Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

BÀI tập lớn môn KINH tế CHÍNH TRỊ mác – LÊNIN đề bài cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.8 KB, 21 trang )

lOMoARcPSD|11617700

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP LỚN
MƠN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN
Đề bài: Cạnh tranh và độc quyền trong nền Kinh tế thị trường định hướng XHCN
ở Việt Nam

Họ và tên

:

Mã sinh viên

:

Lớp

:

Hà Nội, 2022


lOMoARcPSD|11617700

Mục lục
PHẦN I: MỞ ĐẦU 2
PHẦN II: CẠNH TRANH VÀ ĐỘC QUYỀN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM


4
I. Một số vấn đề lí luận về cạnh tranh và độc quyền 4
1. Sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là tất yếu và khách quan

4

2. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường………………………………….5
3. Độc quyền và nguồn gốc của độc quyền……………………………………………..8
4. Tác động của độc quyền tới nền kinh tế ……………………………………………..9
5. Mối quan hệ giữa cạnh tranh và độc quyền ………………………………………...11
II. Cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam ………………………………………………………………………………...13
1. Sự chuyển biến về nhận thức đối với cạnh tranh …………………………………..13
2. Thực trạng về cạnh tranh và độc quyền ở Việt Nam ……………………………….14
3. Giải pháp …………………………………………………………………………...16
PHẦN III: KẾT LUẬN ………………………………………………………………..19

1


lOMoARcPSD|11617700

PHẦN I
MỞ ĐẦU.
Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trường. Khi thực hiện
chuyển đổi nền kinh tế cũ sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt
Nam phải chấp nhận những quy luật của nền kinh tế thị trường, trong đó có quy luật cạnh
tranh và độc quyền. Và chính bởi lẽ đó, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lón
trong q trình phát triển kinh tế. Nhưng bên cạnh đó cũng là vơ vàn những khó khăn,
thách thức to lớn mà một trong số đó là khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nước ta vẫn

còn yếu kém.
Đứng trước quá trình hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng (là thành viên của rát
nhiều tổ chức tồn cầu như ASEAN, APEC, WTO, AFTA, …) thì nước ta cần phải có
một nền kinh tế với sức cạnh tranh đủ mạnh để đảm bảo cho quá trình phát triển kinh tế.
Muốn vậy, ta cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế với các đối tượng
cần tác động là các doanh nghiệp. Đặc biệt càn phải nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp nhà nước và tư nhân, phát huy hết các lợi thế cạnh tranh. Chúng ta cần có
một chính sách cạnh tranh đúng đắn.
Để có được một mơi trường cạnh tranh lành mạnh và kiểm sốt độc quyền có hiệu
quả đang là vấn đề quan trọng được đặt ra với thực trạng hiện nay của nước ta.
Và trong bài tập lớn bộ mơn Kinh tế Chính trị Mác – Lênin này, em sẽ đi sâu vào
tìm hiểu về cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay.
Do thời gian và kiến thức còn hạn hẹp, bài tập lớn này khơng thể tránh khỏi những
sai sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp tới từ các thầy cơ để bài tập lớn
này trở nên hồn thiện hơn.

2


lOMoARcPSD|11617700

Em xin chân thành cảm ơn!

PHẦN 2
CẠNH TRANH VÀ ĐỘC QUYỀN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM.

I. Một số vấn đề lí luận về cạnh tranh và độc quyền:
1. Sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là tất yếu và khách quan:

Trước khi đi vào tìm hiểu về cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam, chúng ta cần biết nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là gì. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành theo
các quy luật của thị trường đồng thời góp phần hướng tới từng bước xác lập một xã hội
mfa ở đó dân giàu, nước mạnh. Dân chủ, cơng bằng, văn minh; có sự điều tiết của Nhà
nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nền kinh tế thị trường mà trong các hoạt
động kinh tế của các chủ thể, hướng tới góp phần xác lập được các giá trị xã hội thực tế
với hệ giá trị toàn diện như vậy là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thị trường là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa bao gồm các
yếu tố đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất. Trên thị trường các nhà sản xuất, người
tiêu dùng, những người hoạt động buôn bán kinh doanh, quan hệ với nhau thông qua hoạt
động mua bán trao đổi hàng hóa. Như vậy thực chất thị trường là các hoạt động kinh tế
được phản ánh thơng qua trao đổi, lưu thơng hàng hóa và mối quan hệ về kinh tế giữa
người với người.
Cạnh tranh là một cơ chế vận hành chủ yếu của nền kinh tế thị trường, là động lực
thúc đẩy kinh tế phát triển tuy vẫn có những mặt hạn chế. Nhiều nước trên thế giới đã vận
dụng tốt quy luật cạnh tranh vào phát triển kinh tế và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn.
Từ khi đổi mới nền kinh tế, chúng ta cũng đã áp dụng được quy luật này và đã có được
một số thành tựu nhất định. Đời sống nhân dân được cải thiện, xã hội phát triển hơn, kinh
3


lOMoARcPSD|11617700

tế phát triển ổn định, … những lợi ích ấy tuy chưa lớn lao nhưng cũng đx góp phần
khơng hề nhỏ trong việc giúp chúng ta định hướng cho chính sách phát triển kinh tế.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp ln muốn có được những
điều kiện thuận lợi trong quá trình sản xuất như: thuê được lao động rẻ mà có kỹ thuật,
mua được nguyên vật liệu giá rẻ, thị trường có đầu ra tốt. Chính điều này đã dẫn tới sự
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp để chiếm lấy, nắm lấy các điều kiện thuận lợi. Cạnh

tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những chủ thể trong nền sản xuất hàng hóa nhằm
giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hóa để
từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho mình. Sự cạnh tranh này chỉ kết thúc khi một bên
thắng, một bên thua. Tuy vậy, cạnh tranh không bao giờ mất đi trong nền kinh tế thị
trường. Cạnh tranh là sự sống còn của các doanh nghiệp. Điều này sẽ thúc đẩy nền kinh
tế phát triển, đồng thời cũng làm cho xã hội phát triển nhờ kinh tế phát triển, khoa học –
kỹ thuật phát triển do đòi hỏi phải nâng cao năng suất lao động của doanh nghiệp, cải tiến
khoa học – kỹ thuật. Lấy ví dụ Cơng ty CP Bóng đèn Phích nước Rạng Đông là một
doanh nghiệp nhà nước đứng trên bờ vực phá sản, nhưng nhờ đưa khoa học công nghệ
vào, thành lập hẳn một trung tâm nghiên cứu, mời được các nhà khoa học hàng đầu về
chiếu sáng của ĐH Nông nghiệp, ĐH Bách khoa, ĐH Quốc gia Hà Nội cho nên trong
vòng 10 năm họ đã trở thành doanh nghiệp hàng đầu nằm trong TOP 500 doanh nghiệp
lớn nhất Việt Nam hàng năm đóng góp cho ngân sách 220 tỷ đồng, tương đương với thu
ngân sách của một tỉnh nhỏ ở miền núi , đồng thời họ tạo ra một giá trị doanh thu năm
vừa rồi là 2800 tỷ, tức bình qn 1 cơng nhân của cơng ty này đóng góp cho cơng ty một
doanh thu cho khoảng 1 tỷ đồng tương đương 50 000 đôla Mỹ.
Trong quá trình cạnh tranh, các nguồn lực của xã hội sẽ được chuyển từ nơi sản
xuất kém hiệu quả đến nơi sản xuất có hiệu quả hơn, tạo ra lợi ích xã hội cao hơn, mọi
người sử dụng những sản phẩm tốt hơn. Cạnh tranh đem lại sự đa dạng của sản phẩm và
dịch vụ. Có thể xem cạnh tranh là q trình tích lũy về lượng để từ đó thực hiện các bước
nhảy thay đổi về chất. Mỗi bước nhảy thay đổi về chất là một nấc thang của xã hội, nó

4


lOMoARcPSD|11617700

làm cho xã hội phát triển đi lên, tốt đẹp hơn. Chính vì lẽ đó, sự tồn tại của cạnh tranh
trong nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan.
2. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường:

Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh vừa là môi trường, vừa là động lực cho sự
phát triển kinh tế. Cạnh tranh có vai trị rất quan trọng và là một trong những động lực
mạnh mẽ nhất thúc đẩy sản xuất phát triển. Cạnh tranh là một thách thức nhưng đồng thời
cũng là một cơ hội. Cạnh tranh xuất hiện cùng với sự phát triển của nền tế hàng hố.
Thực ra, cạnh tranh khơng phải là một vấn đề. Năng lực cạnh tranh yếu mới là một vấn
đề đáng quan tâm. Năng lực cạnh tranh yếu có thể do nhiều nguyên nhân gây ra. Nó buộc
người sản xuất phải năng động, nhạy bén, tích cực nâng cao tay nghề, cải tiến kỹ thuật, áp
dụng khoa học kỹ thuật, hoàn thiện tổ chức quản lý để nâng cao năng suất lao động, hiệu
quả kinh tế. Đó chính là cạnh tranh lành mạnh. Ở đâu thiếu cạnh tranh hoặc có biểu hiện
độc quyền thì thường trì trệ, kém phát triển. Do đó mà cạnh tranh có vai trị quan trọng
trong nền kinh tế thị trường thể hiện qua một các chức năng sau:
Thứ nhất: Cạnh tranh trong nền kinh tế có 2 loại cạnh tranh trong nội bộ ngành
và cạnh tranh giữa các ngành với nhau
Việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành là sự cạnh tranh
nhằm giành giật lấy những điều kiện có lợi cho sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được
lợi nhuận siêu ngạch. Các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau về sản phẩm. Do đó kết quả
của sự cạnh tranh này là hình thành nên giá trị thị trường của từng loại mặt hàng. Ngoài
cạnh tranh trong nội bộ ngành cịn có cạnh tranh giữa các ngành với nhau. Là cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp sản xuất những mặt hàng khác nhau. Mục đích của cạnh tranh này
là tìm nơi đầu tư có lợi hơn, các doanh nghiệp tự do di chuyển vốn của mình từ ngành
này sang ngành khác.

5


lOMoARcPSD|11617700

Thứ hai: Cạnh tranh điều tiết chung, cầu hàng hoá trên thị trường, kích thích thúc
đẩy việc ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất và tăng vốn đầu tư vào sản
xuất trên thị trường.

Khi cung một hàng nào đó lớn hơn cầu hàng hố thì làm cho giá cả của hàng hoá
giảm xuống, làm cho lợi nhuận thu được của các doanh sẽ giảm xuống. Nếu như giá cả
giảm xuống dưới mức hoặc bằng chi phí sản xuất thì doanh nghiệp đó làm ăn khơng có
hiệu quả và bị phá sản. Chỉ có những doanh nghiệp nào có chi phí sản xuất giá cả thanh
tốn của hàng hố thì doanh nghiệp đó mới thu được lợi nhuận. Điều đó buộc các doanh
nghiệp muốn tồn tại được thì phải giảm chi phí sản xuất hàng hố, nâng cao năng suất lao
động bằng cách tích cực ứng dụng đưa khoa học công nghệ tiên tiến vào trong quá trình
sản xuất. Với ý nghĩa đó, cạnh tranh là nhân tố quan trọng kích thích việc ứng dụng khoa
học, cơng nghệ tiên tiến trong sản xuất.
Ngược lại, khi cung một loại hàng hố nào đó nhỏ hơn cẩu hàng hóa của thị
trường điều đó dẫn đến sự khan hiếm về hàng hoá điều này dẫn tới giá cả của hàng hóa
tăng cao dẫn đến lợi nhuận của các doanh nghiệp tăng lên. Khi đó, người kinh doanh sẽ
đầu tư vốn xây dựng thên cơ sở sản xuất mới hoặc nâng cao năng lực sản xuất của những
cơ sở sản xuất sẵn có. Đó là động lực quan trọng nhất làm tăng thêm lượng vốn đầu tư
cho sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực sản xuất cho toàn xã hội. Điều quan trọng đó
là động lực hồn tồn tự nhiên, khơng theo và khơng cần bất kì một mệnh lệnh hành
chính nào của cơ quan quản lí Nhà nước.
Thứ ba: Cạnh tranh giúp phân bố lại nguồn lực của xã hội một cách hiệu quả.
Các doanh nghiệp sản xuất cùng một loại thay một số loại hàng hoá cạnh tranh
nhau về giá bán, hình thức sản phẩm, chất lượng sản phẩm trong q trình cạnh tranh đó
doanh nghiệp nào có điều kiện sản xuất tốt, có năng suất lao động cao hơn thì doanh
nghiệp đó sẽ có lãi. Điều đó giúp cho việc sử dụng các nguồn nguyên vật liệu của xã hội
có hiệu quả hơn, đem lại lợi ích cho xã hội cao hơn. Nếu cứ để các doanh nghiệp kém
hiệu quả sử dụng các loại nguồn lực thì sẽ lãng phí nguồn lực xã hội trong khi hiệu quả
6


lOMoARcPSD|11617700

xã hội đem lại khơng cao, chi phí cho sản xuất tăng cao, giá trị hàng hóa tăng lên khơng

cần thiết. Trong cạnh tranh tất yếu sẽ có doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh nhờ làm ăn
hiệu quả, đồng thời có doanh nghiệp bị phá sản. Đối với xã hội, phá sản doanh nghiệp
khơng hồn tồn mang ý nghĩa tiêu cực vì các nguồn lực của xã hội được chuyển sang
cho nhà kinh doanh khác tiếp tục sử dụng một cách hiệu quả hơn. Vì vậy, phá sản khơng
phải là sự hủy diệt hoàn toàn mà là sự hủy diệt sáng tạo. Việc duy trì doanh nghiệp kém
hiệu quả cịn gây ra nhiều lãnh phí cho xã hội hơn là phá sản.
Thứ tư: Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường khơng chỉ có cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp sản xuất với nhau mà cịn có sự cạnh tranh giữa những người lao động với
nhau, để có được một nơi làm việc tốt, cơng việc phù hợp.
Điều đó khiến cho mọi người trong xã hội luôn luôn phải nâng cao trình độ tay
nghề của mình. Với ý nghĩa đó cạnh tranh làm cho con người ta hoàn thiện hơn, cạnh
tranh đóng góp một phần trong việc hình thành nên con người mới trong xã hội mới
thông minh, năng động và sáng tạo.
3. Độc quyền và nguồn gốc của độc quyền:
Nghiên cứu chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, C. Mác và Ph. Ăngghen đã dự báo
rằng: tự do cạnh tranh sẽ dẫn đến tích tụ và tập trung sản xuất phát triển đến một mức độ
nào đó sẽ dẫn đến độc quyền. Và dưới đây chính là định nghĩa về độc quyền:
“Độc quyền là sự liên minh giữa các doanh nghiệp lớn, nắm trong tay phần lớn
việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hóa, có khả năng định ra giá cả độc quyền
nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.”
Độc quyền là sự chi phối thị trường của một hay nhiều công ty, hoặc một tổ chức
kinh tế nào đó về một loại sản phẩm trên một thị trường nhất định. Nguyên nhân dẫn tới
độc quyền thường do cạnh tranh không lành mạnh đem lại. Độc quyền sẽ làm hạn chế rất
nhiều đối với cạnh tranh và phát triển kinh tế.

7


lOMoARcPSD|11617700


Như vậy, trước hết, độc quyền sinh ra từ cạnh tranh tự do. Nhưng sự xuất hiện của
độc quyền không thủ tiêu cạnh tranh mà trái lại, làm cho cạnh tranh trở nên đa dạng, gay
gắt hơn rất nhiều.
Độc quyền xuất hiện chủ yếu do các nguyên nhân sau:
Một là, sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ
thuật; một mặt, làm xuất hiện những ngành sản xuất mới. Ngay từ đầu đã là những ngành
có trình độ tích tụ cao, địi hỏi những hình thức kinh tế tổ chức mới, đó là những xí
nghiệp lớn, sản xuất lớn có ưu thế rõ rệt so với sản xuất nhỏ và đã phát triển rất mạnh.
Mặt khác, nó dẫn đến tăng năng suất lao động, tăng sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
Việc nâng cao tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư đã mở rộng khả năng tích lũy tư bản,
thúc đẩy sự phát triển sản xuất lớn, tăng tích tụ tư bản và sản xuất.
Hai là, vào 30 năm cuối của thế kỷ XIX, những thành tựu khoa học kỹ thuật mới
xuất hiện như lò luyện kim mới Betsơme, Máctanh, Tômát, v.v. đã tạo ra sản lượng lớn
gang thép với chất lượng cao; phát hiện ra hóa chất mới như axit sunphuric (H2SO4),
thuốc nhuộm, v.v.; máy móc mới ra đời: động cơ diesel, máy phát điện, máy tiện, máy
phay, v.v.; phát triển những phương tiện vận tải mới: xe hơi, tàu thuỷ, xe điện, máy bay,
v.v. và đặc biệt là đường sắt. Những thành tựu khoa học kỹ thuật này, một mật làm xuất
hiện những ngành sản xuất mới địi hỏi xí nghiệp phải có quy mơ lớn; mặt khác, nó dẫn
đến tăng năng suất lao động, tăng khả năng tích luỹ tư bản, thúc đẩy phát triển sản xuất
lớn.
Ba là, trong điều kiện phát triển của khoa học kỹ thuật, sự tác động của các quy
luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản như quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích luỹ, v.v. ngày
càng mạnh mẽ, làm biến đổi cơ cấu kinh tế của xã hội tư bản theo hướng tập trung sản
xuất quy mô lớn.
Bốn là, cạnh tranh khốc liệt buộc các nhà tư bản phải tích cực cải tiến kỹ thuật,
tăng quy mơ tích luỹ để thắng thế trong cạnh tranh. Đồng thời, cạnh tranh gay gắt làm
8


lOMoARcPSD|11617700


cho các nhà tư bản vừa và nhỏ bị phá sản, còn các nhà tư bản lớn phát tài, làm giàu với số
tư bản tập trung và quy mơ xí nghiệp ngày càng to lớn hơn. V. I. Lênin đã khẳng định:
“… tự do cạnh tranh đẻ ra tập trung sản xuất và sự tập trung sản xuất này, khi phảt triển
đến mức độ nhất định, lại dẫn tới độc quyền”.
Năm là, cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1873 trong toàn bộ thế giới tư bản chủ
nghĩa làm phá sản hàng loạt xí nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp lớn tiếp tục tồn tại,
nhưng để tiếp tục phát triển được, họ phải thúc đẩy nhanh q trình tích tụ và tập trung
sản xuất, hình thành các doanh nghiệp có quy mô lớn.
Sáu là, sự phát triển của hệ thống tín dụng tư bản chủ nghĩa trở thành địn bẩy
mạnh mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất, nhất là việc hình thành các cơng ty cổ phần, tạo
tiền để cho sự ra đời của các tổ chức độc quyền.
4. Tác động của độc quyền tới nền kinh tế:
- Các tác động tích cực:
Thứ nhất, độc quyền tạo ra khả năng to lớn trong việc nghiên cứu và triển khai các
hoạt đông khoa học kỹ thuật, thúc đẩy sự tiến bộ kỹ thuật.
Độc quyền là kết quả của q trình tích tụ, tập trung sản xuất ở mức độ cao. Do đó
các tổ chức độc quyền có khả năng tập trung được các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực
về tài chính trong việc nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học kỹ thuật, thúc đẩy
sự tiến bộ kỹ thuật. Tuy nhiên, đây chỉ là khả năng, còn khả năng có trở thành hiện thực
hay khơng cịn phụ thuộc và nhiều yếu tố, nhất lễ phụ thuộc vào mục đích kinh tế của các
tổ chức độc quyền trong nền kinh tế thị trường.
Thứ hai, độc quyền có thể làm tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh
tranh của bản thân tổ chức độc quyền.

9


lOMoARcPSD|11617700


Kết quả của tập trung sản xuất và sự liên minh các doanh nghiệp lớn, độc quyền
tạo ra được ưu thế về vốn trong việc ứng dụng những thành tựu kỹ thuật, công nghệ sản
xuất mới, hiện đại, áp dụng những phương pháp sản xuất tiên tiến, làm tăng năng suất lao
động, giảm chi phí sản xuất, do đó nâng cao được năng lực cạnh tranh trong hoạt động
sản xuất kinh doanh.
Thứ ba, Độc quyền tạo được sức mạnh kinh tế góp phần thúc đẩy nền kinh t phát
triển theo hướng sản xuất lớn hiện đại.
Với ưu thế tập trung được sức mạnh kinh tế to lớn vào trong tay mình nhất là sức
mạnh về tài chính, tạo cho độc quyền có điều kiện đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế trọng
tâm, mũi nhọn, do đó thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển theo hướng sản xuất tập
trung, quy mô lớn, hiện đại. V.I.Lênin viết: “Nhưng trước mắt chúng ta cạnh tranh tự do
biến thành độc quyền và tạo ra nền sản xuất lớn, loại bỏ nền sản xuất nhỏ, thay thế nền
sản xuất lớn bằng một nền sản xuất lớn hơn nữa”.
- Các tác động tiêu cực của độc quyền:
Một là, độc quyền xuất hiện làm cho cạnh tranh khơng hồn hảo gây thiệt hại cho
người tiêu dùng và xã hội.
Với sự thống trị của độc quyền và vì mục đích lợi nhuận độc quyền 10, mặc dù
như đã phân tích ở trên, độc quyền tạo ra sản xuất lớn, có thể giảm chi phí sản xuất và do
đó giảm giá cả hàng hóa, nhưng độc quyền không giảm giá, mà họ luôn áp đặt giá bán
hàng hóa cao và giá mua thấp, thực hiện sự trao đổi khơng ngang giá, hạn chế khối lượng
hàng hóa... tạo ra sự cung cầu giả tạo về hàng hóa, gây thiệt hại cho người tiêu dùng và
xã hội.
Hai là, độc quyền có thể kìm hãm sự tiến bộ kỹ thuật, theo đó kìm hãm sự phát
triển kinh tế, xã hội.

10


lOMoARcPSD|11617700


Độc quyền tập trung được các nguồn lực lớn, tạo ra khả năng nghiên cứu, phát
minh các sáng chế khoa học, kỹ thuật. Nhưng vì lợi ích độc quyền, hoạt động nghiên cứu,
phát minh, sáng chế chỉ được thực hiện khi vị thế độc quyền của chúng khơng có nguy cơ
bị lung lay. Do vậy, mặc dù có khả năng về nguồn lực tài chính tạo ra khả năng trong
nghiên cứu, phát minh các sáng chế khoa học, kỹ thuật, nhưng các tổ chức độc quyền
khơng tích cực thực hiện các cơng việc đó. Điều này chứng tỏ, độc quyền đã ít nhiều kìm
hãm thúc đẩy sự tiến bộ kỹ thuật, theo đó kìm hãm sự phát triển kinh tế, xã hội.
Ba là, độc quyền chi phối các quan hệ kinh tế, xã hội, làm tăng sự phân hóa giàu
nghèo.
Với địa vị thống trị kinh tế của mình và mục đích lợi nhuận độc quyền cao, độc
quyền có khả năng và khơng ngừng bành trướng sang các lĩnh vực chính trị, xã hội, kết
hợp với các nhân viên chính phủ để thực hiện mục đích lợi ích nhóm, kết hợp với sức
mạnh nhà nước hình thành độc quyền nhà nước, chi phối cả quan hệ, đường lối đối nội,
đối ngoại của quốc gia vì lợi ích của các tổ chức độc quyền, khơng vì lợi ích của đại đa số
nhân dân lao động.
5. Mối quan hệ giữa cạnh tranh và độc quyền:
Nghiên cứu chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, C. Mác và Ph. Ăngghen đã dự báo
rằng: tự do cạnh tranh sẽ dẫn đến tích tụ và tập trung sản xuất phát triển đến một mức độ
nào đó sẽ dẫn đến độc quyền. Và dưới đây chính là định nghĩa về độc quyền:
“Độc quyền là sự liên minh giữa các doanh nghiệp lớn, nắm trong tay phần lớn
việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hóa, có khả năng định ra giá cả độc quyền
nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.”
Như vậy, trước hết, độc quyền sinh ra từ cạnh tranh tự do. Nhưng sự xuất hiện của
độc quyền không thủ tiêu cạnh tranh mà trái lại, làm cho cạnh tranh trở nên đa dạng, gay
gắt hơn rất nhiều. Trong nền kinh tế, nhìn chung, khơng chỉ tồn tại cạnh tranh giữa các

11


lOMoARcPSD|11617700


chủ thể sản xuất vừa và nhỏ mà cịn có thêm các loại cạnh tranh giữa các tổ chức độc
quyền. Đó là:
Một là, cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với các doanh nghiệp ngoài độc
quyền. Các tổ chức độc quyền thường tìm cách để chi phối, thơn tính các doanh nghiệp
ngoài độc quyền bằng nhiều biện pháp như: độc quyền mua nguyên liệu đầu vào, độc
quyền phương tiện vận tải, độc quyền tín dụng... để có thể loại bỏ các chủ thể yếu thể hơn
ra khỏi thị trường.
Hai là, cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với nhau. Loại hình cạnh tranh này
có nhiều hình thức: cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền trong cùng một ngành, kết
thúc bằng một sự thỏa hiệp hoặc bằng sự phá sản của một bên cạnh tranh; cạnh tranh giữa
các tổ chức độc quyền khác ngành có liên quan với nhau về nguồn lực đầu vào...
Ba là, cạnh tranh trong nội bộ các tổ chức độc quyền. Những doanh nghiệp tham
gia các tổ chức độc quyền cũng có thể cạnh tranh với nhau đề giành lợi thế trong hệ
thống. Các thành viên trong các tổ chức độc quyền cũng có thể cạnh tranh nhau để chiếm
tỷ lệ cổ phần khống chế, từ đó chiếm địa vị chi phối và phân chia lợi ích có lợi hơn.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, cạnh tranh và độc quyền luôn cùng tồn tại
song hành với nhau. Mức độ khốc liệt của cạnh tranh và mức độ độc quyền hóa phụ
thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi nền kinh tế thị trường khác nhau.
II. Cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt
Nam:
1. Sự chuyển biến về nhận thức đối với cạnh tranh:
Sau chiến tranh, đất nước thống nhất, cả nước hăng hái bất tay vào công cuộc xây
dựng, kiến tạo đất nước. đưa đất nước tiến thẳng lên CNXH. Trong khi đó trong tay chỉ
có mơ hình kinh tế sau chiến tranh để lại – nền kinh tế tập trung bao cấp của cải xã hội bị
tàn phá nặng nề sau chiến tranh. Việc áp dụng mơ hình kinh tế này trong chiến tranh đã
12

Downloaded by Hei Ut ()



lOMoARcPSD|11617700

đem lại hiệu quả cao, nhưng trong thời bình, nó đã khơng cịn phù hợp và Việt Nam đã
phải trả giá cho việc áp dụng nền kinh tế này, đó là: nền kinh tế suy thối trầm trọng,
thậm chí vượt thu, lạm phát cao, đồng tiền mất giá, phương tiện kỹ thuật ngày càng lạc
hậu, chậm đổi mới, năng lực sản xuất kém, …
Yêu cầu phát triển xây dựng đất nước buộc chúng ta phải chuyển đổi nền kinh tế
và nền kinh tế thị trường đã được áp dụng nhưng nó chịu sự quản lí của Nhà nước. Đó là
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nền kinh tế thị trường với quy luật cạnh tranh
đã khơng cịn chỗ cho sự ỷ lại, trơng chờ vào trợ cấp. Nó buộc các chủ thể kinh tế phải
luôn luôn hoạt động để tìm lấy vị trí tồn tại trong nền kinh tế. Do tính chất khắc nghiệt
của cạnh tranh nên việc yêu cầu nhận thức về cạnh tranh một cách đúng đắn là điều cần
thiết. Cùng vói q trình đổi mới, cạnh tranh theo pháp luật đã dần dần được chấp nhận ở
nước ta như một động lực đảm bảo hiệu quả, tiến bộ xã hội, nhưng chịu sự điều tiết của
Nhà nước.
2. Thực trạng cạnh tranh và độc quyền ở Việt Nam hiện nay:
Độc quyền và cạnh tranh là hai hiện tượng có liên quan chặt chẽ với nhau. Khi có
chủ trương thúc đẩy cạnh tranh để phát triển thị trường, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất, hạ giá thành sản phẩm và đem lại lợi ích cho
người tiêu dùng thì độc quyền cần phải được loại bỏ. Tuy nhiên, trong thực tế của tất cả
các quốc gia, độc quyền vẫn tồn tại trong một số ngành và ở một mức độ nhất định, nó là
yếu tố đảm bảo cho cạnh tranh phát triển và duy trì được hiệu quả kinh tế của toàn xã hội.
Hiện nay, việc nhận thức về cạnh tranh và độc quyền kinh doanh ở nước ta chưa
nhất quán, chưa nhận thấy được vai trò quan trọng của Nhà nước trong nền kinh tế, vai
trò chủ đạo của kinh tế nhà nước nên chưa có quan điểm dứt khoát về ủng hộ cạnh tranh
lành mạnh và chống độc quyền trong kinh doanh, Nhà nước chưa có những quy định cụ
thể, những cơ quan chuyên trách theo dõi giám sát các hành vi liên quan đến cạnh tranh
và độc quyền. Nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế kế
hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường. Một số yếu tố bất hợp lý của mơ hình kinh tế

13

Downloaded by Hei Ut ()


lOMoARcPSD|11617700

trước đây vẫn còn tồn tại và đòi hỏi cần phải có những giải pháp cụ thể để giải quyết
trong thời gian tới. Một trong những vấn đề cần giải quyết là tình trạng độc quyền của các
doanh nghiệp nhà nước. Sự tồn tại quá nhiều doanh nghiệp nhà nước (rất nhiều trong số
đó kinh doanh khơng hiệu quả) và việc độc quyền của doanh nghiệp nhà nước trong
nhiều lĩnh vực là một trong những lý do được các luật sư Mỹ sử dụng để khẳng định Việt
Nam khơng có nền kinh tế thị trường trong vụ kiện cá da trơn của Việt Nam. Để hội nhập
kinh tế thế giới và tránh thua thiệt trong thương mại quốc tế, vấn đề này cần phải được
hoàn thiện để quy định một mức độ hợp lý cho sự độc quyền của các doanh nghiệp nhà
nước, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa đảm bảo thúc đẩy sản xuất trong nước phát
triển. Bên cạnh đó tư tưởng chưa coi trọng khu vực kinh tế tư nhân cũng ảnh hưởng
không tốt đến mơi trường cạnh tranh. Do những tồn tại đó mà thực trạng cạnh tranh và
độc quyền ở Việt Nam còn nhiều bất cập.
Thực tế ở Việt Nam hiện nay có hai loại hình độc quyền sau: Loại thứ nhất là kết
quả cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Trường hợp cơng ty Coca Cola được coi là ví
dụ về hình thức độc quyền là kết quả của cạnh tranh trên thị trường nước uống có ga của
Việt Nam. Tuy thế, nền kinh tế thị trường Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn đầu của sự phát
triển, vì vậy, cho đến nay chỉ có một vài trường hợp liên quan đến độc quyền là kết quả
của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Chắc chắn trong tương lai, loại hình độc
quyền này sẽ phổ biến hơn. Tuy nhiên, đây là hiện tượng bình thường của bất kỳ nền kinh
tế cạnh tranh nào. Theo kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển,
vấn đề này sẽ được giải quyết bằng những quy định về chống độc quyền trong luật cạnh
tranh như các quy định về cấm đoán tự thân, quy định về thoả thuận giá cả giữa các đối
thủ cạnh tranh, tẩy chay hàng hoá, lạm dụng sức mạnh thị trường, tập trung kinh tế v.v...

Luật cạnh tranh của Việt Nam cũng đã bao gồm các quy định này. Đó là những quy định
tại Chương 2 về các vấn đề thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường và vị trí độc quyền, tập trung kinh tế. Nếu so với các nước có nền kinh tế thị
trường phát triển thì những quy định trong Luật cạnh tranh của Việt Nam về kiểm sốt
độc quyền chưa thể nói là đầy đủ. Tuy thế, trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay,
14

Downloaded by Hei Ut ()


lOMoARcPSD|11617700

việc quy định như vậy là tương đối rõ ràng và thống nhất. Trong tương lai, khi tính cạnh
tranh của thị trường đạt ở mức độ cao hơn với nhiều hành vi cạnh tranh khác phát sinh,
sự bổ sung các quy định mới về kiểm soát độc quyền sẽ là cần thiết. Loại thứ hai là loại
hình độc quyền được coi là phổ biến nhất ở Việt Nam hiện nay là độc quyền là kết quả
của cơ chế hành chính trước đây và một số quy định của pháp luật cũng như các chính
sách kinh tế hiện hành. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ trước đây, chúng
ta chỉ thừa nhận hình thức sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân khơng tồn
tại trong thời gian đó. Chế độ cơng hữu này đã tạo ra sự độc quyền nhà nước trong tất cả
các ngành kinh tế. Nhà nước thành lập các xí nghiệp quốc doanh để sản xuất và cung ứng
sản phẩm cho người tiêu dùng. Cơ chế quản lý kinh tế bằng các mệnh lệnh hành chính đã
hình thành nên các doanh nghiệp nhà nước độc quyền mà một số vẫn còn tồn tại cho đến
ngày nay. Hơn nữa, hiện nay cịn có xu hướng độc quyền nhà nước biến thành độc quyền
doanh nghiệp. Việc nắm giữ đường trục viễn thông quốc gia sẽ tạo lợi thế cho VNPT
ngăn cản các công ty khác tham gia vào thị trường viễn thông, bởi lẽ nếu các công ty
khác muốn cung cấp dịch vụ viễn thông họ buộc phải sử dụng đường trục viễn thông
quốc gia do VNPT quản lý. Với lợi thế về thị phần sẵn có từ trước cùng với các quy định
của pháp luật, VNPT đã tính giá dịch vụ viễn thông cung cấp cho người sử dụng cao hơn
30% so với các nước ASEAN. Tình trạng này cũng tương tự như ở Tổng Công ty Điện

lực Việt Nam (EVN). ở nước ta đã có một số doanh nghiệp sản xuất điện nhưng chỉ EVN
được nắm giữ hệ thống truyền tải điện. Trong thị trường điện lực, việc sản xuất điện có
liên quan mật thiết đến việc truyền tải điện. Điều này làm cho các doanh nghiệp sản xuất
điện phải phụ thuộc vào EVN - một đối thủ cạnh tranh trên cùng thị trường. Chính vì vậy,
độc quyền của EVN đối với việc kinh doanh điện là điều không thể tránh khỏi.
Nói tóm lại, viêc pháp luật quy định nhà nước nắm độc quyền đối với các
“phương tiện thiết yếu” như đường trục viễn thông quốc gia, hệ thống dây tải điện hay
các nhà ga sân bay, hệ thống đường sắt nhưng khơng có sự tách biệt rõ ràng các yếu tố
thuộc về cạnh tranh tiềm năng và các yếu tố thuộc về độc quyền tự nhiên đã làm cho độc
quyền nhà nước biến thành độc quyền doanh nghiệp. Qua đó cho thấy rằng: những quy
15

Downloaded by Hei Ut ()


lOMoARcPSD|11617700

định này là không phù hợp với các quy luật của nền kinh tế thị trường và cần phải được
thay đổi trong thời gian tới. Không những thế, một số chính sách kinh tế thời gian qua
cũng là nguyên nhân tạo ra độc quyền trong nền kinh tế nước ta. Điển hình là chính sách
thành lập các tổng cơng ty đã tạo ra sự độc quyền của một vài doanh nghiệp nhà nước
trong các lĩnh vực như xây dựng, xi măng, lắp máy... Để thành lập các tổng công ty này,
một loạt các cơng ty nhỏ có cùng tính chất ngành nghề được sáp nhập theo quyết định của
Chính phủ. Hơn nữa, nhà nước cũng đầu tư một lượng vốn lớn vào các tổng công ty. Kết
quả là các công ty có một sức mạnh thị trường đáng kể trong ngành nghề mà nó kinh
doanh và nhanh chóng có vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực đó, khơng một doanh
nghiệp nào có thể cạnh tranh với các tổng cơng ty nhà nước. Hiện nay, Chính phủ chủ
trương thành lập một số tập đoàn kinh tế nhất định. Việc xây dựng các tập đoàn kinh tế là
quan trọng bởi vì xét về mức độ tập trung vốn và cơng nghệ, hầu hết các doanh nghiệp
của Việt Nam đều rất nhỏ bé so với các cơng ty nước ngồi, đặc biệt là các tập đồn đa

quốc gia. Trong q trình hội nhập kinh tế quốc tế, hợp tác đi cùng với cạnh tranh là điều
khơng thể tránh khỏi. Để có thể tham gia và cạnh tranh trên thị trường toàn cầu, Việt Nam
rất cần thiết phải thành lập các tập đoàn kinh tế đủ mạnh trong những lĩnh vực nhất định.
Theo Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM), trước hết, sẽ có 4 tập đồn
kinh tế được thành lập trong các lĩnh vực điện, ga và khí đốt, viễn thông và xây dựng. Về
mặt lý thuyết cũng như thực tế của luật cạnh tranh, việc sáp nhập chỉ bị cấm trong trường
hợp làm giảm đáng kể cạnh tranh hoặc đi ngược lại với lợi ích cơng cộng, liên quan đến
các vấn đề như lợi ích khách hàng, giải quyết việc làm và tăng trưởng xuất khẩu. Ngược
lại, nếu việc sáp nhập mà có nhiều khả năng mang lại hiệu quả kinh tế vượt qua sự hạn
chế cạnh tranh, nó sẽ khơng bị cấm. Trong trường hợp các tập đoàn kinh tế của Việt Nam,
việc tránh xung đột giữa độc quyền là kết quả của sáp nhập và lợi ích cơng cộng là rất cần
thiết. Khi các tập đồn kinh tế được thành lập bởi Chính phủ thì sẽ rất dễ dàng cho các
doanh nghiệp này có được vị trí thống lĩnh thị trường và sức mạnh thị trường đáng kể so
với các doanh nghiệp khác. Chính vì thế, nếu khơng có những quy định cụ thể chính sách
này có thể tạo ra vị trí độc quyền cho các tập đồn kinh tế. Thêm vào đó, do hình thức sở
hữu mà một số chính sách của nhà nước cũng có ưu đãi hơn cho các doanh nghiệp nhà
16

Downloaded by Hei Ut ()


lOMoARcPSD|11617700

nước. Vì vậy, doanh nghiệp nhà nước được hưởng một số lợi thế khi tiến hành hoạt động
kinh doanh trên thị trường so với các thành phần kinh tế khác. Vì thế, có thể nói rằng: ở
một chừng mực nhất định, chính sách kinh tế đã trở thành rào cản tạo ra độc quyền trong
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
3. Giải pháp:
Thời gian tới, Chính phủ nên cụ thể hoá những quy định này bằng cách đưa ra
danh mục các lĩnh vực độc quyền nhà nước để bảo đảm tính rõ ràng của pháp luật và

tránh được việc biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp. Đồng thời,
Chính phủ cũng nên thơng tin kế hoạch cụ thể đối với việc xoá bỏ độc quyền trong những
ngành nghề nhất định. Thực tế cho thấy rằng, những lĩnh vực thuộc về độc quyền nhà
nước không phải giống nhau cho mọi quốc gia và cũng không tồn tại ổn định cho mọi
thời kỳ, nó phụ thuộc vào hồn cảnh của mỗi nước. Tuy thế, pháp luật nên quy định theo
hướng nhà nước sẽ nắm giữ độc quyền trong các lĩnh vực liên quan đến độc quyền tự
nhiên và các lĩnh vực liên quan đến an ninh quốc phịng. Ngồi ra, các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, đặc biệt là cơ quan quản lý nhà nước về cạnh tranh (sẽ được thành lập
theo quy định của Luật Cạnh tranh) cần rà soát lại các văn bản pháp luật để tìm ra những
quy định về hạn chế cạnh tranh bất hợp lý, qua đó, đề xuất cơ quan ban hành văn bản đó
sửa đổi hoặc huỷ bỏ cho phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường nước ta. Chính sách về
việc thành lập các tập đoàn kinh tế cũng là vấn đề cần xem xét. Các tập đoàn kinh tế khi
được thành lập sẽ có sức mạnh rất lớn và có thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp
nước ngồi. Vì vậy, cùng với việc thành lập các tập đồn kinh tế, nên có các quy định để
khuyến khích hơn nữa các cơng ty nước ngồi bao gồm cả các tập đoàn kinh tế đa quốc
gia tham gia hoạt động kinh doanh trên thị trường liên quan ở Việt Nam. Điều đó vừa bảo
đảm được tính cạnh tranh của nền kinh tế đồng thời tạo môi trường cho các tập đoàn kinh
tế nước ta phát triển. Đối với loại hình thứ ba là trường hợp mà các yếu tố độc quyền tự
nhiên gắn liền với các hoạt động cạnh tranh tiềm năng (như sản xuất điện, dịch vụ vận
chuyển hành khách đường sắt hoặc dịch vụ viễn thông). Nên có quy định tách các yếu tố
độc quyền tự nhiên ra khỏi các hoạt động cạnh tranh tiềm năng đó. Ví dụ như dịch vụ
17

Downloaded by Hei Ut ()


lOMoARcPSD|11617700

cung cấp cơ sở hạ tầng viễn thông, hoạt động truyền tải điện, dịch vụ cung cấp nhà ga sân
bay lần lượt phải được tách khỏi dịch vụ viễn thông, sản xuất điện, và dịch vụ vận tải

hàng khơng. Chính phủ nên thành lập các doanh nghiệp nhà nước riêng rẽ để quản lý các
yếu tố độc quyền tự nhiên đó. Cùng với việc làm này, Chính phủ nên ban hành các quy
định về việc sử dụng “phương tiện thiết yếu” liên quan đến độc quyền tự nhiên. Trong
thực tế, các doanh nghiệp nắm giữ các “phương tiện thiết yếu” có xu hướng tính giá độc
quyền cho các yếu tố đó. Vì vậy, để tránh giá cả độc quyền, Bộ chủ quản nên ấn định giá
cho việc sử dụng các dịch vụ thiết yếu này. Việc xác định giá cả sử dụng “phương tiện
thiết yếu” không phải là công việc dễ dàng. Theo kinh nghiệm của một số nước, giá
sử dụng các “phương tiện thiết yếu” phụ thuộc vào một số yếu tố như mức độ, khả năng
cung cấp các “phương tiện thiết yếu”, việc sử dụng theo kế hoạch trong tương lai của các
doanh nghiệp, mức độ thu hồi vốn chi phí xây dựng các “phương tiện thiết yếu” đó.
Đồng thời, cũng nên tính đến tác động của giá cả để thúc đẩy sản xuất và bảo dưỡng các
“phương tiện thiết yếu” cũng như tác động quan trọng của việc khuyến khích đổi mới
cơng nghệ.

18

Downloaded by Hei Ut ()


lOMoARcPSD|11617700

PHẦN 3
KẾT LUẬN
Cạnh tranh là một quy luật, là một phần của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh
cũng có mặt trái của nó, và thường dẫn đến độc quyền. Nó được đánh dấu bằng sự phá
sản của một bên tham gia cạnh tranh, gây ra thất nghiệp, tạo gánh nặng cho xã hội. Tuy
nhiên nếu xét trong một quá trình lâu dài và dựa tồn bộ vào lợi ích của xã hội thì cạnh
tranh là động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, các
tổ chức kinh tế với nhau sẽ làm nguồn lực của xã hội được phân bố và sử dụng có hiệu
quả hơn. Những mặt trái do cạnh tranh đem lại là điều khơng đáng ngại nếu ta có một

chính sách cạnh tranh và chống độc quyền hợp lí.
Đối với Việt Nam, thực trạng hiện nay cho thấy môi trường cạnh tranh và chống
độc quyền ở nước ta còn nhiều hạn chế, còn nhiều tồn tại cần tháo gỡ. Đối với chúng ta
cịn nhiều việc phải làm để có một môi trường cạnh tranh lành mạnh, nhưng trước mắt
việc phải làm là cần có một chính sách cạnh tranh hợp lí, cần có pháp luật về cạnh tranh
hướng dẫn các doanh nghiệp khi tham gia cạnh tranh, để cạnh tranh đúng với ý nghĩa của
nó là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.

19

Downloaded by Hei Ut ()


lOMoARcPSD|11617700

DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế Chính trị Mác – Lênin (Dành cho bậc Đại học – Khơng chun
Lý luận Chính trị)
2. />3. />
20

Downloaded by Hei Ut ()



×