59
Chương 5
MỘT SỐ TÔN GIÁO LỚN TRÊN THẾ GIỚI
Nhân loại từ khi có tơn giáo đến nay đã từng chứng kiến sự ra đời, tồn
tại, mất đi của nhiều tôn giáo và nhiều loại hình tín ngưỡng, tơn giáo. Song,
số tơn giáo tồn tại với tính cách là một tơn giáo lớn trên thế giới, có hệ thống
giáo lý, giáo luật, tổ chức tơn giáo có hệ thống chức sắc, cơ sở vật chất phục
vụ cho sinh hoạt tín ngưỡng, tơn giáo và có lực lượng tín đồ đơng đảo ở nhiều
nước thì phải nói tới Phật giáo; Kytơ giáo và Hồi giáo.
PHẬT GIÁO
1. Khái lược sự ra đời và phát triển
1.1. Tiền đề kinh tế-xã hội, văn hoá, tư tưởng
Ấn Độ cổ đại là một nước lớn. Chủ nhân chính của nền văn minh Ấn Độ
cổ đại là người Đravida (cư trú ở phía nam) và người Arian ( ở phía bắc).
Lịch sử Ấn Độ cổ đại chia thành 3 thời kỳ chính.
- Thời kỳ văn hố Haráppa (văn minh sông Ấn) vào khoảng thiên niên
kỷ III-II trước công ngun.
- Thời kỳ Vêđa, với sự hình thành đạo Bàlamơn, vào khoảng thiên niên
kỷ II-I trước công nguyên.
- Thời kỳ cuối của Ấn Độ cổ đại với sự xuất hiện đạo Phật, vào khoảng
giữa thiên niên kỷ I trước công nguyên đến thế kỷ II sau công nguyên.
Vào giữa thế kỷ I trước công nguyên, đặc điểm nổi bật về kinh tế -xã hội
Ấn Độ là nền kinh tế nông nghiệp - nông thôn, tự cung tự cấp và xã hội phân
hoá thành những đẳng cấp khác nhau. Các đẳng cấp này được luật Manu của
Ấn Độ thừa nhận và xã hội đẳng cấp ấy được gọi là chế độ Vácna ( màu sắc).
Do xã hội phân chia thành đẳng cấp một cách khắc nghiệt đã tạo nên mâu
thuẫn xã hội gay gắt. Đặc biệt, đẳng cấp Thủđàla căm ghét chế độ xã hội
đương thời, hä ln mong mn thốt khỏi cuộc sống khổ cực.
Lúc này, về tư tưởng, xã hội Ấn Độ hình thành nhiều trường phái triết
học - tơn giáo, được chia thành hai phái, phái chính thống và khơng chính
thống. Các trào lưu tư tưởng dù ở phái nào đều trực tiếp hay gián tiếp, dù ít
hay nhiều đều phản kháng lại chế độ đẳng cấp và đạo Bàlamôn.
Như vậy, Phật giáo ra đời ở Ấn Độ, bắt nguồn từ nguồn gốc kinh tế - xã
hội, văn hoá tư tưởng, là một trào lưu tư tưởng chống lại chế độ đẳng cấp và
đạo Bàlamôn. Đồng thời, trào lưu tư tưởng đó phản ánh tâm trạng, cuộc sống
khốn khó, khổ cực của tầng lớp bần cùng trong xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ.
60
1.2. Người sáng lập đạo Phật
Theo truyền thuyết, người sáng lập đạo Phật là Tất-đạt-đa, thái tử con
vua Sútđôđana thuộc bộ tộc Thích Ca (Sakya) trị vì một vương quốc nhỏ là
Catỳlavệ (Kapilaxtu) ở vùng trung lưu sông Hằng. Mẹ là hoàng hậu Meya.
Tất-đạt-đa sinh ngày 15 tháng 4 năm 563 (TCN).
Thời niên thiếu, Tất-đạt-đa sống trong nhung lụa và được mọi người
tránh cho những ưu lo, phiền não. Tất-đạt-đa ít khi rời khỏi cung thành, chỉ sử
dụng thời gian vào học hành, yến tiệc, tế tự…nên không hề biết những gì là
đen tối, xấu xa, cực nhọc, nỗi bất hạnh của con người
Lý do dẫn đến bước ngoặt trong tư tưởng Tất-đạt-đa là những cuộc gặp
gỡ bất ngờ, ngoài cửa thành và ông nhận ra rằng, bệnh tật, già cả, chết chóc,
đói kém là những bi kịch, bất hạnh cho tất cả mọi người. Vì vậy, năm 29 tuổi,
Tất-đạt-đa quyết định rời bỏ hồng cung, gia đình, từ chối giàu sang và quyền
lực đi tìm chân lý để giải thoát nỗi khổ cho con người. Sau 6 năm tu hành khổ
hạnh ở trong rừng nhưng vẫn không đạt được sự n tĩnh trong tâm hồn và
khơng tìm ra chân lý. Từ thực tiễn tu hành, Tất-đạt-đa thấy cuộc sống đầy vật
chất, thoả mãn dục vọng lẫn cuộc sống khổ hạnh ép xác đều vơ nghĩa khơng
đúng đắn. Ơng cho cuộc sống thứ nhất là tầm thường, vơ tích sự. Cuộc sống
thứ hai cũng tối tăm không xứng đáng để con người noi theo và thực hiện.
Theo ông, con đường đúng đắn là phải "Trung đạo", đó là con đường tự mình
đào sâu suy nghĩ để nhận thức chân lý, con đường dẫn tới sự yên tĩnh và sự
bừng sáng của tâm hồn trí tuệ. Sau 49 ngày thiền định dưới gốc cây Bồ đề,
chìm đắm trong những tư duy sâu thẳm, cuối cùng ông tuyên bố là đã đến với
chân lý, hiểu được bản chất của sự tồn tại, nguồn gốc của khổ đau và con
đường cứu vớt loài người thoát khỏi nỗi khổ.
Sau khi giác ngộ, Tất-đạt-đa đi truyền bá đức tin và mất vào năm 483
TCN, tròn 80 tuổi. Từ đó ơng có hiệu là Thích Ca Màu Ni (Sakyamuni), trở
thành bậc thánh của dịng họ Thích Ca và được gọi là Bútđa (Buddha), phiên
âm qua chữ Hán là Tất-đạt-đa, còn gọi là Phật. Sau khi Phật tịch, các đệ tử
tiếp tục phát triển đạo của Tất-đạt-đa, dựng hình tượng ơng và chọn cây Bồ đề
làm biểu tượng nhà Phật - tượng trưng cho sự giác ngộ.
1.3.Kết tập kinh điển và quá trình truyền bá đạo Phật
Sau khi Phật tịch, các đệ tử tiêu biểu như Xá Lợi Phát; Mục Kiên Liên,
Phu lâu La, Ca Chiên Diên, ĐạiCa Diếp, ANaLuật, ANanĐa, La hầu
La…nhận thấy cần phải biên tập, đúc kết lời Phật dạy thành sách để lưu
truyền cho hậu thế. Phật giáo đã trải qua 4 lần kết tập kinh điển của mình:
- Lần 1, được tổ chức sau một năm khi Phật Tịch. Lần 2, vào thiên niên
kỷ IV (TCN). Lần 3, vào khoảng thế kỷ III (TCN). Lần 4, tổ chức đại hội
dưới triều vua Canhịsắcca (KaniSka) vào năm 125 đến 150 sau công nguyên
61
Kinh điển nhà Phật viết bằng tiếng Phạn (Sancrit), gồm ba loại gọi là
Tam Tạng: Kinh tạng, Luật tạng, Luận tạng.
Kinh tạng (Sutrapitaka) là sách ghi lời phật Thích ca giảng về giáo lý,
gồm 5 bộ lớn: Trường bộ kinh (Digha NiKay), Trung bộ kinh (Majjma
NiKaya); Tương ứng bộ kinh (Samgútta NiKaya); Tăng bộ kinh (Angúttara
NiKaya); Tiểu bộ kinh (Khuđaca NiKaya) gồm 15 tập. Năm bộ kinh trên Phật
giáo Đại thừa còn gọi bằng tên khác là: Trường A hàm, Trung A hàm, Trung
nhất A hàm, Tăng nhất A hàm và Tiểu A hàm. Ngoài năm bộ kinh trên, Phật
giáo Đại thừa cịn có một số bộ kinh khác như Kinh hoa nghiêm, Kinh diệu
pháp liên hoa; Bát nhã Balamật, Kinh lăng nghiêm, Kinh kim cương… (Riêng
kinh này phái Tiểu thừa không chấp nhận).
Luật Tạng (Vinaya Pitaka), là sách ghi những giới luật do Tất-đạt-đa chế
định làm khuôn phép cho việc học tập, sinh hoạt, tu hành… nhất là đối với
những người xuất gia tu hành.
Luận tạng (Abhidhamma Pitaka ) là sách để giới thiệu giáo lý một cách
có hệ thống, phê bình uốn nắn những nhận thức sai trái, cũng như các quan
điểm chống đối học thuyết nhà Phật.
Khi mới ra đời, Phật giáo được đông đảo quần chúng tin theo, nhất là
những người có địa vị xã hội thấp kém. Vì giáo lý Phật giáo tập trung bàn về
nỗi khổ trần thế, việc chấm dứt nỗi khổ trần thế, nêu lên khả năng chế ngự
dục vọng, vấn đề tự giải thốt nỗi khổ của con người, sự bình đẳng, tình
thương yêu con người với nhau (từ, bi, hỉ, xả). Luật lệ, lễ nghi đơn giản, ít tốn
kém, khơng rườm rà như đạo Bàlamơn. Vì thế, trong một thời gian ngắn Phật
giáo đã lan toả khắp Ấn Độ.
Song, đến thời vua Gúpta Phật giáo khơng cịn giữ được vai trò như
trước và dần phải nhường chỗ cho Ấn độ giáo - một tôn giáo kết hợp đạo
Bàlamôn với một số tín ngưỡng dân gian, và một số yếu tố của đạo Phật. Đặc
biệt, từ thế kỷ VIII trở đi, khi Hồi giáo xâm nhập vào Ấn Độ, thì Phật giáo
càng suy tàn. Đến năm 125-130 Phật giáo phân hoá thành hai phái: Đại thừa
và phái Tiểu thừa.
Mặc dù bị suy tàn ở nơi phát sinh nhưng Phật giáo lại phát triển một
cách nhanh chóng ra ngồi Ấn Độ cổ. Ở phía Bắc, Phật giáo phát triển ở các
vùng Trung Á, Mông Cổ, Tây Tạng, Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên…. Ở
phía Nam, Phật giáo đến Xirilanca, Mianma, Thái Lan, Lào, Cămpuchia, Việt
Nam, Inđônêxia, Malaixia…
Đến nay, Phật giáo đã trở thành một tơn giáo lớn trên thế giới, tín đồ
Phật giáo hiện nay có mặt ở hầu hết các châu lục, với một số lượng lớn. Phật
giáo đã, đang và sẽ còn là lối sống, tư duy của một phần nhân loại.
2.Giáo lý, giáo luật, lễ nghi
62
2.1. Nội dung cơ bản của giáo lý Phật giáo
2.1.1.Quan niệm về vũ trụ và nhận thức luận
Về vũ trụ quan, ngồi chức năng tơn giáo, giáo lý Phật giáo còn là một
triết thuyết sâu sắc và tinh tế. Giáo lý Phật giáo khẳng định rằng thế giới này
là thế giới vật chất, do vạn Pháp tạo nên. Mỗi sự vật là một Pháp không do
phép màu nào sinh ra
Vạn Pháp trong thế giới bao gồm hai loại: Hữu tình và vơ tình. Loại hữu
tình bao gồm những động vật có thân sắc, hình tướng, có tình cảm. Loại vơ
tình bao gồm những loại thực vật, khống vật, vật vơ tri vô giác. Vạn Pháp
luôn vận động, biến đổi theo luật Vơ thường với chu trình: Sinh - Trụ - Dị Diệt (với loại hữu tình) và Thành - Trụ - Hoại - Khơng (với loại vơ tình).
Theo luật Vơ thường này, mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ đều phải trải
qua các giai đoạn:
- Nảy nở, sinh ra (sinh)
- Tồn tại, phát triển trong một không gian, thời gian nhất định (trụ)
- Hư hoại, thay đổi (dị, hoại )
- Tiêu tan, mất đi (diệt, khơng )
Ví như một con người, khi cất tiếng khóc chào đời gọi là sinh. Qng
thời gian để con người đó hình thành, phát triển dáng vóc, tâm sinh lý, thể
chất…gọi là trụ. Lúc già, ốm đau gọi là dị, lúc trút hơi thở cuối cùng, vĩnh
biệt cõi đời gọi là diệt.
Luật Vô thường của Phật giáo cịn cho rằng, khơng phải sự vật hiện
tượng sinh ra mới gọi là Sinh, mất đi hay chết mới gọi là Diệt, mà trong sự
sống đã có sự chết. Chết không phải là hết mà là điều kiện của một sự sinh
thành mới. Sinh và Diệt là hai quá trình xảy ra đồng thời trong một sự vật
cũng như trong toàn thể vũ trụ bao la.
Vận động vô thường của sự vật trong vũ trụ bị chi phối bởi luật Nhân Duyên. Thuyết Nhân-Duyên của Phật giáo cho rằng, Nhân là mầm tạo quả;
Duyên là điều kiện, phương tiện để tạo quả. Khi Nhân - Duyên hoà hợp thì sự
vật sinh ra, Nhân - Duyên tan rã thì sự vật diệt. Trong kinh Thủ lăng nghiêm
có câu:
Nhân - Duyên hoà hợp, hư vọng hữu sinh
Nhân - Duyên biệt ly, hư vọng danh diệt.
Theo giáo lý Phật giáo, tuỳ theo Nhân - Duyên kết hợp mà hình thành
các sự vật, hiện tượng. Mỗi sự vật, hiện tượng không phải do một NhânDuyên mà do nhiều Nhân-Duyên tạo thành. Nhân-Dun cũng khơng tự nhiên
mà có mà do nhiều Nhân - Duyên đã có từ trước. Trong vũ trụ là cả một hệ
thống Nhân - Duyên vô tận. Sách nhà Phật gọi là "tính trùng trùng duyên
63
khởi". Do tính trùng trùng duyên khởi mà các sự vật quan hệ, nương tựa, tác
động chi phối lẫn nhau.
Thế giới quan Phật giáo cịn nêu lên thuyết "sắc", "khơng". Theo thuyết
này, thế giới luôn vận động, biến đổi không ngừng, khơng có cái gì, sự vật
nào đứng im. Quan niệm về "sắc", "khơng"thì khơng phải khi sự vật tồn tại ở
trạng thái có hình tướng, trong khơng gian mới gọi là "sắc", mới là "có", ở
trạng thái " khơng" mới gọi là"khơng". Mà, cái gọi là "có"đã là 'khơng", cái
gọi là"khơng" đã bao hàm là "có". Sắc sắc- khơng khơng - có đấy mà khơng
có đấy, khơng có đấy mà có đấy. Đồng thời, Sắc - Khơng theo Phật giáo đó là
hai thuộc tính tồn tại của vật chất. Kinh Bát nhã có câu: cái Sắc chẳng khác
cái Khơng, cái Không chẳng khác cái Sắc. Cái Sắc tức cái Khơng, cái Khơng
tức cái Sắc.
Phật giáo cũng nói tới khơng gian, thời gian, theo Tất-đạt-đa thì vũ trụ
này là mênh mông vô tận, và không thể kể hết. Tuy vậy, Phật giáo lại đưa ra
những khái niệm đo lường cụ thể, về khơng gian của vũ trụ có tam giới: Đại
thiên thế giới, Trung thiên thế giới, Tiểu thiên thế giới. Về thời gian có tam
kiếp là đại kiếp, trung kiếp và tiểu kiếp. Khi xét từng sự vật hiện tượng, Phật
giáo nhìn nhận nó trong khơng gian và thời gian nhất định. Do vậy, trong vũ
trụ khơng có sự vật nào lại khơng có khởi đầu cũng như khơng có kết thúc.
Như vậy, quan niệm về vũ trụ của Phật giáo lẫn lộn duy vật, duy tâm.
Những yếu tố duy vật và tư tưởng biện chứng còn sơ khai, song đã ít nhiều
phản ánh được sự vận động, sự phong phú muôn vẻ của thế giới hiện thực.
Về nhận thức luận của Phật giáo: Trước khi Phật giáo xuất hiện đã có
thuyết "Thánh giáo lượng" tồn tại trong một thời gian dài. Thuyết này cho
nguồn gốc của nhận thức con người là do thần thánh, lực lượng siêu nhiên
mách bảo. Bác bỏ tư tưởng " Thánh giáo lượng", Phật giáo cho nhận thức của
con người là một quá trình từ "hiện lượng" đến "tỷ lượng". "Hiện lượng" là
quá trình nhận thức đi từ cảm giác đến tri giác và quan niệm. Hiện lượng cho
ta biết "tự tướng" của sự vật. "Tỷ lượng" là q trình phán đốn, suy lý và cho
ta biết " cộng tướng" các sự vật. Như vậy, nhận biết được sự vật phải biết cả
"Tự tướng" và "cộng tướng"của nó. Đó chính là cơng cụ nhận thức thế giới
của Phật giáo. Song, “hiện lượng" và "tỷ lượng" mới chỉ cho ta biết "sắc
tướng" của sự vật, chưa cho ta biết được sự vật tự nó. Muốn biết sự vật tự nó
phải nhờ đến "phi lượng" - một thứ tổng hợp cao cấp của trí tuệ. Mặt khác, từ
luận thuyết " Sắc sắc- không không" nên con người khó hiểu biết được bản
chất của sự vật trong thế giới.
2.1.2.Quan niệm về con người của Phật giáo
Theo Phật giáo, con người không phải do Thượng đế hay đấng siêu nhiªn
nào sinh ra mà là một Pháp đặc biệt trong vạn vạn pháp của thế giới. Con
64
người bao gồm phần sinh lý; tâm lý và sự kết hợp của ngũ uẩn tạo thành.
Phần sinh lý (sắc uẩn - Rypakaya) là thần sắc, hình tướng được giới hạn trong
khơng gian bằng xương, thịt, da…Nó được cấu thành bởi bốn yếu tố vật chất
(tứ đại): địa, thuỷ, hoả, phong. Trong đó, đất tạo nên các thành phần xương,
tóc, lục phủ ngũ tạng; nước tạo nên chất lỏng như máu, mật, mồ hôi; Hoả tạo
nên thân nhiệt; Phong tạo nên hơi thở, hơi khí trong cơ thể.
Phần tâm lý (tinh thần, ý thức) được thể hiện ra bên ngoài bằng bảy trạng
thái tình cảm (Thất tình) là ái, ố, hỷ, nộ, ai, lạc, dục (yêu, ghét, vui, giận,
buồn, thích, ham muốn). Phần tâm lý bao giờ cũng dựa vào phần sinh lý. Nói
cách khác, khơng thể có tinh thần, ý thức ngoài cơ thể vật chất.
Con người, Phật giáo gọi là "ngã" hay cái "ta" cũng chỉ là giả tướng
khơng có thật (vơ ngã). Con người cũng như mọi lồi hữu tình trong vũ trụ
phải tn theo qui luật sinh- trụ-dị- diệt và thực chất chỉ là giả hợp của ngũ
uẩn. Khi ngũ uẩn kết hợp lại thì gọi là sinh, khi ngũ uẩn tan rã gọi là diệt. Khi
con người diệt (chết) không phải là hết mà gọi là " chấp đoạn" và khi đầu thai
vào kiếp khác gọi là "chấp thường". Phật giáo cũng giải thích con người sau
khi chết bằng thuyết "nghiệp báo" "luân hồi". Nghiệp là hành động do con
người tạo ra và theo luật nhân - quả, thì "Nghiệp" thế nào thì sẽ sinh quả như
vậy - tức là một con người sống nhân hậu sẽ được đáp bằng nhân hậu, kẻ sống
lọc lừa sẽ được trả giá lọc lừa. Cứ như vậy mà kéo con người vào vịng ln
hồi, sinh tử khơng ngừng, không dứt từ đời này qua đời khác, kiếp này đến
kiếp khác. Con người ở kiếp này phải chịu quả báo hay gặt được quả ân là do
ở kiếp trước đã tạo ra như thế nào? Con người ở kiếp trước là nhân của con
người hiện tại, con người hiện tại là nhân của con người trong tương lai. Như
vậy, kết cục cuộc sống của con người ra sao là do con người quyết định chứ
không phải do Thượng đế.
2.1.3.Quan niệm về khổ và con đường cứu khổ
Đây là một nội dung cơ bản, quan trọng trong nhân sinh quan Phật giáo.
Tư tưởng về khổ và con đường cứu khổ thể hiện trong bốn chân lý (tứ diệu
đế) là khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế.
Bốn chân lý trên tập trung giải quyết hai vấn đề cơ bản của con người là:
vấn đề tồn tại trần thế và việc chấm dứt khỏi nỗi khổ tồn tại trần thế.
Vấn đề tồn tại trần thế, theo Phật giáo con người có tám nỗi khổ là sinh,
lão, bệnh, tử, ái biệt ly; oán tăng hội khổ, sở cầu bất đắc khổ, ngũ uẩn khổ.
Như vậy, khổ đế nói lên bản chất của nhân sinh trong cuộc sống là khổ, khổ là
tuyệt đối. Cuộc đời ngồi nỗi đau khổ khơng cịn tồn tại nào khác. Phật giáo
đã ví nỗi khổ đau của con người bằng hình ảnh: nước mắt chúng sinh nhiều
hơn nước các đại dương cộng lại.
Phật giáo giải thích nguyên nhân tạo nên nỗi khổ của con người là do vô
65
minh, do tham lam, giận dữ. Trong đó, nguyên nhân sâu xa là do"Thập nhị
nhân duyên" (mười hai nhân duyên).
Thập nhị nhân duyên bắt đầu từ Vô minh đến Lão, Tử, đó là một q
trình bao chứa cả q khứ, hiện tại và tương lai của con người. Trong đó,
nguồn gốc của sự khổ là do vơ minh. Vì vơ minh là mê hoặc, tối tăm, nhầm
lẫn, ngu dốt, là trạng thái trí tuệ khơng sáng suốt, khơng đúng đắn. Do vô
minh nên con người không nhận thức được thực tướng, bản chất của thế giới
và của con người nên sinh ra vọng tâm, chấp ngã, sinh ra lòng tham lam, dục
vọng và có hành động tương ứng. Hành động đó gọi là Nghiệp, đặc biệt là
Nghiệp ác nên con người phải chịu khổ đau, khơng dứt ra khỏi vịng luân hồi
sinh tử. Vì vậy, muốn diệt khổ phải đi ngược lại sự vận động của 12 duyên,
nghĩa là bắt đầu từ diệt trừ vơ minh để có trí tuệ bừng sáng. Trí tuệ bừng sáng
là để chuyển từ bờ mê đến bến giác ngộ, để xoá bỏ dục vọng, xố bỏ nghiệp
ác, thốt khỏi vịng ln hồi sinh tử.
Khi giải thích về sự khổ, nguyên nhân sự khổ, Phật giáo cũng chỉ ra
rằng: nỗi khổ và nguyên nhân của nó có thể diệt trừ được.
Vấn đề chấm dứt nỗi khổ tồn tại trần thế. Muốn thoát khỏi nỗi khổ trần
thế, con người phải thực hiện đúng đắn, nghiêm túc Đạo đế. Đạo đế là chân lý
nói về con đường tu tập mà mọi người phải theo để diệt trừ nỗi khổ. Phật giáo
chủ trương vừa lấy trí tuệ để diệt trừ vơ minh phá vịng ln hồi sinh tử vừa
thực hành tu tập diệt trừ tham dục để chuyển nghiệp đạt đến sự giải thoát.
Phật giáo đặt ra nhiều phép tu tập như Tứ niệm xứ, Tứ chính cần, Tứ thần túc,
ngũ căn, ngũ lục, Bát chính đạo và Tam học. Trong các phép tu tập ấy Phật
giáo nhấn mạnh tới Bát chính đạo và Tam học.
Bát chính đạo: Là tám con đường đồng thời cũng là tám yêu cầu con
người tu tập phải đạt đến.
Để tu tập theo Bát chính đạo đạt hiệu quả, Phật giáo cho rằng phải thực
hiện đúng Tam học là Giới- Định -Tuệ.
Giới học là những qui định giúp cho người tu hành không phạm phải
những lỗi lầm do thân, khẩu, ý tạo ra. Phật giáo chế định nhiều giới luật cho
các đối tượng tu hành như tu tại gia, xuất gia, cho tăng, ni, tỷ kheo… như ngũ
giới, thập giới, tứ chính cần…
Định học là phương pháp giúp cho người tu hành không rối loạn thân
tâm, qua đó loại trừ được ý nghĩ, tư tưởng xấu, tạo điều kiện cho trí tuệ bừng
sáng.
Tuệ học là người tu hành có trí tuệ sáng suốt đã diệt trừ được vô minh,
tham dục, chứng ngộ được chân lý Phật, làm điều thiện, thực hiện từ, bi, hỷ,
xả mưu lợi ích cho chúng sinh.
Trong tam học thì giới học là quan trọng nhất, vì có giữ được Giới thì
66
Tâm mới Định, Tâm có Định thì Tuệ mới phát sáng. Tuệ phát sáng thì diệt trừ
được vơ minh, phiền não, mới minh tâm kiên tính và mới trở thành Phật được.
Như vậy, luận thuyết về khổ và con đường cứu khổ thông qua" tứ diệu
đế" cho thấy đời người là khổ do vô minh, tham dục mà rơi vào vịng ln hồi
sinh tử. Muốn thốt khổ con người phải tu thiền đi vào cõi hư vô tịnh diệt.
Đây là điểm yếu bộc lộ tính chất duy t©m, bi quan yếm thế của Phật giáo.
2.1.4.Giải thoát và niết bàn
Cứu khổ và giải thoát vừa là nội dung, vừa là chủ đích của Phật giáo.
Đức Phật nói rằng, trước kia và ngày nay ta chỉ nêu ra và lý giải về nỗi đau
khổ và giải thoát nỗi khổ đau… Cũng như nước đại dương có một vị mặn, học
thuyết của ta chỉ có một vị là cứu vớt.
Giải thốt là chuyển từ vô minh, mê muội, lầm lạc trở thành người giác
ngộ, tránh vòng luân hồi sinh tử. Đức Phật cho rằng, tất cả mọi người không
phân biệt sang hèn, giàu nghèo đều có thể giải thốt khi tu hành xố bỏ được
vơ minh, tham, sân, si, có lịng từ, bi, hỷ, xả, có sự giác ngộ. Sự giác ngộ, giải
thốt là công việc của mỗi chúng sinh, do bản thân chúng sinh thực hiện
khơng ai có thể làm thay được. Sự giải thoát nhanh hay chậm là tuỳ thuộc vào
quá trình tu luyện của mỗi người. Bản thân Đức Phật cũng nhận mình khơng
phải là thánh thần mà chỉ là người bình thường đã được giác ngộ, giải thốt.
Đức Phật kêu gọi: Hỡi các đệ tử, hãy tự mình làm ngọn đèn soi sáng cho
mình, hãy tự tạo cho mình một chỗ nương tựa và đừng nương tựa vào ai khác
ngồi bản thân mình. Phải coi sự giải thốt là cứu cánh cuối cùng của đời
mình để đi tới Niết bàn.
Niết bàn( Nirvana) trong các sách Phật giáo, đề cập rất tản mạn và có
nhiều cách lý giải khác nhau. Song nhìn chung, Niết bàn là trạng thái tâm hồn
đã đoạn trừ được những ràng buộc trần thế, những khổ đau phiền não do vô
minh, tham dục gây ra, một tâm hồn đã hồn tồn được giải thốt. Có hai hình
thức Niết bàn là" Hữu dư Niết bàn" và "Vơ dư Niết bàn". "Hữu dư Niết bàn"
là hình thức đạt được trong lúc con người đang còn mang thân ngũ uẩn. "Vơ
dư Niết bàn" là hình thức đạt được khi tinh thần rời bỏ thân xác.
Như vậy, theo Phật giáo, Niết bàn khơng chỉ có ở thế giới hư vơ mà có
cả ở trên thế gian này khi con người tu hành chân chính và đã được giác ngộ.
2.2.Giới luật, lễ nghi, tăng ni và hàng giáo phẩm
2.2.1.Giới luật:
Giới luật Phật giáo được khái quát từ lần kết tập kinh điển thứ nhất. Giới
luật có nhiều điều nhưng nội dung chủ yếu là những điều cấm kỵ, những qui
định nhằm chế ngự dục vọng, từ bỏ việc ác, khuyến khích việc thiện, để tu
hành trở thành giác ngộ. Giới luật Phật giáo qui định cụ thể cho từng đối
tượng tu hành như tu tại gia, xuất gia tu hành, cho tăng, ni và cho các chức
67
sắc Phật giáo.
Đối với mọi tăng, ni phải thực hiện nghiêm ngũ giới và thập thiện. Ngũ
giới (gồm năm điều): khơng sát sinh; khơng trộm cắp; khơng tà dâm; khơng
nói dối; không rượu chè, cờ bạc.
Thập thiện (10 điều thiện) gồm:
- Ba điều thiện về thân: Cứu chúng sinh; thực hành bố thí và giữ gìn
phẩm hạnh.
- Bốn điều thiện về khẩu: Nói lời thành thực hồ nhã; khơng nói hai
chiều, thêu dệt; nói lời ái kính; nói ngay thẳng.
- Ba diều thiện về ý: Sống thanh tịnh; không giận giữ, có tấm lịng từ bi;
ln có chính kiến.
Đối với Sadi phải thực hiện thêm 5 giới nữa là: không trang điểm, không
bôi nước hoa, không xức dầu thơm; không nằm giường đệm cao sang, giường
đôi; không xem ca hát nhảy múa, không ca hát nhảy múa; không giữ vàng
bạc; không ăn quá giờ qui định.
Bậc tỷ kheo phải thực hiện đủ 250 giới (tỷ kheo tăng) và 350 giới đối với
tỷ kheo Ni. Những người xuất gia tu hành ở bậc tỷ kheo, giới luật qui định rất
chặt chẽ từ ăn mặc, đi lại, ngủ nghỉ, nói năng, quan hệ giao tiếp với gia đình,
xã hội, đồng đạo đến cách thức hành đạo.
Cùng với việc thực hiện các giới luật trên, Phật tử còn phải chú ý thực
hiện "lục hoà", "lục độ": chung sống hoà hợp; đồng tâm nhất trí,bố thí, thiền
định và trí tuệ…
Để giữ nghiêm giới luật, hàng tháng vào ngày 15 hoặc 29, 30 âm lịch các
tăng, ni phải vào chùa, tu viện để tụng giới hay xử lý phạm giới bằng phép
Yếtma ( kiểm điểm).
2.2.2. Lễ nghi
Với mục đích Hoằng dương Phật pháp, lễ nghi của Phật giáo ban đầu rất
đơn giản, đến chùa, tu viện chỉ để thờ Phật và truyền đạo. Song, càng về sau,
lễ nghi càng rườm rà, phức tạp do Phật giáo chia ra nhiều tơng phái, vµ tiếp
thu những yếu tố tín ngưỡng dân gian, phong tục tập quán nơi Phật giáo
truyền đến.
Nhìn chung, các ngày lễ của Phật giáo khơng nhiều, nổi lên một số ngày
lễ chính trong năm như:
- Tháng giêng: tết nguyên đán; ngày1lễ phật Di lặc, ngày 15 lễ Thượng
Nguyên.
- Tháng hai: ngày 8 vía Phật Thích ca xuất gia, ngày 15 vía Phật nhập
tịch.
- Tháng ba, tư: ngày 4 vía Bồ tát văn thù, 15 vía Phật sinh.
68
- Tháng tư, sáu: ngày 19 Quan thế âm Bồ tát thành đạo…
- Tháng tám, mười hai: ngày 8 vía Phật Thích ca thành đạo…
Trên đây chỉ là tóm lược một số ngày lễ chính, cịn tụng kinh niệm phật
là cơng việc hàng ngày của tín đồ Phật giáo.
2.3. Tăng đoàn, hàng giáo phẩm và tổ chức Phật giáo
2.3.1. Tăng đoàn Phật giáo
Từ khi ra đời đến nay, Phật giáo đã trải qua nhiều biến đổi thăng trầm,
không chỉ ở Ấn Độ mà ngay cả ở các nước mà Phật giáo có mặt. Việc tu hành
ở những tín đồ theo đạo Phật rất phong phú đa dạng, nhưng có thể chia thành
hai loại là tu tại gia và tu tại chùa hay tu viện Phật giáo. Những người tu tại
gia gọi là cư sĩ, những người này hàng ngày tụng kinh niệm Phật trong khơng
gian thê tù của gia đình. Những người xuất gia tu hành ở chùa chiền, tu viện
gọi là khất sĩ. Lúc đầu chỉ gồm những nam giới, sau đó, trong q trình phát
triển tăng đồn Phật giáo bổ sung thêm nữ. Dù là cư sĩ hay khất sĩ, họ vẫn
phải tu luyện theo giáo lý, giáo luật của đạo Phật.
2.3.2. Phẩm trật của Phật giáo
Phật giáo chia thành bốn bậc là Sadi, Tỳ kheo, Thượng toạ và Hoà
thượng. Cơ sở của sự phân chia phẩm trật là năng lực trình độ giác ngộ Phật
học của mỗi người và phẩm hạnh uy tín của họ đối với tín đồ đạo Phật. Riêng
với Phật tử Ni khơng có phẩm Thượng toạ, Hoà thượng. Song, ở từng quốc
gia, dân tộc khác nhau thì tên gọi phẩm trật có khác nhau. Mỗi lần lên phẩm
trật mới phải qua thi sát hạch. Càng lên cao thì việc thụ giới, kiểm tra càng
chặt chẽ. Trong các phẩm trật ấy, Hoà thượng là phẩm trật cao nhất, khi được
thụ phong phẩm trật, tổ chức Phật giáo tổ chức rất long trọng.
2.3.3. Hệ thống tổ chức Phật giáo
Là một tôn giáo lớn trên thế giới, số lượng tín đồ đơng nhưng Phật giáo
khơng có một tổ chức Phật giáo thế giới. Nhiều nơi tổ chức hội Phật giáo khu
vực nhưng đó khơng phải là hội Phật giáo thế giới. Việc tổ chức hệ thống tổ
chức Phật giáo hiện nay là tuỳ thuộc vào từng quốc gia dân tộc mà Phật giáo
chi phối, ảnh hưởng tới đời sống tinh thần của xã hội đó. Có quốc gia dân tộc
tổ chức hội Phật giáo riêng của mình như Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam.
Đồng thời, có tỉnh thành lập hội Phật giáo tỉnh. Các hoạt động của Phật giáo
được thực hiện thông qua hoạt động của Hội Phật giáo, của hệ thống nhà
trường đào tạo tăng, ni và của hệ thống nhà chùa. Qua hệ thống hoạt động đó
mà gây ảnh hưởng của Phật giáo tới quần chúng để lôi kéo hoặc củng cố phát
triển tín đồ đạo Phật. Như vậy, hệ thống tổ chức Phật giáo không chặt chẽ mà
đơn giản hơn đạo Kitô nhiều.
Nhận xét chung
69
1. Phật giáo là một trường phái triết học của Ấn Độ cổ đại. Song, tư
tưởng triết học Phật giáo lẫn lộn yếu tố duy vật, duy tâm, yếu tố biện chứng
với siêu hình.
Trong quan niệm về nhân sinh, tư tưởng Phật giáo đặc biệt quan tâm đến
con người và xã hội. Song, tư tưởng Phật giáo lại không thấy nguồn gốc cơ
bản tạo nên nỗi khổ, nỗi bất hạnh của con người và xã hội là áp bức giai cấp,
là sự phân chia đẳng cấp trong xã hội đương thời. Muốn giải thoát con người
khỏi nỗi khổ trần thế nhưng lại không chỉ ra được con đường, phương pháp
đúng đắn là phải tiến hành đấu tranh giai cấp để xố bỏ áp bức, bóc lột, khơng
đi vào hoạt động thực tiễn sản xuất vật chất, tạo ra của cải để ni sống mình
và phát triển xã hội mà bằng con đường tu thiền, tu nhân tích đức. Đó là hạn
chế về thế giới quan, phương pháp luận - hạn chế căn bản nhất của hệ thống
tư tưởng Phật giáo.
2. Dù có nhiều hạn chế, song đặt trong hồn cảnh cụ thể, tư tưởng Phật
giáo có những giá trị tích cực nhất định. Những quan niệm về thế giới, về
nhân sinh đã làm cho nhận thức của con người không xơ cứng, thấy được
những mối quan hệ đa chiều… từ đó tìm ra cách ứng xử giữa người với
người, người với tập thể với cộng đồng một cách tốt hơn, nhõn văn hn.
Nhng t tng kip- nghip, luõn hi, sinh tử, thiện ác… mang màu sắc duy
tâm song ít nhiều giúp con người hạn chế làm điều xấu, tu tích điều tốt làm
điều thiện, gạt bỏ tham dục, ra sức học tập xoá bỏ u mê, xoá bỏ ngu dốt để
bừng sáng về trí tuệ. Trong đó, Phật giáo chủ trương mỗi người phải vươn lên
làm chủ lấy bản thân mình, do bản thân mình quyết định cuộc sống của mình
là chính. Có thể nói, về nhân sinh Phật giáo đề cao chữ "Tâm" (nhất thiết duy
tâm tạo) lấy cái tâm làm trọng. Dưới góc độ cụ thể nhiều người cho tư tưởng
đó là duy tâm, duy ý chí chẳng có ý nghĩa gì. Song, trong cuộc sống, trong
quan hệ xã hội chúng ta cần một chữ Tâm. Người quản lý, lãnh đạo xã hội cần
có tâm để thu phục nhân tâm tạo thành sức mạnh tinh thần vượt qua các biến
cố. Cha mẹ cần có tâm để con cái noi theo. Quan hệ bạn bè, cần có tâm mới
bền vững. Trong nền sản xuất hàng hoá, trong trao đổi, phân phối lưu
thông…chúng ta đều mong muốn mỗi người phải có tâm với nhau. Có được
cái tâm ấy xã hội, gia đình, con người hạnh phúc biết nhường nào.
3. Dưới góc độ văn hố, những lễ hội là một sinh hoạt văn hố tinh thần
của xã hội. Những cơng trình kiến trúc chùa, tháp, những tác phẩm điêu khắc
tượng, tranh trong chùa, những tác phẩm văn học của các nhà sư … đã góp
phần làm phong phó kho tàng văn hóa, nghệ thuật dân tộc, góp phần hình
thành phát triển nhân cách con người Việt Nam và làm phong phú đời sống
tinh thần của xã hội.
4. Về đạo đức, Phật giáo cũng như một số tôn giáo khác, trong tư tưởng
đều bao chứa nội dung đạo đức. Nhiều người cho rằng, đạo đức tôn giáo cao
70
hơn đạo đức xã hội hoặc thậm chí tiến gần tới đạo đức cộng sản chủ nghĩa nên
họ muốn lấy đạo đức tôn giáo để giáo dục cho mọi người. Đó là một nhận
thức phiến diện khơng đầy đủ về đạo đức tơn giáo… Trong hệ thống giáo
luật, ở đó hiện lên thứ đạo đức phục tùng cam chịu chứ không phải là một nền
đạo đức được xây dựng trên nền tảng của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Đồng
thời, họ không thấy sự vận động, biến đổi của đạo đức xã hội trong mỗi giai
đoạn lịch sử và qua mỗi thời đại. Đạo đức cộng sản chủ nghĩa khác về bản
chất so với đạo đức tôn giáo, bởi nền đạo đức cộng sản chủ nghĩa, một nền
đạo đức mà ở đó con người có thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện
chứng làm nền tảng tư tưởng cho ý thức đạo đức. Những hành vi đạo đức là
tự nguyện và con người dám đứng lên đấu tranh để xố bỏ áp bức, bất cơng,
thực hiện sự nghiệp giải phóng cho tồn nhân loại chứ khơng phải là ngồi tu
thiền, tụng kinh, gõ mõ để cầu mong có một xã hội cơng bằng, tốt đẹp.
Chúng ta khơng phủ nhận những giá trị tích cực của đạo đức Phật giáo.
Chúng ta biết kế thừa nó, song khơng phải là sự kế thừa nguyên vẹn, không
chọn lọc.
Ngày nay, tôn giáo đang còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần
chúng nhân dân, đồng thời tôn giáo đang tác động tới đời sống xã hội cả mặt
tích cực và mặt tiêu cực. Thái độ của chúng ta là nhận thức, đánh giá đúng
từng tơn giáo để có giải pháp đúng đắn để ngăn chặn ảnh hưởng tiêu cực của
nó, đồng thời chọn lọc những yếu tố phù hợp vận dụng vào xây dựng phát
triển đời sống tinh thần của đất nước, giữ gìn và phát triển bản sắc văn hố
dân tộc.
KI TƠ GIÁO
1. Khái lược sự ra đời và phát triển
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội và tiền đề tư tưởng
Vào thế kỷ III - II TCN, nhà nước chiếm hữu nô lệ ở LaMã sau khi ra
đời đã liên tục mở các cuộc chiến tranh ra bên ngồi để bành trướng thế lực
của mình. Đến thế kỷ II sau công nguyên, La Mã trở thành một đế quốc rộng
lớn trải dài từ Đông sang Tây, bao gồm bán đảo Italia và các nước vùng Địa
Trung Hải.
Quá trình xâm lăng và thống trị của đế quốc La Mã đối với các quốc gia
nô lệ ở vùng Trung Cận §ơng đã đẩy nhanh sự tan rã của các quốc gia này,
đồng thời, làm sâu sắc thêm sự phân hoá và mâu thuẫn giai cấp trong xã hội.
Do vậy, trong lòng đế quốc La Mã cũng như các quốc gia bị La Mã xâm
chiếm chinh phục nô dịch đã làm cho mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc và
gay gắt. Mâu thuẫn cơ bản, sâu sắc, quyết liệt nhất là mâu thuẫn giữa giai cấp
71
nô lệ với giai cấp chủ nô, giữa các dân tộc bị xâm lược với kẻ xâm lược. Từ
đó đã làm bùng nổ các cuộc khởi nghĩa vũ trang của quần chúng nô lệ chống
lại giai cấp chủ nô và quân xâm lược. Cuộc khởi nghĩa của nô lệ do
Xpáctaquýt lãnh đạo vào năm 73-71 TCN làm cho chế độ chiếm hữu nô lệ La
Mã lún sâu vào cuộc khủng hoảng về mọi mặt. Song, đế quốc La Mã lúc đó
cịn rất mạnh, đã thẳng tay đàn áp tàn bạo cuộc khởi nghĩa của nô lệ. Bị thất
bại, mệt mỏi, tuyệt vọng, bi quan trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nô và đế
quốc La Mã, quần chúng nô lệ buộc phải tìm chỗ dựa phi trần thế, vào lực
lượng siêu nhiên để có sức mạnh đánh đổ đế quốc, xây dựng xã hội cơng
bằng. Đó chính là ngun nhân kinh tế -xã hội dẫn đến sự ra đời của Kitơ
giáo.
Về tiền đề tư tưởng, tín ngưỡng. Sự ra đời của Kitơ giáo cịn dựa trên cơ
sở thần học đạo Dothái; tư tưởng triết học Hy Lạp và La Mã cổ đại; những
yếu tố tín ngưỡng, tơn giáo của các dân tộc vùng Trung Cận Đông.
Ở đạo Dothái, Kitô giáo tiếp thu, kế thừa những tư tưởng về lịch sử sáng
thế, tội tổ tông, màu nhiệm đức Chúa Trời, thiên đường và địa ngục, thiên
thần và ma quỷ. Với triết học Hy Lạp và La Mã cổ đại, Kitô giáo tiếp thu tư
tưởng triết học khắc kỷ của Sênếc và Phulông. Phulông cho rằng, mọi suy đồi
về đạo đức, các tệ nạn xã hội là do con người gây ra, vì thế Phulơng chủ
trương con người phải sống nhẫn nhục và không ngừng sám hối và phải biết
chờ đợi một "đấng cứu thế" để cứu vớt tội lỗi cho con người. Còn Sênếc cho
rằng, cuộc đời nơi trần thế là giả dối, hạnh phúc và bình đẳng chỉ có ở thế giới
bên kia nên ông khuyên mọi người hãy bỏ lạc thú, sống thanh đạm, đạo đức
và tin vào sự an bài của Thượng đế. Tư tưởng của Sênếc và Phulơng đã có
ảnh hưởng khơng nhỏ tới Kitơ giáo, vì thế mà Ăngghen cho "Sênếc là người
chú" và "Phulông là người cha" của đạo Kitô.
Như vậy, Kitô giáo ra đời vừa là sản phẩm tinh thần của quần chúng
trước tình trạng bi đát và thất vọng trong cuộc sống, vừa là sự phản ứng của
nơ lệ trước chính sách áp bức, bóc lột của giai cấp chủ nơ. Đồng thời, dựa trên
cơ sở thần học của đạo Dothái, tư tưởng triết học Hy Lạp, La Mã cổ đại và
các yếu tố tín ngưỡng của các dân tộc vùng Trung cận đông.
1.2.Người sáng lập đạo Kitô
Theo thánh kinh của Kitô giáo thì Giêsu là người sáng lập và ơng sinh
vào năm 1 của công nguyên.
Giêsu là người thông minh, hiếu thảo, từng học đạo Dothái. Năm 30 tuổi,
Giêsu bắt đầu truyền bá tôn giáo mới do ông khởi xướng. Sau ba năm truyền
đạo, các giáo trưởng đạo Dothái cho Giêsu là kẻ chống lại tơn giáo truyền
thống, cịn chính quyền La Mã cho Giêsu là kẻ tuyên truyền tư tưởng chống
lại nhà nước La Mã. Ông đã bị nhà cầm quyền La Mã và Hội đồng tăng lữ ở
72
Giêruxalem bắt xử và bị hình phạt đóng đinh trên cây thập giá ở núi Canve
gần Giêruxalem với lời nhạo báng: Đây là GiêsuNagiarét- Vua nước Giuđê,
khi đó Giêsu mới 33 tuổi và các môn đệ đã táng xác ông trong hang đá lạnh.
Tương truyền rằng, sau khi an táng được ba ngày thì Giêsu sống lại, 40 ngày
sau Giêsu về Trời và sau đó 10 ngày Chúa Trời lại phái ngơi thứ ba của mình
dưới dạng thánh thần xuống trần để ban phước cho học trò của Giêsu và dạy
họ biết nhiều thứ ngôn ngữ để đi truyền đạo.
1.3. Q trình phát triển
Lúc đầu, Kitơ giáo xuất hiện dưới hình thức các cộng đồng nhỏ gồm
những người nghèo khổ trong dịng người Dothái lưu tán ở vùng Tiểu ¸ và
sinh hoạt tơn giáo dưới bóng của đạo Dothái để tránh sự săn lùng, cấm đốn
của chính quyền La Mã. Về sau, do sự phát triển, các cộng đồng Kitô giáo lớn
thay thế các cộng đồng Kitô giáo nhỏ và nó vượt ra khỏi tính cách Dothái trở
thành một tơn giáo độc lập. Về phương diện xã hội, Kitô giáo xuất hiện với tư
cách là tôn giáo của những người nghèo, người nô lệ của các dân tộc bị áp
bức bị La Mã xâm lược. Bởi vậy, các cộng đồng Kitô giáo ban đầu rất coi
trọng lao động, ghét áp bức, bóc lột, căm ghét đế quốc La Mã và cầu nguyện
để đế quốc La Mã sớm bị diệt vong.
Từ thế kỷ thứ II trở đi, cùng với sự suy yếu, tan rã của chế độ chiếm hữu
nô lệ, nhiều người thuộc tầng lớp bóc lột, giàu có theo đạo Kitô đã gây ra
những thay đổi về nội dung, tư tưởng, tổ chức của cộng đồng Kitơ giáo. Ví
như, người ta cho rằng, những kẻ giàu có lên thiên đàng bằng cách bố thí của
cải mà khơng cần phải từ bỏ bóc lột và của cải của họ (vì trước đây đạo Kitơ
cho rằng người giàu lên thiên đàng khó khăn như con lạc đà chui qua lỗ kim).
Chính quyền La Mã đã không dửng dưng trước sự chuyển biến ấy, vì nhìn
thấy Kitơ giáo có hai điều lợi. Thứ nhất Kitơ giáo có khả năng tập hợp được
đơng đảo quần chúng nô lệ. Thứ hai nếu nắm được Kitô giáo thì có khả năng
cứu vãn được chế độ La Mã đang suy vong. Do vậy, năm 313 Hồng đế
Cơngxtăngtin với sắc chỉ Milăng đã tuyên bố đạo Kitô là quốc đạo của đế chế
La Mã và trao trả lại tài sản đã bị tịch thu trước đây cho giáo hội.
Cơngxtăngtin cịn cho xây dựng một thủ đơ mới ở phương Đông đế quốc La
Mã là Côngxtăngtintinốp (nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ) và đây cũng là trung tâm
Kitô giáo lớn thứ hai của đế quốc La Mã. Năm 325, giáo hội La Mã chính
thức được thành lập ở tây La Mã. Như vậy, Kitô giáo từ một tôn giáo địa
phương nay trở thành một tôn giáo lớn và trở thành cơng cụ nơ dịch, bóc lột
quần chúng lao động.
Kitơ giáo thời trung cổ được xác định từ năm 476 với sự suy vong của đế
quốc tây La Mã. Do biết lợi dụng tình hình khơng ổn định về kinh tế, chính trị
xã hội ở Tây Âu, giáo hội đã tích cực mở rộng ảnh hưởng tới các bộ tộc,
vương quốc nhỏ yếu kém để truyền đạo và lập nên thánh quốc La Mã (cuối
73
thế kỷ VIII đầu thế kỷ IX). Giữa thế kỷ XI, một sự kiện lớn trong đạo Kitơ
xảy ra, đó là sự chia rẽ về tổ chức giáo hội giữa Rôma (giáo hội Tây) và giáo
hội Côngxtăngtinốp (giáo hội Đông) hình thành nên chính thống giáo ở
phương Đơng (1054).
Cùng với sự phân liệt tổ chức giáo hội, thời kỳ này còn diễn ra nhiều
cuộc thánh chiến (Thập tự chinh) do giáo hội và vua chúa phong kiến Châu
Âu tiến hành. Trong khoảng 200 năm, từ 1096 đến 1254 đã có 7 cuộc thánh
chiến lớn và nhiều cuộc thánh chiến nhỏ
Từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIII là giai đoạn đo sức quyết liệt giữa thần
quyền và thế quyền. Nối tiếp đó, từ thế kỷ XIV về sau, nội bộ giáo hội Rôma
lại nảy sinh những bất đồng do sự xuất hiện những quan niệm mới của các
giáo sĩ tiến bộ như Calvin ( 1509-1546) Luther ( 1483- 1546) Muntzer (14901525). Đặc biệt có sự kết hợp với cuộc khởi nghĩa của nông dân Đức ( 15091564) mà dẫn đến sự ra đời của Đạo Tin lành ( thế kỷ XVI).
Bước sang thời kỳ cận, hiện đại, Kitô giáo không cịn giữ vai trị chi phối
đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, tư tưởng ở châu Âu như thời trung cổ. Để
bù lại thế lực suy giảm, giáo hội Kitơ đã thực hiện một chương trình truyền
giáo với một qui mô lớn đến hầu hết các nước châu Phi, châu Á, châu Mỹ
Latinh. Trong lịch sử giáo hội, đây là giai đoạn truyền giáo thứ ba và là giai
đoạn đem lại nhiều kết quả nhất.
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, thời kỳ cận, hiện đại xuất hiện nhiều
trào lưu tư tưởng mới, tiến bộ, khoa học phát triển tác động mạnh mẽ tới đời
sống xã hội và nhận thức của con người về thế giới. Điều đó làm cho vai trị
tư tưởng Kitơ giáo càng hạn chế. Đặc biệt, từ giữa thế kỷ XIX, học thuyết chủ
nghĩa cộng sản khoa học ra đời, từ một học thuyết nó đã trở thành hiện thực
với hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa vào đầu thế kỷ XX. Sự ra đời, phát
triển của chủ nghĩa cộng sản khoa học là một bước ngoặt trong lịch sử tư
tưởng nhân loại, có ý nghĩa lớn lao giúp cho con người có cơng cụ nhận thức
và cải tạo thế giới đạt hiệu quả cao. Điều đó tác động tới giáo hội Kitơ giáo và
giáo hội đã phản ứng mạnh mẽ chủ nghĩa cộng sản khoa học cả về mặt tư
tưởng và mặt hiện thực xã hội. Giáo hội Kitô giáo đã ra nhiều thơng điệp, sắc
lệnh… để phạt vạ, tuyệt thơng víi cộng sản và tuyên bố công khai chống cộng
sản.
Trước sự phát triển của ba dòng thác cách mạng và sự phát triển mạnh
mẽ của khoa học, kỹ thuật làm cho sự vận động biến đổi của đời sống xã hội
nhanh chóng nên giáo hội tìm mọi cách làm cho Kitơ giáo thích ứng với đời
sống hiện thực. Vì vậy, giáo hồng Gioan 23 đã triệu tập họp cộng đồng 21
(1963-1965) gọi là cộng đồng Vatican 2 để điều chỉnh, hướng dẫn hoạt động
tôn giáo cho phù hợp với thực tiễn đang vận động.
74
Hiện nay, trước sự vận động của các tôn giáo trên thế giới, Kitơ giáo tìm
mọi cách để đi theo xu hướng "Tồn cầu hố", nhưng điều đó khó có thể xảy
ra, mặc dù Kitô giáo là một tôn giáo lớn.
2.2. Giáo lý, giáo luật, lễ nghi
2.2.1. Giáo lý
Giáo lý Kitô giáo chứa đựng trong hai bộ kinh thánh là kinh "Cựu ước"
và kinh "Tân ước". Kinh "Cựu ước" là bộ dã sử của dân tộc Dothái và là kinh
thánh của đạo Dothái, gồm 46 quyển chia làm 3 loại: Sách lịch sử, sách văn
thơ, sách tiên tri (sấm ký).
Kinh" Tân ước" gồm 27 quyển kể về cuộc đời, sự nghiệp của Giêsu, hoạt
động của các thánh tông đồ, những lời dạy, chỉ bảo của Giêsu và của các
thánh tông đồ đối với con người, gồm 4 loại: Sách tin mừng (phúc âm), sách
công vụ sứ đồ, sách thánh thư, sách khải huyền của thánh Gioan.
Giáo lý Kitô giáo nổi lên một số nội dung cơ bản sau.
Quan niệm về thế giới:
Tín điều căn bản đầu tiên của Kitơ giáo là niềm tin vào Thiên Chúa và sự
mầu nhiệm của Thiên Chúa. Theo giáo lý, Thiên Chúa có trước tất cả và có ba
ngơi. Ngơi thứ nhất là đức chúa cha. Ngôi thứ hai là đức chúa con, ngôi thứ
ba là đức chúa thánh thần. Tuy ba ngôi nhưng cùng một bản thể là Thiên
Chúa (tam vị nhất thể). Mỗi ngơi có một vị trí khác nhau; ngơi một: Tạo
dựng; ngơi hai: Cứu chuộc, ngơi ba: Thánh hố. Thiên Chúa là đấng sáng tạo
nên trời đất, mn lồi trong vịng sáu ngày. Ngày thứ nhất tạo nên sự sáng
tối, đặt tên sự sáng là ngày, sự tối là đêm. Ngày thứ hai tạo ra không gian
quen gọi là trời. Ngày thứ ba tạo ra đất, nước, cây cỏ. Ngày thứ tư tạo nên các
tinh tú trên trời làm cơ sở phân chia ngày, đêm, tháng năm, thời tiết, trong đó
có hai tinh tú lớn là mặt trời cai trị ban ngày, mặt trăng cai quản ban đêm.
Ngày thứ năm tạo ra muôn vật: chim trên trời, cá dưới nước, muông thú trong
rừng. Ngày thứ sáu tạo ra con người. Ngày thứ bảy, sau khi hồn thành cơng
việc sáng tạo của mình, Thiên Chúa nghỉ ngơi (ta quen gọi là ngày Chúa nhật
hay ngày Chủ nhật).
Giáo lý Kitơ cịn cho rằng, Thiên Chúa quyết định sự sinh tồn và vận
động biến đổi của mọi sự vật hiện tượng trong thế giới, kể cả con người, từng
quốc gia dân tộc cũng như toàn nhân loại.
Về con người, theo quan niệm của đạo Ki tô, con người do Thiên Chúa
tạo dựng nên theo hình ảnh của mình, có nhiệm vụ thờ phụng Thiên Chúa và
tiếp tục công việc kiến tạo trái đất của Thiên Chúa. Theo truyền thuyết, con
người đầu tiên được Thiên Chúa tạo nên bằng cách lấy đất nặn ra một người
nam thổi sinh khí vào đó và trở thành người sống. Người đó tên là Ađam. Sau
khi có Ađam, nhân lúc Ađam ngủ say, Thiên Chúa đã rút một chiếc xương
75
sườn và tạo ra một người nữ, đặt tên là Êva. Đạo Kitơ cho rằng, trong các
cơng trình sáng tạo của Thiên Chúa, con người là sản phẩm hoàn hảo và tuyệt
mỹ nhất. Bởi, con người có trí khơn, có lương tâm, tình cảm, đạo đức nên làm
chủ thế giới và mn lồi, vì thế mà được Thiên Chúa thương u và q
nhất. Con người có hai phần, phần thể xác và phần linh hồn, sau khi con
người chết, thể xác trở về với cát bụi, còn linh hồn sẽ tồn tại vĩnh viễn.
Giáo lý đạo Kitô cũng cho rằng, đến một ngày kia thế giới sẽ bị huỷ diệt,
con người sẽ chết hết. Song, từ trong tro bụi loài người lại được sống lại. Khi
đó chúa Giêsu lại giáng trần lần nữa để có "lời phán xét cuối cùng" gọi là
ngày phán xét chung. Nếu ai khơng có tội sẽ lên Thiên đường sống sung
sướng mãi mãi như thời Ađam, Êva, cịn ai có tội sẽ bị đày xuống §ịa ngục để
tra tấn, hành hạ.
2.2.Luật lệ, lễ nghi
2.2.1.Luật lệ
Luật lệ Kitơ giáo có nhiều, song tập trung chủ yếu trên một số luật cơ
bản sau:
Thứ nhất, 10 điều răn của Thiên Chúa: Phải thờ kính Thiên Chúa trên hết
mọi sự; không được lấy danh Thiên Chúa để làm việc phàm tục, tầm thường;
giành ngày chủ nhật để thờ phụng Thiên Chúa; thảo kính với cha mẹ; khơng
được giết người; không được dâm dục; không được gian tham lấy của người
khác; không được làm chứng dối, che dấu sự gian dối; không được ham muốn
(vợ, chồng) người khác; không ham muốn của trái lẽ.
Thực chất 10 điều răn trên nói lên hai vấn đề được coi là tín chỉ của đạo
Kitơ là kính Chúa và u Người.
Thứ hai, sáu điều răn của giáo hội: Xem lễ ngày chủ nhật và các ngày lễ
buộc; kiêng việc xác ngày chủ nhật; xưng tội mỗi năm một lần; chịu lễ mùa
phục sinh; giữ chay những ngày qui định; kiêng ăn thịt những ngày qui định.
Thứ ba, bảy phép bí tích.
- Bí tích rửa tội, mục đích để rửa sạch tội tổ tơng truyền trở thành tín đồ
đạo Kitơ, để được gia nhập hội thánh và được tái sinh trong ngày phán xét.
- Bí tích thêm sức, để cho tín đồ được ơn Chúa thánh thần mà liên kết
chặt chẽ với giáo hội, vững lịng tin để đi vào đời sống tín ngưỡng.
- Bí tích giải tội, nhằm tha thứ những tội lỗi mà con người mắc phải.
- Bí tích thánh thể (gọi là phép mình thánh chúa). Là sự tái diễn việc
chúa Giêsu đã hiến thân thể cho sự nghiệp cứu chuộc.
- Bí tích xức dầu thánh, được thực hiện đối với bệnh nhân Kitô giáo
trong cơn nguy kịch để xin Thiên Chúa nâng đỡ và cứu vớt.
- Bí tích truyền chức thánh, được thực hiện cho tín đồ có ơn riêng của
76
Thiên Chúa trở thành thừa tác viên (giám mục, linh mục, phó tế) thay mặt
Thiên Chúa để chăn dắt tín đồ.
- Bí tích hơn phối, là sự nhìn nhận của Thiên Chúa đối với việc chung
sống trọn đời của một nam, một nữ đã chịu phép rửa tội, làm tăng thêm tính
bền vững trong hơn nhân và quan hệ gia đình tín đồ Kitơ giáo.
Ngồi những nội dung trên, giáo hội Kitơ giáo cịn có những qui định
trong các quan hệ đối với linh hồn, đồng loại và với bản thân mình như: Lấy
điều thiện mà khuyên người; hướng dẫn cho kẻ mê muội; tha thứ cho kẻ
khinh rẻ mình; nhịn kẻ xúc phạm đến mình; răn bảo kẻ tội lỗi; an ủi người lo
âu; cầu nguyện cho người sống và người chết; cho kẻ đói ăn, kẻ khát uống, kẻ
rách mặc; cho khách ở nhà, cho người làm thuê; thăm người hoạn nạn, an
táng người chết; khiêm nhường không hà tiện, đoan chính, khơng tị hiềm;
siêng năng, ăn uống điều độ.
2.2.2.Các ngày lễ chính
Đạo Kitơ có nhiều ngày lễ trong một năm ( tính theo dương lịch) với
nghi lễ và ý nghĩa khác nhau, trong đó có 6 ngày lễ buộc tín đồ phải nghỉ
phần xác để tham dự:
- Lễ sinh nhật chúa Giêsu 25-12 ( Nô-en)
- Lễ phục sinh kỷ niệm chúa Giêsu sống lại vào một ngày của tháng 4.
- Lễ Chúa Giêsu lên Trời sau lễ Phục sinh 40 ngày.
- Lễ chúa thánh thần hiện xuống sau lễ chúa Giêsu lên trời 10 ngày.
- Lễ đức bà Maria hồn và xác lên trời ngày 15-8.
- Lễ các thánh ngày 1-11.
Ngồi ra, giáo hội cịn chia một năm thành từng tháng, mùa để làm chủ
đích cho sinh hoạt tơn giáo và hoạt động của tín đồ như tháng 3 là tháng kính
thánh cả Giuse; tháng 5 dâng hoa kính đức bà Maria, tháng 11 cầu nguyện
cho các linh hồn …
2.3. Tổ chức giáo hội Kitô giáo
Đạo Kitô có hệ thống tổ chức chặt chẽ bao gồm hệ thống điều khiển hoạt
động của giáo hội và hệ thống các dòng tu.
- Giáo triều Vatican; nhà thờ địa phận; giáo tỉnh; giáo miền; giáo xứ và
giáo hạt.
Trong hệ thống tổ chức ấy, Vatican là tổ chức cao nhất của đạo Kitô.
Vatican được coi là cơ quan đầu não, được tổ chức như một bộ máy nhà nước
thế quyền. Giáo triều Vatican có các cơ quan như:
+ Văn phịng thư ký giáo hoàng.
+ Các thánh bộ của giáo triều (12 bộ).
77
+ Các tồn án giáo triều gồm: Tịa ân giải, tịa thượng thẩm, tịa chung
thẩm.
+ Các hội đồng giáo hồng như: Hội đồng giáo hoàng đặc trách giáo
dân; hội đồng gia đình đặc trách gia đình; hội đồng giáo hồng hợp nhất
những người thờ chúa Kitơ; héi đồng giáo hồng đối thoại với những người
khơng tín ngưỡng; hội đồng giáo hoàng phụ trách mục vụ dân du mục; hội
đồng giáo hồng phụ trách về truyền thơng xã hội, về văn hố, về giải thích
văn bản, về y tế…
Về hàng phẩm trật: có Giáo hồng; Hồng y Giáo chủ; TổngGiám mục,
Giám mục, Linh mục… Tuỳ theo tính chất của sự ảnh hưởng tới đời sống xã
hội ở mỗi quốc gia, hệ thống tổ chức nhà thờ; năng lực của tín đồ mà được
phong sắc đến đâu và có những hàng giáo phẩm nào.
Nhận xét chung
1. Kitô giáo ra đời vừa là sản phẩm tinh thần của quần chúng nơ lệ trước
tình trạng bi đát và thất vọng vào cuộc sống vừa là sự phản ứng của nơ lệ
trước chính sách áp bức, bóc lột của giai cấp chủ nơ. Đồng thời, dựa trên cơ
sở thần học của đạo Do thái, tư tưởng triết học duy tâm và các yếu tố tín
ngưỡng của các dân tộc Trung Cận Đơng. Điều này nói lên nguồn gốc của tôn
giáo, đồng thời cũng là một qui luật về sự ra đời, tồn tại, phát triển của tơn
giáo nói chung và của các tơn giáo cụ thể.
Về mặt xã hội, khi mới xuất hiện với tính cách là tôn giáo của những
người nô lệ, của các dân tộc bị áp bức bóc lột, lên án kẻ giàu có, làm cho con
người có ước mơ được giải phóng khỏi áp bức, khỏi thân phận nơ lệ.
2. Trong q trình phát triển, Kitơ giáo đã bị đế quốc La Mã lợi dụng
làm công cụ ru ngủ, lừa bịp, trấn áp, mê hoặc người nghèo. Suốt thời kỳ trung
cổ, sự kết hợp chặt chẽ giữa thần quyền và vương quyền, nhà thờ Kitô giáo, tổ
chức giáo hội cùng nhà nước phong kiến đã gây nên khơng ít tội lỗi đối với
nhân dân, kéo lùi sự phát triển của xã hội loài người. Đến khi học thuyết về
chủ nghĩa xã hội khoa học của Mác, Ăngghen, Lênin ra đời có vai trị to lớn
trong đời sống hiện thực thì giai cấp tư sản lỗi thời phản động đã sử dụng tư
tưởng và tổ chức giáo hội Kitô để chống phá cách mạng xã hội chủ nghĩa, thù
hằn và tìm cách tiêu diệt những tín đồ tiến bộ cách mạng, nhất là những nhà
khoa học, nhà cách mạng.
3. Giáo lý Kitô là một hệ thống quan điểm duy tâm, thần bí. Quan niệm
thế giới là do Thiên Chúa sáng tạo ra là một bước thụt lùi về nhận thức so với
Phật giáo. Việc Thiên Chúa sáng tạo ra con người, xă hội loài người, sáng tạo
ra các dân tộc khác nhau trên thế giới là một điều nhảm nhí. Đặc biệt, quan
điểm về ngày phán xét cuối cùng, ngày lụi tàn của thế giới và sự sống lại của
78
loài người là một quan điểm phản động, phản khoa học. Những quan điểm đó
thực chất nhằm trói buộc tư tưởng con người, thân phận con người vào một
lực lượng siêu nhiên, mơ tưởng vào một cuộc sống hoang đường sau khi chết
mà quên đi thân phận bị áp bức bóc lột, bị đè nén do giai cấp bóc lột gây ra.
Họ khơng dám đấu tranh để xố bỏ áp bức bóc lột ấy, vì họ sợ khi chết khơng
được lên thiên đường để sống sung sướng như Ađam, Êva mà bị đày xuống
địa ngục để quỉ dữ tra tấn hành hình. Mặt khác, truyền thuyết về việc chúa
Giêsu xuống trần và chịu nạn, chịu chết là nhằm gieo vào tín đồ đạo Kitơ lịng
biết ơn Thiên Chúa. Bởi Giêsu xuống trần là để cứu chuộc tội lỗi cho mọi
người và Giê su chết là để cho nhân loại được sống, cịn xã hội hiện tại khơng
phải là xã hội tốt lành cao đẹp nhưng con người phải cam chịu, chấp nhận.
4. Giáo luật Kitô giáo thể hiện tập trung ở 10 điều răn của Thiên Chúa, 6
điều răn của giáo hội ở một số qui định khác và 7 phép bí tích của Giêsu. Nội
dung của giáo luật chủ yếu là những qui định, chuẩn mực đạo đức mà tín đồ
Kitơ giáo phải tn theo nhằm đạt tới kính chúa và u người. Những nội
dung đó nói lên tình thương yêu con người và mong muốn có một cuộc sống
tốt đẹp. Điều đó tạo nên một giá trị đạo đức nhất định không chỉ trước đây mà
cả ngày nay. Song, trên thực tế khơng phải mọi tín đồ, mọi chức sắc Kitô giáo
đều thực hiện tốt điều này. Bên cạnh đa số tín đồ, chức sắc đã thực hiện sống
tốt đời, đẹp đạo vẫn còn một bộ phận bị lừa dối, bị lợi dụng, bị lơi kéo, thâm
chí một số chức sắc vì lợi ích cá nhân, vì tham vọng chính trị đã trở thành kẻ
phản Chúa, phản dân, trở thành bạn đồng hành của các thế lực phản động.
Nghi lễ của đạo Kitô là những điều hoang tưởng, thần bí như rửa tội, xức
dầu thánh, ăn bánh thánh… Những nghi lễ ấy đều bắt nguồn từ tín ngưỡng
nguyên thuỷ, nhất là phép phù thuỷ.
Nghi lễ chính của đạo Kitô là lễ Misa - một hoạt động theo kiểu nhà hát
kèm theo niệm thần chú, đọc kinh, làm dấu, đốt đèn, kèn, nhạc… Mục đích
của những buổi lễ Misa là để tác động thường xuyên tới lý trí và tình cảm của
tín đồ, kích dậy lịng tin của họ vào đấng siêu nhiên là Thiên Chúa. Tuy vậy,
trong quá trình truyền đạo, đã có khơng ít những tín đồ, tăng lữ đạo Kitô đã đi
đầu trong sự nghiệp khai sáng cho những quốc gia, dân tộc mà đạo Kitô có
mặt. Đồng thời, có những tăng lữ đạo Kitơ trở thành lãnh tụ tinh thần của
quần chúng trong đấu tranh chống lại sự bất công, sự xâm lược của kẻ thù.
5. Về mặt chính trị xã hội, Kitơ giáo là một tổ chức thường bị các thế lực
phản động lợi dụng, lôi kéo để chống phá cách mạng. Mặt khác, Kitơ giáo cịn
thể hiện tính chất cơ hội trước những điều kiện xã hội, sự vận động của hoàn
cảnh và gắn bó chặt chẽ tín ngưỡng với chính trị xã hội. Ví như từ 11-10-1962
đến 8-12-1965, Vaticăng do Giáo hồng Gioan XXIII chủ trì, đã triệu tập bốn
cuộc họp lớn để sửa đổi giáo lý, luật lệ, lễ nghi, tổ chức và phương thức hoạt
động phù hợp với thế giới hiện đại, trong thời gian đó giáo hội Kitơ giáo cũng
79
ra quyết định cho tín đồ, gia đình tín đồ được lập bàn thờ để thờ cúng tổ tiên.
Hiện nay, Kitô giáo vẫn là một tôn giáo lớn, là một tổ chức phức tạp.
Mọi nỗ lực điều chỉnh tổ chức, phương thức hoạt động của tôn giáo này đều
nhằm vào mục đích lơi kéo tín đồ, giữ chặt tín đồ, làm cho tín đồ miễn dịch
trước sự tác động của tư tưởng cộng sản chủ nghĩa trong đời sống và làm cho
tín đồ tin vào Thiên Chúa và sự mầu nhiệm của Thiên Chúa.
HỒI GIÁO
Hồi giáo là cách gọi của người Hán đối với các dân tộc thiểu số thờ
thánh Ala và Mơhamét ở phía bắc Trung Quốc. Hồi giáo theo tiếng Ảrập là
Ixlam, có nghĩa là phục tùng.
1. Khái lược về sự ra đời và phát triển của Hồi giáo
1.1. Điều kiện kinh tế, chính trị-xã hội, tư tưởng
Hồi giáo xuất hiện ở bán đảo Ảrập vào đầu thế kỷ VII. Bán đảo Ảrập
nằm giữa châu Phi và châu Á với diện tích bằng 1/3 diện tích của châu Âu.
Thế kỷ V trước công nguyên khi con đường buôn bán nối các nước vùng Địa
Trung Hải với Ấn Độ và Trung Quốc đi qua Ảrập đã làm cho khu vực này có
những biến đổi quan trọng. Sự giao lưu bn bán, sự phát triển của nền kinh
tế hàng hố đã chấm dứt thời kỳ du mục của cư dân Ả rập Bêdoanh để định
cư ở một số ốc đảo, đồng thời thúc đẩy cư dân Ả rập tham gia vào con đường
buôn bán Tây - Đông cả trên đường bộ và đường biển. Một số trung tâm kinh
tế văn hoá lớn như Mécca, Mêđina, Taiphơ (nay thuộc Arậpxêút) được hình
thành và phát triển. Sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá đã làm thay đổi cơ
cấu xã hội cũ của người Ảrập. Những quan hệ thị tộc, bộ lạc lỗi thời nay được
thay bằng những quan hệ mới dựa trên sự bất bình đẳng về sở hữu tài sản, đó
là quan hệ giữa chủ nơ và nơ lệ, địa chủ phong kiến và nông dân. Đặc biệt,
đầu thế kỷ thứ VII, con đường buôn bán Đông- Tây trước đây đã làm lợi cho
giai cấp chủ nô, bọn địa chủ phong kiến, nay chuyển sang vùng vịnh Batư
thuộc quyền kiểm soát của đế quốc Batư, đã làm ảnh hưởng đến kinh tế trong
vùng. Các thành phố lớn như Mếcca, Mêđina, Taiphơ… bị suy tàn, những kẻ
có thế lực trước đây nhờ việc thu thuế của các đoàn thương nhân mà trở nên
giàu có, nay miếng mồi ngon đó đã thuộc quyền kiểm sốt của Batư. Trước
tình hình đó, bọn chủ nô đã thay đổi cách thức làm giàu bằng cho vay nặng lãi
và bóc lột nơ lệ thậm tệ hơn. Bởi vậy, mâu thuẫn giữa giai cấp chủ nô và nơ lệ
ngày càng gay gắt, địi hỏi cần phải giải quyết cấp bách. Đã thế, lúc này Ảrập
lại đứng trước nguy cơ xâm lược của đế quốc Bizăngxơ từ phía Tây và đế
quốc Batư từ phía Đơng. Trước bối cảnh ấy, những người thuộc tầng lớp trên
trong xã hội nhận thấy cần thiết phải có một chính quyền tập trung vững
mạnh để đủ sức thống nhất các bộ lạc, đảm bảo nền kinh tế độc lập của dân
80
tộc, để thống trị bóc lột quần chúng, để khơi phục con đường buôn bán ĐôngTây và tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược ra nước ngoài. Về phương
diện tư tưởng, tín ngưỡng, tơn giáo cũ của các bộ lạc chủ yếu là thờ đa thần,
giờ đây nó khơng những không đáp ứng được nhu cầu của mọi người mà cịn
cản trở khuynh hướng thiết lập một chính quyền tập trung đủ mạnh và xâm
lược ra nước ngồi… Đó chính là cơ sở tư tưởng dẫn tới sự ra đời một tôn
giáo mới, tôn giáo thờ nhất thần.
Như vậy, sự ra đời của Hồi giáo được thúc đẩy bởi các nguyên nhân kinh
tế, chính trị - xã hội và tư tưởng, với sự chuyển biến từ hình thái kinh tế xã
hội cộng sản nguyên thủy sang hình thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ và
yêu cầu thống nhất các bộ lạc trong bán đảo Ảrập thành một nhà nước phong
kiến thần quyền.
1.2. Người sáng lập đạo Hồi
Theo truyền thuyết, người sáng lập Hồi giáo là Môhamét, người của bộ
tộc Curét. Ông sinh ra tại Mếcca và mồ côi cha mẹ sớm nên không được học
hành. Tuổi thiếu niên lận đận phải đi chăn gia súc thuê và dẫn đường cho
thương khách đi qua sa mạc nguy hiểm để kiếm sống. Do q trình bn bán,
dẫn thương khách, Mơhamét có điều kiện tiếp xúc với những người theo đạo
Dothái và Kitơ giáo, họ nói đến Thượng đế duy nhất và ông đã bị lôi cuốn vào
thuyết thờ nhất thần. Dằn vặt, khổ tâm về những hoạt động bóc lột thiếu đạo
đức của bọn chủ nô, thông cảm với nỗi đau khổ của những người bị bóc lột,
ơng theo gương những người ẩn tu Kitơ giáo và tìm đến hang Hari ở gần
Mếcca để suy ngẫm và chiêm nghiệm. Mơhamét cho rằng, mỗi dân tộc phải
có một người tiên tri của mình và ơng là tiên tri của người Ảrập.
Theo truyền thuyết, năm 610 khi Môhamét 40 tuổi, trong một buổi chiều,
khi đang suy ngẫm ông nghe Tổng lãnh thiên thần Giêbrien gọi và thông
báo:"Môhamét, ông được Thượng đế chọn làm sứ giả của Người". Ông vừa
sợ vừa lo nhưng được Khađia và Phatima động viên, từ đó Khađia, Phatima,
cùng với Ali (con Phatima) trở thành những bổn đạo đầu tiên của tiên tri
Môhamét. Sau một thời gian truyền đạo, năm 632 ơng đột ngột chết, thọ 62
tuổi.
1.3.Q trình phát triển và một số hệ phái Hồi giáo
1.3.1.Quá trình phát triển
Hồi giáo ra đời ở Mếcca Arập nhưng không được các bộ tộc chấp nhận
ngay mà phải trải qua một thời kỳ đấu tranh để xác lập vị trí. Nguyên nhân, do
những người cầm đầu bộ lạc, các chủ nơ giàu có lo sợ Mơhamét truyền bá Hồi
giáo sẽ làm đảo lộn, phá vỡ những tín ngưỡng thờ cúng thần thánh ở địa
phương, ảnh hưởng tới buôn bán kinh doanh của họ. Mặt khác, nhiều người
thất vọng bởi tín ngưỡng, tôn giáo mới không đáp ứng nguyện vọng trước mắt
81
của họ mà chỉ hứa hẹn chung về sự giải thốt ở thế giới bên kia. Trước tình
hình đó, Mơhamét và nhóm Hồi giáo ít ỏi phải lánh sang Iaxríp vùng Mêđina
và hoạt động ở đây. Qua một thời gian hoạt động, Hồi giáo dần dần được xác
lập và tháng 7 năm 622 được coi là ngày mở đầu của kỷ nguyên Hồi giáo.
Một hội thánh ở Mêđina được thành lập mang tính chất của một tổ chức siêu
thị tộc, vừa làm việc vừa phục vụ tôn giáo và chuẩn bị lực lượng quân sự để
đánh chiếm Mếcca.
Từ năm 622 đến 630, bằng những hoạt động quân sự kết hợp với chính
trị và ngoại giao, Mơhamét và những người Hồi giáo ở Mêđina đã chiếm
được Mếcca và truyền bá Hồi giáo ở đó. Một năm sau, các bộ lạc trên bán đảo
Arập đều biểu lộ sự quy thuận Hồi giáo.
Mặc dù đã xác lập được vị trí trong xã hội Arập nhưng Hồi giáo vẫn
chưa từ bỏ tham vọng bành trướng sang các dân tộc khác. Từ năm 636 Hồi
giáo tiến hành viễn chinh xâm lược đến các nước Xiri, ¸cmêni, Irắc và truyền
bá Hồi giáo ở đó. Đầu thế kỷ X, Hồi giáo truyền vào châu Phi; thế kỷ XI, Hồi
giáo trở thành một tơn giáo lớn thống sối các dân tộc từ Địa Trung Hải đến
vịnh Ba Tư. Đến thế kỷ XIV dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ theo Hồi giáo tấn công đế
quốc Bizăngxơ lập đế quốc ètaman, kéo theo nhiều nước đi theo Hồi giáo.
Thế kỷ XV,XVI Hồi giáo đẩy mạnh việc truyền giáo sang Inđônêxia,
Malayxia và nhiều nước khác trong vùng Đông - Nam Á. Thế kỷ XVII,
XVIII, Hồi giáo đụng đầu với nền văn minh phương Tây nên bị thu hẹp lại.
Đầu thế kỷ XX đến nay, Hồi giáo vẫn tiếp tục tìm mọi cách gây ảnh hưởng
vào đời sống xã hội. Hiện nay Hồi giáo là tôn giáo lớn thứ hai sau Kitô giáo
với hơn 1 tỉ tín đồ có mặt trên 50 nước ở các châu lục.
Như vậy, có thể nói q trình phát triển của Hồi giáo là sự kết hợp chặt
chẽ giữa những hoạt động cưỡng bức bằng chiến tranh với khuyến khích vật
chất; giữa sức ép tinh thần và tâm lý; bằng sự truyền bá dai dẳng, sự suy tàn
của tín ngưỡng địa phương, sự trùng hợp quyền lợi của giai cấp thống trị với
kẻ xâm lược.
1.3.2. Một số hệ phái Hồi giáo
Hồi giáo xuất hiện sự chia rẽ nội bộ ngay từ khi Mơhamét qua đời.
Trong q trình phát triển sự chia rẽ càng sâu sắc, nhất là thời kỳ chế độ giáo
trưởng Ảrập (Calife = vua Hồi giáo). Hiện nay, có nhiều hệ phái, trong đó
đáng chú ý nhất là phái Sunít, Siít, Ismalít, Suphít, Babit và Bekhait.
Sunít là phái Hồi giáo chính thống hình thành dưới thời của Calife Ảrập.
Phái này chủ trương giữ lại những tập tục, luật lệ nguyên thuỷ của Hồi giáo từ
thời Môhamét. Hiện nay, phái này có đơng tín đồ nhất tập trung ở các nước
ArậpXêút, Thổ Nhĩ Kỳ, Irắc, yêmen, Libăng, Bắc phi, Trung Quốc, Đông
Nam Á.
82
Siít (cịn gọi là phái Siai) xuất hiện đầu tiên ở Irắc vào cuối thế kỷ thứ
VII. Sự xuất hiện phái này do sự áp bức bóc lột thống trị của triều đại Calife
Ảrập. Là phái phản ứng chống lại nhà nước phong kiến Hồi giáo, chống lại sự
xâm lược, bác bỏ chế độ giáo trưởng của phái Sunít và cho người cai trị hợp
pháp cả phần đạo phần đời là Ali (cháu Mơhamét). Hiện nay, phái này có khá
đơng tín đồ tập trung ở các nước Iran, Cơt, Ápganixtan, vùng Trung Á
(Liên Xô cũ). Phái Itmalit, được tách ra từ phái Siit vào cuối thế kỷ VII. Phái
này chủ yếu theo quan điểm thần học của Siit là tập trung giải thích mối quan
hệ giữa linh hồn và thể xác, thiên đường địa ngục và ngày phán xét. Phái
Itmalit có tổ chức khá chặt chẽ và quan hệ với trung tâm Puna (Ấn Độ) do
Aga đứng đầu. Hiện nay, phái này có mặt ở Ấn Độ, Pakixtan, Bănglađét, Iran
và Đông Phi.
Suphit xuất hiện vào thế kỷ IX, là phái bảo thủ, cuồng tín, chủ trương
cầu nguyện và sống khổ hạnh, vì họ cho rằng đó là cách tốt nhất để cứu linh
hồn ra khỏi tội lỗi.
Babit và Bêkhait: hai phái này xuất hiện ở Iran vào cuối thế kỷ XIX.
Babit đại diện cho quyền lợi giai cấp tư sản dân tộc ở iran chống lại tư sản
nước ngồi. Cịn Beekhait đại diện cho tư sản mại bản của Iran.
Ngoài những hệ phái trên, Hồi giáo, cịn có những hệ phái khác. Do có
mâu thuẫn nên các hệ phái Hồi giáo không thống nhất được với nhau.
3.2. Giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức Hồi giáo
3.2.1. Giáo lý Hồi giáo
Giáo lý Hồi giáo được trình bày trong kinh Côran. Côran nguyên tiếng
Ảrập là đọc, tụng, ngâm. Kinh Côran là thánh thư của người Hồi giáo gồm 30
phần với 114 chương (Sura), 6211 câu (Aýat) được viết bằng tiếng Ảrập.
Kinh Côran, theo truyền thuyết là những lời giáo huấn của Thượng đế
cho lồi người mà Mơhamét đã nhận được qua thiên thần Giêbrien trong vòng
22 năm(610-632). Thực ra kinh Cơran là những lời rao giảng của Mơhamét
cho tín đồ trong những buổi truyền giáo. Những lời rao giảng đó đến thời giáo
trưởng thứ ba sau Môhamét là ông Khalipôtman (644-656) mới được sưu tầm
biên tập thành văn bản chính thức lưu truyền cho đến ngày nay.
Hồi giáo đặc biệt đề cao ý nghĩa thiêng liêng, vĩnh cửu của kinh Cơran,
coi đó là chân lý với tất cả những điều về giáo lý, luật lệ, lễ nghi, sự thờ
phụng, cách thức hành đạo, điều kiện nhập đạo, mối quan hệ gia đình, xã hội,
đồng đạo và các nguyên tắc đạo đức… Từ lúc ra đời đến nay, kinh Côran
chưa hề thay đổi gì.
Giáo lý Hồi giáo chứa đựng những yếu tố tín ngưỡng nguyên thuỷ của
người Ảrập, của đạo Dothái và đạo Kitô. Cơ sở giáo lý là niềm tin vào thánh
Ala, vào sứ giả Môhamét, vào thiên thần và ma quỷ, vào sự bất tử của linh
83
hồn, vào ngày phục sinh và ngày phán xét, vào thiên đường và địa ngục, vào
sự vĩnh cửu của kinh Côran.
Hồi giáo cho rằng, thánh Ala là Thượng đế duy nhất, là đấng kiến tạo và
điều khiển mọi sự sinh tồn, mọi sự vận động biến đổi của thế giới. Tư tưởng
này dựa vào thuyết sáng thế của Kitô giáo trong việc sáng tạo ra vũ trụ trong
6 ngày, nhưng Hồi giáo lại bác bỏ quan điểm "Tam vị nhất thể" của Kitô
giáo(tư tưởng của Hồi giáo là thờ nhất thần). Bởi vậy, khi nói đến thánh Ala,
Hồi giáo sử dụng những danh từ đẹp đẽ nhất để ca ngợi như "đầu tiên", "duy
nhất", "vĩnh cửu", "cao cả nhất", "siêu việt nhất", "uy quyền nhất", "toàn năng
nhất", "nghiêm khắc nhất", "độ lượng nhất". Cùng với niềm tin tuyệt đối vào
thánh Ala là niềm tin vào Môhamét. Người theo Hồi giáo gọi Môhamét vừa là
sứ giả của thánh Ala vừa là tiên tri của tín đồ Hồi giáo, người có sứ mệnh cao
cả nhất là cứu loài người ra khỏi tội lỗi. Vì vậy, Mơhamét có vai trị đặc biệt
quan trọng trong đời sống tinh thần, đời sống tín ngưỡng của tín đồ Hồi giáo.
Quan niệm về thế giới, theo Hồi giáo, thế giới do thánh Ala sáng tạo ra
tất cả, kể cả thiên thần và ma quỷ. Thiên thần do thánh Ala sáng tạo ra, có
nhiệm vụ hồn thành vơ điều kiện những lời phán truyền của Thượng đế. Có
nhiều thiên thần với những nhiệm vụ khác nhau, trong đó có bốn vị thần gần
thánh Ala là tổng lãnh thiên thần Giêbrien chuyên truyền đạt lời phán xét của
Thượng đế; thiên thần Mikain chuyên theo dõi mọi trật tự của vũ trụ; thiên
thần Iraphin chuyên thổi kèn báo hiệu ngày phán xét cuối cùng và thiên thần
azrain với thanh gươm trong tay thực hiện sự trừng phạt của Thượng đế đối
với con người.
Về quỷ dữ, Hồi giáo cũng giống như Kitô giáo, rằng nỗi bất hạnh của
con người là do quỷ ác Iblit gây ra (Kitô giáo gọi là quỷ satăng) làm cho con
người đi chệch hướng gây nên tội lỗi.
Quan niệm về con người, theo Hồi giáo, con người có hai phần là phần
thể xác và phần linh hồn, trong đó thể xác chỉ là vỏ bọc tạm thời còn linh hồn
là bất tử. Giáo lý Hồi giáo giải thích rằng, cuộc sống nơi trần gian của con
người chỉ là trị chơi, trị tiêu khiển, là sự phơ trương khoái lạc, sự ganh đua
về của cải, con cái… Chỉ có tương lai, cuộc sống nơi thiên đường con người
mới có căn nhà để lưu lại mãi mãi. Vì vậy, cuộc sống nơi trần gian chỉ là
ngưỡng cửa để con người bước vào cuộc sống vĩnh cửu ở thế giới bên kia.
Quan niệm của Hồi giáo về sự bất tử của linh hồn, sự tái sinh sau khi
chết có liên quan đến quan niệm về lòng tin vào ngày phán xét, vào thiên
đường địa ngục. Họ coi ngày phán xét là kết thúc cuộc sống của loài người
trên trần gian, ngày gặp gỡ của mọi thế hệ trước thánh Ala. Ngày đó, thánh
Ala sẽ hỏi từng người để xét cơng, tội và để quyết định ai được lên thiên
đường, ai phải xuống địa ngục. Khi đó các tín đồ sẽ được Môhamét đứng ra
che chở, cầu xin Thượng đế tha tội, nếu họ là kẻ ngoan đạo. Theo Hồi giáo,