Chương VII
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước
xã hội chủ nghĩa
Lý luận và thực tiễn chứng minh rằng, không xây dựng và phát triển
nền dân chủ, hệ thống chính trị, trong đó có nhà nước xã hội chủ nghĩa thì
không thể thực hiện quyền lực, quyền dân chủ, quyền làm chủ và mọi lợi
ích của nhân dân lao động trên thực tế các lĩnh vực của đời sống xã hội
trong xã hội xã hội chủ nghĩa.
I. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
1. Quan niệm về dân chủ
a) Khái lược lịch sử của vấn đề dân chủ
Từ trước công nguyên, cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết
hợp lực với nhau để sản xuất, để chống thiên tai, thú dữ và đã tự tổ chức ra
những hoạt động chung mang tính xã hội, trong đó có việc cử ra những
người đứng đầu các cộng đồng người để thực thi những quy định chung và
phế bỏ những người đó nếu họ không thực hiện những quy
định chung theo
ý nguyện, lợi ích chung của cộng đồng. Từ thời Hy Lạp cổ đại, khi có ngôn
ngữ, chữ viết, con người đã biết diễn đạt nội dung dân chủ: trong xã hội
nguyên thuỷ, việc “cử ra và phế bỏ người đứng đầu” là do quyền và sức lực
của dân.
Khi xã hội có chế độ tư hữu, có giai cấp – chế độ chiếm hữu nô lệ ra
đời, giai cấ
p chủ nô đã lập ra nhà nước, lấy tên là nhà nước dân chủ (ở
Aten, Hy Lạp cổ đại, từ thế kỷ thứ VIII đến thứ VI trước công nguyên) –
tức nhà nước dân chủ chủ nô thống trị đại đa số người lao động là giai cấp
nô lệ. Khi đó nhà nước chủ nô mới chính thức sử dụng danh từ “dân chủ”,
tiếng Hy Lạp cổ gọi là “demos” (đề mô) là “dân” và “kratos” (cratô) là
“quyền l
ực”. Có nghĩa là nhà nước dân chủ chủ nô có “quyền lực của dân”.
Nhưng “dân” lúc này là dân theo quy định của luật pháp do giai cấp chủ nô
quy định gồm giai cấp chủ nô, tăng lữ, thương gia, một số trí thức và người
tự do, còn đại đa số nhân dân trở thành nô lệ thì không được coi là dân. Về
thực chất, đây là giai cấp tư hữu, áp bức bóc lột đầu tiên lập ra nhà nướ
c
đã dùng pháp luật và nhà nước của nó lạm dụng khái niệm dân chủ để
chiếm mất quyền lực thực sự của nhân dân lao động. Sau hàng ngàn năm
92
nay, các giai cấp tư hữu, áp bức bóc lột thống trị xã hội (như phong kiến, tư
sản) vẫn là những giai cấp chiếm mất quyền lực của nhân dân lao động.
Trong chế độ dân chủ tư sản, dù chế độ này có nhiều thành tựu to lớn (chủ
yếu là do nhân dân lao động tạo ra ), dù chế độ đó có mang tên chế độ dân
chủ, nhà nước dân chủ, nhưng về thực chất v
ẫn không phải là nhà nước
thực hiện quyền lực thực sự của nhân dân, mà chỉ là nhà nước của giai cấp
tư sản.
Chỉ đến khi Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga (1917)
thắng lợi, mới bắt đầu một thời đại mới, khi đó nhân dân lao động đã giành
lại chính quyền, tư liệu sản xuất giành lại quyền lực thự
c sự của dân -
tức là dân chủ thực sự và lập ra Nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa, thiết
lập nền dân chủ xã hội chủ nghĩa để thực hiện quyền lực của nhân dân.
Tóm lại, nhân loại từ lâu đời đã có nhu cầu và bước đầu thực hiện dân
chủ và có quan niệm về dân chủ, đó là việc thực thi quyền lực củ
a dân. (Đây
là một khái niệm lịch sử, dân là những ai, còn do bản chất của chế độ xã hội
quy định, nhất là từ khi xã hội phân chia thành giai cấp, thì dân còn do bản
chất giai cấp thống trị xã hội quy định cụ thể trong từng xã hội nhất định).
b) Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về dân chủ
Thứ nhất, chủ nghĩa Mác-Lênin kế thừa những nhân tố hợp lý trong
hoạt động thực tiễn và nhận thức của nhân loại về dân chủ, đặc biệt là việc
tán thành cho rằng: dân chủ là một nhu cầu khách quan của nhân dân lao
động; dân chủ là quyền lực của nhân dân (hay dân chủ là quyền lực thuộc
về nhân dân).
Thứ hai, khi xã hội có giai cấp và nhà nước – tức là một chế độ dân
ch
ủ thể hiện chủ yếu qua nhà nước thì khi đó không có “dân chủ chung
chung, phi giai cấp, siêu giai cấp”, “dân chủ thuần tuý”. Trái lại, mỗi chế
độ dân chủ gắn với nhà nước đều mang bản chất giai cấp thống trị xã hội.
Lịch sử nhân loại đã chứng minh rõ có các kiểu dân chủ: chế độ dân chủ
chủ nô, chế độ dân chủ tư sản, chế độ dân chủ vô sản (hay dân chủ
xã hội
chủ nghĩa). Riêng chế độ phong kiến là chế độ quân chủ, (rồi “quân chủ lập
hiến”) không phải là chế độ dân chủ, nhưng những nhu cầu dân chủ, những
biểu hiện dân chủ trong nhân dân, trong xã hội, thậm chí ngay cả trong một
số triều đình phong kiến của xã hội phong kiến vẫn có.
Do đó, từ khi có chế độ dân chủ thì dân chủ luôn luôn với tư cách một
phạ
m trù lịch sử, phạm trù chính trị.
Thứ ba, từ khi có nhà nước dân chủ, thì dân chủ còn với ý nghĩa là
một hình thức nhà nước, trong đó có chế độ bầu cử, bãi miễn các thành
viên nhà nước, có quản lý xã hội theo pháp luật nhà nước và thừa nhận ở
93
nhà nước đó “quyền lực thuộc về nhân dân” (còn dân là những ai thì do bản
chất giai cấp thống trị xã hội quy định), gắn liền với một hệ thống chuyên
chính của giai cấp thống trị xã hội.
Thứ tư, với một chế độ dân chủ và nhà nước tương ứng, đều do một
giai cấp thống trị cầm quyền chi phối tất cả các lĩnh vực của toàn xã h
ội, do
vậy tính giai cấp thống trị cũng gắn liền với và chi phối tính dân tộc, tính
chất của chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội ở mỗi quốc gia dân tộc
cụ thể.
2. Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Từ việc nắm vững và phân tích thực tế lịch sử đã diễn ra trong sự phát
triển dân chủ của nhân loạ
i, nhất là qua những quy luật của chế độ dân chủ
chủ nô, chế độ dân chủ tư sản , các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-
Lênin đã dự báo khoa học – qua nhiều luận điểm cơ bản – về tính tất yếu
xảy ra và thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa, của nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, gắn liền v
ới tất yếu của chủ nghĩa xã hội. Chính những luận
điểm khoa học đó đã được nhận thức và vận dụng đúng đắn, sáng tạo để
dẫn dắt nhân dân lao động trong thực tiễn cách mạng, làm nên thắng lợi của
Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga (1917), từ đó hình thành và
từng bước phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
nước Nga, sau đó là
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới Theo chủ nghĩa Mác-
Lênin thì: chuyên chính vô sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa về căn bản là
thống nhất. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta thống nhất
gọi chuyên chính vô sản là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (vẫn thực hiện nội
dung cơ bản của chuyên chính vô s
ản).
Khái quát về bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa như sau:
a) Bản chất chính trị: Dưới sự lãnh đạo duy nhất của một đảng của
giai cấp công nhân - đảng Mác-Lênin mà trên mọi lĩnh vực xã hội đều thực
hiện quyền lực của nhân dân, thể hiện qua các quyền dân chủ, làm chủ,
quyền con người, thoả mãn ngày càng cao hơn các nhu cầu và các l
ợi ích
của nhân dân. Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ rõ: Bản chất chính trị của nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân thông
qua đảng của nó đối với toàn xã hội, nhưng không phải chỉ để thực hiện
quyền lực và lợi ích riêng cho giai cấp công nhân, mà chủ yếu là để thực
hiện quyền lực và lợi ích của toàn thể nhân dân, trong đó có giai cấp công
nhân. Hồ Chí Minh c
ũng đã chỉ rõ: Trong chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa
thì bao nhiêu quyền lực đều là của dân, bao nhiêu sức mạnh đều ở nơi dân,
bao nhiêu lợi ích đều là vì dân Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà
nước xã hội chủ nghĩa do đó về thực chất là của nhân dân, do nhân dân
94
và vì nhân dân. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, khác với các cuộc cách
mạng trước đây là ở chỗ nó là cuộc cách mạng của số đông, vì lợi ích của
số đông nhân dân. V.I. Lênin còn nhấn mạnh rằng: Dân chủ xã hội chủ
nghĩa là chế độ mà nhân dân ngày càng tham gia nhiều vào công việc nhà
nước. Với ý nghĩa đó, V.I. Lênin đã diễn đạt một cách khái quát về bản chất
và mục tiêu của dân chủ
xã hội chủ nghĩa rằng: đó là nền dân chủ “gấp triệu
lần dân chủ tư sản”. Do vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai
cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
b) Bản chất kinh tế: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ
công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu củ
a toàn xã hội đáp ứng sự
phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa học -
công nghệ hiện đại nhằm thoả mãn ngày càng cao những nhu cầu vật chất
và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động.
Bản chất kinh tế đó chỉ được bộc lộ đầy đủ qua một quá trình ổn định
chính trị, phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của toàn xã hộ
i, dưới sự
lãnh đạo của đảng Mác-Lênin và quản lý, hướng dẫn, giúp đỡ của nhà
nước xã hội chủ nghĩa.
Bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dù khác về bản chất
kinh tế của các chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột, bất công, nhưng cũng như
toàn bộ nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, nó không hình thành từ “hư vô” theo
mong muốn c
ủa bất kỳ ai. Kinh tế xã hội chủ nghĩa cũng là sự kế thừa và
phát triển mọi thành tựu nhân loại đã tạo ra trong lịch sử, đồng thời lọc bỏ
những nhân tố lạc hậu, tiêu cực, kìm hãm của các chế độ kinh tế trước đó,
nhất là bản chất tư hữu, áp bức bóc lột, bất công đối với đa số nhân dân.
c) Bản chấ
t tư tưởng - văn hoá: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư
tưởng Mác-Lênin – hệ tư tưởng của giai cấp công nhân làm nền tảng, chủ
đạo đối với mọi hình thái ý thức xã hội khác trong xã hội mới (như văn học
nghệ thuật, giáo dục, đạo đức, lối sống, văn hoá, xã hội, tôn giáo v.v.). Đồng
thời, dân chủ xã hội chủ nghĩa kế thừa, phát huy nh
ững tinh hoa văn hoá
truyền thống các dân tộc; tiếp thu những giá trị tư tưởng - văn hoá, văn minh,
tiến bộ xã hội mà nhân loại đã tạo ra ở tất cả các quốc gia, dân tộc
Do đó, đời sống tư tưởng - văn hoá của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
rất phong phú, đa dạng, toàn diện và ngày càng trở thành một nhân tố quan
trọng hàng đầu, thành mục tiêu và động lực cho quá trình xây dựng ch
ủ
nghĩa xã hội.
3. Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa
Nền dân chủ tư sản đã hoạt động và thể hiện trên thực tế thông qua hệ
95
thống chính trị tư sản, chủ yếu là thực hiện quyền lực và lợi ích của giai cấp
tư sản. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng hoạt động và thể hiện trên thực
tế thông qua hệ thống chính trị của nó, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Quan niệm về hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa:
Đó là hệ thố
ng các tổ chức chính trị căn bản, có quy mô quốc gia, có
ý nghĩa chiến lược đối với sự tồn tại, ổn định và phát triển của một nước xã
hội chủ nghĩa; được hình thành và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật
chung, phù hợp với vai trò, nhiệm vụ, chức năng của mỗi tổ chức và mối
quan hệ giữa các tổ chức đó - toàn bộ hệ thống tổ
chức này hoạt động là sự
thể hiện trên thực tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã có những luận điểm cơ bản về “chuyên
chính vô sản” và “hệ thống chuyên chính vô sản”. Đặc biệt là V.I. Lênin đã
nêu cụ thể rằng, trong “hệ thống chuyên chính vô sản” gồm có đảng, nhà
nước, công đoàn và một số t
ổ chức khác như “những bánh xe răng cưa” tạo
ra “mối liên hệ giữa đội tiên phong với quần chúng”
1
.
Vận dụng, phát triển và cụ thể hoá một cách đúng đắn và sáng tạo
những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về chuyên chính vô sản,
hệ thống chuyên chính vô sản vào hoàn cảnh Việt Nam trong tình hình hiện
nay của đất nước và của cả thời đại. Đảng Cộng sản Việt Nam, trong công
cuộc đổi mới đất nước, đã sử dụng khái niệm “hệ thố
ng chính trị xã hội chủ
nghĩa” khi có chủ trương xây dựng và từng bước hoàn thiện “nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa”; bởi vì chuyên chính vô sản về cơ bản là thống nhất với
dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ xã hội chủ nghĩa vẫn thực hiện những
nguyên tắc và nội dung cơ bản của chuyên chính vô sản (như đã phân tích ở
trên). Trong những điều kiệ
n và những yêu cầu mới của sự phát triển đất
nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã mở rộng và cụ thể
hoá nhiều vấn đề về hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Về cấu trúc cơ bản của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, gắn với
vai trò, chức năng của từng tổ chứ
c chính trị của nó, quan điểm của Đảng ta
chỉ rõ: đó là gồm có Đảng Cộng sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa và các
đoàn thể của nhân dân. Đảng ta nêu rõ vai trò, chức năng cơ bản của hệ
thống các tổ chức chính trị trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa một
cách khái quát, đúng thực chất và thực tiễn, đó là: Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý và nhân dân làm ch
ủ; suy cho cùng thì tất cả quyền lực là của
nhân dân, vì những lợi ích của nhân dân. Và, chỉ có thể thực hiện được
những vấn đề cơ bản đó khi hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa phải là chế
1. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, t.42, tr. 250.
96
độ nhất nguyên về chính trị - tức là chỉ có một giai cấp và một Đảng duy
nhất lãnh đạo xã hội, đó là giai cấp công nhân và Đảng của nó.
II. Nhà nước xã hội chủ nghĩa
1. Quan niệm về nhà nước xã hội chủ nghĩa
Đó là một trong những tổ chức chính trị cơ bản nhất của hệ thống
chính trị xã hội chủ nghĩa, một công cụ quản lý mà đảng của giai cấp công
nhân lãnh đạo nhân dân tổ chức ra để qua đó là chủ yếu, nhân dân lao động
thực hiện quyền lực và lợi ích của mình; cũng qua đó là chủ yếu mà giai
cấp công nhân và Đảng c
ủa nó lãnh đạo xã hội về mọi mặt trong quá trình
bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa Mác-Lênin cũng quan niệm nhà nước xã hội chủ nghĩa là
thống nhất về căn bản với nhà nước chuyên chính vô sản cả về bản chất,
mục tiêu, vai trò, chức năng và các hoạt động theo những nguyên tắc, pháp
luật, chính sách của nó.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa nằm trong nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa và
hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Đã là một loại hình nhà nước dân chủ
thì nó có kế thừa và phát huy các thành quả chung - những giá trị của quá
trình phát triển dân chủ mà nhân loại đã sản sinh ra. Ví dụ, dân chủ xã hội
chủ nghĩa cũng kế thừa khái niệm và thuật ngữ “dân chủ”, với bản chất
nhất là “quyền lực của dân”. Nhà nước xã hội chủ nghĩ
a cũng do nhân dân
bầu cử ra và có thể bãi miễn nó. Nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng kế thừa
tính hợp lý về cơ cấu tổ chức có tính pháp quyền của nhà nước dân chủ tư
sản: cũng có các cơ quan lập pháp (Quốc hội), hành pháp (Chính phủ) và tư
pháp (Toà án, Viện kiểm sát ). Tất nhiên, về bản chất, mục tiêu, quyền
lực, lợi ích thì khác về căn bản so với nhà nước “tam quyền phân lậ
p tư
sản”.
2. Bản chất, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa
a) Bản chất:
Bản chất của bất kỳ nhà nước nào trong xã hội có giai cấp bao giờ
cũng mang bản chất của giai cấp thống trị xã hội (ví dụ: nhà nước dân chủ
chủ nô, nhà nước quân chủ phong kiến, nhà nước dân chủ tư sản ).
Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa (nhà nước chuyên chính vô
sản) do đó trước hết nó mang bản chất giai cấ
p công nhân. Nhưng giai cấp
công nhân lại là giai cấp thuộc nhân dân lao động mà ra, đại biểu phương
thức sản xuất mới, hiện đại, gắn với và đại biểu cho lợi ích của toàn thể
nhân dân lao động và dân tộc, do vậy nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa có
97
bản chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân
tộc sâu sắc (giống như bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa).
Đảng ta và Hồ Chí Minh đã từ lâu có quan điểm rõ ràng và đúng
đắn về nhà nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Nhà nước ta: đó là Nhà
nước của dân, do dân, vì dân cũng nói lên một cách tổng hợp về bản
chất, thực chất Nhà nước c
ủa ta – nhà nước xã hội chủ nghĩa. Từ khi đổi
mới đất nước, Đảng ta lại càng chú trọng vận dụng, phát triển, cụ thể
hoá vấn đề nhà nước của dân, do dân, vì dân.
b) Chức năng, nhiệm vụ
Chức năng giai cấp của nhà nước vô sản được thực hiện cả bằng việc
thực hiện có hiệu quả công tác tổ chức, xây dựng toàn diện xã hội mới, cả
bằng việc sử dụng những công cụ bạo lực đã có trong tay để đập tan sự
phản kháng của kẻ thù giai cấp chống lại công cuộc tổ chức, xây dựng đó.
Khi đề cập t
ới sự cần thiết phải sử dụng phương thức thứ hai vừa nêu,
C.Mác cho rằng sở dĩ giai cấp vô sản cần sử dụng công cụ bạo lực để bảo
vệ thành quả cách mạng của mình vì chính giai cấp tư sản không cần đắn
đo trong việc sử dụng những biện pháp cứng rắn nhất nhằm khôi phục lại
trật tự tư bản ch
ủ nghĩa của chúng. Tiếp tục phát triển lý luận về chuyên
chính vô sản trong thời kỳ trực tiếp lãnh đạo quá trình xây dựng xã hội mới
trong điều kiện có sự chống đối mạnh mẽ tới mức nội chiến do lực lượng
phản cách mạng gây ra, V.I.Lênin đã nhấn mạnh sự cần thiết phải thực hiện
cưỡng bức như là lý do tồn tại của nhà nướ
c nhằm chuyển từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội.
V.I.Lênin nhấn mạnh bạo lực của chuyên chính vô sản là vì, cách
mạng Nga nổ ra và tồn tại trong hoàn cảnh có sự chống đối dữ dội của bọn
bóc lột; thêm vào đó, 14 nước đế quốc cấu kết với nhau hòng bóp chết
chính quyền Xô viết non trẻ.
Trước sự tấn công của kẻ thù, V.I.Lênin đương nhiên phải g
ắn chuyên
chính vô sản với tình thế một cuộc đấu tranh; hơn nữa, đó lại là một cuộc
đấu tranh ác liệt, lâu dài và dai dẳng hơn nhiều so với bất kỳ một cuộc đấu
tranh nào trước đây
1
. Việc chú ý tới bối cảnh lịch sử như vậy cho phép
chúng ta khẳng định rằng, đặc điểm đó của chuyên chính vô sản do
V.I.Lênin nêu ra không phải là phổ biến.
Bạo lực, trấn áp là cái vốn có của mọi chính sách, do đó, nó cũng là cái
vốn có của nhà nước vô sản. Song, cả C.Mác - Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đều
xem tổ chức, xây dựng mang tính sáng tạo nhằm cải tiến trật tự chủ nghĩa
tư b
ản và hình thành trật tự chủ nghĩa cộng sản là cái căn bản hơn trong
1. Sđd, t.44, tr.261.
98
chức năng của chuyên chính vô sản. Đặt mối tương quan với chức năng tổ
chức – xây dựng, thì chức năng trấn áp chỉ là việc “quét sạch các đống rác
rưởi trước khi xây dựng” mà chưa phải là bản thân việc xây dựng
2
. Trước
đó rất lâu, ngay từ năm 1847, Ph. Ăngghen đã nêu ra 12 nhiệm vụ mà
giai cấp công nhân phải thực hiện sau khi giành được chính quyền, thì
tất cả các nhiệm vụ đó đều trực tiếp liên quan tới tổ chức, xây dựng xã
hội mới. Sau đó một năm, khi xác định những nấc thang, những giai
đoạn của cuộc cách mạng công nhân nhằm đi tới giải phóng và phát
triển toàn diện con người, C.Mác và Ph.
Ăngghen cũng xem việc giai
cấp công nhân giành lấy quyền lực nhà nước mới chỉ là giai đoạn đầu
tiên. Sau đó phải sử dụng quyền lực nhà nước để tăng thật nhanh số
lượng những lực lượng sản xuất.
Lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga làm cách
mạng, sau khi thiết lập chuyên chính vô sản, V.I.Lênin đã trực tiếp giải
quyết, xây dựng xã hội mới. Đó là thời kỳ
chủ nghĩa cộng sản không còn
chỉ là cương lĩnh hay học thuyết, mà đã trở thành công việc xây dựng
hằng ngày. Bởi vậy, V.I.Lênin đã có sự phát triển mới về mặt lý luận
liên quan tới chức năng tổ chức và xây dựng của chuyên chính vô sản.
Ông xem việc tích cực xây dựng chủ nghĩa cộng sản, sáng tạo ra những
quan hệ kinh tế mới, sáng tạo ra một xã hội mới là nhiệ
m vụ bức bách,
quan trọng hơn là đập tan sự phản kháng của tư sản.
Không dừng lại ở việc khẳng định nhiệm vụ hàng đầu là tổ chức, xây
dựng so với nhiệm vụ trấn áp, V.I.Lênin còn làm rõ nội dung, biện pháp
của nhiệm vụ đó trên nhiều bình diện khác nhau.
Trong lĩnh vực kinh tế: để thực hiện nhiệm vụ xây dựng, nhà nước vô
sản phải hoàn thành việc t
ước đoạt giai cấp tư sản; phát triển mạnh các lực
lượng sản xuất, củng cố kỷ luật lao động mới: nâng cao năng suất lao động
được xem là nhiệm vụ cơ bản;
1
Trong lĩnh vực xã hội: phải tạo ra quan hệ xã hội mới, tạo ra những tổ
chức lao động mới có khả năng phối hợp những thành tựu mới nhất của
khoa học và kỹ thuật với sự tập hợp đông đảo những người lao động: cải
tạo dần tầng lớp tiểu sản xuất hàng hoá thông qua một công tác tổ chức lâu
dài.
Đề cậ
p chức năng tổ chức xây dựng của Nhà nước chuyên chính vô
sản, V.I.Lênin dành sự chú ý đặc biệt cho nhiệm vụ quản lý. Sau khi giành
được chính quyền, theo V.I.Lênin, vũ khí duy nhất mà nhờ đó giai cấp vô
2. Sđd, t.39, tr.27.
1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, 1998, t.38, tr.118-124.
99
sản có thể chiến thắng giai cấp tư sản là quản lý. Trong nhiệm vụ quản lý
toàn diện đời sống xã hội, V.I.Lênin xem quản lý nhà nước trong thời kỳ
chuyên chính vô sản thực chất là quản lý kinh tế. Nhìn nhận nhiệm vụ này
từ góc độ đấu tranh giai cấp, góc độ chính trị, V.I.Lênin quan niệm: “nhiệm
vụ căn bản của mọi xã hội quá độ chuyển sang chế độ xã hội chủ nghĩa là
ở
chỗ giai cấp vô sản thống trị phải chiến thắng giai cấp tư sản tức là
chúng ta phải đạt được chiến thắng đó trong lĩnh vực tổ chức kinh tế quốc
dân, tổ chức sản xuất, trong lĩnh vực kiểm kê và kiểm soát có tính chất toàn
dân.
III. Đổi mới hệ thống chính trị nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động của nhà nước Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay
Như trên đã đề cập, Nhà nước là “trụ cột” của hệ thống chính trị ở
nước ta hiện nay. Song, sự tồn tại, vận hành của nó chịu ảnh hưởng rất lớn
của các yếu tố khác cấu thành hệ thống đó. Do vậy, không thể có Nhà nước
mạnh, khi không có hệ thống chính trị mạnh.
Sau 20 năm đổi mới, hệ thống chính trị đã có những bước ti
ến quan
trọng trên nhiều phương diện: trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII của Đảng thông qua, Đảng ta đã từng bước bổ sung và cụ thể
hoá thành các chủ trương đổi mới trên từng lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội. Trong quá trình đó,
Đảng ta không ngừng được củng cố về
chính trị, tư tưởng và tổ chức: vai trò lãnh đạo của Đảng trong xã hội được
tăng cường; đường lối đổi mới ngày càng được hoàn thiện, nhờ vậy, con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng rõ hơn. Đảng khẳng định chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hoạt động của mình: Đả
ng giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ,
phát huy tinh thần sáng tạo, nhạy bén trong việc hoạch định chủ trương dân
chủ trên các lĩnh vực cũng như triển khai thực hiện có hiệu quả các chủ
trương đó. Đảng ta có giải pháp tích cực nhằm đổi mới chỉnh đốn Đảng,
gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội trong giai đoạn hiện nay.
Trên lĩnh vực lậ
p pháp, chúng ta đã ban hành Hiến pháp năm 1992 –
Hiến pháp thể chế hoá Cương lĩnh và đường lối đổi mới của Đảng: đã sửa
đổi và ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng liên quan tới tổ chức
và hoạt động của các cơ quan quyền lực Nhà nước, các tổ chức chính trị –
xã hội, các thành phần kinh tế; nhiều quyền công dân và quyền con người
đã được cụ thể hoá và thể chế hoá.
100
Chúng ta cũng đã tiến hành cải cách một bước nền hành chính quốc
gia, tiếp tục xây dựng và củng cố Nhà nước pháp quyền Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, việc quản lý nhà nước bằng pháp luật và theo pháp
luật từng bước được xác lập và hoàn thiện.
Mặt trận, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội đã từng
bước đổi mới về nội dung và phương thứ
c hoạt động.
Cùng với việc đa dạng hoá chức năng của các tổ chức đó, trong khi
không xem nhẹ chức năng tập hợp, giáo dục quần chúng tham gia xây dựng
và thực hiện có hiệu quả mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước cũng như giám sát việc tổ chức thực hiện đó, chúng ta đã xem
việc bảo vệ, thoả mãn những nhu cầu, l
ợi ích chính đáng của các thành
viên trong tổ chức mình là một chức năng cực kỳ quan trọng. Nhờ vậy, các
hội, đoàn thể quần chúng hợp pháp ngày càng có sinh khí hơn, hoạt động
ngày càng có hiệu quả cao.
Khái quát những thành tựu đổi mới hệ thống chính trị và hiệu quả của
nó tới việc phát huy dân chủ, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng đã khẳng đị
nh: “Trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã từng bước cụ thể hoá đường lối
đổi mới trên các lĩnh vực, củng cố Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức,
tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong xã hội, tiến hành cải cách
một bước nền hành chính Nhà nước, tiếp tục xây dựng và hoàn thiệ
n Nhà
nước pháp quyền Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc,
các đoàn thể chính trị, xã hội từng bước đổi mới nội dung và phương thức
hoạt động, đạt hiệu quả thiết thực hơn. Quyền làm chủ của nhân dân trên
các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, tư tưởng, văn hoá được phát huy”
1
.
Trong khi khẳng định những thành quả to lớn trên đây, cần thấy hệ
thống chính trị còn tồn tại không ít điểm yếu.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, trên cơ sở đa
dạng hoá hình thức sở hữu đối với tư liệu sản xuất, mở cửa với bên ngoài
là một chiến lược đúng đắn. Song, nhiều vấn đề thuộ
c lý luận về Đảng
Cộng sản cầm quyền trong điều kiện kinh tế đó còn chưa được làm sáng tỏ.
Trong khi khẳng định tính không đối lập về cơ bản giữa cơ chế thị trường
với chủ nghĩa xã hội, chúng ta cũng thấy rõ rằng, bên cạnh tác động tích
cực là cơ bản, kinh tế thị trường ngay trong trường hợp giữ vững định
hướ
ng xã hội chủ nghĩa cũng có mặt trái của nó. Do không được chuẩn bị
ngay từ đầu để khắc phục những tác động nghịch chiều của cơ chế đó, “tình
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1996, tr.61.
101
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ
nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán
bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng”
2
.
Những bước tiến trong việc đổi mới nền hành chính quốc gia còn rất
hạn chế. Tình trạng quan liêu của cán bộ hành chính làm cho yêu cầu quản
lý các quá trình kinh tế- xã hội và phát huy quyền làm chủ của nhân dân
chưa thật nhanh, nhạy và có hiệu quả cao.
Phương thức tổ chức, phong cách hoạt động của nhiều tổ chức trong
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi hẳn tình trạng quan liêu;
cán bộ
của nhiều đoàn thể chính trị xã hội vẫn trong tình trạng “viên chức
hoá”.
Khái quát những yếu kém trên đây của hệ thống chính trị, Hội nghị lần
thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII của Đảng nhấn mạnh: “nhìn
chung tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị, nhất là bộ máy hành chính
nhà nước còn cồng kềnh, nhiều đầu mối, tầng nấc trung gian, chất lượng
hoạt
động và hiệu quả thấp. Chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và chế độ
trách nhiệm của nhiều cơ quan và người đứng đầu chưa thật rõ, còn chồng
chéo, cơ chế vận hành và nhiều mối quan hệ còn bất hợp lý; đội ngũ cán
bộ, công chức còn hạn chế cả về năng lực chuyên môn và tinh thần trách
nhiệm Tình hình đó đã làm giảm hiệu quả công tác lãnh đạo củ
a Đảng,
làm yếu hiệu lực quản lý của Nhà nước; tệ quan liêu, lãng phí, tham nhũng
tăng lên, có mặt rất nghiêm trọng; trật tự kỷ cương bị vi phạm; sự tin cậy và
gắn bó của nhân dân đối với hệ thống chính trị bị giảm sút”
1
.
Tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị nhằm khắc phục những yếu kém
trên đây đã trở thành đòi hỏi bức thiết để hệ thống chính trị nói chung, Nhà
nước ta nói riêng thực hiện quyền dân chủ của nhân dân.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói riêng, đối với hệ thống
chính trị và toàn xã hội nói chung cần thực hiện bằng những phươ
ng pháp
vốn có của một đảng Mác-Lênin. Thông qua tuyên truyền, thuyết phục,
giáo dục, nêu gương của đảng viên và các tổ chức cơ sở đảng làm cho Nhà
nước, các tổ chức quần chúng thấy rõ tính đúng đắn trong các quyết định
chính trị của Đảng.
Đảng phải tăng cường bản chất giai cấp công nhân của mình, củng cố
mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với Nhà nước và nhân dân.
2
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006, tr. 65.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1999, tr.33.
102
Để có dân chủ xã hội chủ nghĩa, một mặt, Nhà nước phải đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng, mặt khác, mọi chủ trương và chính sách của Nhà nước
phải xuất phát từ lợi ích chính đáng của nhân dân. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạ
o của Đảng.
Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước
là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp…
Cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nươc gắn liền với xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, đổi m
ới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước. Xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn; nâng cao chất lượng hoạt
động của các tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan nhà nước”
1
.
Để nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước và phát huy dân chủ của
nhân dân, cần dành sự chú ý đặc biệt cho quá trình lập pháp và lập quy của
nhà nước. Liên quan đến vấn đề này, cần: Xây dựng chương trình lập pháp,
phát huy quyền trình dự án luật của đoàn thể nhân dân; nâng cao kiến thức
lập pháp của đại biểu Quốc hội; nâng cao trình độ, năng lực thẩm tra các dự
án luật của Hội đồng dân tộc, các Uỷ
ban Quốc hội; xác định rõ hơn quyền
lập pháp và lập quy Để nâng cao chất lượng và hiệu quả trên lĩnh vực
này, cần tập hợp trí tuệ của các nhà khoa học, các chuyên gia, lấy ý kiến
nhân dân nhất là các đối tượng có liên quan đến việc thi hành luật để xây
dựng hệ thống pháp luật.
Yêu cầu nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước và thực hiện dân
chủ, hiện nay phải xem cải cách một bước n
ền hành chính quốc gia là một
nhiệm vụ trọng điểm. Cải cách hành chính phải tiến hành đồng bộ – từ cải
cách thể chế hành chính đến cải cách tổ chức bộ máy và công tác cán bộ,
công chức hành chính.
Liên quan tới vấn đề thứ nhất, phải cải cách thủ tục hành chính, hoàn
thiện thể chế quản lý bằng pháp luật, đề cao nghĩa vụ và trách nhiệm công
dân. Trong cải cách thể chế và thủ tụ
c hành chính, để mở rộng dân chủ,
Nhà nước cần “giảm tối đa cơ chế xin phép – cho phép trong từng vụ
việc ” như Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII đã
chỉ ra: nhưng phải tôn trọng nguyên tắc tập trung dân chủ trong điều hành,
quản lý.
Liên quan tới vấn đề thứ hai, cần chấn chỉnh cơ cấu tổ chức, biên chế
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001, tr. 131 - 132.
103
quy chế hoạt động của bộ máy hành chính các cấp; định rõ thứ bậc và quan
hệ thứ bậc trong bộ máy hành chính, xác định rõ vị trí, vai trò từng cấp
chính quyền; kiện toàn bộ máy chính quyền cơ sở.
Liên quan tới vấn đề thứ ba, việc ban hành quy chế về chế độ công vụ
và công chức là rất cần thiết: định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm, thẩm quyền,
quyền lợi và kỷ luật hành chính: quy đị
nh chế độ đào tạo, tuyển dụng và
sàng lọc công chức; xây dựng đội ngũ công chức có chuyên môn, kỹ năng
nghiệp vụ cao, giác ngộ về chính trị, có tinh thần trách nhiệm, sự công tâm
và tận tuỵ với công việc.
Để phát huy quyền dân chủ của nhân dân. Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị – xã hội của nhân dân cũng cần được đổi mới theo
hướng:
- Đoàn kết tấ
t cả mọi người thuộc các giai cấp, các tầng lớp, các dân
tộc, các tôn giáo, người Việt Nam ở trong nước và định cư ở nước ngoài
Xoá bỏ mọi định kiến, mọi mặc cảm, lấy sự tương đồng vì lợi ích của sự
phát triển đất nước theo mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh” làm trọng.
- Mặt trận vận động, tổ chức nhân dân, xây dự
ng, củng cố, bảo vệ
chính quyền; thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc ngay trong tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước.
- Mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc bằng các hình thức đa dạng, thích
hợp với từng người, từng thành phần xã hội, từng địa phương, cơ sở.
Để mở rộng Mặt trận có tác dụng tích cực nh
ằm thực hiện tốt việc bảo
đảm quyền lực của nhân dân, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng củng cố
khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức, làm cho nó thực sự là nền tảng của Mặt trận.
Để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, việc đổi mới hệ thống chính trị
không dừng ở việc đổi m
ới từng yếu tố cấu thành, mà còn đòi hỏi phải đổi
mới mối quan hệ qua lại giữa các yếu tố đó. Liên quan tới vấn đề này, cần
đổi mới mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước: Đảng lãnh đạo Nhà nước;
Nhà nước có nghĩa vụ thể chế hoá và tổ chức thực hiện nghiêm túc đường
lối và các nghị quyết của Đảng.
Để phát huy dân chủ xã hội ch
ủ nghĩa cần hoàn thiện hình thức dân
chủ đại diện, mở rộng dân chủ trực tiếp của nhân dân. Khi đề cập vấn đề
này, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII đã nhấn
mạnh: “Tiếp tục phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ của nhân
dân qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp để nhân dân
104
tham gia xây dựng và bảo vệ Nhà nước, nhất là việc giám sát, kiểm tra của
nhân dân đối với hoạt động của cơ quan và cán bộ, công chức nhà nước”
1
.
Muốn hoàn thiện dân chủ đại diện, một vấn đề bức bách là nâng cao
chất lượng của các tổ chức quần chúng, làm cho các tổ chức đó thật sự có
được sự quan tâm thiết thân của các thành viên của mình, gần gũi với họ.
Chỉ khi đó, một mặt, tổ chức ấy mới nắm vững và nhanh nhạy mọi nhu cầu
bức xúc của các thành viên và phản ánh kịp thời với các c
ơ quan chức năng
thuộc bộ máy Đảng và Nhà nước; mặt khác cũng chỉ khi đó, quần chúng
thành viên mới thông qua tổ chức của mình mà tham gia tích cực vào hoạt
động của mọi cơ quan thuộc hệ thống chính trị.
Việc mở rộng dân chủ trực tiếp nhằm phát huy dân chủ nhân quyền
đòi hỏi:
- Lãnh đạo cơ quan và địa phương xác định rõ vấn đề cần có sự tham
gia trực tiếp c
ủa nhân dân ở lĩnh vực, địa bàn tương ứng trước khi cấp có
thẩm quyền quyết định; nâng cao chất lượng đóng góp của nhân dân vào
việc hình thành các quyết định đó.
- Xác định rõ những vấn đề mà cơ quan lãnh đạo, người lãnh đạo phải
có trách nhiệm báo cáo trước nhân dân ở lĩnh vực và trên địa bàn tương
ứng.
- Xây dựng những thiết chế dân chủ ở cơ sở phù hợp với l
ĩnh vực và
trình độ của đối tượng tương ứng.
- Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ cơ sở, làm cho họ biết nghe,
biết xử lý những ý kiến được nhân dân nêu ra. Hết sức tránh thái độ thụ
động, “theo đuôi” quần chúng
Gắn liền với việc mở rộng dân chủ trực tiếp đến người dân, Đại hội
đại biểu toàn quốc IX của Đảng Cộ
ng sản Việt Nam chủ trương: “Phân
công, phân cấp, nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương , tổ
chức hợp lý Hội đồng nhân dân; kiện toàn các cơ quan chuyên môn của Uỷ
ban nhân dân và bộ máy chính quyền cấp xã, phường, thị trấn”
1
.
Bằng việc thực hiện có kết quả những vấn đề vừa nêu, Nhà nước xã
hội chủ nghĩa của chúng ta sẽ được củng cố, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
sẽ không ngừng được phát triển. Đó là những nhân tố có ý nghĩa quan
trọng đối với quá trình phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1997, tr. 41.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001, tr.133.
105
nghĩa.
Câu hỏi thảo luận và ôn tập
1. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về dân chủ, về bản
chất dân chủ xã hội chủ nghĩa?
2. Phân tích rõ cơ cấu hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa và vai trò
của các tổ chức trong hệ thống đó; đặc biệt là của nhà nước xã hội chủ
nghĩa?
3. Phân tích phương hướng đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta nhằm
nâng cao hi
ệu quả hoạt động của Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay?
106
Chương VIII
Cơ cấu xã hội - giai cấp và Liên minh giữa
công nhân với nông dân và trí thức trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
Quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa là quá trình từng bước xoá bỏ
cơ bản các quan hệ đối kháng giai cấp, hình thành một cơ cấu xã hội - giai
cấp mới, trong đó liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và trí
thức là nền tảng của xã hội mới, chế độ mới. Trước khi xem xét vấn đề liên
minh giai cấp, chúng ta cần phải nghiên cứu vấn đề rộng hơn, có tính chất
hệ thống bao trùm hơn, đó là cơ
cấu xã hội - giai cấp.
I. Cơ cấu xã hội - giai cấp trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội
1. Quan niệm về cơ cấu xã hội - giai cấp
a) Cơ cấu xã hội và cơ cấu xã hội - giai cấp
- Mỗi con người đều tồn tại trong mối quan hệ lệ thuộc, tác động lẫn
nhau và sự tác động này không chỉ mang tính cá nhân mà còn mang tính
cộng đồng. Cộng đồng xã hội là một bộ phận người có chung một số dấu
hiệu, nguyên tắc. Tuỳ theo cách xác định các dấu hiệu, nguyên tắc mà
người ta có thể xác định những cộng đồng với các tên gọi khác nhau (dân
tộc, giai cấp, tập thể, đơn vị
, nhóm hoạt động, ). Có hai loại cộng đồng:
cộng đồng khách quan được hình thành một cách tự nhiên, không phụ
thuộc vào ý muốn con người và cộng đồng chủ quan được hình thành từ ý
đồ, mục đích của con người.
- Cơ cấu xã hội là tất cả những cộng đồng người và toàn bộ các quan
hệ xã hội do sự tác động lẫn nhau của các cộng đồng ấy tạo nên. Cơ cấu xã
hội đề
cập chủ yếu đến các cộng đồng được hình thành một cách khách
quan, dựa trên các dấu hiệu tự nhiên như giai cấp, dân số, dân cư, nghề
nghiệp, dân tộc, tôn giáo, Từ đó, người ta có thể xem xét các loại hình cơ
cấu xã hội tương ứng: cơ cấu xã hội - giai cấp, cơ cấu xã hội - dân số (với
dấu hiệu nhân khẩu), cơ cấu xã hội - dân cư (với dấu hiệu cùng c
ư trú theo
107
địa lý), cơ cấu xã hội - nghề nghiệp, cơ cấu xã hội - dân tộc, cơ cấu xã hội -
tôn giáo, Dưới góc độ chính trị - xã hội, môn học chủ nghĩa xã hội khoa
học ở đây chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề cơ cấu xã hội - giai cấp.
Cơ cấu xã hội - giai cấp là hệ thống các giai cấp, tầng lớp xã hội và
các mối quan hệ giữa chúng. Đó là các mối quan h
ệ về sở hữu, quản lý, địa
vị chính trị - xã hội, Cơ cấu xã hội - giai cấp vừa phản ánh sự tồn tại xã
hội và vừa tác động lại sự phát triển của xã hội. C. Mác đã từng nói rằng:
"lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước tới nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai
cấp" và V.I. Lênin cũng nói: kết cấu xã hội và chính quyề
n có nhiều biến
đổi, nếu không tìm hiểu những biến đổi này thì không thể tiến được một
bước trong bất kỳ lĩnh vực hoạt động nào.
b) Vị trí của cơ cấu xã hội - giai cấp trong cơ cấu xã hội
- Cùng một con người sẽ thuộc về nhiều cộng đồng người khác nhau
theo các hình thức phân chia khác nhau (thuộc về một giai cấp, tầng lớp,
một nhóm nghề nghiệp, một địa bàn cư trú, một tôn giáo hoặc không theo
tôn giáo nào, ). Các loại hình của cơ cấu xã hội có mối quan hệ với nhau
và tác động qua lại lẫn nhau.
- Trong xã hội có giai cấp, thì cơ cấu xã hội - giai cấp là loại hình cơ
bản và có vị trí quyết định nh
ất, chi phối các loại hình cơ cấu xã hội khác,
vì trong quan hệ về mặt giai cấp của một xã hội quy định sự khác nhau về
địa vị kinh tế, về quyền sở hữu tư liệu sản xuất, mối quan hệ xã hội giữa
người với người trong hệ thống sản xuất, tổ chức lao động và phân phối thu
nhập. ở các loại hình cơ cấu xã hội khác không có được các m
ối quan hệ
quan trọng và quyết định trên đây. Từ đó cho thấy cơ cấu xã hội - giai cấp
có liên quan trực tiếp đến quyền lực chính trị và nó quyết định đến bản chất
và xu hướng vận động của các loại hình cơ cấu xã hội khác. Mỗi xã hội có
phân chia giai cấp đều có cơ cấu xã hội - giai cấp đặc trưng của mình, nó thể
hiện cho sự khác nhau về chất gi
ữa cơ cấu xã hội này với cơ cấu xã hội
khác.
- Xuất phát từ cơ cấu xã hội - giai cấp mà người ta xây dựng các chính
sách phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá của mỗi xã hội trong từng giai đoạn
cụ thể. Vị trí của cơ cấu xã hội - giai cấp là có ý nghĩa quan trọng, song
không được tuyệt đối hoá, tức là chỉ thấy và dựa vào cơ cấu xã
hội - giai cấp, coi nhẹ
các loại cơ cấu xã hội khác; cũng không thể tuỳ tiện
xoá bỏ nhanh chóng các giai cấp, tầng lớp xã hội bằng biện pháp giản đơn
theo ý muốn chủ quan.
108
2. Xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội
a) Xu hướng chủ yếu
- Sự xích lại gần nhau từng bước giữa các giai cấp, tầng lớp về mối
quan hệ với tư liệu sản xuất. Xu hướng này thể hiện thông qua việc dần dần
hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao. Với chủ
trương phát triển nhiều thành phần kinh tế, đa dạng hoá chế độ sở hữu, tồn
tạ
i nhiều thành phần kinh tế, liên kết, liên doanh trong sản xuất kinh doanh,
tạo điều kiện cho các thành phần xã hội tồn tại bên nhau, xích lại gần nhau,
đan xen lẫn nhau để cùng phát triển.
- Sự xích lại gần nhau về tính chất lao động giữa các giai cấp, tầng
lớp. Xu hướng này thể hiện thông qua việc phát triển cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ, áp dụng những thành tựu mới vào quá trình phát triển
lực lượng sả
n xuất, rút ngắn khoảng cách của sự khác biệt giữa các lực
lượng xã hội trong quá trình lao động. Từ đó, tạo điều kiện cho xu hướng
hội nhập khu vực và quốc tế trong lĩnh vực kinh tế.
- Sự xích lại gần nhau về mối quan hệ phân phối tư liệu tiêu dùng
giữa các giai cấp và tầng lớp. Xu hướng này diễn ra chủ yếu liên quan đến
việc thực hiệ
n ngày càng hoàn thiện nguyên tắc phân phối theo kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế.
- Sự xích lại gần nhau về tiến bộ về đời sống tinh thần giữa các giai
cấp, tầng lớp. Xu hướng này thể hiện trực tiếp thông qua cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá. Từ đó tác động đến sự
xích lại gần nhau và xoá bỏ dần mâu thuẫ
n giữa thành thị và nông thôn,
giữa lao động trí óc và lao động chân tay.
Những xu hướng trên đây không tách rời nhau và được thể hiện trên các
lĩnh vực chính trị, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của xã hội.
b) Những vấn đề có tính quy luật của sự biến đổi cơ cấu xã hội - giai
cấp
- Sự biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp được quy định bởi biến động
cơ cấu kinh tế, cụ thể là cơ cấu ngành nghề kinh tế, thành phần kinh tế, cơ
chế hành chính, kinh tế - xã hội. Yếu tố kinh tế luôn giữ vai trò quyết định
đối với các vấn đề xã hội trong thời kỳ quá độ tồn tại nhiều thành phần kinh
tế tất y
ếu đưa tới cơ cấu xã hội - giai cấp đa dạng và phức tạp. Trong thời
kỳ này có những giai cấp, tầng lớp của cơ cấu xã hội - giai cấp mới và cũ,
có đông đảo nhân dân lao động và tồn tại một bộ phận của giai cấp, tầng
lớp bóc lột. Cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ tuy vận động theo cơ chế
109
thị trường, song có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Về mặt chủ quan, cơ cấu xã hội - giai cấp mới hình thành lại tác
động trực tiếp tới sự củng cố và phát triển cơ cấu kinh tế mới.
Thời kỳ quá độ là thời kỳ mà những nhân tố của xã hội mới và tàn tích
của xã hội cũ tồn tại đan xen, đấ
u tranh với nhau. Cơ cấu xã hội - giai cấp
luôn biến đổi trong mọi xã hội. Do đặc điểm của thời kỳ quá độ, quá trình
biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp cũ sang cơ cấu xã hội giai cấp mới là quá
trình liên tục, đa dạng, phức tạp và mạnh mẽ. Quá trình này sẽ dần dần ổn
định vào giai đoạn sau khi nền kinh tế đã ổn định, lực lượ
ng sản xuất đã
phát triển và quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã đạt được những kết
quả cơ bản.
Cơ cấu xã hội - giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội biến
động và phát triển trong mối quan hệ vừa có mâu thuẫn, vừa có mối quan
hệ liên minh với nhau, tiến tới xoá bỏ hiện tượng bất bình đẳng trong xã
hội, đưa đến sự xích lạ
i gần nhau giữa các giai cấp, tầng lớp cơ bản trong
xã hội, đặc biệt là giữa công nhân, nông dân, trí thức. Mức độ và quá trình
biến đổi này phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước ở mỗi
giai đoạn cụ thể. Mâu thuẫn và liên minh thể hiện tính độc lập tương đối và
tính phát triển đa dạng của các giai tầng xã hội tạo nên sự hợp tác, xích l
ại
gần nhau giữa các giai tầng cơ bản trong xã hội, xoá dần những quan hệ
bóc lột giữa người với người.
- Xu hướng phát triển cơ cấu xã hội - giai cấp ở Việt Nam trong thời
kỳ quá độ mang tính đa dạng và thống nhất. Tính đa dạng thể hiện ở sự tồn
tại các giai cấp, tầng lớp, các nhóm xã hội trong nền kinh tế nhiều thành
phần và ngay cả
trong cơ cấu của mỗi giai tầng đó cũng mang tính đa dạng
và có sự thay đổi, vận động nhanh chóng để tiến tới sự ổn định tương đối ở
các giai đoạn cuối của thời kỳ quá độ. Tính thống nhất thể hiện ở chỗ trong
cơ cấu xã hội - giai cấp ấy, giai cấp công nhân, lực lượng tiêu biểu cho
phương thức sản xuất gi
ữ vai trò chủ đạo trong quá trình cải biến xã hội.
Điều này thể hiện ở chỗ giai cấp công nhân ngày càng phát triển mạnh mẽ
cả về số lượng, chất lượng với cơ cấu hợp lý. Đồng thời vai trò chỉ đạo đó
còn thể hiện ở sự phát triển của mối quan hệ liên minh giữa giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân và trí thức ngày càng giữ vị trí nền tảng chính trị -
xã hộ
i của nước ta. Từ đó tạo nên sự thống nhất của cơ cấu xã hội - giai cấp
trong suốt thời kỳ quá độ.
110
II. Liên minh công - nông - trí thức trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội
1. Tính tất yếu của liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân
và trí thức
- Khi tổng kết thực tiễn phong trào công nhân ở châu Âu, nhất là ở Anh,
Pháp cuối thế kỷ XIX, C. Mác và Ph. Ăngghen đã khái quát thành lý luận về
liên minh công, nông và các tầng lớp lao động khác. Các ông đã chỉ ra
nguyên nhân chủ yếu của thất bại trong các cuộc đấu tranh là do giai cấp
công nhân không tổ chức được mối liên minh với "người bạn đồng minh tự
nhiên" của mình là giai cấp nông dân. Do vậy, trong các cuộ
c đấu tranh
này, giai cấp công nhân luôn đơn độc và cuộc cách mạng vô sản này đã trở
thành "bài ca ai điếu".
Trong điều kiện đã phát triển cao của chủ nghĩa tư bản (chủ nghĩa đế
quốc), V.I. Lênin đã vận dụng và phát triển lý luận của C.Mác, Ph.Ăngghen
về tổ chức liên minh công, nông và các tầng lớp lao động khác trong Cách
mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga (1917). Trong thời kỳ đầu của
thời kỳ quá độ, không chỉ có liên minh công, nông mà còn liên minh với
các tầng lớp lao động khác. Ngay cả trong chuyên chính vô sản, V.I. Lênin
khẳng định: "Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh
giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiên phong của những người lao động, với
đông đảo những tầng lớp lao động không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ,
nông dân, trí thức, v.v.)"
1
. Chủ nghĩa Mác - Lênin xác định trong thời kỳ
quá độ không chỉ liên minh giữa các giai cấp mà bỏ qua các tầng lớp lao
động khác mà ngược lại, rất cần phải liên minh với họ để thực hiện mục
tiêu chung do giai cấp công nhân lãnh đạo.
- Trong một nước nông nghiệp đại đa số dân cư là nông dân thì vấn đề
giai cấp công nhân liên minh với họ là điều tất yếu. V.I. Lênin đặc biệt lưu
ý mối liên minh công, nông trong các giai đoạ
n xây dựng chủ nghĩa xã hội:
"Nguyên tắc cao nhất của chuyên chính là duy trì khối liên minh giữa giai
cấp vô sản và nông dân để giai cấp vô sản có thể giữ được vai trò lãnh đạo
và chính quyền nhà nước"
2
. Qua mối liên minh này, lực lượng đông đảo
nhất trong xã hội là nông dân, công nhân được tập hợp về mục tiêu chung
là xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì lợi ích của toàn thể dân tộc. Đây là điều
kiện để giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo. Đó chính là tính tất yếu về
mặt chính trị - xã hội, là yếu tố tiên quyết.
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t. 38, tr. 452.
2. V.L. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.44, tr. 57.
111
- Liên minh công - nông - trí thức là nhu cầu giữ vững vai trò lãnh đạo
của giai cấp công nhân, nhu cầu tự giải phóng của nông dân và nhu cầu
phát triển của trí thức.
2. Nội dung của liên minh công – nông – trí thức
Liên minh công – nông – trí thức là sự hợp tác toàn diện giữa công
nhân, nông dân và trí thức trong tất cả các mặt khác nhau của đời sống xã
hội.
- Nội dung kinh tế: Nhằm thoả mãn các nhu cầu, lợi ích kinh tế của
công nhân, nông dân và trí thức.
- Nội dung chính trị: Khối liên minh công – nông – trí thức là cơ sở
vững chắc cho khối đại đoàn kết toàn dân tạo nên sức mạnh vượt qua
những khó khăn trở ngại, đập tan âm mưu chống phá chủ nghĩa xã hội, xây
dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Liên minh công – nông – trí thức được xây
dựng và củng cố vững chắc chính là để đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai
cấp công nhân đối với toàn xã hội.
- Nội dung văn hoá xã hội: Liên minh công – nông – trí thức nhằm
đảm bảo xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, có
khả năng tiếp thu các giá trị, tinh hoa văn hoá của loài người. Trong nội
dung văn hoá - xã hội, trí thức giữ vai trò đặc biệt quan trọng.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, liên minh công, nông, trí
thức dưới góc độ kinh tế giữ vai trò quyết định. Điều này do sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội quy định, do ph
ải gắn chặt nông nghiệp với công
nghiệp, với dịch vụ, khoa học và công nghệ để thực hiện việc thoả mãn lợi
ích kinh tế cả trước mắt và cả lâu dài, cơ bản của xã hội. Trong thời đại
ngày nay, vai trò của tri thức ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp thì sự liên minh giữa công nhân với nông dân, trí thức trở thành vô
cùng quan trọng để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Nh
ư vậy, sự liên
minh về mặt kinh tế là do yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội quy định.
III. Cơ cấu xã hội – giai cấp và liên minh công – nông –
trí thức trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.
1. Cơ cấu xã hội – giai cấp trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta
- Đặc điểm cơ bản có liên quan đến cơ cấu xã hội – giai cấp trong thời
112
kỳ quá độ ở nước ta là sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần. Đằng
sau các thành phần kinh tế là các giai cấp, tầng lớp xã hội nhất định. Tương
ứng với nền kinh tế nhiều thành phần là một cơ cấu giai cấp đa dạng, phức
tạp bao gồm các giai cấp, tầng lớp vừa liên minh, vừa đấu tranh với nhau,
trong đó giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo. Sự
hình thành cơ chế thị
trường đã dẫn đến những thay đổi trong cơ cấu xã hội - giai cấp cùng với
sự vận động phức tạp của các giai tầng xã hội. Tính đa dạng, phức tạp còn
thể hiện ở sự biến đổi về chất ngay trong cơ cấu của từng giai cấp, tầng lớp
xã hội.
- Cơ cấu giai cấp ở Việt Nam hiệ
n nay bao gồm: giai cấp công nhân,
giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức, người sản xuất nhỏ, tầng lớp doanh
nhân. Liên minh công – nông – trí thức là cơ sở của toàn xã hội, làm cơ sở
chính trị – xã hội vững chắc cho chế độ mới. Giai cấp công nhân giữ vai trò
lãnh đạo, quyết định xu hướng phát triển của xã hội. Nông dân và các tầng
lớp nhân dân lao động trở thành người làm chủ xã hội. Trí thức ngày càng
có vai trò quyết định trong việc ứng d
ụng những thành tựu của cách mạng
khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước. Tầng lớp
doanh nhân phát huy tiềm năng và vai trò tích cực của mình, hoạt động
theo luật pháp và định hướng của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
- Cơ cấu xã hội – giai cấp nước ta biến đổi theo xu hướng tiến bộ,
được phản ánh ở sự thay đổi tích cực của các giai cấp tầ
ng lớp xã hội (công
nhân, nông dân, trí thức ). Do tính chất chưa ổn định về mặt xã hội, mới
chỉ là định hướng xã hội chủ nghĩa nên trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá
độ, các giai cấp, tầng lớp phát triển đa dạng. Sự ổn định dần của kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa sẽ tạo điều kiện hình thành từng bước mộ
t cơ cấu
xã hội – giai cấp định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến giai đoạn cuối của thời
kỳ quá độ, các giai cấp, tầng lớp xích lại gần nhau hơn, liên minh, hợp tác
chặt chẽ, ổn định hơn. Trong suốt thời kỳ quá độ, liên minh công – nông –
trí thức là lực lượng chính trị – xã hội cơ bản, là nền tảng của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩ
a.
2. Liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và trí thức trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
a) Đặc điểm của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức Việt Nam
- Giai cấp công nhân Việt Nam có đầy đủ những yếu tố của giai cấp
công nhân hiện đại và còn có những đặc điểm riêng của mình. Đó là do ra
đời trước giai cấp tư sản Việt Nam nên giai cấp công nhân Việt Nam có
điều kiện sớm giữ vai trò lãnh đạo và giành ưu thế ngay từ khi có Đảng của
113
mình. Hơn nữa, sự gắn bó giữa công nhân và nông dân đã hình thành một
cách tự nhiên, phần lớn xuất thân từ nông dân nên giai cấp công nhân Việt
Nam đã mang sẵn trong mình mối liên minh với nông dân và luôn giữ được
vai trò lãnh đạo trong quá trình cách mạng Việt Nam. Ngày nay, trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, sẽ có nhiều người nông dân
vào làm việc ở các cơ sở công nghiệp và trở thành công nhân ở chính ngay
quê hương mình. Điều này càng tạo cho sự gắn bó của giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân, nông thôn m
ột cách tự nhiên trên nhiều mặt của đời
sống xã hội.
- Giai cấp nông dân là giai cấp của những người lao động sản xuất vật
chất trong nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp trực tiếp sử dụng một tư
liệu sản xuất cơ bản và đặc thù, gắn với thiên nhiên là đất, rừng, biển để sản
xuất ra nông sản. Nông dân có phương thức sản xuất phân tán, năng su
ất
thấp. Theo V.I. Lênin, nông dân có "bản chất hai mặt" một mặt họ là những
người lao động (đây là mặt cơ bản nhất); mặt khác, họ là những người tư
hữu nhỏ (đây là mặt hạn chế sẽ được khắc phục trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá). Tuy nhiên, nông dân không dựa trên tư hữu nhỏ
này để bóc lột các giai cấp, tầng lớp khác.
Giai cấp nông dân không có hệ tư tưởng riêng mà tư
tưởng của họ phụ
thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội. Họ vốn có cơ cấu
không thuần nhất, không có sự liên kết chặt chẽ cả về kinh tế và cả về tư
tưởng, tổ chức. Trong một nước nông nghiệp thì họ là lực lượng chính trị -
xã hội đông đảo nhất và khi được giác ngộ họ trở thành lực l
ượng cách
mạng to lớn nhất trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Giai cấp nông dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã thực sự
giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột và trở thành người làm chủ xã hội và
đóng góp to lớn vào sự nghiệp giải phóng đất nước và xây dựng chủ nghĩa
xã hội.
- Trí thức bao gồm những người lao động trí óc phức tạp và sáng tạo,
có trình độ
học vấn đủ để am hiểu và hoạt động trong lĩnh vực lao động của
mình. Họ hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nghiên cứu, giảng dạy, ứng
dụng khoa học, văn học, nghệ thuật, lãnh đạo và quản lý Sản phẩm lao
động của trí thức tác động quyết định đến năng suất lao động, đến sự phát
triển xã hội về cả mặ
t đời sống vật chất và cả về đời sống tinh thần.
Trí thức không có hệ tư tưởng riêng vì không có phương thức sản xuất
riêng và địa vị kinh tế - xã hội độc lập. Vai trò và tư tưởng của họ phụ
thuộc vào giai cấp thống trị xã hội. Mặc dù vậy, trí thức luôn giúp giai cấp
thống trị khái quát về lý luận để hình thành hệ tư tưởng của giai cấp thống
114