điểm vũ
trang quần chúng và xây dựng quân đội cách mạng của Đảng
có bước phát triển mới: đi đơi với việc đẩy mạnh xây dựng lực
lượng chính trị, Đảng chủ trương trên cơ sở lực lượng chính trị
mà vũ trang quần chúng song song với xây dựng quân đội cách
mạng. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (ngày 09/3/1945), Việt
Nam giải phóng quân được thành lập (tháng 5/1945).
Trong giai đoạn tiền khởi nghĩa (khởi nghĩa từng phần
và chiến tranh du kích cục bộ) cũng như trong Tổng khởi
nghĩa Tháng Tám, mặc dù mức độ ở từng địa phương khác
nhau, nhưng Đảng đã sử dụng cả lực lượng chính trị và lực
lượng vũ trang, cả lực lượng vũ trang quần chúng và lực
lượng quân đội cách mạng để giành chính quyền địa phương
cũng như chính quyền tồn quốc. Trong Cách mạng Tháng
Tám, lực lượng chính trị của Nhân dân gồm đơng đảo quần
chúng cách mạng khơng vũ trang và có vũ trang là lực
lượng chủ yếu quyết định thành công của cách mạng; Việt
Nam Giải phóng quân và các đội du kích địa phương đóng
vai trị rất quan trọng.
Sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, quán triệt
quan điểm của V.I. Lênin về xây dựng quân đội thường trực
kiểu mới của nhà nước xã hội chủ nghĩa, Đảng nhanh chóng
phát triển và củng cố Việt Nam giải phóng quân, đổi tên
thành Vệ quốc đoàn, về sau là Quân đội quốc gia và từ năm
1950 lấy tên là Quân đội nhân dân Việt Nam.
____________
1. Hồ Chí Minh: Chiến tranh nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội
nhân dân, Hà Nội, 1980, tr. 82.
Chương V: XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN
263
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đi đôi với việc tăng
cường xây dựng quân đội thường trực của Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa bao gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương,
Đảng hết sức coi trọng việc củng cố và phát triển dân quân tự
vệ, lực lượng của đơng đảo quần chúng được vũ trang thường
xun và có tổ chức ở cơ sở, khơng thốt ly sản xuất.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc, miền
Bắc được hồn tồn giải phóng, trước u cầu của tình hình
mới, Đảng đề ra phương châm xây dựng một quân đội nhân
dân hùng mạnh tiến lên chính quy và hiện đại, đồng thời tiếp
tục nêu cao vai trò chiến lược của dân quân tự vệ và của toàn
dân trong việc củng cố quốc phòng và tiến hành chiến tranh
nhân dân.
Quân đội Việt Nam là quân đội của Nhân dân, từ Nhân
dân mà ra, quân đội cách mạng của giai cấp vô sản. Bởi vậy,
vấn đề giữ vững và tăng cường bản chất cách mạng của quân
đội phải được coi là yêu cầu cơ bản nhất và đặt lên vị trí hàng
đầu. Trên cơ sở đó phải ra sức thực hiện chính quy hóa và
hiện đại hóa quân đội mới. Ra đời trong hồn cảnh đất nước
đang chịu ách đơ hộ của thực dân Pháp và là một nước nông
nghiệp lạc hậu, Quân đội nhân dân Việt Nam đã được xây
dựng từ nhỏ đến lớn, từ yếu đến mạnh.
Trong điều kiện so sánh lực lượng về kinh tế và qn sự
khơng có lợi cho cách mạng, đường lối đấu tranh của Đảng là
phát động chiến tranh du kích, lợi dụng tính chất phân tán
và khả năng cách mạng của nông thôn mà tổ chức căn cứ địa
ở nông thôn để bao vây quân xâm lược Pháp ở thành thị. Do
đó quân đội Việt Nam trong một thời gian khá dài bao gồm
264
ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
những đơn vị du kích chiến đấu trên những địa phương phân
tán. Các đơn vị đó dần dần được tập trung lại, trang bị được
cải thiện do lấy được vũ khí của quân Pháp, căn cứ địa dần
dần được mở rộng, hình thức tác chiến tiến dần từ du kích
chiến lên vận động chiến. Tuy nhiên, một lực lượng vũ trang
mang nặng tính chất du kích khơng đủ để đáp ứng nhu cầu
của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hịa bình. Vì vậy, phải
xây dựng qn đội tiến từng bước lên chính quy và hiện đại.
Theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Hình thức tổ chức
quân sự của nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước dân chủ
nhân dân, hình thức tổ chức có khả năng phát huy cao nhất
sức mạnh chiến đấu của nhân dân, của chế độ mới là kết hợp
xây dựng một quân đội cách mạng chính quy, hiện đại với
việc vũ trang quần chúng cách mạng mạnh mẽ và rộng khắp.
Quần chúng vũ trang và quân đội cách mạng là hai thành
phần của lực lượng vũ trang của nhà nước, trong đó quân đội
thường trực là lực lượng nòng cốt, quần chúng vũ trang là lực
lượng rộng rãi. Cho nên phải chú trọng xây dựng quân đội
đồng thời phát triển lực lượng quần chúng vũ trang”1.
Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, trong hoàn cảnh chiến
tranh du kích, Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ thống nhất về
nhiệm vụ và đường lối chính trị, thống nhất về tư tưởng chiến
lược chiến thuật, còn về tổ chức biên chế, về trang bị, về huấn
luyện... đều khơng thống nhất đến một hạn độ nào. Trong tình
hình mới của miền Bắc sau ngày giải phóng, phải đưa quân đội
tiến lên chính quy, phải thống nhất về mọi mặt, về trang bị và
____________
1. Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tổng tập luận văn, Sđd, tr. 1204.
Chương V: XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN
265
biên chế, huấn luyện... Toàn quân đều phải triệt để chấp hành
những điều lệnh thống nhất. “Có thống nhất những mặt đó
thì khi tác chiến mới thực hiện được chỉ huy thống nhất, mới
tổ chức được các đơn vị và các binh chủng hợp đồng tác chiến
chặt chẽ”1. Nếu khơng thì trong chiến tranh hiện đại sẽ gặp
nhiều trở ngại lớn và khơng thể giành được thắng lợi. Bởi
vậy, chính quy hóa là thực hiện sự thống nhất quân đội về
mặt tổ chức, dựa trên những chế độ điều lệnh quy định nhằm
đưa toàn bộ hoạt động của quân đội vào nền nếp thống nhất,
nâng cao tính tổ chức kỷ luật, tính tập trung, tính khoa học,
đạt đến hành động kiên quyết và nhất trí, đến sự phối hợp
chặt chẽ và chuẩn xác giữa mọi bộ phận của quân đội trong
chiến tranh. Đó là bước đi tất yếu của mọi quân đội khi mà tổ
chức của nó đã phát triển đến một trình độ hồn chỉnh nhất
định. Hồ Chí Minh nói: “Phải học tập kỹ thuật vì kỹ thuật
ngày càng tiến bộ, mình cũng phải học để tiến bộ. Muốn cho
bộ đội ta hùng mạnh, và nhất định bộ đội ta phải hùng
mạnh, chúng ta phải cố gắng học tập chính trị và kỹ thuật
để tiến lên chính quy”2.
Tuy nhiên, chính quy hóa của quân đội cách mạng khác
hẳn với quân đội của các giai cấp bóc lột về mục đích, nội dung
cũng như phương pháp tiến hành. Việc xây dựng chính quy
qn đội của giai cấp bóc lột nhằm phục vụ cho mục đích
____________
1. Tổng cục chính trị, Cục Tuyên huấn: Tồn dân chăm lo lực lượng
phịng thủ đất nước, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1958, tr. 32.
2. Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh: Bàn về chiến tranh
nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà
Nội, 1966, tr. 254.
266
ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
chính trị phản động. Trái lại, việc xây dựng chính quy của
quân đội cách mạng nhằm phục vụ những mục tiêu chính trị
cao cả của cách mạng, mọi chế độ, điều lệnh của nó đều phản
ánh bản chất cách mạng, những nguyên tắc xây dựng tốt đẹp
của quân đội kiểu mới; dựa trên sự giác ngộ chính trị, ý thức
kỷ luật tự giác, tinh thần chủ động sáng tạo của cán bộ, chiến
sĩ để bảo đảm việc nghiêm chỉnh chấp hành. Chính vì xây
dựng chính quy của qn đội cách mạng dựa trên cơ sở chính
trị hết sức vững chắc nên nó có sức mạnh hơn hẳn so với qn
đội của giai cấp bóc lột. Trong q trình đẩy mạnh chính quy
hóa, phải giải quyết thật tốt mối quan hệ giữa tập trung và
dân chủ, giữa lãnh đạo của đảng ủy và vai trò của thủ trưởng,
quan hệ đoàn kết giữa cán bộ và chiến sĩ, giữa cấp trên và cấp
dưới; phải kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng và công tác tổ
chức; gắn chặt việc giáo dục, thuyết phục với việc rèn luyện,
quản lý nghiêm khắc; kết hợp nâng cao tính tự giác với yêu
cầu phải làm, tiến hành thưởng phạt nghiêm minh. Phát huy
tinh thần trách nhiệm, ý thức làm chủ tập thể của mọi cán bộ
và chiến sĩ đối với việc quản lý kỷ luật, chấp hành chế độ, điều
lệnh, điều lệ. Trong vấn đề này, vai trị gương mẫu và trình độ
tổ chức, quản lý của cán bộ có một ý nghĩa rất quan trọng.
Cùng với chính quy hóa, phải hiện đại hóa quân đội. Trong
thời gian đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,
trang bị của quân đội còn kém cỏi, lại là một quân đội thuần bộ
binh, lấy du kích chiến làm chính, vận động chiến là phù trợ.
Trong giai đoạn 1950 - 1954 và nhất là thời kỳ 1954 - 1975,
Quân đội nhân dân Việt Nam tiến dần từ một quân đội thuần
bộ binh đến một quân đội bao gồm nhiều binh chủng. Hiện đại
Chương V: XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN
267
hóa quân đội là không ngừng đổi mới trang thiết bị kỹ thuật,
nâng cao trình độ sử dụng những vũ khí và phương tiện chiến
tranh hiện đại cho cán bộ và chiến sĩ; là xây dựng hệ thống
cơng nghiệp quốc phịng hiện đại, mở rộng hệ thống giao thông
hiện đại nhằm bảo đảm cho quân đội hoạt động trong điều
kiện chiến tranh hiện đại. Hiện đại hóa là một yêu cầu phát
triển có tính quy luật của việc nâng cao sức mạnh chiến đấu
của quân đội trong điều kiện nền kinh tế ngày càng phát triển,
có sự viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện
kinh tế thị trường, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, khi Việt Nam đã và đang hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại, trong
đó có đối ngoại quốc phịng; khi nền khoa học - công nghệ thế
giới đang phát triển đến trình độ rất cao và khơng ngừng đưa
lại những thay đổi to lớn và nhanh chóng trong trang bị kỹ
thuật của quân đội ở các nước tiên tiến, Việt Nam có điều kiện
mua những trang bị, vũ khí hiện đại để hiện đại hóa quân đội.
“Bộ đội có chất lượng là bộ đội có tinh thần chiến đấu cao,
tổ chức thích hợp, được huấn luyện quân sự và giáo dục chính
trị tốt, cán bộ có trách nhiệm và có kinh nghiệm, biết cách
đánh giặc, được trang bị tốt”1. Giáo dục chính trị và huấn
luyện quân sự là nội dung chủ yếu của công cuộc xây dựng
quân đội. Trong đó, vấn đề đào tạo và bồi dưỡng cán bộ là
trung tâm vì “cán bộ quyết định tất cả”, muốn có một qn đội
cách mạng chính quy và hiện đại thì trước hết phải có những
cán bộ có trình độ tư tưởng vững, được rèn luyện theo nền nếp
____________
1. Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tổng tập luận văn, Sđd, tr. 712.
268
ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
và tác phong chính quy, nắm vững chiến thuật và kỹ thuật
hiện đại. Chính quy hóa và hiện đại hóa qn đội là một cơng
cuộc to lớn và lâu dài, đòi hỏi sự cố gắng liên tục và tích cực.
Đường lối vũ trang quần chúng cách mạng đi đôi với xây
dựng quân đội nhân dân của Đảng luôn có sự phát triển, với
phương hướng rõ rệt, cụ thể. Nhờ quán triệt đường lối đó, lực
lượng vũ trang nhân dân Việt Nam không ngừng lớn mạnh
cả về số lượng và chất lượng, bao gồm một lực lượng dân
quân tự vệ mạnh mẽ, rộng khắp và một quân đội nhân dân
hùng mạnh có nhiều binh chủng và quân chủng; đủ sức hoàn
thành nhiệm vụ trong chiến tranh hiện đại.
Trong quá trình xây dựng lực lượng vũ trang quần chúng
và xây dựng quân đội nhân dân, Đảng luôn quan tâm đấu
tranh khắc phục những khuynh hướng lệch lạc, phiến diện
như coi trọng chủ lực, xem nhẹ dân quân; khi thì nhấn mạnh
một chiều việc xây dựng quân đội thường trực, coi nhẹ vai trị
của qn dân tự vệ và của tồn dân trong chiến tranh hiện
đại, khi thì chỉ coi trọng chính quy hóa và hiện đại hóa, coi nhẹ
việc giữ vững và tăng cường bản chất cách mạng của quân đội,
gây trở ngại cho sự lớn mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân.
Trong đường lối xây dựng lực lượng của chiến tranh nhân
dân, Đảng đã nắm vững và phát triển quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin về vũ trang quần chúng và xây dựng quân
đội thường trực, thực hiện vũ trang rộng rãi quần chúng cách
mạng đi đôi với xây dựng quân đội nhân dân trước khi giành
chính quyền cũng như sau khi đã có cơ cấu của một quốc gia
độc lập, khi quân đội nhân dân còn non trẻ cũng như khi nó
đã trưởng thành, lớn mạnh, tiến lên chính quy và hiện đại.
Chương V: XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN
269
“Quân đội nhân dân có những ưu thế mà lực lượng vũ
trang quần chúng khơng có. Đó là lực lượng có tổ chức chặt
chẽ, có kỷ luật nghiêm minh, được huấn luyện kỹ càng, trang
bị kỹ thuật tương đối phát triển, chỉ huy và lãnh đạo tập
trung thống nhất, có khả năng chiến đấu lớn, có trình độ sẵn
sàng chiến đấu cao. Lực lượng vũ trang quần chúng có những
ưu thế mà qn đội khơng có. Đó là lực lượng vũ trang kết hợp
chặt chẽ nhất với đông đảo nhân dân, trực tiếp phát huy sức
mạnh to lớn của quần chúng, sử dụng được nhiều thứ vũ khí,
vận dụng được nhiều cách đánh ở mọi nơi và trong mọi lúc”1.
2. Tổ chức lực lượng ba thứ quân
Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vũ
trang quần chúng và xây dựng quân đội thường trực kiểu
mới của giai cấp vô sản, kế thừa và phát huy truyền thống
quân sự của dân tộc, trong quá trình lãnh đạo Nhân dân tiến
hành khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng, Đảng
ln chủ trương động viên tồn dân, vũ trang tồn dân, xác
định cơ cấu tổ chức lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam
gồm ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân
quân tự vệ làm nịng cốt cho tồn dân đánh giặc. Đó là hình
thức tổ chức kết hợp lực lượng nòng cốt với lực lượng rộng
rãi, kết hợp lực lượng cơ động với lực lượng tại chỗ của cả
nước và của từng địa phương.
Mỗi thứ quân trong các lực lượng vũ trang nhân dân đều
giữ một vai trò nhất định trong chiến tranh. Do đặc điểm về
____________
1. Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tổng tập luận văn, Sđd, tr. 1273.
270
ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
tổ chức, trang bị và địa bàn hoạt động, mỗi thứ qn có
nhiệm vụ và vai trị cụ thể khác nhau.
Dân quân tự vệ là “lực lượng quần chúng, một thành
phần của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, có chức
năng vừa lao động sản xuất vừa chiến đấu và sẵn sàng chiến
đấu kết hợp với lực lượng an ninh cơ sở giữ gìn trật tự xã hội,
an ninh chính trị tại địa phương; là lực lượng chiến lược của
chiến tranh nhân dân, làm nòng cốt cho phong trào toàn dân
đánh giặc tại địa phương”1. Dân quân tự vệ luôn giữ một vai
____________
1. Dân quân tự vệ được tổ chức theo yêu cầu, nhiệm vụ của đấu tranh
cách mạng, kháng chiến, xây dựng và bảo vệ đất nước. Dân quân tự vệ do
cấp ủy đảng, chính quyền địa phương trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, người chỉ
huy quân sự tại địa phương trực tiếp chỉ huy. Dân quân tự vệ hình thành từ
các đội tự vệ trong phong trào cách mạng Việt Nam 1930 - 1931 ở Nghệ Tĩnh. Từ năm 1940, những đội viên ưu tú trong các đội tự vệ được lựa chọn
lập thành những tiểu tổ du kích cứu quốc và các đội du kích. Từ ngày
19/02/1947, theo Thơng tư số 33/TL của Bộ Quốc phịng, tự vệ và du kích
được gọi thống nhất là dân quân, gồm hai thành phần: dân quân tự vệ và du
kích địa phương. Từ ngày 07/4/1949, du kích địa phương chuyển thành bộ
đội địa phương theo Sắc lệnh số 103/SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà; dân quân tự vệ, về mặt pháp lý, trở thành một trong ba
thứ quân của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Dân quân được tổ chức
ở nông thôn, tự vệ được tổ chức ở thành thị, cơ quan, xí nghiệp, cơng trường,
nơng trường; thường là trung đội, đại đội (có nơi tổ chức tiểu đồn…), có lực
lượng chiến đấu và lực lượng phục vụ chiến đấu; được trang bị vũ khí thích
hợp (vũ khí tự tạo, súng bộ binh, súng cối, súng máy phịng khơng, pháo mặt
đất, pháo phịng khơng, pháo bờ biển…). Dân qn tự vệ có phù hiệu riêng,
được hưởng chính sách do Nhà nước quy định, được xây dựng và hoạt động
theo Điều lệ dân quân tự vệ (ban hành theo Nghị định số 29/HĐBT ngày
29/01/1990). Ngày truyền thống của dân quân tự vệ là ngày 28/3/1935, ngày
Đại hội lần thứ I Đảng Cộng sản Đông Dương ra Nghị quyết tổ chức “Công
nông tự vệ đội”. Bộ quốc phòng, Trung tâm Từ điển Bách khoa quân sự: Từ
điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Sđd, tr. 227.
Chương V: XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN
271
trò chiến lược quan trọng trong chiến tranh nhân dân. “Nói
đến chiến tranh nhân dân, nhất thiết phải nói đến dân quân
tự vệ”1.
Dân quân tự vệ có những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Tác chiến tiêu diệt địch, làm nòng cốt phát động phong
trào tồn dân đánh giặc và phịng tránh ở cơ sở, hỗ trợ nhân
dân đấu tranh chống địch.
- Cùng với cơng an nhân dân tham gia giữ gìn trật tự, trị
an ở cơ sở, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ tính
mạng và tài sản của Nhân dân, tài sản của Nhà nước và của
quân đội ở địa phương.
- Bổ sung cho bộ đội thường trực, phối hợp và phục vụ
bộ đội chiến đấu, phục vụ tiền tuyến, bảo đảm giao thông
thời chiến.
- Gương mẫu xung kích trong sản xuất và bảo vệ sản
xuất, gương mẫu chấp hành và vận động Nhân dân chấp
hành các chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ.
Dân quân tự vệ có vai trị chiến lược trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc, là lực lượng chiến lược trong đấu tranh cách
mạng của nhân dân. Hồ Chí Minh từng nói: “Dân qn, tự
vệ và du kích là lực lượng của tồn dân tộc, là một lực lượng
vô địch, là một bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận kẻ thù
hung bạo thế nào, hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó,
thì địch nào cũng phải tan rã”2. Các đội tự vệ và tự vệ chiến
____________
1. Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tổng tập luận văn, Sđd, tr. 714.
2. Hồ Chí Minh: Về đấu tranh vũ trang và lực lượng vũ trang nhân
dân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1970, tr. 174.
272
ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
đấu là hình thức đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng
ở Việt Nam.
Trong suốt quá trình vận động cách mạng lâu dài trước
Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, đi đôi với việc xây
dựng các tổ chức chính trị của quần chúng Đảng hết sức
quan tâm đến việc xây dựng các đội du kích, tự vệ. Trong
tổng khởi nghĩa các đội du kích thốt ly cùng các tổ chức tự
vệ công nông nửa vũ trang khắp Bắc, Trung, Nam đã đóng
vai trị xung kích đắc lực, cùng hàng triệu quần chúng tiến
lên, dùng bạo lực cách mạng với sự kết hợp đấu tranh chính
trị với đấu tranh vũ trang. Cách mạng Tháng Tám thành
công, cùng với sự lớn mạnh của quân đội nhân dân, lực lượng
dân quân tự vệ ngày càng phát triển rộng khắp.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, dân quân
tự vệ phát triển mau chóng ở làng xã, lơi cuốn đơng đảo quần
chúng tham gia, nhiều địa phương có cả những đội nữ du
kích, thiếu niên du kích, lão du kích, lão bà dân quân, giữ vai
trò chiến lược trong phong trào du kích chiến tranh, xây
dựng thơn trang chiến, xây dựng làng xã chiến đấu, xây dựng
khu du kích và căn cứ du kích giữa vùng chiếm đóng của
qn Pháp, cùng nhân dân nổi dậy phá tề, phối hợp tác chiến
với bộ đội địa phương, bộ đội chủ lực trong những đợt hoạt
động lớn, bảo vệ căn cứ địa và hậu phương kháng chiến, bổ
sung cho quân chủ lực...
Trong thời gian Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược ra
miền Bắc với quy mơ to lớn, tính chất ác liệt, sử dụng nhiều
vũ khí hiện đại, dân quân tự vệ vẫn giữ ngun địa vị chiến
lược của nó, vẫn là hình thức tổ chức thích hợp nhất để thực
Chương V: XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN
273
hiện vũ trang toàn dân, thực hiện khẩu hiệu “Toàn dân vi
binh”, “Toàn dân kháng chiến”, là lực lượng đảm nhiệm bắn
máy bay tầm thấp, xung kích trong các phong trào “Ba sẵn
sàng”, “Ba đảm đang”, “Tay cày tay súng”, “Tay búa tay
súng”, hướng dẫn nhân dân phòng tránh máy bay Mỹ oanh
tạc, bảo vệ trật tự trị an, giao thông vận tải thời chiến,...
Ở miền Nam, trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước, dân quân tự vệ có vai trị chiến lược trong việc phát
động chiến tranh du kích, tiêu hao sinh lực đối phương, phối
hợp cùng quân giải phóng chiến đấu và phục vụ chiến đấu...
góp phần làm chuyển biến so sánh lực lượng có lợi cho kháng
chiến, tiến lên giành thắng lợi cuối cùng.
Trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc thống nhất, dân quân tự
vệ vẫn có nhiệm vụ chiến lược như các thời kỳ kháng chiến
trước đây, nhưng phải hồn thành những nhiệm vụ đó với
trình độ cao hơn, trong điều kiện khó khăn, phức tạp hơn.
Chiến tranh du kích là một hình thức cụ thể sinh động và
phổ biến của việc toàn dân tham gia chiến tranh. Dân quân
tự vệ là lực lượng chủ yếu để tiến hành chiến tranh du kích.
Vị trí của dân qn tự vệ ln gắn liền với vị trí của chiến
tranh du kích trong chiến tranh tương lai nhằm tạo thế bao
vây chặt chẽ quân đội đối phương ở khắp nơi, rất thuận lợi
cho việc phá hủy các kho tàng, sân bay... hình thành một
mặt trận sau lưng địch và tạo điều kiện cho quân chủ lực lọt
vào để hoạt động mạnh.
Trong chiến tranh, dân quân tự vệ có nhiệm vụ rất nặng
nề trong việc bảo vệ hậu phương. Quân địch ra sức phá hoại
hậu phương của chiến tranh cách mạng một cách thường
274
ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
xuyên và quyết liệt, nhằm thủ tiêu tiềm lực kinh tế, quân sự
của kháng chiến... Mặc dù bộ đội chủ lực có những biện pháp
đối phó tích cực, nhưng quân chủ lực không thể rải ra ở khắp
nơi, do đó bộ đội địa phương, dân quân tự vệ và Nhân dân là
lực lượng đơng đảo có thể đánh địch, đối phó với địch trong mọi
thời gian và khơng gian để bảo vệ hậu phương kháng chiến.
Dân quân tự vệ có trọng trách trực tiếp đối phó với mọi
cuộc tấn công, phá hoại bất ngờ của kẻ thù, bảo vệ làng mạc,
công xưởng, kho tàng,... Với mạng lưới rộng lớn, lại thơng
thạo địa hình địa phương, dân qn tự vệ có khả năng nhanh
nhất, tốt nhất, cơ động nhất trong việc ngăn chặn và làm
thất bại mọi hoạt động phá hoại của kẻ thù; giữ vững an
ninh, bảo vệ sản xuất, giữ vững và phát triển sản xuất, bảo
vệ tài sản, tính mạng của Nhân dân, bảo vệ Đảng và chính
quyền địa phương để duy trì cuộc kháng chiến lâu dài.
Dân quân tự vệ là lực lượng bổ sung và phục vụ đắc lực
cho yêu cầu tác chiến của bộ đội chủ lực và bộ đội địa
phương. Tổ chức dân quân tự vệ thời bình cũng như thời
chiến, là cơ sở dự trữ lực lượng cho chiến tranh một cách có tổ
chức, có kế hoạch, là nơi tập dượt, rèn luyện tốt nhất cho
thanh niên khi họ làm nghĩa vụ quân sự.
Dân quân tự vệ còn giúp đỡ đắc lực cho bộ đội chủ lực
trong việc chuẩn bị chiến trường. Với sự am hiểu sâu sắc về
địa hình và tình hình địch, lại có đầy đủ điều kiện để làm tốt
công tác địch vận, trừ gian... dân quân tự vệ là lực lượng chủ
yếu để tiến hành chiến tranh du kích, kết hợp chiến tranh du
kích với chiến tranh chính quy là một trong những quy luật
của chiến tranh cách mạng Việt Nam.
Chương V: XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN
275
Trong thời bình, xây dựng đất nước, lực lượng dân quân
tự vệ vẫn đóng vai trị hết sức to lớn trên các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, quân sự và văn hóa. Dân quân tự vệ tham gia
bảo vệ trật tự, trị an, giữ vững sự bình n cho xóm làng,
đường phố, phòng, chống trộm cướp, tệ nạn xã hội, trấn áp
phản cách mạng ở địa phương; độc lập hoặc phối hợp cùng
công an, bộ đội ngăn chặn những hoạt động phá hoại của kẻ
thù, truy lùng những tốn biệt kích gián điệp đột nhập vào
địa bàn. Thực tế cho thấy, dân quân tự vệ là lực lượng vũ
trang nòng cốt ở cơ sở để tiến hành phịng chống biệt kích
một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất.
Muốn làm cho lực lượng dân qn tự vệ thực sự có vai trị
chiến lược, làm tròn nhiệm vụ chiến lược, nhất thiết phải coi
trọng xây dựng cả về số lượng và chất lượng; xây dựng các
đội du kích và đội tự vệ chiến đấu cho thật mạnh, tập trung
và phân tán linh hoạt, vừa sản xuất, vừa chiến đấu, làm
nòng cốt xây dựng nền quốc phịng tồn dân, kết hợp với an
ninh nhân dân ở cơ sở.
Bộ đội địa phương là “lực lượng cơ động tác chiến chủ yếu
trên địa bàn địa phương và cùng với dân quân tự vệ làm
nòng cốt của chiến tranh nhân dân tại địa phương; bộ phận
hợp thành của Quân đội nhân dân Việt Nam; do bộ (ban) chỉ
huy quân sự của địa phương trực tiếp chỉ huy, cấp ủy đảng
và chính quyền địa phương trực tiếp lãnh đạo”1.
Bộ đội địa phương được thành lập ngày 07/4/1949 theo
Sắc lệnh số 103/SL của Chủ tịch Chính phủ nước Việt Nam
____________
1. Bộ Quốc phòng, Trung tâm Từ điển Bách khoa quân sự: Từ điển
Bách khoa quân sự Việt Nam, Sđd, tr. 58.
276
ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
Dân chủ Cộng hòa, với nhiệm vụ ban đầu: thay thế các đại
đội độc lập, tác chiến bảo vệ địa phương, diệt tề, trừ gian, vũ
trang tuyên truyền, phát triển chiến tranh du kích, bảo vệ
nhân dân và chính quyền địa phương.
Nhiệm vụ của bộ đội địa phương là:
- Tác chiến, tiêu diệt sinh lực và phương tiện chiến tranh
của địch, làm nòng cốt phát động chiến tranh nhân dân,
chiến tranh du kích ở địa phương.
- Dìu dắt dân quân tự vệ trong tác chiến và xây dựng, hỗ
trợ quần chúng đấu tranh chống địch, phối hợp tác chiến với
dân quân tự vệ và bộ đội chủ lực, tạo điều kiện để bộ đội chủ
lực tác chiến ở địa phương.
- Bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền địa phương, bảo vệ
nhân dân, bảo vệ trị an, bảo vệ sản xuất.
- Gương mẫu chấp hành và vận động quần chúng chấp
hành các chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ,
tham gia sản xuất tự túc.
Bộ đội địa phương được xây dựng thích hợp với nhiệm vụ
và điều kiện thực tế của từng chiến trường và từng địa
phương, được tổ chức thành những đơn vị mạnh, có chất
lượng cao, có các binh chủng cần thiết, có khả năng tác chiến
độc lập hoặc phối hợp với dân quân tự vệ và bộ đội chủ lực,
hoạt động khi tập trung, khi phân tán trong địa phương.
Bộ đội địa phương và dân quân tự vệ hợp thành lực lượng
vũ trang địa phương. Vai trò của các lực lượng vũ trang địa
phương rất lớn, nó gắn chặt với vai trị hậu phương. Đó là lực
lượng quân sự kết hợp chặt chẽ với lực lượng chính trị ở từng
địa phương. Là “chủ lực của địa phương”, bộ đội địa phương
Chương V: XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN
277
cùng với dân quân tự vệ là nòng cốt của phong trào toàn
dân đánh giặc ở địa phương; là khâu nối liền giữa các lực
lượng tiến hành chiến tranh nhân dân, chiến tranh du
kích ở cơ sở với các lực lượng chủ lực tác chiến tập trung.
Nghị quyết Quân ủy Trung ương tháng 5/1970 chỉ rõ:
Nhân dân và lực lượng vũ trang địa phương phải tạo sẵn
thế bố trí chiến lược rộng khắp, tạo nên thế trận tiến công
mạnh mẽ của chiến tranh nhân dân từ đầu làm cho quân
địch tới từ phương hướng nào, với phương thức, quy mô
nào, và tiến đến đâu cũng bị đánh liên tiếp, càng mở rộng
tiến công càng bị sa lầy, bị vây hãm trong biển lửa chiến
tranh nhân dân1.
Bộ đội chủ lực là “lực lượng nòng cốt của quân đội nhân
dân Việt Nam, trực thuộc Bộ Quốc phòng hoặc quân khu,
gồm các quân chủng, binh chủng và bộ đội chuyên môn, cơ
động trên chiến trường, tác chiến tập trung, thường phối hợp
với bộ đội địa phương, bộ đội biên phòng và dân quân tự vệ”2.
Bộ đội chủ lực do Trung ương Đảng (thông qua Quân uỷ
Trung ương) trực tiếp lãnh đạo, do Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp
chỉ huy; bao gồm lực lượng lục qn, lực lượng phịng khơng khơng qn, lực lượng hải quân.
____________
1. Xem Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Lịch sử tư tưởng quân sự
Việt Nam, Sđd, t. IV, tr 477.
2. Bộ đội chủ lực được quy định rõ về tổ chức theo Sắc lệnh số 71/SL
ngày 22/5/1946 của Chủ tịch Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hồ, về việc Quân đội của nước Việt Nam là một Quân đội quốc gia. (Xem
Bộ quốc phòng, Trung tâm Từ điển Bách khoa quân sự: Từ điển Bách
khoa quân sự Việt Nam, Sđd, tr. 58).
278
ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
Bộ đội chủ lực là bộ phận quan trọng nhất của lực lượng
vũ trang nhân dân, gồm những binh đồn chính quy, có
nhiều binh chủng hợp thành, trang bị tốt, huấn luyện tốt,
được lãnh đạo, chỉ huy tốt, cơ động về chiến dịch và chiến
lược trên từng chiến trường và trên địa bàn cả nước. Nhiệm
vụ chủ yếu của bộ đội chủ lực là tiến hành tác chiến tập
trung hiệp đồng binh chủng, quy mô lớn, nhằm tiêu diệt
những đơn vị lớn của địch, giải phóng những vùng đất đai
quan trọng góp phần làm chuyển biến cục diện chiến tranh;
tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng vũ trang địa phương
đẩy mạnh tác chiến.
Vai trò của bộ đội chủ lực hết sức quan trọng, nhưng bộ
đội chủ lực chỉ có thể phát triển thuận lợi và phát huy được
sức mạnh trên cơ sở lực lượng vũ trang địa phương và công
tác quân sự địa phương vững mạnh.
Để tiến hành thắng lợi chiến tranh nhân dân, xây dựng
và củng cố nền quốc phịng tồn dân phải khơng ngừng xây
dựng, củng cố các lực lượng vũ trang nhân dân. Mỗi thứ qn
đều có vai trị chiến lược quan trọng. Dân qn tự vệ có
mạnh thì mới phân tán được lực lượng địch, tiến công địch ở
khắp nơi, tạo điều kiện thuận lợi cho tác chiến của bộ đội địa
phương và bộ đội chủ lực. Ngược lại, bộ đội chủ lực có hoạt
động mạnh, đánh những địn tiêu diệt lớn mới làm cho quân
địch tổn thất nặng nề, tạo điều kiện đẩy mạnh chiến tranh
nhân dân ở các địa phương và cơ sở.
Sự hình thành và phát triển của ba thứ quân trong chiến
tranh giải phóng dân tộc theo quy luật từ thấp đến cao, phù
hợp với quy luật phát triển của đấu tranh vũ trang từ chiến
Chương V: XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN
279
tranh du kích tiến lên chiến tranh chính quy, kết hợp chặt
chẽ chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy.
Trong những tình hình cụ thể, như những năm 1948 1949, do yêu cầu khôi phục và phát triển chiến tranh du kích
trong vùng qn Pháp chiếm đóng, Đảng chủ trương phân
tán một bộ phận chủ lực thành những đại đội độc lập, tiến
vào vùng tạm bị chiếm, cùng các đội vũ trang tuyên truyền
gây dựng lại cơ sở, nhưng khi phong trào vùng địch hậu đã
phát triển, chiến tranh du kích sinh sơi nảy nở, khi u cầu
cần đẩy mạnh tiêu diệt lực lượng chiến lược của Pháp, Đảng
lại quyết định rút các đại đội độc lập về để xây dựng những
trung đồn và đại đồn chủ lực, nhưng nhìn chung, trong
chiến tranh cách mạng Việt Nam, quy luật hình thành và
phát triển lực lượng vũ trang là tích cực phấn đấu để khi
tình hình địi hỏi và điều kiện chín muồi thì có thể đưa một
bộ phận dân qn tự vệ lên xây dựng bộ đội địa phương hoặc
đưa một bộ phận bộ đội địa phương lên xây dựng bộ đội chủ
lực. Làm như vậy một cách đúng nơi, đúng lúc và đúng mức
thì sẽ kịp thời đáp ứng yêu cầu phát triển của các lực lượng
vũ trang tập trung và của chiến tranh chính quy, đồng thời
tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng vũ trang địa phương
trưởng thành thêm một bước, làm cho chiến tranh du kích
phát triển thêm một trình độ mới.
Mặt khác, dân qn tự vệ có trưởng thành mới xây dựng
được bộ đội địa phương vững mạnh; có bộ đội địa phương
vững mạnh thì bộ đội chủ lực mới có điều kiện thuận lợi để
xây dựng và tác chiến cơ động trên các chiến trường. Nếu
gượng ép hoặc tập trung quá sớm hoặc quá mức trong việc
280
ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN...
đưa dân quân tự vệ lên bộ đội địa phương hoặc bộ đội địa
phương lên bộ đội chủ lực thì sẽ làm suy yếu lực lượng vũ
trang địa phương. Điều đó khơng những sẽ làm cho chiến
tranh du kích khơng duy trì và phát triển được mà cịn bất lợi
cho việc xây dựng và tác chiến tập trung của bộ đội chủ lực.
Do đặc điểm của chiến tranh cách mạng Việt Nam, trong
điều kiện chiến tranh ngày càng ác liệt, nhất là khi đế quốc
Mỹ thi hành chính sách xâm lược thực dân kiểu mới, ra sức
tăng cường kìm kẹp quần chúng ở địa phương, thì song song
với việc xây dựng bộ đội chủ lực có chất lượng chiến đấu ngày
càng cao, phải xây dựng lực lượng vũ trang địa phương thật
mạnh. Có như vậy cả ba thứ quân mới phát huy được sức
mạnh chiến đấu lớn nhất, cùng phối hợp chặt chẽ để tiêu diệt
địch, đồng thời bảo vệ có hiệu quả lực lượng và giữ vững
quyền làm chủ mọi mặt của Nhân dân, phát triển mạnh mẽ
và toàn diện chiến tranh Nhân dân, giành thắng lợi ngày
càng lớn.
Trong điều kiện đã hồn tồn giải phóng sự chi viện to
lớn về nhân lực, vật lực của miền Bắc đã tác động mạnh mẽ
đến sự hình thành và phát triển của ba thứ quân ở miền
Nam, đặc biệt là của bộ đội chủ lực. Quy luật phát triển ba
thứ quân ở miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ không
nhất thiết diễn ra một cách tuần tự như trong cuộc kháng
chiến chống Pháp trước đây mà có những bước nhảy vọt. Mặc
dù vậy, để sự chi viện của miền Bắc phát huy đầy đủ tác
dụng, Đảng vẫn phải hết sức coi trọng việc động viên nhân
lực, vật lực tại chỗ để xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
ở miền Nam, đặc biệt là lực lượng vũ trang địa phương.
Chương V: XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN
281
Đối với miền Bắc, để đảm bảo cho quân đội và nhân dân
sẵn sàng tiến hành chiến tranh tự vệ trong trường hợp kẻ
thù liều lĩnh gây chiến tranh xâm lược, trong điều kiện đã
có cơ cấu hồn chỉnh của một nhà nước cách mạng và có sự
chi viện quốc tế to lớn, việc xây dựng lực lượng ba thứ quân
có những điều kiện thuận lợi mới. Dựa vào tính ưu việt của
chế độ xã hội mới và thông qua bộ máy nhà nước cách
mạng, miền Bắc đồng thời phát triển cả ba thứ quân một
cách cân đối và hoàn chỉnh theo yêu cầu của sự nghiệp
củng cố quốc phòng và thích ứng với sự phát triển của nền
kinh tế quốc dân.
Kết hợp chặt chẽ lực lượng chính trị và lực lượng công
an nhân dân vũ trang, ba thứ quân được tổ chức và xây
dựng theo mơ hình thích hợp, cân đối, được bố trí hợp lý
trên từng địa bàn chiến lược, từng chiến trường và địa
phương, đảm bảo vừa có lực lượng tại chỗ mạnh, kết hợp
chặt chẽ và có trọng điểm lực lượng tại chỗ với lực lượng cơ
động của từng cấp và của cả nước. Đó là điều kiện đảm bảo
thắng lợi của chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh
bảo vệ Tổ quốc.
3. Chế độ động viên toàn dân tham gia lực lượng
vũ trang
Dân tộc Việt Nam có truyền thống tiến hành khởi nghĩa
tồn dân, chiến tranh nhân dân để giải phóng dân tộc và bảo
vệ đất nước. Trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc từng
có chiến tranh nhân dân do giai cấp phong kiến lãnh đạo, có
chiến tranh nhân dân phát triển từ phong trào khởi nghĩa