Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Đề tài bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bản chất, chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.61 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CƠNG NGHIỆP TP.HCM
KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ

Đề tài:
Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Bản chất,
chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Giảng viên hướng dẫn: Huỳnh Thị Yến Ny
Sinh viên thực hiện:
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.


NỘI DUNG THUYẾT TRÌNH
Sơ lược về: Dân Chủ Xã Hội Chủ Nghĩa và Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ của đại đa số nhân dân, gắn với quyền dân
chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, được pháp luật
bảo đảm dưới sự lãnh đạo của Đảng; là hình thức thể hiện quyền tự do, bình
đẳng của công dân, xác định nhân dân là chủ thể của quyền lực.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là sự bảo đảm cho quyền tự do, độc lập và chủ quyền
dân tộc; đảm bảo dân chủ trên cơ sở quyền lực chủ quyền của nhân dân được
Hiến pháp và pháp luật quy định.
Vậy quan niệm dân chủ được thể hiện như thế nào? Sự ra đợi, phát triển của
dân chủ được thể hiện như thế nào?
1. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa


1.1. Quan niệm về dân chủ
Dân chủ không chỉ là chế độ chính trị trong đó tồn bộ quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân, do dân thực hiện trưc tiếp hoặc thông qua đại diện do dân
bầu ra, dân chủ cịn là hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên
việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận ngun tắc
bình đẳng, tự do và quyền con người.
Ngồi ra, dân chủ còn được vận dụng vào các tổ chức chính trị của nhà nước
trong các hình thái ý thức xã hội, dân chủ còn tồn tại do phương thức sản xuất
vật chất của xã hội quyết định.
Tuy nhiên, dân chủ lại là thành quả giá trị nhân văn được sinh ra từ phương
thức tổ chức hợp tác sản xuất vật chất và cấu kết cộng đồng giữa người với
người. Do đó, dân chủ sẽ tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển
của con người, là một hình thức tồn tại của con người ngay cả khi nhà nước
khơng cịn.
Dân chủ có nguồn gốc từ Hy Lạp cổ đại. Thuật ngữ này xuất hiện đầu tiên tại
Athena, Hy Lạp trong thế kỷ thứ V TCN, với thuật ngữ “Domoktraos” có
ý nghĩa “Nhân dân cai trị”. Trong đó, Domos là nhân dân và Ktraos là cai trị
Vì thế, dân chủ là quyền lực của nhân dân hay quyền lực thuộc về nhân dân.
Theo Mác-Lenin cho rằng, dân chủ là sản phẩm và là thành quả của quá trình
đấu tranh giai cấp cho những giá trị tiến bộ cảu nhân loại, là một hình thức tổ
chức nhà nước của giai cấp cầm quyền, là những nguyên tắc hoạt động của
các tổ chức chính trị-xã hội.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lênin dân chủ có một số nội dung cơ
bản sau đây:
- Thứ nhất, về phương diện quyền lực, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân
dân của nhà nước. Dân chủ là quyền lợi của nhân dân – quyền dân chủ
được hiểu theo nghĩa rộng. Quyền lợi căn bản nhất của nhân dân


chính là quyền lực nhà nước thuộc sở hữu của nhân dân, của xã hội; bộ

máy nhà nước phải vì nhân dân, vì xã hội mà phục vụ. Và do vậy, chỉ khi
mọi quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân thì khi đó mới có thể đảm
bảo việc nhân dân được hưởng quyền làm chủ với tư cách một quyền lợi.
Thứ hai, trên phương diện chế độ xã hội và trong lĩnh vực chính trị, dân
chủ là một hình thức hay hình thái nhà nước, là chính thể dân chủ hay
chế độ dân chủ.
- Thứ ba, trên phương diện tổ chức và quản lý xã hội, dân chủ là một
nguyên tắc – nguyên tắc dân chủ. Nguyên tắc này kết hợp với nguyên
tắc tập trung để hình thành nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và
quản lý xã hội
Dân chủ với tư cách là một hình thức tổ chức thiết chế chính trị, một hình
thức hay một hình thái nhà nước, nó là một phạm trù lịch sử, ra đời và phát
triển gắn liền với nhà nước và mất đi khi nhà nước tiêu vong. Song, dân chủ
với tư cách là một giá trị xã hội, nó là một phạm trù vĩnh viễn, tồn tại và phát
triển cùng với sự tồn tại và phát triển của con người, của xã hội loài người.
Chừng nào con người và xã hội lồi người cịn tồn tại, chừng nào mà nền văn
minh nhân loại chưa bị diệt vong thì chừng đó dân chủ vẫn cịn tồn tại với tư
cách là một giá trị nhân loại chung.
Trên cơ sở của chủ nghĩa Mác – Lênin và điều kiện cụ thể của Việt Nam, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã phát triển dân chủ theo hướng:
- (1) Dân chủ trước hết là một giá trị nhân loại chung. Và, khi coi dân chủ
là một giá trị xã hội mang tính tồn 80 nhân loại, Người đã khẳng định:
Dân chủ là dân là chủ, dân làm chủ. Người nói: “Nước ta là nước dân
chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”
- (2) Khi coi dân chủ là một thể chế chính trị, một chế độ xã hội
Người khẳng định: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người
chủ, mà Chính phủ là người đầy tớ trung thành của nhân dân”4 . Rằng, “chính
quyền dân chủ là chính quyền do dân làm chủ”; và một khi nước ta đã trở
thành một nước dân chủ, “chúng ta là dân chủ” thì dân chủ là “dân làm chủ”
và “dân làm chủ thì Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, uỷ viên này khác… làm

đầy tớ. Làm đầy tờ cho nhân dân chứ không phải là quan cách mạng”.
-

Dân chủ có nghĩa là mọi quyền hạn thuộc về nhân dân. Dân chủ phải thực sự
là chủ thể của xã hội và hơn nữa, dân phải được làm chủ một cách toàn diện:
Làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân mình, làm chủ và sở
hữu mọi năng lực sáng tạo của mình với tư cách là chủ thể đích thực của xã
hội, từ dân chủ trong kinh tế, dân chủ trong chính trị đến dân chủ trong xã hội
và dân chủ trong đời sống văn hóa – tinh thần, tư tưởng, trong đó hai lĩnh vực
hàng đầu và nổi bật nhất là dân chủ trong kinh tế và dân chủ trong chính trị.
Trên cơ sở những quan niệm dân chủ nêu trên, nhất là tư tưởng vì dân của Hồ
Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương xây dựng chế độ dân chủ xã
hội chủ nghĩa, mở rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Trong công
cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khi cần nhấn mạnh


phát huy dân chủ để tạo ra một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển đất nước.
Đảng ta khẳng định, “trong tồn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt
tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân lao động”1 . Nhất là trong thời kỳ đổi mới, nhận thức về dân chủ của
Đảng Cộng sản Việt Nam có những bước phát triển mới: “Toàn bộ tổ chức và
hoạt động của hệ thống chính trị nước ta giai đoạn mới là nhằm từng bước xây
dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền
lực thuộc về nhân dân. Dân chủ gắn liền với công bằng xã hội phải được thực
hiện trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội thơng qua hoạt động của nhà nước don nhân dân cử ra và bằng hình
thức dân chủ trực tiếp. Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, phải được thể
hiện hóa bằng pháp luật và pháp luật bảo đảm”.
Từ những cách tiếp cận trên, dân chủ có thể hiểu Dân chủ là một giá trị xã hội
phản ánh những quyền cơ bản của con người; là một phạm trù chính trị gắn

với các hình thức tổ chức nhà nước của giai cấp cầm quyền; là một phạm trù
lịch sử gắn với quá trình ra đời, phát triển của lịch sử xã hội nhân loại. Đặc
điểm của dân chủ:
Dân chủ là hình thức chính phủ trong đó quyền lực và trách nhiệm công
dân do công dân trưởng thành trực tiếp thực hiện hoặc thông qua các đại
diện của họ được bầu lên một cách tự do.
Các xã hội dân chủ cam kết với các giá trị khoan dung, hợp tác và thỏa
hiệp.
Dân chủ dựa trên các nguyên tắc đa số cai trị và các quyền cá nhân. Các
nền dân chủ chống lại các chính phủ trung ương tập quyền và phi tập trụn
hóa chính quyền ở cấp khu vực và địa phương, với nhận thức rằng tất cả các
cấp độ chính quyền đều phải được tiếp cận và phải đáp ứng người dân khi có
thể.
Các nền dân chủ nhận thức rằng một trong những chức năng chính của họ
là bảo vệ các quyền con người cơ bản như tự do ngôn luận và tự do tôn giáo;
quyền được pháp luật bảo vệ bình đẳng và cơ hội được tổ chức và tham gia
đầy đủ vào đời sống kinh tế, chính trị và văn hóa xã hội
Các nền dân chủ thường xuyên tổ chức các cuộc bầu cử tự do và công
bằng cho công dân ở dộ tuổi bầu cử tham gia.
Công dân ở một nền dân chủ khơng chỉ có các quyền mà cịn có trách
nhiệm tham gia hệ thống chính trị. Đổi lại, hệ thống chính trị đó bảo vệ các
quyền lợi và sự tự do của họ.
1.2.

Sự ra đời và phát triển của dân chủ

Nhu cầu về dân chủ xuất hiện từ rất sớm trong xã hội tự quản của cộng đồng
dân tộc, bộ lạc. Trong chế độ cộng sản nguyên thủy đã xuất hiện hình thức
manh nha của dân chủ mà Ph. Ăngghen gọi là “dân chủ nguyên thủy” hay còn
gọi là “dân chủ quân sự”.

Theo quy định của giai cấp cầm quyền chỉ gồm giai cấp chủ nô và phần nào
thuộc về các công dân tự do (tăng lữ, thương gia và một số trí thức). Đa số
cịn lại khơng phải là “dân” mà là “nô lệ”. Như vậy, về thực chất, dân chủ


chủ nô cũng chỉ thực hiện dân chủ cho thiểu số mà thôi. Cùng với sự tan rã
của chế độ chiếm hữu nơ lệ, lịch sử xã hội lồi người bước vào thời kỳ đen tối
với sự thống trị của nhà nước chuyên chế phong kiến, chế độ dân chủ chủ nơ
đã bị xóa bỏ thay vào đó là chế độ độc tài chuyên chế phong kiến. Họ xem
việc tuân theo ý chí của giai cấp thống trị là bổn phận của mình trước sức
mạnh của đấng tối cao. Do đó, ý thức về dân chủ và đấu tranh để thực hiện
quyền làm chủ của người dân đã khơng có bước tiến đang kể nào.
Cuối thế kỷ XIV – đầu XV, giai cấp tư sản với những tư tưởng tiến bộ về tự
do, công bằng, dân chủ đã mở đường cho sự ra đời của nền dân chủ tư sản.
Chủ nghĩa Mác – Lênnin chỉ rõ: Dân chủ tư sản ra đời là một bước tiến lớn
của nhân loại với những giá trị nổi bật về quyền tự do, bình đẳng, dân chủ.
Tuy nhiên, trên thực tế, nền dân chủ tư sản vẫn là nền dân chủ của thiểu số.
Khi cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga thắng lợi (1917), nhà nước
công – nông (nhà nước xã hội chủ nghĩa) ra đời, nền dân chủ vô sản (dân chủ
xã hội chủ nghĩa) được xây dựng, thực hiện quyền lực của đại đa số nhân dân
– tức là xây dựng nhà nước dân chủ thực sự, dân làm chủ nhà nước và xã hội,
bảo vệ quyền lợi cho đại đa số nhân dân.
Như vậy, với tư cách là một hình thái nhà nước, một chế độ chính trị thì trong
nhân loại, cho đến nay có ba nền (chế độ) dân chủ. Nền dân chủ chủ nô, nền
dân chủ tư sản; nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Liên hệ thực tiễn: Hiện nay, trong điều kiện tồn cầu hóa, sự lan truyền của tư
tưởng dân chủ tư sản từ các nước phương Tây sang các nước khác đang hình
thành những làn sóng. Tuy nhiên, sự tồn tại của nền dân chủ phụ thuộc vào
những yếu tố nội tại của một quốc gia, vào quá trình phát triển của lịch sử, xã
hội ở quốc gia đó qua nhiều thế hệ chứ khơng thể áp đặt từ bên ngồi.

Do đó, việc thực hiện dân chủ, thực thi quyền lực của nhân dân cũng phải
tuân thủ theo khuôn khổ pháp luật, không thể áp đặt một cách vô căn cứ giá trị
dân chủ tư sản với các nước khác, trong đó có Việt Nam. Hệ thống pháp lý
nước ta cũng ngày càng hoàn thiện hơn để đảm bảo phát huy tối đa quyền làm
chủ của nhân dân.
1.3.

Quá trình ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn quá trình hình thành và phát triển các nền dân
chủ trong lịch sử và trực tiếp nhất là nền dân chủ tư sản, các nhà sáng lâ ‚p
chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, đấu tranh cho dân chủ là mơ ‚t q trình lâu
dài, phức tạp và giá trị của nền dân chủ tư sản chưa phải là hồn thiê ‚n nhất,
do đó, tất yếu xuất hiê ‚n mô ‚t nền dân chủ mới, cao hơn nền dân chủ tưsản
và đó chính là nền dân chủ vơ sản hay còn gọi là nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa.
Dân chủ xã hô ‚i chủ nghĩa đã được phôi thai từ thực tiễn đấu tranh giai cấp
ở Pháp và Công xã Pari năm 1871, tuy nhiên, chỉ đến khi Cách mạng Tháng
Mười Nga thành công với sự ra đời của nhà nước xã hô ‚i chủ nghĩa đầu tiên
trên thế giới (1917), nền dân chủ xã hô ‚i chủ nghĩa mới chính thức được xác
lâ ‚p. Sự ra đời của nền dân chủ xã hô ‚i chủ nghĩa đánh dấu bước phát triển
mới về chất của dân chủ. Quá trình phát triển của nền dân chủ xã hô ‚i chủ
nghĩa bắt đầu từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiê ‚n đến hoànthiê ‚n.


Trong đó, có sự kế thừa những giá trị của nền dân chủ trước đó, đồng thời
bổ sung và làm sâu sắc thêm những giá trị của nền dân chủ mới.
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin: Giai cấp vô sản khơng thể hồn thành c ‚c
cách mạng xã hơ ‚i chủ nghĩa, nếu họ không được chuẩn bị để tiến tới c‚c
cách mạng đó thơng qua c ‚c đấu tranh cho dân chủ. Rằng, chủ nghĩa xã hô
‚i không thể duy trì và thắng lợi, nếu khơng thực hiê ‚n đầy đủ dân chủ.

Nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ xã hô ‚i chủ nghĩa là không ngừng mở rơ ‚ng
dân chủ, nâng cao mức đơ ‚ giải phóng cho những người lao đô ‚ng, thu hút họ
tham gia tự giác vào công viê ‚c quản lý nhà nước, quản lý xã hơi. ‚ Càng hồn
thiê ‚n bao nhiêu, nền dân chủ xã hô ‚i chủ nghĩa lại càng tựiêut vong bấy nhiêu.
Thực chất của sự tiêu vong này theo V.I.Lênin, đó là tính chính trị của dân chủ
sẽ mất đi trên cơ sở không ngừng mở rô ‚ng dânchủ đối với nhân dân, xác lâ ‚p
địa vị chủ thể quyền lực của nhân dân, tạo điều kiê ‚n để họ tham gia ngày càng
đông đảo và ngày càng có ý nghĩa quyết định vào sự quản lý nhà nước, quản lý
xã hô ‚i (xã hô ‚i tự quản). Q trình đó làm cho dân chủ trở thành mơ ‚t thói
quen, mơ ‚t tâ ‚p qn trong sinhhoạt xã hơ ‚i... để đến lúc nó khơng cịn tồn tại
như mô ‚t thể chế nhà nước, môchế‚t đô ‚, tức là mất đi tính chính trị của nó.
Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác – Lênin cũng lưu ý đây là quá trình lâu dài, khi
xã hơ ‚i đã đạt trình đơ ‚ phát triển rất cao, xã hơ ‚i khơng cịn sự phân chia giai
cấp, đó là xã hơ ‚i cơ ‚ng sản chủ nghĩa đạt tới mức đơ ‚ hồn thiê ‚n, khi đó dân
chủ xã hơ ‚i chủ nghĩa với tư cách là mô ‚t chế đô ‚ nhà nước cũng tiêuvong,
khơng cịn nữa.
Từ những phân tích trên đây, có thể hiểu dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân
chủ cao hơn về chất so với nền dân chủ tư sản, là nền dân chủ mà ở đó, mọi
quyền lực thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân làm chủ; dân chủ và pháp luật
nằm trong sự thống nhất biê ‚n chứng; được thực hiê ‚n bằng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Cũng cần lưu ý rằng, cho đến nay, sự ra đời của nền dân chủ xã hô ‚ichủ nghĩa
mới chỉ trong mô ‚t thời gian ngắn, ở mơ ‚t số nước có xuất phátđiểm về kinh
tế, xã hô ‚i rất thấp, lại thường xuyên bị kẻ thù tấn công, gâychiến tranh, do vâ
‚y, mức đô ‚ dân chủ đạt được ở những nước này hiê ‚n naycòn nhiều hạn chế
ở hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hô ‚i. Ngược lại,sự ra đời, phát triển của
nền dân chủ tư sản có thời gian cả mấy trăm năm, lại ở hầu hết các nước phát
triển (do điều kiê ‚n khách quan, chủ quan). Hơn nữa, trong thời gian qua, để
tồn tại và thích nghi, chủ nghĩa tư bản đã có nhiều lần điều chỉnh về xã hơ ‚i,
trong đó quyền con người đã được quan tâm ở mô ‚t mức đô ‚ nhất định (tuy

nhiên, bản chất của chủ nghĩa tư bản không thay đổi). Nền dân chủ tư sản có
nhiều tiến bơ ‚, song nó vẫn bị hạn chếbởi bản chất của chủ nghĩa tư bản.
Để chế đô ‚ dân chủ xã hô ‚i chủ nghĩa thực sự quyền lực thuô ‚c về nhân dân,
ngồi yếu tố giai cấp cơng nhân lãnh đạo thông qua Đảng Cô ‚ng sản (mặc dù là
yếu tố quan trọng nhất), đòi hỏi cần nhiều yếu tố như trình đơ ‚ dân trí,


xã hô ‚i công dân, viê ‚c tạo dựng cơ chế pháp luâ ‚t đảm bảo quyền tự cádo
nhân, quyền làm chủ nhà nước và quyền tham gia vào các quyết sách của nhà
nước, điều kiê ‚n vâ ‚t chất để thực thi dân chủ.
1.4.

Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Như mọi loại hình dân chủ khác, dân chủ vô sản, theo V.I.Lênin, không phải
là chế độ dân chủ cho tất cả mọi người; nó chỉ là dân chủ đối với quần chúng
lao động và bị bóc lột; dân chủ vô sản là chế độ dân chủ vì lợi ích của đa số.
Rằng, dân chủ trong chủ nghĩa xã hội bao quát tất cả các mặt của đời sống
xã hội, trong đó, dân chủ trên lĩnh vực kinh tế là cơ sở; dân chủ đó càng
hồn thiện bao nhiêu, càng nhanh đến ngày tiêu vong vong bấy nhiêu. Dân
chủ vô sản loại bỏ quyền dân chủ của tất cả các giai cấp là đối tượng của nhà
nước vơ sản, nó đưa quảng đại quần chúng nhân dân lên địa vị của người
làm chủ chân chính của xã hội.
- Với tư cách là đỉnh cao trong toàn bộ lịch sử tiến hóa của dân chủ, dân chủ
xã hội chủ nghĩa có bản chất cơ bản sau:

1.4.1. Bản chất chính trị
- Dưới sự lãnh đạo duy nhất của 1 đảng của giai cấp công nhân mà trên mọi
lĩnh vực xh đều thực hiện quyền lực của nhân dân, được thể hiện qua các quyền
dân chủ, làm chủ, quyền con người.
- Chủ nghĩa Mac lênin chỉ rõ:Bản chất chính trị của nền DCXHCN là sự lãnh

đạo chính trị của giai cấp cơng nhân thơng qua đảng của nó đối với tồn xh, để
thực hiện quyền lực và lợi ích của tồn thể nhân dân, trong đó có giai cấp cơng
nhân.
- DCXHCN mang tính nhất nguyên về chính trị. Sư lãnh đạo của giai cấp
công nhân thông qua đảng Cộng sản đối với toàn xã hội về mọi mặt- V.I Lênin
gọi là sự thống trị chính trị.
- Trong nền DCXHCN, nhân dân lao động là người làm chủ những quan
hệ chính trị trong xã hội. Họ có quyền giới thiệu các đại biểu tham gia vào bộ
máy chính quyền , tham gia đóng góp ý kiến . Lênin đã diễn đạt khái quát về bản
chất và mục tiêu của DCXHCN:*chế độ DCVS so với bất kì chế độ DCTS nào,
cũng DC hơn gấp triệu lần*
- Nhân dân có quyền làm chủ trên lĩnh vực chính trị. Chế độ DCXHCN, nhà
nước XHCN đều là của dân , do dân và vì dân.
- Xét về bản chất chính trị, dân chủ XHCN vừa có bản chất giai cấp cơng
nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc. Do vậy, nên DCXHCN
khác về chất so với nền DCTS ở bản chất giai cấp
1.4.2. Bản chất kinh tế
- Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu xã hội
về những tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn bộ xã hội, đáp ứng sự phát triển ngày
càng cao của lực lượng sản xuất, dựa trên cơ sở khoa học - công nghệ hiện đại,
nhằm thoả mãn ngày càng cao những nhu cầu vật chất và tinh thần của toàn thể
nhân dân lao động.


- Bản chất kinh tế đó chỉ được bộc lộ đầy đủ qua một q trình ổn định chính

trị,
phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của toàn xã hội. Trước hết đảm bảo
quyền làm chủ của nhân dân về các tư liệu sản xuất chủ yếu; quyền làm chủ
trong quá trình sản xuất kinh doanh, quản lý và phân phối, phải coi lợi ích kinh

tế của người lao động là động lực cơ bản nhất có sức thúc đẩy kinh tế - xã hội
phát triển.
- Khác với nền dân chủ tư sản, bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa là thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu và thực hiện chế
độ phân phối lợi ích theo kết quả lao động là chủ yếu.
1.4.3. Bản chất tư tưởng - văn hóa - xã hội
- Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư tưởng Mác - Lênin - hệ tư tưởng của

giai cấp công nhân, làm chủ đạo với mọi hình thái ý thức xã hội khác trong xã
hội mới. Đồng thời nó kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hoá truyền thống xã
hội; tiếp thu những giá trị tư tưởng - văn hoá, văn minh, tiến bộ xã hội...mà nhân
loại đã tạo ra ở tất cả các quốc gia, dân tộc...Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
nhân dân được làm chủ những giá trị văn minh tinh thần;được nâng cao trình độ
văn hố, có điều kiện để phát triển cá nhân. Dưới góc độ này dân chủ là một
thành tựu văn hố, một q trình sáng tạo văn hoá, thể hiện khát vọng tự do
được sáng tạo và phát triển của con người.
- Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có sự kết hợp hài hồ về lợi ích giữa cá
nhân, tập thể và lợi ích tồn xã hội.
- Với tất cả những đặc trưng đó, dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cao
hơn về vật chất so với nền dân chủ tư sản, là nền dân chủ mà ở đó, mọi quyền
lực thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân làm chủ; dân chủ và pháp luật nằm
trong sự thống nhất biện chứng; được thực hiện bằng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa.
Về vấn đề nền dân chủ, đặc biệt là nền dân chủ của một nhà nước xã hội chủ
nghĩa (XHCN) bao giờ cũng là vấn đề đáng bàn đến. Bởi dân chủ bên cạnh
việc là tiếng nói thể hiện quyền con người, cịn thể hiện khả năng quản lí bộ
máy chính trị và sự tận tâm dành cho người dân của một nhà nước XHCN –
kiểu nhà nước vốn gắn liền, đại diện cho ý chí và lợi ích của nhân dân lao
động. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ của đại đa số nhân dân, gắn với
quyền dân chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,

được pháp luật bảo đảm dưới sự lãnh đạo của Đảng; là hình thức thể hiện
quyền tự do, bình đẳng của công dân, xác định nhân dân là chủ thể của
quyền lực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa
bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản
chất của chế độ, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước.
Vậy bản chất của dân chủ là gì?
Bản chất của dân chủ là một chế độ xã hội mà ở đó, dân chủ được hiểu là
toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân. Từ đó trở thành mục tiêu của sự phát
triển xã hội, được thực hiện trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và được


thiết lập sau khi giai cấp công nhân giành được chính quyền về tay của mình
và nhân dân lao động thông qua cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Bản chất của dân chủ là mang bản chất giai cấp công nhân. Có sự thống
nhất giữa tính giai cấp cơng nhân với tính dân tộc, tính nhân dân, do lợi ích
của giai cấp cơng nhân phù hợp với lợi ích của giai cấp dân tộc, cũng như
của đại đa số nhân dân lao động.
Do Đảng công sản lãnh đạo – yếu tố quan trọng bảo đảm quyền lực thực sự
thuộc về nhân dân. Bởi vì đảng cộng sản đại biểu cho trí tuệ và lợi ích của
nhân dân lao động, giai cấp cơng nhân và tồn dân tộc. Với nghĩa này, dân
chủ xã hội chủ nghĩa mang tính nhất nguyên về mặt chính trị. Dân chủ
XHCN được thực hiện tồn diện trên các lĩnh vực đời sống xã hội để thể
hiện bản chất của dân chủ.
2. Liên hệ thực tiễn

Với tư cách là một công dân sống trong một nhà nước xã hội chủ nghĩa,
hướng dẫn quyền lợi và có những nhiệm vụ với nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bản thân tơi cũng có những suy nghĩ, những mong muốn của bản thân
mình, mối liên hệ của bạn thân tơi đối với nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Hiện nay, vấn đề dân chủ đang rất được sự quan tâm trên thế giới, Việt Nam
khơng nằm ngồi sức ảnh hưởng này. Rõ ràng, một đất nước có dân chủ là
một đất nước tự do và từ tự do đó sẽ tạo nên những giá trị khác nhau như
hạnh phúc và độc lộc. Hay theo như C. Mác và Ph.Ăng - ghen cho rằng
“Dân chủ là Vương tiếng tất yếu để con người đạt tới tự do, giải phóng tồn
diện những năng lực vốn có của mỗi cá nhân. Tức Quyền con người được
đảm bảo và thực hiện đầy đủ”.
Có thể nói dân chủ là một phạm trù lịch sử, dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản
chất, mục tiêu và động lực của chế độ ta, đất nước Việt Nam ta. Để bảo tồn
và phát huy được vấn đề phạm trù lịch sử này, mỗi sinh viên trước hết cần
phải nhận thức đúng đắn về dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ là dân làm
chủ, lấy dân làm gốc, người có địa vị cao nhất là nhân dân. Bởi ngay từ
những ngày đầu của chính quyền Việt Nam 1945 non trẻ. Đảng và Hồ Chủ
Tịch đã khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân,
bao nhiêu quyền hạn điều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách
nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiên quốc là cơng việc của dân.
Chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương do dân cử ra. Việc cứu về dân
chủ sẽ giúp bản thân mỗi sinh viên. Đặc biệt là các sinh viên năm nhất có
được một nền tảng kiến thức tốt không chỉ cho tư tưởng đạo đức chính trị
của bản thân ở hiện tại, mà cịn góp phần tạo nên thắng lợi cho cơng cuộc
xây dựng kiến thiết đất nước tiến lên xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, việc có
một nhận thức đúng đắn về dân chủ xã hội chủ nghĩa chỉ giúp sinh viên chủ
động trong việc tự bảo vệ mình khỏi những tư tưởng, ý kiến sai trái về văn
chú vẫn đang âm thầm con nên sự hiểu lầm giữa quần chúng nhân dân và
chính quyền cách mạng.


Tuy nhiên, chị biết và Hiếu thôi chưa đủ bạn thân buổi sinh viên cần trang bị
cho mình một tư duy phản biện sắc bén về phạm trù dân chủ này. Ngày nay
có khơng ít ký viện có dân chủ, diễn biến Hịa Bình hồng Phát vợ khối đại

đồn kết dân tộc gây chia rẽ nội bộ của ta, cũng như các quan điểm chính
sách của đảng thường bị các đối tượng xấu xuyên tạc hồng bôi nhỏ cán bộ,
giảm y tính đảng, thậm chí có khơng ít video, hình ảnh bị các đối tượng sáu
này cách ghép chỉnh sửa rồi Cho rằng Việt Nam ta không dân chủ, điều này
là hết sức sai trái, đi ngược lại với quan điểm của đảng và nhà nước ta. Vì
vậy, hiểu và biết là chưa đủ, ta cần phải vận dụng bằng cách phản biện chúc
mọi định nghĩa sai trái lịch lạc về dân chủ. Việc này khơng q khó, bởi chỉ
cần thường xuyên chia sẻ các thông tin và kiến thức về dân chủ xã hội chủ
nghĩa theo đúng định hướng và quan điểm của đảng và nhà nước cũng là
một cách làm thiết thực. Đồng thời chúng ta còn phản bác lại các luậnĐiểm
sai trái về dân chủ thì tích giảm hoặch không báo cho cơ quan chức năng xử

3. Nhà nước xã hội chủ nghĩa

3.1. Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Khát vọng về một xã hội cơng bằng, dân chủ, bình đẳng và bác ái đã xuất hiện
từ lâu trong lịch sử. Xuất phát từ nguyện vọng của nhân dân lao động muốn
thoát khỏi sự áp bức, bất công và chuyên chế; ước mơ xây dựng một xã hội
dân chủ, công bằng; những giá trị của con người được tơn trọng, bảo vệ; con
người có điều kiện để phát triển tự do tất cả năng lực của mình, nhà nước xã
hội chủ nghĩa đã ra đời. Đó là kết quả của cuộc cách mạng do giai cấp vô sản
và nhân dân lao động tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Những tiền đề kinh tế: Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ở thời kỳ đầu của

sự phát triển tư bản chủ nghĩa đã là những quan hệ sản xuất tiến bộ so với
quan hệ sản xuất phong kiến, đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Nhưng do quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa được xây
dựng trên cơ sở chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và bóc lọt giá trị thặng dư đã
đẩy mâu thuẫn giữa quan hệ sx và llsx trở nên gây gắt.
- Những tiền đề chính trị - xã hội: Đặc điểm của quan hệ sản xuất tư bản chủ

nghĩa đã quyết định bản chất và đặc điểm của nhà nước tư sản. Đến giai đoạn
đế quốc chủ nghĩa đã xuất hiện chủ nghĩa tư bản lũng loạn nhà nước. Nhà
nước tư sản đã trực tiếp tham gia vào nhiều hoạt động kinh tế, trở thành công
cụ trong tay giới tư bản độc quyền, để củng cố và duy trì những quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa, nhằm phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản mà trước
hết là của các tập đoàn tư bản lũng loạn nhà nước.
Những tiền đề kinh tế, chính trị - xã hội và những yếu tố nêu trên tạo ra điều
kiện thuận lợi cho cách mạng vô sản nổ ra. Nhưng cách mạng vô sản sẽ diễn
ra với kết quả như thế nào còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Vì vậy,
bên cạnh việc nghiên cứu những nguyên nhân khách quan dẫn đến sự ra đời
của nhà nước xã hội chủ nghĩa, còn cần phải nghiên cứu những nguyên tắc cơ
bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về cách mạng vô sản, về việc tổ chức và


thực hiện chính quyền của giai cấp vơ sản sau khi cách mạng thành công. Chủ
nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định: Vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là
vấn đề chính quyền. Mục đích của cách mạng vơ sản cũng chính là nhằm lật
đổ chính quyền của giai cấp tư sản để thiết lập chính quyền của giai cấp vô
sản. Nhưng giai cấp tư sản (cũng như các giai cấp thống trị bóc lột nói chung)
khơng bao giờ tự nguyện rời bỏ chính quyền của mình, mà sẽ tìm mọi cách,
mọi thủ đoạn để giữ cho được chính quyền đó. Giai cấp vơ sản dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản, được trang bị chủ nghĩa Mác - Lênin là vũ khí lý
luận, với tư cách cơ sở lý luận để tổ chức, tiến hành cách mạng và xây dựng
nhà nước của giai cấp mình. Cùng với đó, các yếu tố dân tộc và thời đại cũng
tác động mạnh mẽ đến phong trào cách mạng của giai cấp vô sản và nhân dân
lao động của mỗi nước và nó có thể xảy ra ở những nước có chế độ tư bản chủ
nghĩa phát triển cao hoặc trong các nước dân tộc thuộc địa.
Tùy vào đặc điểm và điều kiện của mỗi quốc gia, sự ra đời của nhà nước xã
hội chủ nghĩa cũng như việc tổ chức chính quyền sau cách mạng có những
đặc điểm, hình thức và phương pháp phù hợp. Song, điểm chung giữa các nhà

nước xã hội chủ nghĩa là ở chỗ, đó là tổ chức thực hiện quyền lực của nhân
dân, là cơ quan đại diện cho ý chí của nhân dân, thực hiện việc tổ chức quản
lý kinh tế, văn hoá, xã hội của nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản. Như vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước mà ở đó sự thống trị
chính trị thuộc về giai cấp công nhân, do cách mạng xã hội chủ nghĩa sản sinh
ra và có sứ mệnh xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, đưa nhân dân lao
động lên địa vị làm chủ trên tất cả các mặt của đời sống xã hội trong một xã
hội phát triển cao - xã hội xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời
là kết quả của cách mạng do giai cấp vô sản và nhân dân lao động tiến hành
dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Nhưng đã ra đời trong điều kiện và hoàn
cảnh nào thì nhà nước xã hội chủ nghĩa đều là nhà nước có chung một bản
chất.
3.2. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Về bản chất, nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước của đại đa số nhân dân
lao động trong xã hội mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức. Bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa được thể
hiện qua các đặc trưng sau:
Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là bộ máy chính trị – hành chính, một bộ máy
cưỡng chế, vừa là một tổ chức quản lý kinh tế – xã hội của nhân dân lao động,
nó khơng cịn là nhà nước theo đúng nghĩa mà chỉ còn là “nửa nhà nước ”.
– Dân chủ là thuộc tính của nhà nước xã hội chủ nghĩa: Nhà nước xã hội chủ
nghĩa với bản chất là nhà nước của đông đảo nhân dân lao động trong xã hội,
nhà nước mở rộng dân chủ trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, bao gồm
các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, tự do dân chủ và tự do cá nhân… Thông qua
các quy định của pháp luật, nhà nước xã hội chủ nghĩa ngày càng ghi nhận
nhiều hơn các quyền con người thành quyền công dân, đồng thời xây dựng
một cơ chế hữu hiệu để nhân dân thực hiện các quyền dân chủ.


– Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước: Nhân dân với tính cách

là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, thực hiện quyền lực nhà nước dưới
nhiều hình thức khác nhau như:
+ Nhân dân thông qua bầu cử dân chủ lập ra hệ thống cơ quan đại diện;
+ Nhân dân thông qua các tổ chức xã hội tham gia kiểm tra, giám sát hoạt
động của các cơ quan nhà nước ;
+ Nhân dân trực tiếp làm việc, phục vụ trong các cơ quan nhà nước;
+ Nhân dân thực hiên quyền lực thông qua các hoạt động đưa ra những yêu
cầu, kiến nghị.
3.3. Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Nhà nước là một hiện tượng có tính chất lịch sử. Xã hội cộng sản nguyên thủy
chưa có nhà nước và xã hội được tổ chức theo chế độ thị tộc. Quyền lực công
cộng thuộc mọi thành viên trong xã hội, không mang tính chất chính trị, tính
chất giai cấp. Sản xuất và trao đổi phát triển đến chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất và xã hội phân chia thành các giai cấp đối kháng về lợi ích. Chế độ thị
tộc bất lực. Giai cấp chủ nô, do nắm quyền lực kinh tế mà nắm độc quyền
chính trị, đã tổ chức ra nhà nước là cơng cụ để duy trì sự thống nhất và bóc lột
đối với giai cấp nơ lệ. Lịch sử đã có bốn kiểu nhà nước, đó là: nhà nước chủ
nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa: nhà
nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản, mặc dù mỗi kiểu nhà
nước đó có những đặc điểm riêng, nhưng chúng ta có những đặc điểm chung
rất cơ bản, đó là: chúng đều được xây dựng dựa trên chế độ tư hữu sản xuất,
quyền lực nhà nước đều thuộc giai cấp thống trịVà đều là công cụ bạo lực để
thực hiện chuyên chính thiểu số đối với đa số.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước kiểu mới. Nhà nước xã hội chủ nghĩa
ra đời dựa trên những màu thuận về kinh tế, chính trị xã hội trong lịng xã hội
tư bản chủ nghĩa tự nó khơng thể khắc phục được, tất yếu dẫn đến cách mạng
vô sản, đập tan nhà nước tư sản, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà
nước xã hội chủ nghĩa là công cụ sắc bén để nhân dân lao động trấn áp sự
phản kháng của giai cấp bóc lột và tổ chức xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân. Dưới chế độ xã

hội chủ nghĩa, lợi ích và sự nghiệp của giai cấp cơng nhân cũng là lợi ích và
sự nghiệp của nhân dân, là nền tảng là giai cấp công nhân liên minh với giai
cấp nông dân và tầng lớp trí thức, do giai cấp cơng nhân lãnh đạo. Do đó bản
chất giai cấp cơng nhân gắn bó chặt chẽ với tinh thần nhân dân và tính chất
dân tộc. Nhà nước xã hội chủ nghĩa thực sự là nhà nước của nhân dân, do
Nhân dân, vì nhân dân, do đảng Cộng sản lãnh đạo. Lần đầu tiên trong lịch sử,
nhà nước khơng nằm trong tay giai cấp bóc lột, bà nằm trong tay nhân dân,
thực hiện dân chủ với nhân dân, chuyên chính với các thế lực thù địch của
nhân dân. Trong điều kiện hiện nay, nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung và
nhà nước cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng đã trở thành trụ cột,
là cơng cụ tổ chức thực hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân
dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống
xã hội. Đó chính là nhà nước của nhân dân do nhân dân, vì nhân dân.


Tuỳ theo góc độ tiếp cận, chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa được chia
thành các chức năng khác nhau. Căn cứ vào phạm vi tác động của quyền lực
nhà nước, chức năng của nhà nước được chia thành chức năng đối nội và chức
năng đối ngoại. Căn cứ vào lĩnh vực tác động của quyền lực nhà nước, chức
năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa được chia thành chức năng chính trị, kinh
tế, văn hố, xã hội,… Căn cứ vào tính chất của quyền lực nhà nước, chức
năng của nhà nước được chia thành chức năng giai cấp (trấn áp) và chức năng
xã hội (tổ chức và xây dựng).
Xuất phát từ bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, nên việc thực hiện các
chức năng của nhà nước cũng có sự khác biệt so với các nhà nước trước đó.
Đối với các nhà nước bóc lột, chức năng trấn áp đóng vai trị quyết định trong
việc duy trì địa vị của giai cấp nắm quyền chiếm hữu tư liệu sản xuất chủ yếu
của xã hội. Còn trong nhà nước xã hội xã hội chủ nghĩa, mặc dù vẫn cịn chức
năng trấn áp, nhưng đó là để trấn áp giai cấp bóc lột đã bị lật đổ và những
phần tử chống đối để bảo vệ thành quả cách mạng, giữ vững an ninh chính trị,

tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong thời kỳ quá độ,
sự trấn áp vẫn cịn tồn tại như một tất yếu, nhưng đó là sự thật trấn áp của đa
số nhân dân lao động đối với thiểu số bóc lột.
V.I.Lênin khẳng định: “Bất cứ một nhà nước nào cũng đều có nghĩa là dùng
bạo lực; nhưng toàn bộ sự khác nhau là ở chỗ dùng bạo lực đối với những
người bị bóc lột hay đối với kẻ đi bóc lột”1. Theo V.I.Lênin, mặc dù trong giai
đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản, “cơ quan đặc biệt, bộ máy trấn áp đặc biệt
là “nhà nước” vẫn cịn cần thiết, nhưng nó đã là nhà nước q độ, mà khơng
cịn là nhà nước theo đúng nghĩa của nó nữa”.
V.I.Lênin cho rằng, giai cấp vơ sản sau khi giành được chính quyền, thì điều
quan trọng hơn cả là tạo ra được năng suất sản xuất cao hơn chế độ xã hội cũ,
nhờ đó mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho đại đa số các giai cấp, tầng lớp
nhân dân lao động. Vì vậy, vấn đề quản lý và xây dựng kinh tế là then chốt,
quyết định. Nhà nước xã hội chủ nghĩa “không phải chỉ là bạo lực đối với bọn
bóc lột, và cũng khơng phải chủ yếu là bạo lực. Cơ sở kinh tế của bạo lực
cách mạng đó, cái bảo đảm sức sống và thắng lợi của nó chính là việc giai cấp
vơ sản đưa ra được và thực hiện được kiểu tổ chức lao động cao hơn so với
chủ nghĩa tư bản. Đấy là thực chất của vấn đề. Đấy là nguồn sức mạnh, là
điều kiện bảo đảm cho thắng lợi hoàn toàn và tất nhiên của chủ nghĩa cộng
sản”. Cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công xã hội mới là nội dung chủ yếu
và là mục đích cuối cùng của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là một sự nghiệp
vĩ đại, nhưng đồng thời cũng là công việc cực kỳ khó khăn và phức tạp.
3.4. Liên hệ thực tiễn
Để duy trì và phát triển xã hội, thì vai trị của nhà nước xã hội chủ nghĩa là
cực kỳ quan trọng và ngày càng quan trọng. Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải
tổ chức và quản lý để bảo vệ được độc lập tự chủ, an ninh trật tự, đồng thời
xây dựng những điều kiện, tiền đề cho xã hội mới. Nhà nước xã hội chủ nghĩa
phải quản lý để nhân dân được cuộc sống ấm no, yên bình kinh tế phát triển
với tốc độ nhanh và bền vững. Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải thực



hiện đầy đủ các chức năng công quyền và chức năng phục vụ xã hội, chăm lo
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; phát triển giáo dục, y tế, văn hóa
thể thao, các hoạt động cung ứng dịch vụ công cộng, phúc lợi xã hội…
Đến nước ta sớm thốt khỏi tình trạng chậm phát triển đến năm 2020 cơ bản
trở thành một nước công nghiệp. Nhà nước ta phải xây dựng, phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sử dụng và phát huy những
tác động tích cực của cơ chế thị trường để thúc đẩy phát triển kinh tế. Đồng
thời, quản lý điều khiển cơ chế thị trường, khắc phục và hạn chế những tác
động tiêu cực, không để cho thị trường vận động một cách tự phát, dẫn đến
những mất cân đối về kinh tế phải nhận hậu quả xấu về xã hội.
Muốn thực hiện tốt những yêu còn nhiệm vụ trên, đòi hỏi đảng, nhà nước và
nhân dân ta phải phấn đấu nhiều hơn nữa, thực hiện tốt nhiều giải pháp, trong
đó có giải pháp xây dựng và hồn thiện nhà nước ta theo hướng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là một
trong những biện pháp hàng đầu và quan trọng nhất, có phẩm có hiệu quả tạo
nên những thành tựu vô cùng to lớn sau 20 năm đổi mới đất nước. Chúng ta
tin tưởng rằng, với sự lãnh đạo của đảng, với sự nỗ lực phấn đấu bền bỉ của
nhà nước và nhân dân ta nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân ta sẽ được tiếp tục xây dựng và trưởng thành hiện
thực ở Việt Nam.
4. Kết luận
Nói về dân chủ của một nhà nước xã hội chủ nghĩa là một phạm trù rộng lớn,
người làm đề tài không thể nói tự hết được nhưng đã cố gắng nói lên bản chất
bao quát được vấn đề. Đời sống hiện đại, người ta càng quan tâm tới một điều
dân chủ đồng nghĩa. Đó là một hành trình xây dựng, cũng cố và cải thiện và
đòi cố gắng của nhà nước xã hội chủ nghĩa vẫn còn đang tiếp diễn mãi như
một nhiệm vụ gắn kết bên cạnh. Thế nên ta càng đưa những biện pháp - cũng
là một cách thực hiện dân chủ từ tư cách một người công dân.




×