LỜI CẢM ƠN
Xin chân thành cảm ơn Thầy TS. Nguyễn Tiến Dũng, Trưởng phòng đào
tạo trường Đại học Sư Phạm Kỹ Thuật đã tận tình hướng dẫn người nghiên cứu
hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu cùng Q Thầy Cô khoa Công
Nghệ May trường Trung học Kỹ Thuật May và Thời Trang 2
Xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu cùng Q Thầy Cô khoa Công
Nghệ May trường Trung học Kỹ Thuật Nghiệp Vụ Nam Sài Gòn
Xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu cùng Q Thầy Cô khoa Công
Nghệ May trường Trung học Kỹ Thuật Nghiệp vụ Phú Lâm
Xin chân thành cảm ơn Ban Giám Đốc, cán bộ quản lý kỹ thuật công ty
may Việt Tiến
Xin chân thành cảm ơn Ban Giám Đốc, cán bộ quản lý kỹ thuật công ty
may Sài Gòn 3
Xin chân thành cảm ơn Ban Giám Đốc, cán bộ quản lý kỹ thuật công ty
dệt may Thắng Lợi
Xin chân thành cảm ơn Ban Chủ Tịch Hiệp Hội Dệt May Thêu Đan
Thành Phố Hồ Chí Minh đã cung cấp tài liệu để thực hiện luận văn này
Xin chân thành cảm ơn Q Thầy Cô giảng dạy lớp Cao học Sư Phạm Kỹ
Thuật, Q Thầy Cô phòng QLKH-QHQT-SĐH trường Đại học Sư Phạm Kỹ
Thuật đã đóng góp ý kiến cho luận văn này
Xin chân thành cảm ơn các bạn học lớp Cao học Sư Phạm Kỹ Thuật
khóa 10 đã góp ý cho luận văn này
Tp. Hồ Chí Minh, ngày ……… tháng ……… năm 2004
Học viên
Lưu Khánh Linh
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CNH
:
Công nghiệp hóa
HĐH
:
Hiện đại hóa
THKT
:
Trung học kỹ thuật
THKTNV
:
Trung học kỹ thuật nghiệp vụ
THCN
:
Trung học chuyên nghiệp
CNKT
:
Công nhân kỹ thuật
THPT
:
Trung học phổ thông
ĐH
:
Đại học
CĐ
:
Cao đẳng
CNM
:
Công nghệ may
GD và ĐT :
Giáo dục và đào tạo
TTSX
Thực tập sản xuất
:
CNSXHMCN
: Công nghệ sản xuất hàng may công nghiệp
M & TBM :
Máy và thiết bị may
KTMCN
:
Kỹ thuật may công nghiệp
TKTP
:
Thiết kế trang phục
H/V
:
Học viên
MỤC LỤC
CHƯƠNG I: DẪN NHẬP
Trang
1. Lý do chọn đề tài
01
2. Mục đích nghiên cứu
02
3. Đối tượng nghiên cứu
03
4. Giới hạn đề tài
03
5. Phương pháp nghiên cứu
03
6. Bố cục luận văn
03
7. Kế hoạch nghiên cứu
04
CHƯƠNG II: CƠ SỞ LÝ LUẬN
05
I. Cơ sở lý luận chung về chất lïng đào tạo ngành may
05
I.1.Khái niệm chất lượng và chất lượng đào tạo
05
I.1.1. Chất lựơng
05
I.1.2. Đào tạo
05
I.1.3. Chất lượng đào tạo
06
I.2. Cơ sở đánh giá chất lượng đào tạo
09
II.Nguồn nhân lực, chất lượng nguồn nhân lực
10
II.1. Nguồn nhân lực
10
II.2. Chất lượng nguồn nhân lực
11
II.3. Những yếu tố của chất lượng nguồn nhân lực
11
III. Dự báo nhu cầu nhân lực ngành dệt may
12
IV. Chính sách phát triển nguồn nhân lực ngành công nghệ may
14
V.Thực trạng về nhu cầu nguồn nhân lực ngành công nghệ may hiện nay
15
V.1. Sự hình thành và phát triển ngành dệt may Việt Nam
15
V.2. Thực trạng ngành may tại Thành phố Hồ Chí Minh
17
VI. Yêu cầu về chất lượng nguồn nhân lực may
21
CHƯƠNG III: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG
22
I. Thực trạng nhân lực ở các doanh nghiệp may
22
I.1. Các chỉ tiêu khảo sát về mức độ CNKT đáp ứng nhu cầu sản xuất
22
I.2. Kết quả khảo sát
22
I.2.1. Công ty may Sài Gòn 3
22
I.2.2. Công ty may Việt Tiến
24
I.2.3. Công ty dệt may Thắng Lợi
27
II. Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực CNKTngành may
tại một số trường THCN trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
33
II.1. Các chỉ tiêu khảo sát
33
II.2. Kết quả khảo sát
34
II.2.1. Tuyển sinh, chất lượng đầu vào
34
II.2.2. Nội dung chương trình đào tạo
36
II.2.3. Phương pháp giảng dạy
44
II.2.4. Máy móc, trang thiết bị, phương tiện dạy học
45
II.2.5. Đội ngũ giáo viên
48
II.2.6. Kiểm tra đánh giá kết quả đào tạo
51
II.2.7. Động cơ chọn nghề
52
CHƯƠNG IV: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
54
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
62
CHƯƠNG I: DẪN NHẬP
1 LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Để thúc đẩy và phục vụ quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất
nước thì nguồn nhân lực là một yêu cầu bức thiết. Nhân lực là nhân tố quyết
định quá trình thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá nền công nghiệp mà
Nghị Quyết Đại Hội Đảng lần thứ VII đã khẳng định: “Con người vừa là mục
tiêu vừa là động lực phát triển của xã hội”.
Con người được xem là tài nguyên đặc biệt, chủ động trong quá trình
phát triển kinh tế, qua đó ngân hàng thế giới (World Bank) có nhận xét: “ Tài
nguyên của Việt Nam có hạn chế, Việt Nam sẽ phải phát triển trên cơ sở
nguồn nhân lực hơn là những nguồn tài nguyên thiên nhiên” và một tờ báo Mỹ
nhận định: “Tài nguyên con người gần như là tất cả những gì Việt Nam có”.
Chúng ta cần nhanh chóng nắm bắt và phát huy thế mạnh của nguồn tài
nguyên đặc biệt này của đất nước Việt Nam.
Đảng ta cũng đã có định hướng rất đúng đắn về chiến lược giáo dục đào
tạo phục vụ cho sự phồn vinh, phát triển nước nhà, điều này được thể hiện qua
quan điểm chỉ đạo trong Nghị quyết Trung ương khoá VII: “Phát triển giáo dục
nhăøm nâng cao dân trí, đào tạo những con người có kiến thức văn hoá, khoa
học, có kỹ năng nghề nghiệp, lao động tự chủ, sáng tạo và có kỷ luật, giàu lòng
nhân ái, yêu nước, yêu xã hội chủ nghóa, sống lành mạnh, đáp ứng nhu cầu
phát triển đất nước những năm 90 và chuẩn bị cho tương lai”
Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành trung ương Đảng
khoá VIII có nêu: “Muốn tiến hành công nghiệp hoá – hiện đại hoá thắng lợi
phải phát triển mạnh giáo dục và đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố
cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững”
Trong những năm gần đây, ngành dệt may Việt Nam ngày càng phát
triển, các công ty quốc doanh, liên doanh, cổ phần, trách nhiệm hữu hạn cũng
phát triển mạnh về qui mô và chất lượng đã đưa ngành dệt may đứng thứ hai
trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam (sau dầu thô).
1
Đến năm 2000, kết thúc chặng đường 10 năm đổi mới, toàn ngành dệt
may đã đạt kim ngạch xuất khẩu 1,9 tỉ USD, so với năm 1991 tăng gấp 10 lần.
Một trong những mục tiêu quan trọng hàng đầu của ngành dệt may Việt Nam
là đến năm 2005 đạt kim ngạch xuất khẩu từ 4-5 tỉ USD, tăng hơn gấp đôi mức
đã thực hiện.
Để hoàn thành mục tiêu trên, đòi hỏi toàn thể cán bộ – công nhân viên
ngành dệt may trong cả nước phải nổ lực phấn đấu, trong đó việc nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực ngành may tại Thành phố Hồ Chí Minh là một trong
những yếu tố góp phần để hoàn thành thắng lợi mục tiêu đã đề ra.
Thực trạng hiện nay cho thấy người lao động ở các công ty may hầu hết
phải được đào tạo hoặc đào tạo lại, các kỹ năng tay nghề còn rấ t hạn chế, dẫn
đến năng suất, chất lượng sản phẩm còn thấp. Đội ngũ kỹ thuật thiếu nghiêm
trọng, số lượng đào tạo chưa đáp ứng nhu cầu sản xuất. Vì vậy, tôi nhận thấy
cần nghiên cứu “Một số giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực
ngành may tại Thành phố Hồ chí Minh giai đoạn 2005-2010” là một yêu cầu
cấp bách, qua đó hệ thống hoá một số vấn đề lý luận, khảo sát mức độ đáp ứng
những yêu cầu của người sử dụng lao động kỹ thuật ngành may, phân tích các
yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng của nguồn lao động. Trên cơ sở đó đề xuất
một số giải pháp khả thi phù hợp với yêu cầu thực tế tại các doanh nghiệp trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
2 MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở xác định thực trạng đào tạo và thực trạng sử dụng lao động
ngành công nghệ may, đề xuất một số biện pháp khả thi nhằm nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phục vụ cho ngành dệt may tại Thành
phố Hồ Chí Minh, trong thời kỳ kinh tế mở cửa, hợp tác và cạnh tranh giai đoạn
2005-2010.
3 ĐỐI TƯNG NGHIÊN CỨU
Để đạt được mục đích nghiên cứu của đề tài, đối tượng nghiên cứu là
nguồn nhân lực ngành may, công nhân kỹ thuật may.
2
4 GIỚI HẠN ĐỀ TÀI
Do điều kiện thời gian hạn chế, với qui mô của luận văn thạc só, đề tài
được giới hạn như sau:
-
Khảo sát và phân tích thực trạng đào tạo ngành công nghệ may hệ
công nhân kỹ thuật tại một số trường trung học chuyên nghiệp trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh.
-
Khảo sát, phân tích thực trạng mức độ người lao động đáp ứng yêu
cầu của người sử dụng lao động ngành may tại Thành phố Hồ Chí Minh.
-
Nghiên cứu, đề xuất một số các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động, phù hợp với khoa học – công nghệ
ngành may tại Thành phố Hồ Chí Minh
5 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Người nghiên cứu sử dụng một số phương pháp sau đây:
-
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: căn cứ vào mục đích và nhiệm vụ
của đề tài, người nghiên cứu tiến hành thu thập, tổng hợp các tài liệu, văn bản,
tạp chí… có liên quan để giải quyết cơ sở lý luận của đề tài
-
Phương pháp trò chuyện, phỏng vấn: tiến hành trò chuyện với cán
bộ, công nhân viên đang công tác tại các doanh nghiệp dệt may, giáo viên các
trường đào tạo nguồn công nhân kỹ thuật may tại Thành phố Hồ Chí Minh
-
Phương pháp điều tra: thăm dò ý kiến của giáo viên, học viên và của
các doanh nghiệp sử dụng nguồn lao động ngành may, thông qua các phiếu
thăm dò ý kiến.
-
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm lao động: nghiên cứu phân tích
kết quả học tập, kết quả tham gia lao động sản xuất tại các doanh nghiệp May
-
Phương pháp thống kê xử lý số liệu: trên cơ sở kết quả đã thu thập,
người nghiên cứu tiến hành phân tích, thông kê để xử lý số liệu.
6. BỐ CỤC LUẬN VĂN
Lời Cảm ơn
Chương I: Dẫn nhaäp
3
Chương II: Cơ sở lý luận
Chương III: Phân tích thực trạng
Chương IV: Đề xuất giải pháp
Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
7. KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU
Thời gian thực hiện đề tài từ 15/02/2004 đến 15/08/2004
Từ 15/02 đến 15/03/2004: thực hiện cơ sở lý luận đề tài
Từ 16/03 đến 16/06/2004: khảo sát thực trạng và phân tích thực trạng
Từ 17/06 đến 15/08/2004: đề xuất các biện pháp, hoàn chỉnh luận văn
4
CHƯƠNG II: CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. Cơ sở lý luận chung về chất lượng đào tạo
I.1. Khái niệm về chất lượng và chất lượng đào tạo
I.1.1. Chất lượng
Chất lượng là một phạm trù phức tạp mà con người thường gặp trong các
lónh vực hoạt động của mình. Tùy theo những góc độ mà từng người có cách
giải thích khác nhau về chất lượng.
Một nhà triết học đã đưa ra định nghóa về chất lượng như sau: “chất
lượng là tính xác định về bản chất của khách thể, nhờ đó mà nó là cái đó chứ
không phải là cái khác và cũng nhờ đó mà nó khác biệt với các khách thể
khác...” (Filoxofxky xlovar’,Politidat, Moxkva, 1972).
Các nhà làm từ điển đã giải thích khái niệm chất lượng như sau: “chất
lượng là cái tạo nên phẩm chất giá trị của sự vật hoặc là cái tạo nên bản chất
sự vật, làm cho sự vật này khác sự vật kia” (từ điển tiếng việt phổ thông – nhà
xuất bản Giáo dục- 1998); hay “chất lượng là mức hoàn thiện, là đặc trưng so
sánh hay đặc trưng tuyệt đối, là dấu hiệu đặc thù, tính chất, đặc điểm cơ bản,
phân biệt một vật phẩm hay hiện tượng này với những vật phẩm hay hiện
tượng khác” (Oxford pocket dictionnary).
Chất lượng là “ tập hợp các đặc tính của một thực thể hay đối tượng tạo
cho thực thể hay đối tượng đó khả năng thỏa mãn những nhu cầu đã nêu ra
hoặc nhu cầu tìm ẩn” (TCVN-ISO 8402).
Chất lượng được thể hiện ở các khía cạnh sau (theo Harvey & Green –
1993) đó là: sự xuất chúng tuyệt vời, sự hoàn hảo, sự phù hợp, sự thể hiện giá
trị, sự biến đổi về chất.
I.1.2. Đào tạo
Theo từ điển tiếng Việt thì quá trình đào tạo làm cho con người trở thành
có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định, còn theo từ điển Bách khoa thì
đào tạo là quá trình tác động đến một con người nhằm làm cho người đó lónh
hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo... một cách có hệ thống nhằm
5
chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân
công lao động nhất định, góp phần của mình vào việc phát triển xã hội, duy trì
và phát triển nền văn minh của loài người .
Về cơ bản đào tạo là giảng dạy và học tập trong nhà trường gắn với giáo
dục đạo đức nhân cách. Kết quả và trình độ được đào tạo của một người còn do
việc tự đào tạo của người đó, thể hiện việc tự học và tham gia vào các hoạt
động xã hội, lao động sản xuất rồi tự rút kinh nghiệm của người đó quyết định.
Chỉ khi nào quá trình đào tạo được biến thành quá trình tự đào tạo một cách
tích cực tự giác thì việc đào tạo mới có hiệu quả.
Trong giáo dục đào tạo phân biệt đào tạo chuyên môn và đào tạo nghề
nghiệp, hai loại hình này gắn bó và hỗ trợ cho nhau với những nội dung do các
đòi hỏi của sản xuất, của các quan hệ xã hội, của tình trạng khoa học kỹ thuật
văn hoá của đất nước. Có nhiều dạng đào tạo: đào tạo cấp tốc, đào tạo chuyên
sâu, đào tạo cơ bản, đào tạo lại, đào tạo ngắn hạn, đào tạo từ xa.
Theo một số tác giả thì quá trình đào tạo là quá trình biến cải nhân cách
theo mục tiêu đào tạo. Đây là quá trình phức tạp bao gồm quá trình dạy và học,
công tác trước và sau đào tạo như công tác hướng nghiệp, tuyển sinh nhằm lựa
chọn đúng đối tượng theo học, giới thiệu việc làm, theo dõi hiệu quả đào tạo
qua ý kiến thăm dò, đánh giá của các cấp quản lý nơi học sinh công tác sau khi
đào tạo.
I.1.3. Chất lượng đào tạo
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về chất lượng đào tạo, theo các nhà
nghiên cứu giáo dục thì “chất lượng đào tạo được đánh giá qua mức độ đạt
trước mục tiêu đào tạo đã đề ra đối với một chương trình đào tạo” (Lê Đức
Ngọc, Lâm Quang Thiệp – Đại học quốc gia Hà Nội).
“Chất lượng đào tạo là kết quả của quá trình đào tạo được phản ánh ở
các đặc trưng về phẩm chất, giá trị nhân cách và giá trị sức lao động hay năng
lực hành nghề của người tốt nghiệp tương ứng với mục tiêu, chương trình ñaøo
6
tạo theo các ngành nghề cụ thể ” (Trần Khánh Đức – Viện nghiên cứu phát
triển giáo dục).
Chất lượng giáo dục là chất lượng thực hiện các mục tiêu giáo dục (Lê
Đức Phúc – Viện khoa học giáo dục).
Chất lượng đào tạo là một cụm từ thường hay nhắc đến trong lónh vực
đào tạo. Một nhà trường muốn tồn tại và phát triển bền vững phải không ngừng
nâng cao chất lượng đào tạo.
Chất lượng đào tạo với đặc trưng là “con người lao động”, có thể hiểu là
kết quả đầu ra của quá trình đào tạo và được thể hiện cụ thể ở các phẩm chất,
giá trị nhân cách, và giá trị sức lao động hay năng lực hành nghề của người tốt
nghiệp tương ứng với mục tiêu đào tạo.
Với yêu cầu đáp ứng nhu cầu nhân lực của thị trường lao động, khái
niệm về chất lượng đào tạo không chỉ dừng ở kết quả của quá trình đào tạo
trong nhà trường mà còn phải tính đến mức độ phù hợp và thích ứng của người
tốt nghiệp với thị trường lao động như tỉ lệ có việc làm sau khi tốt nghiệp, năng
lực hành nghề tại các vị trí làm việc cụ thể ở các doanh nghiệp, cơ quan, các tổ
chức sản xuất, khả năng phát triển nghề nghiệp.... Tuy nhiên cần nhấn mạnh
rằng chất lượng đào tạo trước hết phải là kết quả của quá trình đào tạo và được
thể hiện trong các hoạt động nghề nghiệp của người tốt nghiệp.
Quá trình thích ứng với với thị trường lao động không chỉ phụ thuộc vào
chất lượng đào tạo mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khác của thị trường như
quan hệ cung-cầu, giá cả sức lao động, chính sách sử dụng và bố trí công việc
của nhà nước và người sử dụng lao động... Do đó khả năng thích ứng còn phản
ánh cả về hiệu quả đào tạo ngoài xã hội và thị trường lao động.
7
MỤC TIÊU ĐÀO
TẠO NGHỀ
Quá trình đào tạo
Kiến thức
NGƯỜI TỐT NGHIỆP
CNKT
Kỹ năng
Thái độ
CHẤT LƯNG
ĐÀO TẠO NGHỀ
Đặc trưng, giá trị nhân
cách, xã hội, nghề nghiệp
Giá trị sức lao động
Năng lực hành nghề
Trình độ chuyên môn
nghề nghiệp (kiến thức,
kỹ năng...)
Năng lực thích ứng với
thị trường lao động
Năng lực phát triển nghề
nghiệp
Hình 1: Quan hệ giữa mục tiêu đào tạo và chất lượng đào tạo
Trong luận văn “Một số giải pháp nâng cao chất lượng ngành công nghệ
may tại trường Trung học Kỹ thuật May và Thời trang 2” thì xét từ góc độ quản
lý của nhà trường, chất lượng đào tạo được biểu hiện ở kết quả của quá trình
đào tạo những khoá học cụ thể, được đánh giá bằng các chỉ tiêu sau đây:
Hiệu quả đào tạo (Hđt)
Hđt =
Ttn
x 100%
Tv
Trong đó:
Ttn: tổng số học sinh tốt nghiệp
Tv: tổng số học sinh tuyển vào
Tỉ lệ hao hụt là: T% = 100% - Hđt
Hiệu quả tốt nghieäp (Htn)
Htn =
Ttn
x 100%
Tck
8
Trong đó:
Ttn: tổng số học sinh tốt nghiệp
Tck: tổng số học sinh dự thi cuối khoá
Hiệu quả cuối khoá (Hck)
Hck =
Tck
x 100%
Tv
Ba hiệu quả trên có mối quan hệ với nhau, trong đó hiệu quả đào tạo là
tích hai hiệu quả kia, bao giờ cũng là trị số thấp nhất.
Hđt = Htn x Hck
I.2. Cơ sở đánh giá chất lượng đào tạo
Theo tiến só Trần Khánh Đức trong “Chất lượng và đánh giá chất lượng
đào tạo nghề” (bài đăng trong Hội thảo “ Kiểm định chất lượng trong giáo dục
kỹ thuật và dạy nghề ở Việt Nam”, tại Quảng Ninh, tháng 6/2001, Bộ lao động
thương bing và xã hội, Tổng cục Dạy nghề) thì muốn đánh giá chất lượng đào
tạo cần phải căn cứ vào các tiêu chuẩn sau:
Chuẩn kiến thức kỹ năng nghề nghiệp: các ngành nghề trong xã hội rất
đa dạng và phức tạp tùy thuộc vào sự phát triển kinh tế – xã hội, khoa học –
công nghệ, phân công lao động xã hội. Mỗi một ngành nghề lao động xã hội
đều đòi hỏi ở người hành nghề những kiến thức, kỹ năng chuyên biệt cũng như
các phẩm chất và năng lực xã hội, cá nhân khác. Đây không chỉ là căn cứ quan
trọng để xây dựng danh mục ngành đào tạo, mục tiêu đào tạo, nội dung đào tạo
mà còn là một căn cứ để so sánh, đánh giá chất lượng đào tạo.
Mục tiêu và nội dung đào tạo: quá trình đào tạo là một quá trình hiện
thực hoá “mục tiêu và nội dung đào tạo” ở người tốt nghiệp. Chất lượng đào
tạo là kết quả của quá trình đào tạo với các mục tiêu, nội dung, phương pháp
xác định. Do đó mục tiêu, nội dung phương pháp đào tạo là cơ sở để đánh giá
chất lượng đào tạo.
9
Chất lượng đào tạo được thể hiện trong quá trình hành nghề của học sinh
tốt nghiệp do đó việc lấy ý kiến đánh giá của người sử dụng lao động, tình hình
việc làm và phát triển nghề nghiệp là cơ sở quan trọng để đánh giá chất lượng
đào tạo
Các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo như cơ sở vật chất, trang thiết
bị, giáo viên, quản lý...
II. Nguồn nhân lực, chất lượng nguồn nhân lực
II.1. Nguồn nhân lực
Trong lý thuyết phát triển, nguồn nhân lực theo nghóa rộng được hiểu
như nguồn lực con người của một quốc gia, một vùng lãnh thổ, là một bộ phận
của các nguồn lực có khả năng huy động, tổ chức quản lý để tham gia vào quá
trình phát triển kinh tế-xã hội như nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính
Nguồn nhân lực theo nghóa hẹp và có thể lượng hoá được là một bộ phận
của dân số bao gồm những người trong độ tuổi qui định, đủ 15 tuổi trở lên có
khả năng lao động hay còn gọi là lực lượng lao động. Số lượng nguồn nhân lực
được xác định dựa trên qui mô dân số, cơ cấu tuổi, giới tính, sự phân bố theo
khu vực và vùng lãnh thổ của dân số. nước ta số lượng lao động trong độ tuổi
lao động được xác định bao gồm những người trong độ tuổi lao động (nam 1660 tuổi, nữ 16-55 tuổi ) đang có việc hoặc không có việc làm nhưng có nhu cầu
làm việc.
Nhân lực khoa học-công nghệ là một bộ phận của lực lượng lao động xã
hội được đào tạo ở những trình độ chuyên môn nghiệp vụ nhất định và tham gia
trực tiếp hay gián tiếp vào các hoạt động khoa học-công nghệ từ nghiên cứu,
triển khai đến đào tạo, quản lý vận hành các hệ thống công nghệ. Đội ngũ
nhân lực khoa học-công nghệ có nhiều mức trình độ đào tạo khác nhau từ công
nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ đến đội ngũ kỹ sư, kỹ thuật viên, chuyên
gia có trình độ đại học và sau đại học.
10
II.2. Chất lượng nguồn nhân lực
Chất lượng nguồn nhân lực thể hiện trạng thái nhất định của nguồn nhân
lực với tư cách vừa là một khách thể vật chất đặc biệt vừa là chủ thể của mọi
hoạt động kinh tế và quan hệ xã hội.
Chất lượng nguồn nhân lực là khái niệm tổng hợp bao gồm những nét
đặc trưng về trạng thái thể lực, trí lực, kỹ năng, phong cách đạo đức, lối sống
và tinh thần của nguồn nhân lực. Nói cách khác trình độ học vấn, trạng thái sức
khỏe, trình độ chuyên môn kỹ thuật, cơ cấu nghề nghiệp, thành phần xã hội …
của nguồn nhân lực, trong đó trình độ học vấn là quan trọng bởi vì đó là cơ sở
để đào tạo kỹ năng nghề nghiệp và là yếu tố hình thành nhân cách và lối sống
của mỗi con người
II.3. Những yếu tố của chất lượng nguồn nhân lực
Sự phát triển tiềm năng con người có tác động qua lại trong phát triển
kinh tế xã hội. Một mặt nền kinh tế đang phát triển có thể và đang dành các
nguồn lực to lớn cho sự nâng cao các điều kiện chuẩ n mực giáo dục, sức khỏe,
nuôi dưỡng.
thể lực
trí lực
nhận thức xã hội
học
vấn
trình độ chuyên môn
kỹ thuật
Hình 2: Những yếu tố của chất lượng nguồn nhân lực
11
Mặt khác, sự đầu tư vào phát triển tiềm năng con người giúp cho việc
thúc đẩy phát triển kinh tế nhờ nâng cao năng suất lao động, hiệu quả sản xuất
và tiến bộ xã hội. Do đó chất lượng nguồn nhân lực có thể được nâng cao nhờ
giáo dục và đào tạo cả người lớn và trẻ em, nhờ nuôi dưỡng chăm sóc sức khỏe
tốt hơn, nhờ việc chuyển người lao động sang vị trí có điều kiện lao động tốt
hơn …
Trình độ văn hóa người lao động là yếu tố quan trọng nhất, quyết định
hiệu quả của việc làm và hướng quyền lợi của người lao động đối vói lọai hình
lao động sáng tạo.
Theo tính toán của nhiều nhà khoa học, lao động của người công nhân
đã tốt nghiệp phổ thông có hiệu suất gấp hai lần người chưa tốt nghiệp phổ
thông, còn lao động của người tốt nghiệp đại học lại có hiệu suất gấp ba lần lao
động của người chỉ tốt nghiệp phổ thông.
Mặt khác trong điều kiện tiến bộ không ngừng của khoa học buộc người
công nhân trong sản xuất cứ 3-5 năm lại phải hoàn thiện, bổ sung một cách cơ
bản kiến thức của mình. Điều đó có nghóa là quá trình học tập phải là học tập
suốt đời.
Sự thách thức của các quốc gia trên thế giới ngày nay là do tri thức chứ
không phải là tài nguyên với quá trình hình thành và phát triển kinh tế tri thức.
Họ coi trí tuệ là tài nguyên quốc gia và đầu tư cho giáo dục – đào tạo sẽ mang
lại hiệu quả tốt nhất
III. Dự báo nhu cầu nhân lực cho ngành dệt may
Dự báo nhu cầu thị trường hàng may mặc Việt Nam có thể xâm nhập
vào các thị trường sau đây:
Thị trường
SNG
EU
Đơn vị tính
1995
2000
2005
2010
Triệu sản phẩm
10
30
40
100
“
30
41
100
250
12
NHẬT BẢN
“
5
25
70
175
MỸ
“
4
80
240
600
CANADA
“
0.5
4
10
25
Các nước khác
“
10.5
20
40
100
60
200
500
1250
CỘNG
(Nguồn: Tổng công ty dệt may Việt Nam –dự báo nhu cầu thị trường xuất khẩu
sản phẩm dệt may đến năm 2010 )
Với sự tăng trưởng thị trường rất nhanh từ 500 triệu sản phẩm lên 1250
triệu sản phẩm trong giai đoạn từ năm 2005-2010 bắt buộc ngành may phải mở
rộng cơ sở vật chất, nhà xưởng, đầu tư máy móc thiết bị và trên hết là phát
triển đội ngũ lao động lành nghề có khả năng xử lý công việc để đạt năng suất,
chất lượng sản phẩm cao. Qua đó Tổng công ty dệt may Việt Nam đã dự báo
nhu cầu bổ sung mới lao động cần đào tạo ở ngành may như sau:
Năm
Sau đại học
Tiến só
Thạc só
1999-2000
Đại học
Cao đẳng
THCN
CNKT
167
348
2077
4140
2001-2005
11
15
222
1364
320
7153
2006-2010
4
11
283
858
234
5705
(Nguồn: Tổng công ty dệt may Việt Nam - dự báo nhu cầu bổ sung mới lao
động ngành may)
Thành phố Hồ Chí Minh thu hút tổng số lao động ngành may trên
500.000 người, có năng lực sản xuất tương đương với khoảng 40-50% năng lực
sản xuất cả nùc (trích: Nguyễn Đức Hoan- các biện pháp nhằm tăng sức cạnh
tranh của ngành may xuất khẩu Thành phố Hồ Chí Minh). Dự báo nhu cầu bổ
sung mới nhân lực ngành may tại Tp. Hồ Chí Minh chiếm khoảng 56 % trong
tổng số nhu cầu nhân lực cả nước, cụ thể là:
13
Năm
Sau đại học
Tiến só
Thạc só
1999-2000
Đại học
Cao đẳng
THCN
CNKT
100
180
985
2500
2001-2005
6
7
130
820
160
4292
2006-2010
2
7
127
515
122
3994
(Nguồn: Tổng công ty dệt may Việt Nam - dự báo nhu cầu bổ sung mới lao
động ngành may)
IV. Chính sách phát triển nguồn nhân lực ngành công nghệ may
Ngành may đang tiếp tục mở rộng thị trường, điều này còn phụ thuộc
vào nhiều yếu tố như tài chính, cơ sở vật chất, trang thiết bị...ngoài ra còn cần
phải có nguồn nhân lực mạnh mẽ. Để phát triển nguồn nhân lực phục vụ trong
ngành may hiện nay, bộ công nghiệp, tổng công ty dệt may Việt Nam đã và
đang có chính sách phát triển đội ngũ lao động là các cán bộ quản lý, công
nhân kỹ thuật may, tiếp tham gia sản xuất làm ra sản phẩm. Cụ thể là:
Đào tạo và đào tạo lại công nhân kỹ thuật may phù hợp với yêu cầu mới
Liên kết, hỗ trợ các trường có đào tạo ngành công nghệ may nhằm giúp
các trường tạo ra sản phẩm đào tạo tốt nhất phục vụ cho nhu cầu nhân lực tại
doanh nghiệp may
Tổng công ty dệt may Việt Nam đầu tư xây dựng một trung tâm đào tạo
dệt may quốc tế để giải quyết bài toán thiếu hụt nhân lực và đào tạo nguồn
nhân lực may mang tầm cỡ quốc tế.
Cải thiện trình độ cho công nhân may hiện tại đang làm việc tại xí
nghiệp bằng việc bổ túc văn hoá, bồi dưỡng tay nghề
Bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật cho đội ngũ lao động
ngành may
Qui hoạch dàn khung cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý và lãnh đạo các
công ty, xí nghiệp may
Xây dựng tiêu chuẩn thích hợp cho từng chức danh
14
Chế độ khen thưởng cho những cá nhân hoàn thành tốt nhiệm vụ và tự
nâng cao kiến thức, trình độ chuyên môn của mình
Tạo nguồn cán bộ tốt cho toàn ngành
V. Thực trạng về nhu cầu nguồn nhân lực ngành công nghệ may hiện nay
V.1. Sự hình thành và phát triển ngành dệt may Việt Nam
Trải qua hơn 110 năm ra đời và phát triển, ngành dệt may Việt Nam
bước đầu được hình thành chỉ bằng những công cụ sản xuất thô sơ, nền sản
xuất thủ công với hình thức “tự sản, tự tiêu”
Ngành chỉ mang dáng dấp công nghiệp vào cuối năm 1890 khi một
người Pháp là Duprê cùng hùn vốn với một người Hoa tên Bá Chín Hội lập ra
công ty Bông Bắc Kỳ
Từ năm 1900 đến 1940
Công ty này đã thâu tóm các nhà máy sợi tại Hải Phòng, Hà Nội và xây
dựng thêm các nhà máy sợi, dệt vải, xưởng nhuộm... tại Nam Định, hình thành
khu công nghiệp dệt Nam Định, cái nôi của ngành công nghiệp nhẹ ở Đông
Dương thời bấy giờ.
Từ năm 1954 đến 1975
Ngành dệt may đã phát triển nhanh chóng, mở rộng lực lượng sản xuất
với nhiều nhà máy mới được xây dựng
Từ năm 1976 đến 1990
Do tiếp quản toàn bộ các nhà máy, xí nghiệp dệt may phía nam và tiếp
tục xây dựng nhiều nhà máy lớn trên phạm vi cả nước, ngành dệt may đã phát
triển nhanh chóng cả về qui mô và năng lực sản xuất
Bằng nhiều phong trào thi đua lao động sáng tạo, phát huy sáng kiến, cải
tiến kỹ thuật, trong kế hoạch 5 năm 1976-1980, 1981-1985, 1986-1990, ngành
dệt may Việt Nam đã hoàn thành trước thời hạn một cách xuất sắc các chỉ tiêu
kế hoạch nhà nước giao.
15
Kết quả là toàn ngành đã xây dựng một viện công nghệ sợi dệt, một
trung tâm nghiên cứu may, 294 doanh nghiệp nhà nước, 2599 hợp tác xã và hộ
cá thể về dệt may với trên 2000 tiến só, phó tiến só và kỹ sư dệt may
Cuối năm 1990, sản lượng đạt được khoảng 450 triệu mét vải, 50 ngàn
tấn sợi, 150 triệu sản phẩm may với kim ngạch xuất khẩu trên 200 triệu rúp và
đô la Mỹ
Từ năm 1991 đến 1999
Bước vào thời kỳ đổi mới (1991-1999), các doanh nghiệp trong ngành đã
mạnh dạn cải tiến, nâng cấp thiết bị cũ, đầu tư công nghệ mới để sản xuất ra
những mặt hàng đáp ứng với thị trường. Tổng số lao động của ngành gần một
triệu người trong đó trên 3000 đạt trình độ đại học trở lên. Có hai viện, trung
tâm nghiên cứu và bốn trường đào tạo trung học và công nhân lành nghề, tốc
độ tăng trưởng bình quân toàn ngành đạt được là 10%/năm. Kim ngạch xuất
khẩu luôn đứng thứ hạng cao trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của cả nước
Vào ngày 29/4/1995, chính phủ đã ký quyết định thành lập Tổng công ty
dệt may Việt Nam (Vinatex) nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả và khả năng
cạnh tranh trên thị trường, đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà nước.
Vinatex là sự kế thừa nhiệm vụ và đội ngũ cán bộ của liên hiệp dệt ở
phía Bắc, Tổng công ty dệt ở phía Nam và liên hiệp các xí nghiệp may Việt
Nam. Hiện có trên 60 doanh nghiệp thành viên với sản lượng dệt đạt trên 75%,
vải trên 45%, và gần 40% sản phẩm may mặc của toàn ngành.
Cho đến nay, ngành dệt may Việt Nam đã có vị trí xứng đáng trong nền
kinh tế quốc dân, là ngành cung cấp các mặt hàng thiết yếu cho xã hội, giải
quyết việc làm cho hàng triệu lao động, mở rộng xuất khẩu mang lại nguồn
ngoại tệ lớn, góp nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Bước sang năm 2001 là năm triển khai “chương trình tăng tốc” được Thủ
tướng chính phủ phê duyệt theo quyết định số 55/QĐ-TTg ngày 23/4/2001,
ngành dệt may Việt nam đã có những chuyển biến tích cực, những dấu hiệu
đáng mừng về đầu tư phát triển.
16
Một trong những mục tiêu hàng đầu của ngành dệt may Việt Nam trên
đường hội nhập quốc tế là đến năm 2005 đạt kim ngạch xuất khẩu 4-5 tỷ USD,
tăng hơn mức gấp đôi đã thực hiện và đến năm 2010 đạt tỷ lệ 8 tỷ USD
V.2. Thực trạng ngành may tại Thành phố Hồ Chí Minh
Ngành may là một ngành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế cả nước,
chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế nói chung và thành phố nói riêng. Nó
quan trọng không phải ở chỗ ngành có đóng góp lớn về nộp ngân sách cho
thành phố mà ở chỗ nó tạo ra hàng triệu việc làm cho cả nước. Hàng triệu
người có việc làm, có thu nhập là động lực kích thích các nền kinh tế khác phát
triển, góp phần quan trọng làm ổn định xã hội. Mặt khác, ngành may hiện đang
đứng trước những thử thách lớn đó là sự canh tranh về giá cả với các nước trong
khu vực, đặc biệt là Trung Quốc, nơi có nguồn nguyên liệu khá phong phú,
nguồn nhân công rẻ mạt, và có thể đáp ứng những nhu cầu của nhiều thị trường
khác nhau.
Hiện nay trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh có trên 300 doanh nghiệp
may xuất khẩu với tổng số trên 500.000 lao động (chiếm 40% cả nước), phần
lớn là những doanh nghiệp vừa và nhỏ đã có những đóng góp đáng kể vào sự
phát triển chung của thành phố trong thời gian qua.
Ngành may gia công xuất khẩu thành phố đang gặp phải những khó
khăn mới, giá gia công không tăng, trong khi đó các chi phí sản xuất lại tăng
lên liên tục như điện, nước, giao nhận, phụ liệu....Mặt khác giá cả sinh hoạt
tăng, tiền lương thu nhập của người lao động cũng phải tăng theo, đó là bài
toán hóc búa đối với ngành may hiện nay, làm thế nào để tồn tại và phát triển
trong điều kiện cực kỳ khó khăn đó, chỉ có con đường tăng năng suất là cách
tốt nhất để hạ giá thành và tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
Hiện tại năng suất bình quân vẫn còn thấp, để cải thiện vấn đề này cần
phải đầu tư thêm thiết bị mới đồng bộ. Một vấn đề có tính then chốt là xâ y
dựng và đào tạo một đội ngũ cán bộ quản lý và kỹ thuật sản xuất, công nhân
lành nghề.
17
Trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh với 500.000 lao động may mặc
nhưng đội ngũ cán bộ quản lý và kỹ thuật may từ giám đốc xí nghiệp, quản đốc
xưởng, và các chuyền trưởng sản xuất khoảng trên dùi 15.000 người, phần lớn
từ công nhân trưởng thành lên, một số khác từ các ngành khác chuyển qua. Số
được đào tạo từ trường lớp có liên quan đến ngành may chiếm một tỉ lệ rất nhỏ,
chỉ có khoảng từ 15-20% là có trình độ tốt nghiệp cấp 3, tốt nghiệp hệ công
nhân kỹ thuật, tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng, đại học. Chính đội ngũ này có
ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề năng suất và chất lượng sản phẩm. Dưới đây là
số liệu thống kê của ngành dệt- may thành phố Hồ Chí Minh
Cơ cấu lao động
Yếu tố phân tích
Tỷ lệ (%)
1. Nguồn lao động
Từ TPHCM
41%
Nhập cư
59%
2. Giới tính
Nam
24%
Nữ
76%
3. Độ tuổi
Dưới 20
23%
Từ 21-30
47%
Từ 31-40
24%
Trên 40
6%
(Trích: Hiệp hội dệt may thêu đan thành phố Hồ Chí Minh - Đào tạo nguồn
nhân lực cho ngành dệt – may tại thành phố Hồ Chí Minh và cả nùc)
Theo bảng cơ cấu lao động ngành may, phần lớn lao động là người dân
nhập cư từ các tỉnh thành khác tập trung vào thành phố Hồ Chí Minh, đa phần
là trẻ tuổi. Do vậy lao động ngành may thường hay biến động và di chuyển từ
doanh nghiệp này đến các doanh nghiệp khác nếu mức lương ở đó trả cho
18
người công nhân cao hơn. Hơn nữa trong nội bộ nhà máy, xí nghiệp tỉ lệ công
nhân nữ rất cao chiếm 76%, trong độ tuổi từ 21-30 tuổi, điều này cũng có ảnh
hưởng đến công việc sản xuất khi họ lập gia đình, sinh con.....
Chất lượng lao động
Yếu tố phân tích
Tỷ lệ (%)
1. Trình độ văn hóa
Ghi chú
Toàn
Cấp 1
21
Cấp 2
61
Cấp 3
14
Tốt nghiệp cấp 3
4
2. Trình độ chuyên môn
thể
lao
động
Từ chuyền trưởng
trở lên
Trung cấp
10.5
Cao đẳng
8.2
Đại học
6.5
Không có bằng cấp chính quy
74.8
3. Hình thức đào tạo
Từ chuyền trưởng
trở lên
Chính quy trước khi nhận việc
12.5
Đào tạo tại chức
12.7
Đào tạo ngắn hạn
14.5
Chưa hề đào tạo bên ngoài
60.3
(Trích: Hiệp hội dệt may thêu đan thành phố Hồ Chí Minh - Đào tạo nguồn
nhân lực cho ngành dệt – may tại thành phố Hồ Chí Minh và cả nùc,)
Qua các số liệu cho thấy một cái nhìn tổng thể nguồn nhân lực hiện tại
của ngành dệt may thành phố, mặc dù đây chỉ là những số liệu chung, tính trên
tổng thể lao động bao gồm các cán bộ quản lý cấp thấp và công nhân may.
Nhưng dù sao khi nhìn vào các con số này thì ta đánh giá được mặt bằng chung
về trình độ văn hoá và trình độ chuyên môn còn rất thấp. Hầu hết các chuyền
19
trưởng, nhân viên kỹ thuật được trưởng thành trong quá trình làm việc là chủ
yếu, do vậy kinh nghiệm được hình thành và tích luỹ không giống nhau dẫn
đến việc tổ chức sản xuất đạt hiệu quả kém, biểu hiện là năng suất thấp, chất
lượng sản phẩm không đều, ảnh hưởng đến uy tín xí nghiệp, sự cạnh tranh trên
thị trường và chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến lương thưởng của người công nhân.
Theo các nhà quản lý nhà máy, xí nghiệp may thì để một nhân viên từ
lúc mới bước chân vào nhà máy được bố trí công việc giản đơn đến thành thạo
và có những hiểu biết khá chắc về nghề may phải mất từ ba đến năm năm và
để bố trí đến chức vụ như quản đốc điều hành phân xưởng khoảng 100 lao
động phải mất thêm ít nhất bốn năm nữa.
Với hơn 500.000 người lao động đang làm việc trong ngành dệt-may
thành phố Hồ Chí Minh, ước lượng nhu cầu đào tạo lại rất lớn. Do chưa thể
thống kê một cách cụ thể nhu cầu đào tạo lại nhưng dựa trên tình hình thực tế
ban Chủ tịch hội dệt may thêu đan thành phố Hồ Chí Minh thống nhất chọn con
số tối thiểu là 25% lực lựơng lao động trong ngành cần phải đào tạo lại để đáp
ứng nhu cầu phát triển. Với tỉ lệ 25% cơ cấu đào tạo được hình dung theo biểu
dưới đây:
CẤP
1. Cao
2. Trung
3. Thấp
NHU CẦU ĐÀO TẠO LẠI
SỐ LƯNG DỰ KIẾN
Giám đốc, sản xuất
300
Xúc tiến thương mại
500
Quản đốc
600
Chuyên viên thiết kế
300
Chuyền trưởng
4000
Kỹ thuật viên
2500
Nhân viên quản lý chất lượng
3000
Công nhân may
120.000
Tổng cộng
131.200
20
(Nguồn: Hiệp hội dệt may thêu đan thành phố Hồ Chí Minh – Dự báo
nhu cầu đào tạo lại nguồn nhân lực may)
Trong số lượng dự kiến đào tạo lại có khoảng 120.000 người trên tổng số
131.200 người, chiếm tỉ lệ khoảng 91% là đội ngũ công nhân may, một con số
đáng quan tâm.
VI. Yêu cầu về chất lượng nguồn nhân lực may
Nguồn nhân lực ngành may bao gồm từ các nhà quản lý cấp cao đến
những người công nhân may tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất hàng
may mặc. Mỗi cấp sẽ có những yêu cầu cơ bản cho cấp đó, riêng công nhân
may thì theo các nhà quản lý xí nghiệp phải đảm bảo các yêu cầu tối thiểu sau
đây mới có thể hoà nhập tốt với môi trường làm việc ở các xí nghiệp may:
Trình độ học vấn tối thiểu 9/12
Tuổi từ 18 tuổi trở lên, có đầy đủ sức khoẻ
Có khả năng hoàn thành một sản phẩm may mặc như áo sơ mi, jắcket
trong một khoảng thời gian cho phép. Hay nói khác đi phải có tay nghề tối
thiểu bậc 3/7
Được đào tạo bài bản từ các trường đào tạo nghề chính quy và không
chính qui
Có sự tự ý thức cao, chấp hành tốt nội quy, hoàn thành tốt sự phân
công của chuyền trưởng, kỹ thuật chuyền ...
Có khả năng lónh hội kiến thức khoa học công nghệ mới trong ngành
may mặc hiện nay
Có khả năng tự nâng cao trình độ tay nghề, tạo cơ hội thăng tiến
trong nghề nghiệp
21