SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY XỒI
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
TỔ CHỨC CHỦ TRÌ:
Cục Trồng trọt và Ban Quản lý Trung ương Các dự án Thủy lợi
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
TỔ CHỨC THỰC HIỆN:
Viện Nghiên cứu Rau quả
TẬP THỂ BIÊN SOẠN:
TS. Võ Hữu Thoại - Viện Cây ăn quả miền Nam
TS. Nguyễn Văn Dũng - Viện Nghiên cứu Rau quả
TS. Đào Quang Nghị - Viện Nghiên cứu Rau quả
ThS. Bùi Công Kiên - Viện Nước, Tưới tiêu và Mơi trường
CVC. Đồn Thị Phi Yến - Viện Nghiên cứu Rau quả
2
SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY XỒI
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
V
LỜI NÓI ĐẦU
iệt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia sẽ bị ảnh
hưởng nặng nề nhất bởi biến đổi khí hậu. Biến đổi khí hậu làm thay đổi cơ
cấu mùa vụ, quy hoạch vùng, kỹ thuật tưới tiêu, sâu bệnh, năng suất, sản
lượng; làm suy thoái tài nguyên đất, nước, đa dạng sinh học; suy giảm về số
lượng và chất lượng nông sản do bão, lũ lụt, khô hạn, xâm nhập mặn,… làm
tăng thêm nguy cơ tuyệt chủng của thực vật, làm biến mất các nguồn gen
quý hiếm. Biến đổi khí hậu sẽ là một trong những nguyên nhân chính dẫn
đến mất an ninh lương thực.
Trong những năm qua, Ngành Nông nghiệp Việt Nam đã đạt được các
thành tựu to lớn trong sản xuất nông sản phục vụ nội tiêu và xuất khẩu.
Nhiều tiến bộ kỹ thuật trong lĩnh vực trồng trọt, bảo vệ thực vật, kỹ thuật
tưới tiêu,… đã được nghiên cứu và áp dụng trong thực tiễn sản xuất, góp
phần phát triển ngành nơng nghiệp bền vững, hiệu quả, hạn chế thiệt hại
do biến đổi khí hậu gây ra trong những năm gần đây. Sản xuất nơng nghiệp
thơng minh thích ứng với biến đổi khí hậu (gọi tắt là CSA) - là một trong
những giải pháp để giảm nhẹ sự tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu. Tuy
nhiên, hiện tại chưa có một tài liệu tổng hợp hướng dẫn thực hành CSA nào
đối với từng cây trồng, bao gồm áp dụng tổng hợp các quy trình kỹ thuật
canh tác như ICM, IPM, một phải năm giảm, ba giảm ba tăng, tưới khô ướt
xen kẽ, tưới tiết kiệm,....
Từ năm 2014 - 2021, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã triển
khai Dự án Cải thiện nơng nghiệp có tưới (VIAIP). Mục tiêu là nâng cao tính
bền vững của hệ thống sản xuất nơng nghiệp có tưới, trong đó Hợp phần 3
của Dự án đã hỗ trợ các tỉnh vùng Dự án thiết kế và thực hành nơng nghiệp
thơng minh thích ứng với biến đổi khí hậu gồm: Áp dụng các gói kỹ thuật
về sản xuất giống cây trồng, gói kỹ thuật canh tác, bảo vệ thực vật, đánh
giá nhu cầu và áp dụng các phương pháp tưới tiên tiến nhằm nâng cao năng
suất, chất lượng cây trồng; sử dụng nước tiết kiệm và tăng hiệu ích sử dụng
nước; tăng thu nhập cho nơng dân; giảm tính dễ tổn thương với biến đổi khí
SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY XỒI
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
3
hậu, giảm phát thải khí nhà kính; tổ chức và liên kết sản xuất nông sản theo
chuỗi giá trị gia tăng, giảm giá thành sản xuất, tăng lợi nhuận cho người dân.
Cục Trồng trọt được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giao nhiệm
vụ phối hợp với Ban Quản lý Trung ương Các dự án Thủy lợi và các tỉnh tham
gia Dự án triển khai các nội dung liên quan đến nơng nghiệp thơng minh
thích ứng với biến đổi khí hậu (CSA). Trên cơ sở tổng kết các kết quả, tài liệu
liên quan, Cục Trồng trọt xin giới thiệu Bộ tài liệu “Sổ tay Hướng dẫn gói kỹ
thuật canh tác thích ứng với biến đổi khí hậu cho một số cây trồng chủ
lực như lúa, màu, rau, cây ăn quả có múi (cam, bưởi), chè, hồ tiêu, điều,
cà phê, nhãn, vải, xoài, chuối, thanh long và sầu riêng”. Bộ tài liệu này
được xây dựng trên cơ sở thu thập, phân tích, tổng hợp, chuẩn hóa các kỹ
thuật canh tác, kỹ thuật tưới, tiêu nước, để hồn thiện Quy trình thực hành
nơng nghiệp thơng minh thích ứng với biến đổi khí hậu cho các cây trồng
nhằm phổ biến đến các tổ chức, cá nhân và các địa phương tham khảo áp
dụng rộng rãi trong sản xuất.
Đây là một trong những tài liệu đầu tiên được chuẩn hóa về nơng nghiệp
thơng minh thích ứng với biến đổi khí hậu trong lĩnh vực trồng trọt, do vậy
khơng tránh khỏi những thiếu sót, đơn vị chủ trì xin được lắng nghe các góp
ý của quý vị để tiếp tục hoàn thiện.
Cục Trồng Trọt và Ban Quản lý Trung ương Các dự án Thủy lợi - Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trân trọng cảm ơn Ngân hàng Thế
giới (WB) đã tài trợ Dự án VIAIP, tập thể đội dự án, tập thể biên soạn và các
chuyên gia đã đồng hành trong việc xuất bản Bộ tài liệu này.
CỤC TRỒNG TRỌT
4
SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY XỒI
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADB
Ngân hàng Phát triển Châu Á
BĐKH
Biến đổi khí hậu
Bộ NN&PTNT
Bộ Nơng nghiệp và Phát triển nơng thơn
Bộ TN&MT
Bộ Tài ngun và Mơi trường
CCA
Thích ứng với BĐKH
CSA
Thực hành Nơng nghiệp thơng minh thích ứng với biến đổi
khí hậu
ĐBSCL
Đồng bằng sơng Cửu Long
FAO
Tổ chức Nơng nghiệp và Lương thực Liên Hiệp Quốc
IPCC
Ủy ban liên Chính phủ về BĐKH
IPSARD
Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nơng nghiệp
Nơng thơn
KH&CN
Khoa học và Cơng nghệ
KNK
Khí nhà kính
NGO
Tổ chức phi chính phủ
TCVN
Tiêu chuẩn Việt Nam
UNDP
Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc
VIAIP
Dự án Cải thiện nơng nghiệp có tưới Việt Nam
WB
Ngân hàng Thế giới
HTX
Hợp tác xã
THT
Tổ hợp tác
BVTV
Bảo vệ thưc vật
CAQ
Cây ăn quả
SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY XỒI
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
5
Nguồn ảnh: Internet
6
SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY XỒI
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY XỒI
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
7
1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Thực trạng sản xuất xoài ở Việt Nam
Xoài (Mangifera indica L.) là loại quả hạch, thuộc họ Đào lộn hột
(Anacardiaceace). Đây cũng là một trong những loại quả được ưa chuộng
nhất trên thế giới bởi màu sắc, hương vị hấp dẫn và thành phần dinh dưỡng
vượt trội (Kostermans và Bompard, 1993). Quả xoài chín ăn ngọt, thơm và
giàu dinh dưỡng. Trong 100 g xoài ăn được cho 100 calo, 11 - 12% đường
tổng số, 0,2% axit, giàu vitamin A (4,8 mg), B2 và C (Trần Thế Tục, 2000). Tại
một số nước châu Á xồi cịn được mệnh danh là “vua của các loại trái cây”.
Hiện nay xoài được trồng tại hơn 90 quốc gia với khoảng 160 giống khác
nhau, trong đó xồi được trồng nhiều nhất ở Ấn Độ và được xem là cây trồng
lựa chọn đầu tiên trong số các loại cây ăn quả có nguồn gốc bản địa và là
quốc gia xuất khẩu xồi chính trên thế giới (Mitra và Baldwin, 1997).
Xoài là cây trồng chủ lực của Việt Nam với diện tích cả nước 104.128,6 ha
với tổng sản lượng đạt 814.835,9 tấn. Xoài được trồng từ Nam tới Bắc, vùng
trồng xoài tập trung tại Sơn La (16.159,3 ha), Khánh Hoà (8.169,7 ha), Đồng
Nai (12.253,6 ha), Đồng Tháp (11.340 ha), Tiền Giang (3.934,4 ha), An Giang
(11.178,4 ha), Vĩnh Long (5.006,5 ha),… Miền Nam là vùng trồng xoài trọng
điểm, chiếm 81% diện tích và 92% sản lượng so với cả nước. Trồng tập
trung ở ĐBSCL (chiếm 57% về diện tích so tồn miền), kế đến là duyên hải
Nam Trung Bộ (17%), Đông Nam Bộ (ĐNB) (22%) và Tây Nguyên (4%).
Hiện nay, các giống xoài được trồng phổ biến như xoài Cát Chu, xồi Cát
Hịa Lộc, xồi Đài Loan và một số giống xồi địa phương và nhập nội khác,
nhà vườn có xu hướng chuyển đổi giống xoài phù hợp với nhu cầu của thị
trường tiêu thụ. Nhiều nơi đã hình thành những vùng trồng tập trung, như
xoài Cát Chu (Đồng Tháp), xoài Cát Hịa Lộc (Tiền Giang), xồi Xiêm Núm
(Vĩnh Long), xồi Úc (Khánh Hịa), xồi Đài Loan (An Giang) (Cục Trồng trọt,
2020; Sở Nông nghiệp và PTNT Sơn La, 2020).
Sản xuất xồi đã góp phần giải quyết cơng ăn việc làm và tạo thu nhập
cho nhiều hộ nông dân, nhiều lao động tham gia trong chuỗi cung ứng.
8
SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY XỒI
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường mở cửa như hiện nay, nơng sản Việt
Nam có cơ hội tham gia nhiều hơn trên thị trường thế giới. Tuy nhiên rào cản
lớn nhất cho tất cả các loại trái cây Việt Nam đó là vấn đề tồn dư thuốc BVTV
trong sản phẩm. Đây là vấn đề cần có giải pháp quản lý hiệu quả để sản xuất
và tiêu thụ xoài được thuận lợi hơn.
Sản xuất xồi Việt Nam có thể rải vụ thu hoạch tại vùng ĐBSCL, có một số
giống xoài đặc sản đã và đang tham gia xuất khẩu (xoài Cát Hoà Lộc, Cát Chu,
xoài Xiêm Núm, xoài Úc - Khánh Hịa, xồi Đài Loan) nên hồn tồn có thể gia
tăng xuất khẩu trong thời gian tới.
Sản xuất xoài đóng góp đáng kể cho nền kinh tế Việt Nam. Nhìn
chung, xồi ở Việt Nam có sản lượng lớn, tuy nhiên giá trị sản xuất còn thấp
với một số hạn chế như diện tích sản xuất cịn nhỏ lẻ, chưa quản lý tốt đối
với chuỗi giá trị xoài, quản lý chất lượng kém và chi phí đầu vào cao nên lợi
nhuận của nhà vườn chưa cao. Cây xoài là một trong những cây trồng chính
của Việt Nam, nên đã có nhiều chính sách hỗ trợ phát triển cây xồi. Điển
hình như vùng xồi Sơn La và Đồng Tháp.
Sơn La có diện tích trồng xồi 16.159,3 ha đứng thứ hai sau cây nhãn,
được trồng tập trung tại các huyện Mai Sơn, Yên Châu, Mường La, Bắc Yên,
Sông Mã, Thuận Châu và Mộc Châu. Năm 2020 diện tích trồng mới xồi là
983 ha (Sở Nông nghiệp và PTNT Sơn La, 2020). Sản lượng xoài của Sơn
La năm 2019 đạt 33.090 tấn quả, năng suất trung bình 5,7 tấn/ha nhờ đổi
mới cơ cấu giống và áp dụng các biện pháp kỹ thuật nên năng suất xoài
ngày càng tăng. Sơn La trồng nhiều giống xồi khác nhau như: xồi hơi, xồi
tượng, xồi bản địa (xồi trịn n Châu đã được bảo hộ chỉ dẫn địa lý), các
giống xoài nhập nội như xoài Đài Loan, xồi Úc (GL4), GL3, xồi Thái Lan,... có
năng suất cao, chất lượng tốt. Trong đó xồi tượng chiếm 38,5% diện tích.
Đồng Tháp có diện tích trồng xồi 11.340 ha, trong đó trồng tập trung tại
thành phố Cao Lãnh, huyện Cao Lãnh, Thanh Bình, Lai Vung, Lấp Vị và Châu
Thành. Sản lượng xoài của Đồng Tháp năm 2020 đạt 113.916 tấn/năm, năng
suất trung bình 11,7 tấn/ha. Đồng Tháp trồng nhiều giống xồi khác nhau
như: xồi Cát Chu chiếm 45% diện tích, Cát Hịa Lộc (21%), xồi Đài Loan
SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY XỒI
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
9
(18%), xoài khác như xoài Úc R2E2, xoài Keo... (16%). Nguồn cung cấp giống
chủ yếu từ các trại cây giống của tỉnh Đồng Tháp và Tiền Giang, bên cạnh đó
nơng dân chủ động tự nhân giống (ghép bo) phục vụ sản xuất. Trên xồi tại
Đồng Tháp tình hình dịch hại rất đa dạng và phong phú, một số dịch hại quan
trọng như bệnh thán thư gây hại nặng nhất gây hại trên đọt non, lá và quả, kế
đến là bệnh đốm đen xì mủ, ruồi đục quả, bọ trĩ, rầy bơng xồi, bọ cắt lá, sâu
đục thân và sâu đục quả. Đồng Tháp có khả năng rải vụ xồi quanh năm, cho
thu hoạch quả vào tháng 1 - 2 và tháng 6 - 12 dương lịch. Chi phí đầu tư của vụ
nghịch cao hơn vụ thuận từ 15 - 20%, có khi cao hơn tùy thuộc vào điều kiện
dịch hại và thời tiết, tuy nhiên giá bán vụ nghịch cao hơn vụ thuận gấp 1,5 - 2,0
lần, do đó tỷ suất lợi nhuận tăng thêm 1,5 - 2,0 lần.
1.2. Yêu cầu sinh thái của cây xồi
- Nhiệt độ:
Xồi có thể chịu được nhiệt độ từ 4 - 10oC đến 46oC nhưng khoảng tối ưu là
ở 24 - 27oC, nhiệt độ cao gây hại cho sự sinh trưởng của cây nếu ẩm độ khơng
khí thấp. Thời gian lạnh kéo dài cây bị ảnh hưởng như rụng lá, rụng hoa, ảnh
hưởng đến sự phát triển của quả.
- Lượng mưa và ẩm độ không khí:
Lượng mưa trung bình từ 1.000 - 1.200 mm phân bố ít nhất có 4 tháng
mùa khơ trong năm, ẩm độ khơng khí tương đối từ 55 - 70%. Dù có khả năng
chịu hạn nhưng xoài rất cần nước để cho năng suất cao. Năng suất xồi có tương
quan chặt chẽ với lượng mưa hằng năm.
Tuy nhiên ở vùng nào có mùa khơ kéo dài và có đủ nước tưới, trái có
phẩm chất ngon hơn và năng suất cũng cao hơn. Lượng mưa và ẩm độ cao là
điều kiện để nấm bệnh phát triển, đặc biệt là xì mủ trái và thán thư. Tỷ lệ đậu
trái trên cây bị ảnh hưởng nếu mưa đúng vào lúc hoa nở, vì mưa nhiều làm
giảm sự hoạt động của cơn trùng, do đó sự thụ phấn khó thành cơng. Vì vậy,
mùa khơ là thời điểm ra hoa tốt nhất. (Nguyễn Bảo Vệ, 2013)
10
SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY XỒI
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
- Chế độ gió và độ cao:
Gió là nguyên nhân gây nên rụng hoa, rụng quả, vì vậy khi quy hoạch
vườn chuyên canh xoài nên lưu ý đến điều này. Tác hại rất lớn của gió bão ảnh
hưởng nặng đến vùng trồng xoài chuyên canh như Philippines, đây là quốc
gia phải chịu nhiều thiệt hại do gió xốy làm giảm sản lượng.
Khu vực ĐBSCL có vận tốc gió trung bình dưới 3 m/giây, hiếm khi có
trung tâm bão đi qua, nên khơng cần phải lập vành đai chắn gió cho vườn
xồi. Trái lại, xồi cịn được trồng làm cây chắn gió cho một số lồi cây trồng
khác, nhờ bộ rễ vững chắc. Nơi chịu ảnh hưởng của gió to theo các đợt gió
mùa hàng năm thì phải bố trí hệ thống cây chắn gió hợp lý trước khi trồng.
Xồi có thể trồng ở độ cao dưới 1200 m so với mực nước biển, nhưng tốt
nhất từ 600 m trở xuống. Trồng càng cao xoài ra hoa càng muộn, cứ lên cao
120 m thì cây trổ hoa trễ hơn 4 ngày (Dương Minh và ctv., 2001).
- Đất đai:
Xoài sinh trưởng tốt trên nhiều loại đất nhưng tốt nhất là trên đất cát hay
thịt pha cát, thốt nước tốt có thủy cấp không sâu quá 2,5 m. So với những
cây ăn quả nhiệt đới khác xoài là loại cây chịu úng tốt nhất. Đất nhẹ và kém
màu mỡ giúp cây cho nhiều hoa và đậu quả tốt trong khi đất màu mỡ giúp
cây phát triển tốt nhưng ít quả.
Xồi chịu được pH từ 5,5 - 7,0. Đất chua (pH nhỏ hơn hay bằng 5) làm cây
phát triển kém (Dương Minh và ctv., 2001).
1.3. Một số nghiên cứu về kỹ thuật canh tác xồi
1.3.1. Những nghiên cứu về phân bón qua lá
Theo Karemera và Habimana (2014) đã thí nghiệm phun CaCl2 với các
nồng độ 0,5%, 1% và 1,5% ở thời điểm 30 ngày và 15 ngày trước thu hoạch
trên giống xoài “Totapuri”. Kết quả cho thấy rằng phun canxi làm chậm q
trình chín nhưng giúp cải thiện hình thức bên ngồi và chất lượng bên trong
quả vì vậy có thể bảo quản được lâu hơn. Phun CaCl2 ở nồng độ 1,5% cho
hiệu quả tốt nhất.
SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY XỒI
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
11
Theo Zaeneldeen (2014) khuyến cáo phun urê 2% kết hợp với GA3 50
ppm vào các tháng 11, 12, 01 và tỉa bỏ phát hoa đã giúp tăng đậu quả, cải
thiện năng suất và chất lượng quả trên giống xoài “Succary”.
Theo Babul và Rahim (2013) khuyến cáo sử dụng KNO3 4% hoặc urê 4%
có tác dụng trong việc làm tăng chồi dài chồi non, số lá trên chồi, diện tích
lá, chiều dài và chiều rộng phát hoa, số nhánh hoa trên phát hoa và tăng tỷ lệ
đậu quả trên phát hoa so với đối chứng phun nước.
Theo Wahdan và ctv. (2011) cho rằng phun urê 1%, NAA (40 ppm, 60
ppm), CaCl2 2% và GA3 (20 ppm, 40 ppm) giúp làm tăng chiều dài chồi ngọn,
số lá trên chồi, diện tích lá, năng suất và phẩm chất quả xoài qua 2 vụ.
Theo Yeshitela và ctv. (2005) kết luận rằng đối với giống xoài “Tommy
Atkin” 10 năm tuổi qua 2 vụ khảo sát phun 2% KNO3 + 1 g urê hoặc 4% KNO3
hai lần ở giai đoạn lá có màu xanh nhạt và ở giai đoạn lá xanh đậm có hiệu
quả tốt trong việc kích thích ra hoa và tăng năng suất.
Theo Khattab và ctv. (2016), việc phun bổ sung 3 lần canxi + amino acid +
boron ở nồng độ 2.000 ppm ở giai đoạn bắt đầu ra hoa, hoa trổ hoàn toàn và
hai tuần sau đậu quả có hiệu quả cao nhất trong việc giúp tăng sự đậu quả và
năng suất đối với cây xoài 8 năm tuổi giống “Ewais” and “Fagry Kelan”.
Theo Suresh và ctv. (2015), sử dụng canxi 1% phun trước khi thu hoạch
30 ngày kết hợp với tủ gốc cho thấy làm tăng số lượng phát hoa trên m2 và
tỷ lệ đậu quả cao nhất.
Phun Borax (500 - 1.000 ppm) vào các thời điểm lúc phát hoa dài 10 cm
(lần 1) và phát hoa bắt đầu nở những bông đầu tiên (lần 2) đều có hiệu quả
trong việc hạn chế rụng trái non trên giống xồi Cát Hịa Lộc. Phân bón lá
chứa bo và canxi được phun 2 lần lúc hoa to và hoa nở khoảng 30% giúp cây
ra hoa, thụ phấn tốt và tăng đậu quả xoài (Viện Cây ăn quả miền Nam).
1.3.2. Nghiên cứu về kỹ thuật bón phân gốc
Cơng thức phân bón cho xồi tùy vào giống, loại đất và mục tiêu năng
suất, chất lượng quả đạt được như bón lượng phân: 800 g N, 200 g P2O5 và
12
SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY XỒI
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
300 g K2O/cây cho xồi Dashehari thì cây cho năng suất cao, với khối lượng
quả và khối lượng thịt quả cao nhất (Sharma et al., 1983).
Bón đạm làm tăng năng suất xồi Totapuri, trong khi đó bón lân và kali
khơng làm tăng năng suất (Reddy et al., 2000).
Ở Quảng Đông (Trung Quốc), năng suất và chất lượng quả xoài được cải
thiện khi bón phân theo lượng là: 400 g N2O, 125 g P2O5, 440 g K2O, 40 g Mg và
80 g S/cây/năm (Zhou et al., 2001). Việc bón phân N, P và K cho cây làm tăng số
quả/cây, tăng năng suất, tăng chất lượng quả ở West Bengal, Ấn Độ (Satapathy
và Banik, 2002). Bón phân cho xồi, với lượng 500 g K/cây, thì đạt năng suất và
chất lượng quả tốt nhất tại Ai Cập.
El-Wakeel (2005) cho rằng bón lượng 500 hay 1000 g N/cây và 400 g K2O/
cây cho xoài Amrapali thì đạt trọng lượng và kích thước quả cao nhất tại
Dibba Al-Fujira, các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất. Xồi Amrapali áp
dụng cơng thức phân bón là 37,5 kg phân chuồng, 1.125 g urê, 600 g super
phosphate, 375 g kali clorua, 375 g gypsum và 22,5 g kẽm sulphate thì cây
đạt số quả cao nhất (96 quả/cây tương đương 19,55 kg/cây), so với đối chứng,
khơng bón phân cây cho năng suất 3,48 kg/cây hay 23 quả/cây. Bón phân
theo công thức trên cũng làm tăng chất lượng thịt quả, như: độ brix, pH,
vitamin C (Sarker và Rahim, 2012).
Theo Bal và ctv. (2009), bón phân NPK cho cây xồi 15 năm tuổi giống
“Latsundari” với cơng thức phân bón 1,0 kg N2O, 0,5 kg P2O5 và 1,0 kg K2O trên
cây/năm sẽ làm tăng năng suất và chất lượng quả. Theo Nguyễn Bảo Vệ và
Nguyễn Hồng Phú (2004) thì cây xồi 6 - 8 năm tuổi cần bón nhiều phân để
có sản lượng cao, trung bình bón theo cơng thức NPK 1,09 - 0,90 - 0,96 (kg/
cây/năm).
Nghiên cứu của Trần Nguyễn Liên Minh và ctv. (2005) cho thấy các nghiệm
thức bón 20 kg phân hữu cơ Dynamic lifter và nghiệm thức bón 20 kg phân
hữu cơ Greenfield có tác dụng làm tăng độ Brix thịt trái, tăng độ sáng trái xồi
Cát Hịa Lộc so với đối chứng. Thời gian bảo quản trái dài hơn 3 ngày so với
đối chứng.
SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY XỒI
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
13
Một nghiên cứu khác của Trần Nguyễn Liên Minh và ctv. (2005) là các
nghiệm thức 460 g N - 300 g P2O5 – 450 g K2O + 10 kg Dynamic lifter, 460 g N
- 300 g P2O5 - 450 g K2O + 10 kg Greenfield đã làm tăng độ ngọt của quả xồi
Cát Hịa Lộc. Kết quả nghiên cứu của Đồn Thị Cẩm Hồng (2010) trên cây xồi
Cát Hịa Lộc cho thấy, bón 75% NPK (2,2 kg urê + 4,2 kg lân + 1,5 kg KCl ) + 5
kg Humix gà cao cấp hoặc bón 50% NPK (1,5 kg urê + 2,8 kg lân +1 kg KCl) +
10 kg Humix gà cao cấp đã làm tăng năng suất, cải thiện độ brix và độ chắc
thịt quả xồi Cát Hịa Lộc.
Theo Bùi Xn Khơi (2012) khuyến cáo xồi 5 - 7 năm tuổi thì bón phân
urê (750 - 900 g), lân supe (1.500 - 1.800 g), kali (500 - 700 g) và cây lớn hơn
11 năm thì bón phân urê (1.600 - 3.500 g), lân supe (3.000 - 5.000 g) và kali
(1.100 - 2.600 g).
1.3.3. Nghiên cứu về xử lý ra hoa xoài
Trong tự nhiên xoài rất dễ ra hoa ở những vùng khí hậu có hai mùa mưa
nắng phân biệt rõ rệt. Tuy nhiên để điều khiển thời gian ra hoa và quả thích
hợp cần áp dụng các biện pháp để xử lý ra hoa xồi.
- Xơng khói:
Thực hiện xơng khói vào đầu mùa khơ. Thời gian xơng khói kéo dài từ
1 - 2 tuần đến khi cây nhú mầm thì ngừng. Trường hợp cây khơng ra hoa phải
lặp lại sau 1 tháng. Phương pháp này tuy ít tốn kém, nhưng bất tiện và hiệu quả
không cao (Dương Minh và ctv., 2001).
- Cắt tỉa cành và khấc cành/khoanh cành:
Tỉa bớt cành già vào khoảng 4 tháng trước khi cây ra hoa. Biện pháp này
giúp cây sử dụng dinh dưỡng hiệu quả hơn nên góp phần kích thích ra hoa,
cho quả nhiều hơn. Trần Văn Hâu (2005) cũng đề nghị khấc cành của cây vào
những năm trúng mùa để cây tích tụ dinh dưỡng để những năm thất mùa
cây cũng dễ cho hoa quả hơn.
- Sử dụng Paclobutrazol (C16H20ClN3O):
Paclobutrazol (PBZ) có cơng thức hóa học là C16H20ClN3O, tên hóa học (2RS,
3RS)-1-4-(4 chlorophenyl)-4. Đây là chất ức chế sinh trưởng được sử dụng phổ
14
SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY XỒI
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
biến trong canh tác cây xoài ở Thái Lan, Indonesia, Pakistan, Ấn Độ, Mexico, vùng
lãnh thổ Đài Loan để điều khiển ra hoa quả trái vụ hoặc ra hoa sớm (Phạm Thị
Hương và Trần Thế Tục, 2001).
Theo thí nghiệm của Early và Martin (1988) trích dẫn bởi Nguyễn Thị Thùy
Dung (2002) khi xử lý PBZ bằng cách tưới gốc trên cây đào đặt trong môi
trường dinh dưỡng và dùng carbon đánh dấu định vị trong mô gỗ của cây và
chúng phân bố chủ yếu ở phần thân dưới và lá. Hàm lượng carbon đánh dấu
cao nhất được tìm thấy ở lá tương đương với cả ở thân và rễ, điều này chứng
tỏ PBZ đi theo mô gỗ lên các phần trên của cây.
Khi xử lý PBZ bằng cách tưới vào đất ở liều lượng 2,5 g a.i/cây đã làm giảm
sức của cây xoài đi 50% so với đối chứng. Tác động của PBZ đã làm tăng hàm
lượng phenolic trong chồi ngọn, làm tăng tỷ lệ mô gỗ trên mô libe trong
thân, làm giảm hàm lượng ABA nội sinh và mức độ cytokinin hoạt động (Iyer
và Kurian, 1992). Ở Thái Lan, xử lý PBZ bằng cách tưới gốc cho giống Khiew
Sawoey với liều lượng 6 g a.i/cây sau khi xuất hiện lộc 14 ngày và sau 91 - 112
ngày thì cây phân hóa mầm hoa. Sau khi xử lý PBZ phun Thiourea 6,5% 2
tuần/lần cây ra hoa sau 105 - 150 ngày sau khi xử lý PBZ. Nếu chỉ xử lý bằng
PBZ thì phải sau 150 ngày cây mới ra hoa 50,8% (Charnvichit và ctv., 1989).
Trần Văn Hâu (1997) cho biết khi xử lý PBZ 5 g a.i/cây kích thích được ra hoa
mùa nghịch (19,4%) trên cây xồi cát Hịa Lộc 8 năm tuổi và thời gian từ khi
tưới PBZ đến khi nhú hoa là 85 ngày tại Đồng Tháp và 97 ngày tại Cần Thơ.
Điểm cơ bản trong sự khác nhau giữa PBZ và nitrate kali là nitrate kali làm phá
vỡ miên trạng của mầm hoa, thúc đẩy sự phân hóa mầm hoa và phát triển
mầm hoa. Trong khi PBZ thúc đẩy sự hình thành mầm hoa thơng qua sự ức
chế sinh tổng hợp GA, làm giảm nồng độ của GA ở chồi ngọn (Tongumpai và
ctv., 1991). Hiệu quả của PBZ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như giống, tuổi cây,
tuổi lá, khí hậu và kỹ thuật xử lý (Lyannaz, 1994 và Mossak, 1996).
Do PBZ có thể được rễ hấp thụ rồi vận chuyển lên lá và cũng có thể hấp
thu trực tiếp qua lá cho nên có thể sử dụng bằng cách phun lên lá hoặc tưới
vào đất. Tuy nhiên biện pháp đổ gốc có phần tiện lợi và dễ áp dụng hơn và
SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY XỒI
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
15
ít chi phí hơn so với phun lên lá (Burondkar và Gunjate, 1991) và có hiệu quả
làm tăng sự ra hoa và năng suất (Winston, 1992).
Winston (1992) nhận thấy năng suất có khuynh hướng giảm nếu sử dụng
PBZ hai năm liên tiếp ở cùng nồng độ. Ở liều lượng lớn hơn 4 g a.i/cây làm
phát hoa ngắn và kết chặt lại một cách khơng bình thường. Do đó PBZ được
khuyến cáo sử dụng liên tiếp trong 2 năm sau đó nghỉ 1 năm trước khi bắt
đầu chu kì mới. Paclobutrazole cịn ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây
xồi với thí nghiệm tưới vào đất liên tục trong 3 năm với nồng độ 5 và 10 g
a.i/cây xoài 16 năm tuổi làm giảm tỷ lệ ra đọt 5,12% so với 48% ở nghiệm thức
đối chứng, chiều dài chồi mới ngắn hơn là 12,2 và 11,3 so với đối chứng là
19,5 cm (Burondkar và Gunjate, 1991).
Về khả năng lưu tồn trong đất. Qua thí nghiệm nghiên cứu trên cây xồi
Nam Dok Mai, Subhadrabandhu và Kataoka (1999) nhận thấy PBZ có khả
năng lưu tồn 11 tháng nếu áp dụng phương pháp tưới vào đất, 3 tháng nếu
áp dụng phun lên lá còn biện pháp tiêm vào thân thì mức độ lưu tồn rất thấp.
Tuy nhiên các tác giả không phát hiện thấy PBZ tồn lưu trong quả xoài qua
các biện pháp xử lý trên.
- Sử dụng Cycocel (Chlormequat Chloride):
Cycocel công thức phân tử (C5H13CL2N) là hợp chất thuộc nhóm onium,
đặc điểm chung của nhóm này là có ammonium bậc 4 được ứng dụng đầu
tiên chống tăng trưởng quá mức của bông vải.
Cơ chế tác dụng của nhóm này là ngăn cản quá trình vịng hóa của
geranylgeranyl pyrophosphate trong sự tổng hợp copalyl diphosphate (CDP)
và sự tổng hợp ent-kaurene trong bước đầu tiên của sự tổng hợp GA. Bằng
phương pháp sắc ký khối phổ (GC-MS) cho thấy hóa chất này làm giảm GA1
trong chồi và hạt của cây Triticum aestivum và cũng dẫn đến sự giảm GA12,
GA53, GA44, GA19, GA20, GA1, GA8 trên hai giống sorgum bicolor. Chất này cũng
làm tăng màu xanh của lá cây, khả năng chống chịu stress (Latimer, 2001;
Kahar, 2008).
16
SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY XỒI
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Như vậy có thể thấy rằng cơ chế thúc đẩy ra hoa của Cycocel là ức chế
sinh tổng hợp GA dẫn đến làm giảm lượng GA trong cây. Do vậy Cycocel ức
chế sự giãn của tế bào, ức chế sinh trưởng chiều cao, làm ngắn các lóng cây
hịa thảo nên cịn có tác dụng chống lốp đổ. Cycocel cịn tăng tổng hợp diệp
lục nên tăng quang hợp, thúc đẩy phân hóa mầm hoa và khơng gây độc cho
cây. Chất này có thể được phun lên cây hoặc tưới vào đất, tốc độ thấm nhanh
và phân hủy trong cây sau một vài tuần.
- Sử dụng Thiourea:
Nhiều hóa chất có đặc tính điều hịa sinh trưởng đã được thử nghiệm để
kích thích hoặc ức chế trên xoài ở các nước khác nhau (Chacko và ctv., 1991).
Thiourea đã được chứng minh là có thể gây ra hoa trên một số giống xoài
(Tongumpai và ctv., 1997; Nartvaranant và ctv., 2000).
Thiourea (Thiocarbamide) có cơng thức hóa học CH4N2S, cơng thức phân
tử là H2NCSNH2 là hóa chất có tác dụng kích thích ra hoa trên xồi giống như
nitrate kali, là tác nhân làm phá vỡ miên trạng của chồi (Charnvichit và ctv.,
1989). Theo Nguyễn Lê Lộc Uyển (2001) tác dụng của Thiourea lên sự phá vỡ
miên trạng và thúc đẩy sự phân hóa mầm hoa giống nitrat kali nhưng hiệu quả
cao hơn gấp 2 - 3 lần. Trên cây xồi Cát Hịa Lộc 3 năm tuổi (nhân giống bằng
phương pháp tháp) phun Thiourea 0,5 - 0,75% có thể kích thích ra hoa 10%
trong mùa nghịch, trong khi nitrat kali ở nồng độ 2% khơng có hiệu quả.
Trên giống Nam Dok Mai 3 năm tuổi, Tongumpai và ctv. (1997) phun
Thiourea ở nồng độ 0,5 - 1% để kích thích ra đọt tập trung. Tuy nhiên ở Thái Lan
nồng độ Thiourea được khuyến cáo là 38 - 40 g/10L (Dokmaihom và ctv., 1996).
Nghiên cứu của Trần Văn Hâu và Nguyễn Thị Kim Xuyến (2009) trên xoài
Cát Chu cho thấy phun Thiourea ở các thời điểm trong thí nghiệm sau khi
tưới PBZ vào đất đều có tỷ lệ ra hoa cao hơn so với đối chứng không xử lý,
trong đó phun Thiourea 2 tháng sau khi tưới PBZ có tỷ lệ ra hoa cao nhất
(75,6%).
SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY XỒI
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
17
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Việt Khởi và Nguyễn Bảo Vệ (2004) xử lý
ra hoa trái vụ xoài Châu Hạng Võ bằng Paclobutrazol (PBZ) và Thiourea. Kết
quả cho thấy, phun Thiourea ở nồng độ 0,5% vào tháng 8 đã kích thích xồi ra
hoa trái vụ, nhưng tỷ lệ chồi ra hoa chỉ bằng khoảng 1/5 so với biện pháp có
tưới thêm trước đó 3 tháng chất Pacloputrazol ở nồng độ 1 g a.i./1 m đường
kính tán.
- Sử dụng Nitrate kali (KNO3):
Nitrate kali được phát hiện ứng dụng để kích thích ra hoa trên cây xồi
đầu tiên ở Philippines vào thập niên 1970 (Bondad, 1989). Mặc dù KNO3 có
hiệu quả trong việc kích thích ra hoa xồi “Carabao” nhưng cơ chế chưa được
giải thích rõ (Valmayor, 1987). Nitrate kali khơng phải là một kích thích tố
hoặc thúc đẩy ra hoa, gây ra một sự chuyển đổi từ tình trạng sinh trưởng
dinh dưỡng sang sinh sản nhưng chỉ như là một sự chuyển đổi đột ngột một
chương trình ra hoa đã có sẵn từ trước (Protacio, 2000). Sự phun nitrate kali
là một tác nhân mà sự khởi phát hoa từ những mô đã đủ khả năng ra hoa
nhưng chưa xác định để ra hoa. Sự chuyển đổi từ tình trạng dinh dưỡng sang
sinh sản nhưng không phải là sự chuyển đổi từ thời kỳ tơ sang thời kỳ trưởng
thành mà thực chất là một tác nhân kích thích cho sự khởi phát hoa. Samala
(1979) cho rằng KNO3 tác động như là một tác nhân kích thích. Sự hiện diện
của những mầm hoa miên trạng được hình thành trước cho thấy rằng KNO3
đơn giản chỉ phá vỡ sự ngủ nghỉ của mầm hoa và gây ra sự phân hoá mầm
hoa thành hoa. Winston and Wright (1984) khẳng định rằng KNO3 không thúc
đẩy mầm ngủ xuất hiện sớm hơn mà thực ra nó chỉ kích thích mầm hoa đã
hình thành trước phân hố thành phát hoa.
Khảo sát vai trò của từng ion trong hợp chất KNO3 gây ra hiệu quả kích
thích ra hoa trên cây xồi, Manuel (1976) kết luận ion NO-3 chính là yếu tố
quyết định, có tác dụng phá vỡ sự miên trạng của mầm ngủ và kích thích sự
3
ra hoa. Tuy nhiên, trong số các cation K+, Na+, NH+ và Ca++ kết hợp với ion
nitrate để tạo thành muối nitrate thì chỉ có cation K+ là có hiệu quả kích thích
ra hoa cao hơn cả. Lyannaz (1994) cũng khẳng định rằng ion nitrate có vai trị
quan trọng nhất trong q trình kích thích ra hoa xồi.
18
SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY XỒI
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
1.3.4. Nghiên cứu về gốc ghép chịu mặn
Đối với vấn đề đất bị nhiễm mặn thì việc cải tạo đất cũng như quản lý
và cải thiện chất lượng nguồn nước tưới luôn luôn là biện pháp canh tác
quan trọng, nhằm làm giảm độ mặn của muối trong đất. Tuy nhiên, những
phương pháp như vậy không phải lúc nào cũng mang lại hiệu quả kinh tế
như mong muốn. Do đó, gần đây người ta tập trung nghiên cứu các loại cây
trồng chống chịu được mặn ở các nồng độ mặn khác nhau trên những vùng
đất này, đó là một giải pháp kinh tế để khai thác và phát triển tiềm năng của
những vùng đất và nước bị nhiễm mặn.
Thanh lọc gốc ghép chịu mặn đối với cây trồng đang là mối quan tâm
của nhiều quốc gia có đất bị nhiễm mặn. Xu hướng nghiên cứu hiện nay là
qua việc thanh lọc mặn các nguồn gen đang có trong quần thể tự nhiên để
tìm ra được những loại gốc ghép có khả năng chịu mặn hoặc bằng phương
pháp lai tạo cổ điển hoặc chuyển gen kháng mặn cho cây (Palaniappan và
Chadha, 1993).
Kết quả thanh lọc mặn các dịng/giống xồi của Võ Hữu Thoại (2010) đã
chọn được các gốc ghép chống chịu mặn như: xồi Canh Nơng (Khánh Hịa),
Châu Hạng Võ (Trà Vinh), xoài 13-1 (Israel), xoài Ghép xanh (Tiền Giang), xoài
Thơm (An Giang) có khả năng chống chịu mặn (NaCl) ở nồng độ 13‰ trong
2 tháng.
1.3.5. Nghiên cứu về tưới nước cho xoài
Lê Xuân Quang (2009), cho rằng mức độ hút nước của cây trồng giảm
đều từ độ ẩm tối đa đồng ruộng tới độ ẩm cây héo, tức là muốn có năng
suất cây trồng cao thì ln ln phải duy trì độ ẩm trong đất ở độ ẩm tối đa
đồng ruộng. Do vậy cần phải tưới rất nhiều lần với mức tưới nhỏ nhằm duy
trì thường xuyên độ ẩm trong đất. Tuy nhiên, nhận định này cũng chưa phù
hợp với một số loại cây trồng cần ít nước và đối với những vùng khan hiếm
nước mà việc tưới rất khó khăn.
Trong điều kiện diễn biến phức tạp của biến đổi khí hậu, đặc biệt là hiện
tượng hạn hán cục bộ, hiện tượng xâm nhập mặn tại các tỉnh phía Nam đã gây
SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY XỒI
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
19
thiệt hại lớn cho người nông dân trồng CAQ. Để khắc phục hiện tượng thiếu
nước tưới và quản lý hiệu quả nguồn nước tưới thì phương pháp tưới nước tiết
kiệm kết hợp với bón phân qua nước (tưới nhỏ giọt, tưới phun mưa tại gốc)
được áp dụng rộng rãi.
Tại Việt Nam, cung cấp dinh dưỡng cho xoài phần lớn sử dụng biện pháp
bón phân qua đất. Đây là biện pháp kỹ thuật đơn giản nhưng cũng có nhiều
hạn chế nhất định như hệ số sử dụng phân bón thấp, do vậy, tăng chi phí đầu
tư; cung cấp dinh dưỡng cho cây khơng kịp thời từ đó ảnh hưởng đến năng
suất, chất lượng sản phẩm; có nguy cơ ơ nhiễm mơi trường do thất thốt
phân bón lớn, nhất là trong điều kiện mưa nhiều.
Kỹ thuật cung cấp phân bón theo nước tưới (Fertigation) đã được khẳng
định là kỹ thuật nâng cao hiệu suất sử dụng phân bón, tiết kiệm nước tưới và
giảm công lao động. Công nghệ này được nhiều nước có nền nơng nghiệp
phát triển sử dụng phổ biến cho nhiều loại cây trồng có giá trị kinh tế cao;
phù hợp trong điều kiện khô hạn, các vùng thiếu nước… Tuy nhiên, trên cây
xồi hiện nay chưa có loại phân bón qua hệ thống tưới phù hợp với từng giai
đoạn của sầu riêng kinh doanh.
Kỹ thuật tưới nước kết hợp với bón phân qua hệ thống tưới khơng gây
xói mịn, rửa trôi, cung cấp dinh dưỡng nuôi cây trực tiếp vào vùng rễ giúp
tiết kiệm chi phí phân bón. Áp dụng kỹ thuật tưới nước tiết kiệm kết hợp với
bón phân qua hệ thống tưới giúp giảm 30 - 50% lượng phân bón; năng suất
cây trồng tăng 10 - 30%; hiệu quả kinh tế tăng 5 - 20% và hệ số sử dụng phân
bón cũng tăng từ 40 - 50% (Singh và Kumari, 2017).
1.4. Luận giải về tính cấp thiết
1.4.1. Tình hình nghiên cứu về thực hành nơng nghiệp thơng minh thích
ứng với biến đổi khí hậu (CSA)
Ngành Nơng nghiệp đang phải giải quyết đồng thời 3 thách thức có liên
quan mật thiết đến nhau: (i) đảm bảo an ninh lương thực (ANLT) và thu nhập
cho người dân; (ii) thích ứng với biến đổi khí hậu (BĐKH); và (iii) giảm nhẹ
BĐKH.
20
SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY XỒI
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Sự gia tăng dân số tồn cầu, theo ước tính của FAO, đến năm 2050, dân số
thế giới sẽ tăng thêm 1/3 so với hiện tại, tương đương khoảng 2 tỷ người và
chủ yếu sống ở các nước đang phát triển. Tăng dân số sẽ tạo áp lực cho nông
nghiệp trong sử dụng đất đai và các nguồn tài nguyên thiên nhiên để phục
vụ cho sản xuất nông nghiệp. Do đó, ANLT vẫn là thách thức lớn trong bối
cảnh BĐKH đã và đang diễn ra ngày càng khắc nghiệt hơn trong tương lai.
BĐKH sẽ gây ra các biến đổi thời tiết bất thường, cực đoan làm ảnh hưởng
đến các mặt của đời sống và đặc biệt ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây
trồng. Đồng thời, BĐKH còn làm suy giảm các nguồn tài nguyên nhất là đất
canh tác, nước và đa dạng sinh học. Mặt khác, BĐKH và nước biển dâng gây
ra hạn hán và ngập mặn gia tăng, đồng nghĩa với việc tăng diện tích đất bị sa
mạc hóa hoặc nhiễm mặn, giảm diện tích đất canh tác nơng nghiệp. Do vậy,
trong các lĩnh vực nói chung và nơng nghiệp nói riêng cần tăng cường áp
dụng giải pháp nhằm thích ứng cao hơn nữa với các biến đổi bất thường đó.
Tại Việt Nam, nơng nghiệp đã và sẽ tiếp tục là một trụ cột chính của nền
kinh tế. Nơng nghiệp đóng góp 16,3% GDP, 18,2% giá trị xuất khẩu và tạo
việc làm cho khoảng 41,9% lao động (Tổng cục Thống kê, 2017). Vì vậy, nơng
nghiệp cần phải duy trì đà tăng trưởng để đảm bảo nhu cầu về lương thực và
các nhu cầu khác về thực phẩm, năng lượng, thuốc chữa bệnh, nguyên nhiên
liệu phục vụ nền kinh tế.
Nông nghiệp thông minh với BĐKH
Nông nghiệp thông minh với BĐKH (CSA) được FAO (2013) xác định như
một cách tiếp cận nhằm đảm bảo ANLT cho hơn 9 tỷ người trên tồn cầu
vào 2050. CSA là sản xuất nơng nghiệp với bền vững về tăng năng suất, tăng
cường khả năng chống chịu (thích ứng), giảm hoặc loại bỏ, tăng khả năng
hấp thụ KNK (giảm nhẹ) bất cứ khi nào có thể và tăng khả năng đạt được mục
tiêu quốc gia về an ninh lương thực và mục tiêu phát triển bền vững. Mục
tiêu của CSA là đảm bảo tính sẵn có, đủ các chất dinh dưỡng của lương thực,
thực phẩm trong khi giảm được tác động của BĐKH, cũng như đóng góp cho
giảm phát thải KNK. Tính “thơng minh” của CSA nhằm đạt được 3 mục tiêu:
(i) đảm bảo an ninh lương thực và dinh dưỡng; (ii) thích ứng bao gồm khả
SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY XỒI
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
21
năng chống chịu và phục hồi với các điều kiện bất lợi của khí hậu, dịch hại
và sâu bệnh, ổn định năng suất...; và (iii) giảm lượng phát thải KNK cũng như
hấp thụ/tích tụ carbon. Trong điều kiện Việt Nam, với cách tiếp cận “khơng
hối tiếc” thì khơng nhất thiết ở mọi lúc, mọi nơi 3 mục tiêu này đều được đặt
ngang nhau khi lựa chọn các thực hành CSA.
An ninh lương thực, thích ứng và giảm nhẹ được xác định là 3 trụ cột
quan trọng nhằm đảm bảo đạt được mục tiêu cơ bản của CSA.
An ninh lương thực: Là tăng năng suất và thu nhập một cách bền vững từ
trồng trọt, chăn nuôi và thủy sản mà không tác động xấu tới mơi trường, từ
đó đảm bảo an ninh lương thực và dinh dưỡng.
Thích ứng: Là giảm các rủi ro cho nông dân trong ngắn hạn, trong khi vẫn
nâng cao khả năng chống chịu thông qua xây dựng năng lực thích ứng với
các tác động dài hạn của BĐKH. Các dịch vụ hệ sinh thái góp phần quan trọng
vào duy trì năng suất và khả năng thích ứng với BĐKH.
Giảm nhẹ: Là giảm hoặc loại bỏ phát thải KNK bất cứ khi nào có thể. Ngăn
chặn phá rừng, quản lý đất, cây trồng hiệu quả nhằm tối đa hóa khả năng dự
trữ và hấp thụ CO2 trong khí quyển.
Các đặc điểm chính của CSA:
CSA giải quyết các thách thức của BĐKH: Khác với phát triển nông nghiệp
truyền thống, CSA lồng ghép yếu tố BĐKH một cách hệ thống vào các quy
hoạch, phát triển của các hệ thống nông nghiệp bền vững.
CSA lồng ghép cùng lúc nhiều mục tiêu và lựa chọn các giải pháp phù hợp:
Theo khái niệm được FAO, CSA phải hướng tới đồng thời 3 mục tiêu: tăng
năng suất, nâng cao tính chống chịu và giảm phát thải. Tuy nhiên, trên thực
tế rất khó để đạt được đồng thời cả 3 mục tiêu trên. Trong quá trình triển khai
CSA, thường phải cân nhắc (đánh đổi) các lựa chọn. Do đó cần phải xác định
các yếu tố tổng hợp, cân nhắc về chi phí và lợi ích của từng lựa chọn dựa vào
mục tiêu được xác định. CSA phải được lựa chọn phù hợp với từng đối tượng
(người sản xuất, cây, con, loại hình nơng sản, loại hình thời tiết, khí hậu...),
điều kiện (tự nhiên, kinh tế, xã hội) của từng vùng miền, địa phương, cộng
22
SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY XỒI
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
đồng cụ thể. Ví dụ, tại các khu vực kinh tế khó khăn, với các nhóm cộng đồng
yếu thế thì trụ cột về năng suất, an ninh lương thực (ANLT) phải được ưu tiên
hơn, trong khi với các doanh nghiệp/vùng miền phát triển có khả năng đầu
tư nơng nghiệp cơng nghệ cao thì mục tiêu giảm phát thải KNK cần được đặt
ngang hàng với các trụ cột khác.
CSA duy trì dịch vụ hệ sinh thái: HST cung cấp cho con người các dịch vụ
cần thiết bao gồm các nguyên vật liệu, thực phẩm, thức ăn và khơng khí sạch.
CSA áp dụng cách tiếp cận cảnh quan dựa trên các nguyên tắc của nông
nghiệp bền vững nhưng không dừng lại ở các cách tiếp cận theo các ngành
hẹp mà là quản lý và quy hoạch tích hợp, đa ngành liên khu vực.
CSA có nhiều cách tiếp cận và được xem xét ở các cấp độ khác nhau: CSA
không nên chỉ được coi là tập hợp của các thực hành hoặc công nghệ sản
xuất. CSA bao gồm cả một quá trình từ phát triển các công nghệ và thực
hành tới thiết lập mơ hình dựa trên các bối cảnh BĐKH khác nhau; tích hợp
cơng nghệ thơng tin, các cơ chế bảo hiểm hạn chế rủi ro, theo chuỗi giá trị
và thông qua bố trí thể chế và hệ thống chính sách. Như vậy, CSA không chỉ
là công nghệ sản xuất mà là tổng hợp của nhiều giải pháp can thiệp về hệ
thống sản xuất, cảnh quan, chuỗi giá trị hoặc chính sách mang tính bao trùm
trong một vùng nhất định.
CSA mang tính cụ thể: Nông nghiệp thông minh tại khu vực này có thể sẽ
khơng được coi là thơng minh tại khu vực khác và khơng có giải pháp can
thiệp nào là thơng minh với khí hậu tại mọi lúc hoặc mọi nơi. Các giải pháp
can thiệp cần phải xem xét sự tương tác giữa các yếu tố khác nhau tại cấp độ
cảnh quan, trong và giữa các hệ sinh thái cũng như là một phần của thực tế
chính sách và thể chế.
CSA có sự lồng ghép về giới và các nhóm yếu thế: Nhằm đạt được mục tiêu
ANLT và nâng cao tính chống chịu, các cách tiếp cận CSA phải có sự tham gia
của các nhóm dễ bị tổn thương nhất và đói nghèo. Các nhóm này thường
sống ở những vùng dễ bị tổn thương nhất đối với BĐKH như hạn hán và lũ
lụt do đó đây là nhóm chịu ảnh hưởng nhiều nhất của BĐKH, với nhóm này,
mục tiêu về đảm bảo ANLT phải được ưu tiên hàng đầu. Giới là một cách tiếp
SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY XỒI
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
23
cận quan trọng khác của CSA. Phụ nữ ít có quyền và cơ hội tiếp cận về đất
đai, hoặc các nguồn lực kinh tế và sản xuất khác. Việc này đã làm cho phụ nữ
ít có khả năng xây dựng năng lực thích ứng với BĐKH như hạn hán, xâm nhập
mặn và lũ lụt.
CSA trong việc giải quyết các thách thức:
CSA đặt trọng tâm vào việc tăng năng suất/thu nhập và giảm nhẹ rủi ro
của BĐKH và giảm phát thải KNK. Các rủi ro về khí hậu địi hỏi Ngành Nông
nghiệp phải đổi mới công nghệ và cách tiếp cận. Cách tiếp cận CSA giúp
nông dân và các nhà hoạch định chính sách có thể chủ động xây dựng các kế
hoạch thích ứng với BĐKH cả trong ngắn và dài hạn. Các giải pháp CSA cung
cấp chiến lược nhằm tăng khả năng phục hồi của hệ thống sản xuất ở các
quy mô từ: hộ, trang trại, hệ sinh thái và vùng.
Các thách thức do BĐKH địi hỏi Ngành Nơng nghiệp Việt Nam phải hành
động ngay để tìm ra giải pháp ứng phó hiệu quả, phù hợp với điều kiện tự
nhiên và hoạt động sinh kế của từng vùng, địa phương và của q́c gia.
1.4.2. Luận giải về tính cấp thiết
Hoạt động sản xuất nông nghiệp cũng là ngành gây phát thải lớn, chiếm
14% tiềm năng làm nóng lên tồn cầu, trong đó 17% CO2 tương đương từ q
trình sử dụng đất và thay đổi sử dụng đất trong nông nghiệp, 3% CO2 tương
đương từ quá trình quản lý chất thải trong nơng nghiệp. CH4 và N2O là nguồn
khí nhà kính phát thải từ hoạt động sản xuất nông nghiệp. Ủy ban Liên chính
phủ về Biến đổi khí hậu (Intergovernmental Panel on Climate Change, viết tắt
là IPCC) (2007) đã chỉ ra rằng các nước phát triển chỉ chiếm chưa tới 20% về
dân số nhưng lại gây phát thải tới 46,4% lượng KNK toàn cầu trong khi các
nước đang phát triển, chỉ chiếm 53,6% về tổng lượng KNK nhưng chiếm trên
80% về dân số.
Dựa trên các kết quả dự báo quốc tế cho thấy, nếu khơng có các chính
sách can thiệp kịp thời, lượng phát thải KNK toàn cầu sẽ tăng từ 25 - 90% vào
năm 2030 so với hiện trạng phát thải KNK năm 2000. Đặc biệt, lượng phát
thải KNK sẽ tăng mạnh ở các nước đang phát triển như nước ta (dự báo KNK
24
SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY XỒI
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
tăng lên gấp 4 lần vào năm 2030). Sự gia tăng KNK đòi hỏi các quốc gia cần
nỗ lực hơn để giảm phát thải KNK nhằm ngăn chặn, hạn chế q trình gia
tăng biến đổi khí hậu tồn cầu (các hoạt động phát thải thấp) ở hầu hết các
lĩnh vực của nền kinh tế. Trong đó, hoạt động sản xuất nông nghiệp được
đánh giá là một trong những nguồn phát thải KNK chủ yếu ở các quốc gia
đang phát triển. IPCC đã có hướng dẫn chi tiết (phương pháp, hệ số) để ước
tính lượng phát thải KNK cho các hoạt động sản xuất nơng nghiệp (q trình
lên men ở động vật; quản lý hữu cơ và đất nông nghiệp).
Sản xuất nông nghiệp mặc dù được cho là ngành phát thải lớn nhưng
cũng được đánh giá là ngành có tiềm năng giảm phát thải cao. Những tính
tốn về phát thải KNK và chi phí cận biên giảm phát thải KNK của một số
hoạt động sản xuất nông nghiệp cho thấy nhiều hoạt động sản xuất nơng
nghiệp có tiềm năng lớn trong giảm phát thải KNK (Mai Văn Trịnh, 2016).
Tại Indonesia, Ủy ban về Biến đổi khí hậu nước này đã dự báo rằng các hoạt
động kinh tế có tiềm năng giảm phát thải KNK 164 triệu tấn CO2 tương đương
(CO2e), trong đó chỉ tính riêng lĩnh vực nơng nghiệp đã có tiềm năng giảm 105
triệu tấn CO2 tương đương thông qua các hoạt động cải thiện hệ thống tưới
tiêu trong canh tác lúa nước, cải tiến quản lý giống cây trồng, giám sát và quản
lý phân đạm, quản lý chất thải hữu cơ từ chăn nuôi và hệ thống cung cấp thức
ăn chăn ni (mặc dù có chi phí rất cao).
Trong những năm gần đây Việt Nam chịu tác động nghiêm trọng bởi
hiện tượng El Nino kéo dài nhất trong lịch sử từ cuối 2014 đến tháng 6 năm
2016, gây ra hiện tượng hạn hán và xâm ngập mặn nghiêm trọng tại các tỉnh
Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và đồng bằng sơng Cửu Long. Năm 2016 đã có
18 tỉnh của Việt Nam tuyên bố tình trạng thiên tai. Tổng thiệt hại do thiên tai,
BĐKH gây ra trong năm 2016 ước khoảng 39.000 tỷ đồng, tương đương 1,7
tỷ đô la Mỹ (Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2016).
Ngành Nơng nghiệp hiện đóng góp khoảng 16,23% GDP và tạo ra khoảng
47% việc làm (FAO, 2016), nhiều hộ gia đình vẫn dựa vào nơng nghiệp để
đảm bảo an ninh lương thực. Diện tích đất nơng nghiệp chiếm khoảng 35%
tổng diện tích của cả nước (FAO, 2016). Việt Nam là một trong những nước
SỔ TAY HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY XỒI
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
25