TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI: CẠNH TRANH VÀ ĐỘC QUYỀN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM.
Họ và tên sinh viên: Trần Thế Anh
Mã SV: 11200392
Lớp: CNTT 62B
Hà Nội, Tháng 10 năm 2021
MỤC LỤC
MỤC LỤC...........................................................................................................2
LỜI MỞ ĐẦU.....................................................................................................3
I. CẠNH TRANH Ở CẤP ĐỘ ĐỘC QUYỀN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG......................................................................................................................4
A. Độc quyền, độc quyền nhà nước và tác động của độc quyền.....................4
1.Độc quyền và nguyên nhân hình thành độc quyền..................................4
2. Độc quyền nhà nước - nguyên nhân hình thành và bản chất của độc
quyên nhà nước.....................................................................................................5
B. Tác động của độc quyền trong nền kinh tế thị trường................................7
II. QUAN HỆ CẠNH TRANH TRONG TRẠNG THÁI ĐỘC QUYỀN...........8
III. THỰC TRẠNG CẠNH TRANH VÀ ĐỘC QUYỀN.................................10
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP.................................................................................15
KẾT LUẬN.......................................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................18
LỜI MỞ ĐẦU
Cạnh tranh là một trong những qui luật của nền kinh tế thị trường. Khi thực hiện
chuyển đổi nền kinh tế cũ sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt
Nam phải chấp nhận những qui luật của nền kinh tế thị trường trong đó có qui luật cạnh
tranh. Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong quá trình phát triển kinh tế. Nhưng
bên cạnh những thành tựu đó nền kinh tế nước ta đang đối mặt với những khó khăn thách
thức to lớn. Một trong những khó khăn thách thức đó là khả năng cạnh tranh của nền kinh tế
nước ta cịn yếu kém. Chính vì vậy chúng ta cản phải nâng cao năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế với các đối tượng cần tác động là các doanh nghiệp. Đặc biệt cần phải nâng cao năng
lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân.
Cạnh tranh là một cơ chế vận hành chủ yeu của nền kinh tế thị trường. Nó là động
lực thúc đẩy kinh tế phát triển tuy vẫn có những mặt hạn chế nhưng đó khơng phải là vấn đề
quan trọng. Nhiều nước trên thế giới đã vận dụng tốt qui luật cạnh tranh vào phát triển kinh
tế và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Từ khi đổi mới nền kinh tế chúng ta cũng đã áp
dụng qui luật này và một sơ thành tựu đã đến với chúng ta: Đời sống nhân dân được cải
thiện, xã hội phát triển hơn, kinh tế phát triển ổn định... những lợi ích ấy chưa phải là lớn
lao nhưng cũng đã giúp chúng ta định hướng cho chính sách phát triển kinh tế.
Độc quyền là sự chi phối thị trường của một hay nhiều cơng ty hoặc một tổ chức kinh
tế nào đó về một loại sản phẩm trên một đoạn thị trường nhất định. Nguyên nhân dẫn tới
độc quyền thường do cạnh tranh không lành mạnh đem lại. Độc quyền sẽ làm hạn chế rất
nhiều đối với cạnh tranh và phát triển kinh tế.
Để có một mơi trường cạnh tranh lành mạnh và kiểm sốt độc quyền có hiệu quả
đang là vấn đề quan trọng được đặt ra với thực trang hiện nay của nước ta.
Thực trạng cạnh tranh và độc quyền hiện nay như thế nào? Và nước ta cần làm gì để
duy trì cạnh tranh và kiểm sốt độc quyền? Chúng ta sẽ tìm hiểu cụ thể ở dưới đây.
I. CẠNH TRANH Ở CẤP ĐỘ ĐỘC QUYỀN TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
A. Độc quyền, độc quyền nhà nước và tác động của độc
quyền
1.Độc quyền và nguyên nhân hình thành độc quyền
a. Độc quyền
Nghiên cứu chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, C.Mác và Ph.Ăngghen đã dự báo rằng:
tự do cạnh tranh sẽ dẫn đến tích tụ và tập trung sản xuất, tích tụ và tập trung sản xuất phát
triển đến một mức độ nào đó sẽ dẫn đến độc quyên.
“Độc quyền” là sự liên mình giữa các doanh nghiệp lớn, có khả năng thâu tóm việc
sản xuất và (tiêu thụ một số loại hàng hố, có khả năng định ra giả cả độc quyên, nhằm thu
lợi nhuận độc quyên cao. Trong nền kinh tế thị trường, độc quyền có thể được hình thành
một cách tự nhiên, cũng có thể được hình thành bởi ý chí của nhà nước tạo ra các tổ chức
độc quyền.)
b. Nguyên nhân hình thành độc quyền
Từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trong nên kinh tế thị trường các nước tư bản chủ
nghĩa đã xuất hiện các tổ chức độc quyền. Các tổ chức độc quyền xuất hiện do những
nguyên nhân chủ yếu sau:
Một là, sự phát triển của lực lượng sản xuất thúc đẩy các tổ chức độc quyền.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật, đòi hỏi
các doanh nghiệp phải ứng dụng những tiên bộ kỹ thuật mới vào sản xuất kinh doanh. Điều
đó, địi hỏi các doanh nghiệp phải có vốn lớn mà từng doanh nghiệp khó đáp ứng được. Vì
vậy, các doanh nghiệp phải đây nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, hình thành các
doanh nghiệp quy mô lớn. Những thành tựu khoa học kỹ thuật mới xuất hiện, một mặt làm
xuât hiện những ngành sản xuất mới địi hỏi các doanh nghiệp phải có quy mô lớn; mặt khác
thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng khả năng tích lũy, tích tụ và tập trung sản xuất, thúc
đẩy phát triển sản xuất quy mô lớn.
Trong điều kiện phát triển của khoa học kỹ thuật, cùng với sự tác động của các quy luật
kinh tế thị trường, như: quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích lũy, tích tụ, tập trung sản
xuất ... ngày cảng mạnh mẽ, làm biến đôi cơ cầu kinh tế của xã hội theo hướng tập trung sản
xuất quy mô lớn.
Hai là, do cạnh tranh.
Cạnh tranh gay gắt làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị phá sản hàng loạt, còn các
doanh nghiệp lớn tồn tại được, nhưng cũng đã bị suy yếu, để tiếp tục phát triển họ phải tăng
cường tích tụ, tập trung sản xuất, liên kết với nhau thành các doanh nghiệp với quy mô ngày
càng to lớn hơn. V.I.Lênin khẳng định: ”... tự do cạnh tranh đẻ ra tập trung sản xuất và sự
tập trung sản xuất này, khi phát triển đến mức độ nhất định, lại dẫn tới độc quyên"”,
Ba là, do khủng hoảng sự phát triển của hệ thống tín dụng.
Cuộc khủng hoảng kinh tế lớn năm 1873 trong toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa làm phá
sản hàng loạt các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp lớn tổn tại, nhưng để tiếp tục
phát triển được, họ phải thúc đây nhanh q trình tích tụ và tập trung sản suất hình thành các
doa nghiệp có quy mơ lớn.
Sự phát triển của hệ thống tín dụng trở thành địn bẩy mạnh mẽ thúc đây tập trung sản
xuất, nhất là việc hình thành, phát triển các công ty cổ phần, tạo tiền đề cho sự ra đời của
các tổ chức độc quyền. Khi các tổ chức độc quyền xuất hiện, các tổ chức độc quyền có thể
ấn định giá cả độc quyền mua, độc quyền bán đề thu lợi nhuận độc quyên cao.
Nguồn gốc của lợi nhuận độc quyền cao thực chất vẫn do lao động của công nhân làm
việc trong các xí nghiệp độc quyền; thêm vào đó là lao động khơng cơng của cơng nhân làm
việc trong các xí nghiệp ngoài độc quyên; giá trị thặng dư của các nhà tư bản vừa và nhỏ bị
mất đi do thua thiệt trong cuộc cạnh tranh; lao động thặng dư và đôi khi cả một phần lao
động tất yếu của những người sản xuất nhỏ, nhân dân lao động ở các nước tư bản và các
nước thuộc địa và phụ thuộc.
Giá cả độc quyền là giá cả do các tổ chức độc quyền áp đặt trong mua và bán hàng
hóa. Do chiếm được vị trí độc quyền về sản xuất và tiêu thụ hàng hóa nên các tơ chức độc
qun áp đặt được giá cả độc quyền. Các tổ chức độc quyền luôn áp đặt giá cả cao khi bán
và giá cả thấp khi mua. Như vậy, giá cả độc quyền gồm có giá cả độc quyền cao (khi bán)
và giá cả độc quyền thấp (khi mua).
2. Độc quyền nhà nước - nguyên nhân hình thành và bản chất của
độc quyên nhà nước
a. Độc quyền nhà nước:
Độc quyền nhà nước là kiểu độc quyền trong đó nhà nước thực hiện nắm giữ vị thê độc
quyền trên cơ sở duy trì sức mạnh của các tổ chức độc quyền ở những lĩnh vực then chốt
của nên kinh tế nhằm tạo ra sức mạnh vật chất cho sự ồn định của chế độ chính trị xã hội
ứng với điều kiện phát triển nhất định trong các thời kỳ lịch sử.
Độc quyền nhà nước mang tính phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Để duy trì sức
mạnh của mình, các quốc gia, ở các mức độ khác nhau luôn năm giữ những vị thế độc
quyền theo phạm vi nhất định. Trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, độc quyền nhà
nước được hình thành trên cơ sở cộng sinh giữa độc quyên tư nhân, độc quyền nhóm và sức
mạnh kinh tế của nhà nước, sự chi phối của tầng lớp tư bản độc quyền (đặc biệt là của tư
bản tài chính) đối với bộ máy nhà nước.
b. Nguyên nhân hình thành độc quyễn nhà nước trong nên kinh tế thị trưởng tư bản chủ
nghĩa
Độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản ra đời do những nguyên nhân chủ yêu sau đây:
Một là, tích tụ và tập trung vốn càng lớn thì tích tụ và tập trung sản xuất càng cao, sinh
ra những cơ cầu kinh tế to lớn địi hỏi phải có một sự điều tiết từ một trung tâm dối với sản
xuất và phân phối. Sự phát triển của trình độ xã hội hố lực lượng sản xuất đã dẫn đến yêu
cầu khách quan là nhà nước với tư cách đại biểu cho toàn bộ xã hội phải quản lý nền kinh
tế. Trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, sản xuất càng phát triển thì lực lượng sản
xuất xã hội hố ngày càng cao, nhưng quan hệ sản xuất lại dựa trên chê độ chiếm hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, do đó tất yếu địi hỏi phải có một hình thức mới
của quan hệ sản xuất để mở đường cho lực lượng sản xuất có thể tiếp tục phát triển. Hình
thức mới của quan hệ sản xuất đó chính là độc quyền nhà nước.
Hai là, sự phát triển của phân công lao động xã hội làm xuất hiện một số ngành mới
có vai trị quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, nhưng các tổ chức độc quyền tư nhân
không thể hoặc không muốn đầu tư, do vốn đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm và ít lợi nhuận,
nhất là các ngành thuộc kết cấu hạ tầng như năng lượng, giao thông vận tải, giáo dục,
nghiên cứu khoa học cơ bản, ... Vì vậy, nhà nước phải đứng ra đảm nhận phát triển các
ngành đó, tạo điều kiện cho các tổ chức độc quyền tư nhân kinh doanh các ngành khác có
lợi hơn.
Ba là, sự thống trị của độc quyền tư nhân đã làm gia tăng sự phân hóa giàu nghèo,
làm sâu sắc thêm sự mâu thuẫn giai cấp trong xã hội. Trong điều kiện như vậy địi hỏi nhà
nước phải có những chính sách xã hội đề xoa dịu những mâu thuẫn đó, như các chính sách
trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu nhập quốc dân, phát triển phúc lợi xã hội để duy trì sự ơn
định chế độ chính trị và trật tự xã hội.
Bốn là, cùng với xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự bảnh trướng của các liên
minh độc quyên quốc tế vấp phải những hàng rào quốc gia dân tộc và xung đột lợi ích với
các đối thủ trên thị trường thể giới. Tình hình đó địi hỏi phải có sự điều tiết các quan hệ
chính trị và kinh tế quốc tế, trong đó khơng thể thiếu vai trị của nhà nước.
Ngồi ra, việc thi hành chủ nghĩa thực dân mới và tác động của cuộc cách mạng khoa
học cơng nghệ hiện đại cũng địi hỏi sự can thiệp của nhà nước vào đời sống kinh tế.
c. Bản chất của độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản
Độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản hình thành nhằm phục vụ lợi ích của các tổ
chức độc quyền tư nhân và tiếp tục duy trì, phát triển chủ nghĩa tư bản.
Độc quyền nhà nước trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa có sự thống nhất của
những quan hệ kinh tế - chính trị gắn bó chặt chẽ với nhau: tăng sức mạnh của các tổ chức
độc quyền, tăng vai trò của nhà nước vào kinh tế, kết hợp sức mạnh của độc quyên tư nhân
với sức mạnh của nhà nước trong một cơ chế thống nhất và làm cho bộ máy nhà nước ngày
càng phụ thuộc vào các tổ chức độc quyên.
Trong cơ cầu của độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản, nhà nước đã trở
thành một tập thể tư bản không lồ. Nhà nước cũng là chủ sở hữu những doanh nghiệp, là
nhà tư bản tập thể, và nhà nước ấy càng chuyển nhiều lực lượng sản xuất thành tài sản của
nó bao nhiêu thì nó lại càng biến thành nhà tư bản tập thể thực sự bấy nhiêu.
Bất cứ nhà nước nào cũng có vai trị kinh tế nhất định đối với xã hội mà nó thống trị,
Song ở mỗi chế độ xã hội, vai trò kinh tế của nhà nước có sự biến đổi thích hợp đối với xã
hội đó. Ngày nay vai trị của nhà nước tư sản đã có sự biến đổi, khơng chỉ can thiệp vào nền
sản xuất xã hội bằng thuế, luật pháp mà cịn có vai trị tổ chức và quản lý các tổ chức thuộc
khu vực kinh tế nhà nước, điều tiết bằng các đòn bẩy kinh tế vào tất cả các khâu của quá
trình tái sản xuất là sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng.
Độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản là hình thức vận động mới của quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện nay vẫn cịn những sự
phù hợp nhất định với trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất, làm cho chủ nghĩa tư
bản vẫn thích nghi với điều kiện lịch sử mới và do đó vẫn tiếp tục phát triển.
B. Tác động của độc quyền trong nền kinh tế thị trường
Tác động của độc quyên, dù ở trình độ độc quyền tư nhân hay độc quyền nhà nước, thể
hiện ở cả mặt tích cực và tiêu cực.
a. Tác động tích cực:
Thứ nhất, độc quyền tạo ra khả năng to lớn trong việc nghiên cứu và triển khai các hoạt
động khoa học kỹ thuật, thúc đây sự tiễn bộ kỹ thuật.
Độc quyền là kết quả của q trình tích tụ, tập trung sản xuất ở mức độ cao. Do đó, các
tơ chức độc quyên có khả năng tập trung được các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực về tài
chính trong việc nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học kỹ thuật, thúc đẩy sự tiến
bộ kỹ thuật. Tuy nhiên, đây chỉ là khả năng, cịn khả năng có trở thành hiện thực hay khơng
cịn phụ thuộc và nhiều u tố, nhất là phụ thuộc vào mục dích kinh tế của các tổ chức độc
quyền trong nền kinh tế thị trường.
Thứ hai, độc quyền có thể làm tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh
của bản thân tổ chức độc quyền. Là kết quả của tập trung sản xuất và sự liên minh các
doanh nghiệp lớn, độc quyền tạo ra được ưu thế về vốn trong việc ứng dụng những thành
tựu kỹ thuật, công nghệ sản xuất mới, hiện đại, áp dụng những phương pháp sản xuất tiên
tiến, làm tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, do đó nâng cao được năng lực cạnh
tranh trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thứ ba, độc quyền tạo được sức mạnh kinh tế góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển
theo hướng sản xuất lớn hiện đại.
Với ưu thế tập trung được sức mạnh kinh tế to lớn vào trong tay mình, nhất là sức mạnh
về tài chính, tạo cho độc quyền có điều kiện đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế trọng tâm, mũi
nhọn, do đó thúc đây nên kinh tế thị trường phát triển thco hướng sản xuất tập trung, quy
mô lớn, hiện đại.
V.I.Lênin viết: “Nhưng trước mắt chúng ta cạnh tranh tự do biến thành độc quyền và tạo
ra nên sản xuất lớn, loại bỏ nền sản xuất nhỏ, thay thế nền sản xuất lớn bằng một nên sản
xuất lớn hơn nữa”.
b. Tác động tiêu cực:
Một là, độc quyền xuất hiện làm cho cạnh tranh khơng hồn hảo gây thiệt hại cho người
tiêu dùng và xã hội.
Với sự thống trị của độc quyền và vì mục đích lợi nhuận độc quyền cao, mặc dù như đã
phân tích ở trên, độc quyền tạo ra sản xuất lớn, có thê giảm chi phí sản xuât và do đó giảm
giá cả hàng hỏa, nhưng độc quyên không giảm giá, mà họ luôn áp đặt giá bán hàng hóa cao
và giá mua thâp, thực hiện sự trao đổi không ngang giá, hạn chế khối lượng hàng hóa... tạo
ra sự cung cầu giả tạo về hàng hóa, gây thiệt hại cho người tiêu dùng và xã hội.
Hai là, độc quyền có thể kìm hãm sự tiến bộ kỹ thuật, theo đó kìm hãm sự phát triển
kinh tế, xã hội.
Độc quyền tập trung được các nguồn lực lớn, tạo ra khả năng nghiên cứu, phát minh các
sáng chế khoa học, kỹ thuật. Nhưng vì lợi ích độc quyền, hoạt động nghiên cứu, phát mình,
sáng chế chỉ được thực hiện khi vị thế độc qun của chúng khơng có nguy cơ bị lung lay.
Do vậy, mặc dù có khả năng về nguồn lực tài chính tạo ra khả năng trong nghiên cứu, phát
minh các sáng chế khoa học, kỹ thuật, nhưng các tổ chức độc qun khơng tích cực thực
hiện các cơng việc đó. Điêu này chứng tỏ, độc quyền đã ít nhiêu kìm hãm thúc đẩy sự tiến
bộ kỹ thuật, theo đó kim hãm sự phát triển kinh tế, xã hội.
Ba là, khi độc quyền nhà nước bị chi phối bởi nhóm lợi ích cục bộ hoặc khi độc quyền
tư nhân chi phôi các quan hệ kinh tê, xã hội sẽ gây ra hiện tượng làm tăng sự phân hóa giàu
nghèo.
Với địa vị thống trị kinh tế của mình và mục đích lợi nhuận độc quyền cao, độc quyền có
khả năng và khơng ngừng bảnh trướng sang các lĩnh vực chính trị, xã hội, kết hợp với các
nhân viên chính phủ đề thực hiện mục đích lợi ích nhóm, kết hợp với sức mạnh nhà nước
hình thành độc quyên nhà nước, chi phối cả quan hệ, đường lối đối nội, đối ngoại của quốc
gia, vì lợi ích của các tổ chức độc quyền, khơng vì lợi ích của đại đa số nhân dân lao động.
II. QUAN HỆ CẠNH TRANH TRONG TRẠNG THÁI ĐỘC
QUYỀN
Độc quyền sinh ra từ cạnh tranh tự do. Nhưng sự xuất hiện của độc quyền không thủ
tiêu cạnh tranh. Trái lại, độc quyên làm cho cạnh tranh trở nên đa dạng, gay gắt hơn.
Trong nên kinh tế thị trường, nhìn chung, khơng chỉ tơn tại sự cạnh tranh giữa các
chủ thể sản xuất kinh doanh nhỏ và vừa mà cịn có thêm các loại cạnh tranh giữa các tơ chức
độc quyền. Đó là:
Một là, cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với các doanh nghiệp ngoài độc
quyền. Các tổ chức độc quyền thường tìm cách đê chi phơi, thơn tính các doanh nghiệp
ngoài độc quyền bằng nhiêu biện pháp như: độc quyền mua nguyên liệu đầu vào; độc quyền
phương tiện vận tải; độc quyền tín dụng... đề có thê loại bỏ các chủ thê yếu thế hơn ra khỏi
thị trường.
Điển hình có thể kể đến ở đây chính là Apple. Vào năm 2020, Facebook đã cho ra mắt
tính năng cho phép các chủ sở hữu fanpage và các đơn vị tổ chức sự kiện có thể tạo những
sự kiện trực tuyến trả phí trên nền tảng của mình. Mục đích chính của ứng dụng này để giúp
các doanh nghiệp nhỏ và những người làm trong ngành giải trí có thêm cơng ăn việc làm
cũng như nguồn thu nhập. Khi mà tất cả các hoạt động và các sự kiện phải đóng cửa vì ảnh
hưởng của Covid-19 thì tính năng này như "cứu cánhh" giúp họ có tiền trang trải cuộc sống.
Tuy nhiên Apple lại từ chối miễn phí phí dịch vụ trên Apple Store cũng như không cho phép
Facebook sử dụng Facebook Pay để thanh toán. Hiểu đơn giản là người sở hữu fanpage hay
tổ chức sự kiện trực tuyến sẽ không thể thu được 100% tiền vé của người dùng iOS. Khi
mọi người trả 20 đô la cho một sự kiện trực tuyến, họ nghĩ rằng tất cả sẽ đến với một doanh
nghiệp nhưng thực tế có đến 30% số tiền đó sẽ đến với một cơng ty gần 2 nghìn tỷ đơ la và
chỉ cịn 70% đến được với doanh nghiệp nhỏ. Hoặc gần đây, Apple cũng bị chỉ trích sau khi
cơng ty này xóa Fortnite của Epic Games khỏi App Store sau khi Epic triển khai hệ thống
xử lý thanh tốn trong ứng dụng của riêng mình mà không qua Apple.
Hai là, cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với nhau. Loại hình cạnh tranh này có
nhiều hình thức: cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền trong cùng một ngành, kết thúc
bằng một sự thỏa hiệp hoặc bằng sự phá sản của một bên cạnh tranh; cạnh tranh giữa các tơ
chức độc quyền khác ngành có liên quan với nhau về nguồn lực đâu vảo...
Ở đây chúng ta sẽ nói đến thị trường viễn thơng Việt Nam, một cuộc chiến chưa tới
hồi kết. Thị trường viễn thơng Việt Nam hiện tại có rất nhiều nhà mạng tuy nhiên hầu như
mọi người chỉ biết đến 3 nhà mạng chính là Viettel, vinaphone và mobifone khi mà 3 “ông
lớn” này chiếm tới gần 90% thị phần viễn thông trong nước. Mobifone và Vinaphone đã
từng ở vị thế áp đảo trên thị trường trong một thời gian dài. Được coi là gốc đa, gốc đề của
thị trường viễn thông Việt Nam khi mà Mobifone được thành lập năm 1993 và Vinaphone
thành lập vào năm 1996. Thời điểm đó, riêng phí hịa mạng di động đã tốn tới cả triệu đồng,
chi phí thuê bao hàng tháng lên tới hàng trăm ngàn đồng và các nhà mạng như Viettel còn
chưa hề có sự tồn tại. Tuy nhiên, năm 2004, Viettel chính thức tham gia thị trường viễn
thông cơ bản và dần phá vỡ thế độc tôn của VNPT, trở thành một đối thủ đáng gờm. Với vị
thế của một kẻ thách thức, Viettel liên tục bám đuổi sát nút VNPT về mặt doanh thu. Cụ thể,
năm 2011, doanh thu của VNPT(bao gồm cả mobi và vina cộng lại) cũng chỉ hơn Viettel
4000 tỉ đồng. Năm 2012, Viettel chính thức vượt mặt anh cả VNPT với doanh thu cao hơn
10000 tỉ đồng và đến năm 2020, Viettel tổng doanh thu là 264.000 tỷ đồng, tăng khoảng
4,4% so với năm 2019 trong khi doanh thu cả năm của Mobiphone ước tính đạt gần 30.500
ty đồng, giảm 7,2% so với năm 2019 còn VNPT - là một công ty mẹ của Vinaphone đạt
được tổng doanh thu năm 2020 là 162.700 tỷ đồng.
Ba là, cạnh tranh trong nội bộ các tổ chức độc quyền. Những doanh nghiệp tham gia
các tổ chức độc quyền cũng có thê cạnh tranh với nhau để giành lợi thế trong hệ thống. Các
thành viên trong các tổ chức độc quyền cũng có thê cạnh tranh nhau đề chiếm tỷ lệ cổ phần
khơng chế, từ đó chiêm địa vị chi phơi và phân chia lợi ích có lợi hơn.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, cạnh tranh và độc quyền luôn cùng tôn tại song
hành với nhau. Mức độ khôc liệt của cạnh tranh và mức độ độc qun hóa phụ thuộc vào
hồn cảnh cụ thê của mỗi nên kinh tế thị trường khác nhau.
III. THỰC TRẠNG CẠNH TRANH VÀ ĐỘC QUYỀN
Cạnh tranh bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà nước với các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, giữa các doanh nghiệp trong nước với các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp nhà nước được hưởng nhiều ưu
đãi từ phía nhà nước như: các ưu đãi về vốn đầu tư, thuế, vị trí địa lý, thị trường tiêu thụ,…
Ngồi ra các doanh nghiệp này cịn tập trung trong tay một lượng lớn các ngành nghề quan
trọng: điện, nước, than, dầu lửa, bưu chính viễn thơng, giao thông vận tải…, các doanh
nghiệp tư nhân không được coi trọng. Các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động theo một qui
chế riêng, không được ưu đãi từ nhà nước. Điều này gây thiệt hại lớn về kinh tế, bởi về một
số doanh nghiệp nhà nước làm ăn hiệu quả, chây ì, trơng chờ vào nhà nước gây ra lãng phí
nguồn lực xã hội, trong khi các cơng ty tư nhân hoạt động năng nổ và hiệu quả hơn. Ngoài
ra do những qui định khơng hợp lí trong hoạt động của các doanh nghiệp nước ngoài gây
nên sự e ngại về đầu tư vào nước ta của các công ty nước ngoài sự e ngại về đầu tư vào
nước ta của các cơng ty nước ngồi.
Một số doanh nghiệp thơng đồng câu kết với nhau nhằm tăng sức cạnh tranh của các
doanh nghiệp trong hội, để từ đó mà loại bỏ các doanh nghiệp khác bằng cách ngăn cản
không cho các doanh nghiệp khác tham gia hoạt động kinh doanh, hạn chế việc mở rộng
hoạt động, tẩy chay không cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ, chèn ép các doanh nghiệp phải
tham gia vào hiệp hội hoặc cho phá sản.
Snap là một ví dụ điển hình nhất. Sau khi dập tắt hồn tồn hy vọng thâu tóm của
Facebook vào năm 2013 với giá 3 tỷ USD, Facebook đã sao chép rất nhiều tính năng thành
cơng của Snap và điều đó gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tốc độ tăng trưởng của cơng ty
này. Một ví dụ ít được biết đến hơn là Meerket của Life on Air - một ứng dụng stream video
thành lập năm 2015. Công ty này bị xố bỏ hồn tồn sau khi Twitter quảng bá một ứng
dụng tương tự có tên Periscope. Life on Air sau đó đã đóng cửa Meerket và cho ra đời một
ứng dụng khác có tên Houseparty - cung cấp dịch vụ chat video nhóm. Và ứng dụng ấy st
chút nữa thì nổi lên nếu như nó khơng bị sao chép bởi Facebook và để mất rất nhiều người
dùng vào tay mạng xã hội này. Thậm chí ngay cả khi các gã khổng lồ khơng sao chép hồn
tồn thì họ vẫn có thể đe doạ đến tiềm năng phát triển của startup. Chẳng hạn như Amazon
mua lại Whole Foods Market - một nhà bán lẻ thực phẩm với giá 13,7 tỷ USD. Blue Apron một startup vận chuyển bữa ăn đang chuẩn bị IPO thì đột nhiên bị đánh giá thấp khi thấy
rằng Amazon sẽ tấn công lĩnh vực này.
Các doanh nghiệp thoả thuận với nhau để phân chia địa bàn hoạt động, thị trường
tiêu thụ hàng hoá làm cho sự lưu thơng hàng hố trên thị trường bị gián đoạn, thị trường
trong nước bị chia cắt. Sự câu kết giữa các doanh nghiệp dẫn tới việc độc quyền chi phối
một số mặt hàng trong một thời gian nhất định làm cho giá cả một số mặt hàng tăng cao.
Ví dụ như thuốc tân dược vừa qua ở nước ta giá đắt gấp 3 lần so với mặt hàng cùng
loại ở nước ngoài, làm thiệt hại cho người tiêu dùng, triệt tiêu động lực cạnh tranh.
Hành vi lạm dụng ưu thế của doanh nghiệp để chi phối thị trường. Hành vi này xuất
phát từ một số công ty độc quyền hoặc các cơng ty lớn có khả năng chi phối thị trường. Các
cơng ty này dựa vào thế mạnh của mình mà sử dụng các biện pháp cạnh tranh không lành
mạnh để loại trừ đối thủ cạnh tranh, thao túng thị trường. Với sức mạnh độc quyền các công
ty áp đặt giá cả độc quyền, độc quyền mua thì mua với giá thấp, độc quyền bán thì bán với
giá cao để thu lợi nhuận siêu ngạch, hoặc để loại trừ đối thủ cạnh tranh họ có thể hạ giá bán
xuống thấp hơn so với chi phí sản xuất.
Ở đây có thể kể đến bảng giá quảng cáo của VTV, Đài truyền hình Việt Nam, có thể
coi là kênh truyền hình phổ biến nhất Việt Nam. Gía quảng cáo của VTV thường đắt hơn
nhiều so với các kênh truyền hình khác, và đặc biệt phải kể đến bảng giá quảng cáo trong
chương trình Gặp nhau cuối năm 2021. Cụ thể, đơn giá quảng cáo cho khung thời gian 30
giây trong Gặp nhau cuối năm là 650 triệu đồng. Nếu xuất hiện với thời gian ngắn hơn từ
10, 15 đến 20 giây, số tiền tương ứng nhãn hàng phải chi lần lượt là là 325, 390 và 487,5
triệu đồng. So với báo giá quảng cáo trong chương trình Gặp nhau cuối năm hai mùa gần
đây, đây là mức cao nhất. Năm 2019, chi phí tối thiểu để nhãn hàng xuất hiện trong Táo
Quân là 265 triệu đồng (thời lượng 10 giây) và cao nhất là 530 triệu đồng (30 giây). Năm
2020, ê-kíp ngừng sản xuất Táo Quân. Mức giá quảng cáo lần lượt là 200 triệu đồng (10
giây), 240 triệu đồng (15 giây), 300 triệu đồng (20 giây), 400 triệu đồng (30 giây). Nhiều ý
kiến cho rằng bảng giá quảng cáo TVAd đưa ra cho Táo Quân 2021 khá cao, nhất là trong
bối cảnh kinh tế khó khăn vì dịch Covid-19. Mọi ngành nghề, lĩnh vực đều bị ảnh hưởng.
Sự lạm dụng ưu thế của doanh nghiệp dẫn đến việc áp dụng các điều kiện trong sản
xuất kinh doanh đối với các doanh nghiệp yếu hơn, chi phối các doanh nghiệp này. Hơn nữa
việc lạm dụng này còn hạn chế khả năng lựa chọn của người tiêu dùng, khả năng kinh
doanh của các doanh nghiệp thành viên tham gia kinh doanh trong các lĩnh vực khác. Nó có
thể dẫn đến việc áp đặt giá cả sản phẩm, loại sản phẩm…
Năm 2018, Google bị Liên minh châu Âu (EU) tuyên án phạt kỷ lục 5 tỷ USD và yêu
cầu dừng việc sử dụng hệ điều hành Android để cản trở đối thủ cạnh tranh trong lĩnh vực
tìm kiếm. Theo nhiều ước tính, cơng cụ tìm kiếm Google kiểm soát khoảng 90% độ phổ
biến trên Internet và cùng với Facebook, hai doanh nghiệp này gần như đang thống trị thị
trường quảng cáo đầy béo bở. Trong khi đó, eMarketer ước tính Google sẽ nắm giữ hơn
29% thị trường quảng cáo kỹ thuật số của Mỹ vào cuối năm nay, Facebook đứng thứ hai với
24% và Amazon xếp thứ ba. Những người thúc đẩy vụ kiện cho rằng những “mánh khóe”
mà Google sử dụng để loại bỏ bất kỳ đối thủ cạnh tranh nào một cách không cơng bằng và
có thể khiến các nhà quảng cáo phải tự cung cấp dịch vụ phụ và một vài lựa chọn thay thế.
Theo đó, "tính loại trừ" của Google đã ngăn cản sự cạnh tranh trong quảng cáo và tìm kiếm,
do đó gây hại cho các nhà quảng cáo. Những công ty nhỏ hơn hoạt động trong cùng lĩnh
vực phàn nàn rằng Google có xu hướng đề xuất các ứng dụng và dịch vụ do họ phát triển
như bản đồ, đặt chỗ du lịch và các khuyến cáo kinh doanh có tiềm năng quảng cáo lớn.
Bằng cách ngăn chặn cạnh tranh, Google có nhiều quyền lực hơn để thâu tóm số tiền các
nhà quảng cáo chi trả cho quảng cáo của họ và hạn chế khả năng lựa chọn của người tiêu
dùng.
Việc thành lập các tổng công ty hoặc liên doanh là việc sáp nhập các công ty thành
viên lại với nhau, việc này diễn ra khá thường xuyên khiến cho nhiều người lo lắng sẽ làm
triệt hạ đi khả năng sáng tạo. Theo Roger McNamee đến từ công ty Elevation Partyners:
"Nó chuyển sự khích lệ từ việc cố gắng tạo ra một nền tảng lớn sang việc tạo ra một thứ nho
nhỏ, vừa đủ để được thâu tóm bởi các gã khổng lồ". Các công ty sáp nhập hay liên doanh
với nhau làm tăng mức độ tích tụ hay tập trung của thị trường. Các công ty liên doanh sáp
nhập hay hợp nhất với nhau đều làm cho thị trường tập trung hơn, giảm bớt đối thủ cạnh
tranh tăng khả năng chi phối độc quyền thị trường của các tổng công ty hay các liên doanh,
làm triệt tiêu cạnh tranh trong kinh doanh.
Trên thực tế, các gã khổng lồ tỏ ra rất thích thú với việc thâu tóm khi mà tổng cộng
Alphabet, Amazon, Apple, Facsebook và Microsoft đã chi 31,6 tỷ USD riêng trong năm
2017 cho nhiệm vụ này. Điều đó khiến một số startup trở nên ít tham vọng hơn. "90%
startup tôi biết được xây lên để bán chứ không phải để phát triển", Ajay Royan đến từ
Mithril Capital khẳng định. Dĩ nhiên, một thương vụ thâu tóm sẽ giúp các nhà sáng lập
startup giàu lên nhanh chóng. Và rất có thể, với số tiền đó họ sẽ lại tạo lập một công ty mới
với một ý tưởng mới. Như vậy ở một chừng mực nào đó, những cú "exit" như vậy cung cấp
nguồn vốn để tạo ra một sáng kiến mới. Điều đó khơng tồi chút nào! Mặt khác, với các cơng
ty đã bị thâu tóm, các gã khổng lồ cơng nghệ có thể giúp chúng phát triển hơn nữa. Ví dụ,
thơng qua việc thâu tóm Instagram, Facebook đã vừa bỏ đi một đối thủ lại vừa giúp công ty
này phát triển mạnh hơn nhờ cơ sở hạ tầng cơng nghệ, nhân viên và các bí quyết mà
facebook đã phát triển được.
Mặc dù một số nước phát triển trên thế giới đã có nhưng hiện nay nước ta chưa có
khung pháp lí hồn chỉnh cho cạnh tranh nên việc xác định, xử phạt các hành vi cạnh tranh
khơng lành mạnh khá khó khăn. Điều đó tạo điều kiện cho các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh ngày càng phát triển mạnh.
Một số hành vi cạnh tranh khong lành mạnh như:
Nạn hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng được tung ra thị trường. Việc hàng
giả, hàng nhái bán trên thị trường sẽ gây thiệt hại cho người tiêu dùng, làm giảm uy tín của
các cơng ty làm ăn chân chính có sản phẩm bị làm nhái.
Theo thống kê của Ban chỉ đạo, trong 9 tháng của năm 2021, các lực lượng chức
năng cả nước đã phát hiện, xử lý hơn 100.000 vụ việc vi phạm, thu nộp ngân sách Nhà nước
hơn 7.500 tỷ đồng, khởi tố 1.615 vụ việc với 2.148 đối tượng. Theo ông Lê Thanh Hải Chánh Văn phịng Thường trực Ban, lợi dụng tình hình dịch COVID-19, các mặt hàng chủ
yếu được buôn lậu liên quan đến phòng chống dịch là khẩu trang, thuốc điều trị COVID-19,
máy tạo oxy, que test COVID-19, nước sát khuẩn, găng tay y tế đã qua sử dụng... Ngoài ra,
các mặt hàng buôn lậu “truyền thống” như thuốc lá ngoại, đường cát, mỹ phẩm, tân dược
vẫn diễn ra phức tạp, tình trạng hàng kém chất lượng, hàng hóa khơng có nguồn gốc, xuất
xứ được buôn bán tràn lan trên không gian mạng tại các website, trang mạng xã hội như
facebook, zalo... Đáng nói, trong thời gian dịch bệnh COVID-19, cịn xuất hiện phương
thức mới trong việc vận chuyển hàng lậu, hàng cấm là lợi dụng xe được cấp giấy nhận diện
phương tiện ưu tiên theo “luồng xanh” vận chuyển hàng hóa thiết yếu, phục vụ sản xuất,
xuất khẩu và lưu thông thông suốt qua chốt kiểm soát dịch COVID-19 để vận chuyển, mua
bán trái phép hàng lậu, hàng cấm…
Các hình thức quảng cáo gian dối, thổi phồng ưu điểm của hàng hoá mình làm giảm
ưu điểm của các hàng hố khác cùng loại, rồi đưa ra những mức giá cao hơn so với mức giá
thực tế của sản phẩm. Điều này cũng gây thiệt hại cho người tiêu dùng và những doanh
nghiệp sản xuất chân chính.
Trong thời gian qua, khơng khó để người dùng Youtube bắt gặp các quảng cáo có nội
dung như “nhà tôi 3 đời trị nhận chữa sỏi thận”, “điều trị dứt điểm đau xương khớp”, “bà
con bị viêm xoang lâu ngày gọi ngay đến số hotline sau…”…Theo các cơ quan có thẩm
quyền, những loại quảng cáo này hồn tồn sai sự thật, khơng đúng cơng dụng, nói q về
tác dụng của sản phẩm. Thậm chí, do đặc thù là clip, các quảng cáo còn lồng ghép một số
đoạn video phỏng vấn những người chữa khỏi bệnh và phần tư vấn của các giáo sư, tiến sĩ,
chuyên gia y tế. Điều này khiến người tiêu dùng có thể hiểu sai, hiểu chưa đúng về công
dụng của sản phẩm, dẫn tới tốn tiền mà chưa chắc khỏi bệnh. Nắm bắt tâm lý các đối tượng
có nhu cầu dựa trên hành vi, thói quen sử dụng Internet cùng sự hỗ trợ của các cơng cụ phân
tích dữ liệu người dùng. Các nội dung quảng cáo sai sự thật này thông qua đó tác động đến
hành vi mua hàng để thu lợi nhuận từ việc bán sản phẩm. Vừa qua, BV Nội tiết Trung ương
cho biết Khoa Cấp cứu bệnh viện vừa tiếp nhận bệnh nhân N.V.T. (58 tuổi, ngụ tại Kiến
Thụy, Hải Phịng) trong tình trạng đường huyết và huyết áp tăng cao, da niêm mạc phù nề,
cơ thể mệt mỏi, hoạt động chậm. Người nhà bệnh nhân cho biết, khoảng 1 tháng nay, bệnh
nhân T. tự ý bỏ thuốc theo đơn của bác sĩ và dùng thuốc nam cùng viên sủi không rõ nguồn
gốc được quảng cáo trên mạng xã hội. Ông T. mua loại thuốc này với giá gần 3 triệu đồng
cho một liệu trình với cam kết của người bán là “khỏi hoàn toàn bệnh đái tháo đường”. Tuy
nhiên, sau khi dùng thuốc, bệnh khơng có dấu hiệu thuyên giảm, trạng đường huyết lại tăng
lên.Theo các bác sĩ điều trị, bệnh nhân T. không phải trường hợp duy nhất nhập viện cấp
cứu do tự ý ngừng thuốc điều trị. Bệnh viện từng tiếp nhận và điều trị cho nhiều trường hợp
bệnh nhân bỏ chỉ định điều trị của bác sĩ mà nghe theo các quảng cáo trên mạng và gặp biến
chứng. Nhiều trường hợp nhập viện trong tình trạng nguy kịch.
Các hành vi thông đồng với cơ quan quản lý nhà nước để cản trở hoạt động của các
đối thủ trong các ký kết hợp đồng , hối lộ các giao dịch kinh tế, lôi kéo lao động lành nghề,
những chuyên gia giỏi của các doanh nghiệp Nhà nước một cách khơng chính đáng cịn phổ
biến trong nền kinh tế.
Việc thành lập các tổng công ty 90 – 91 được coi là có ý nghĩa quan trọng đối với
nền kinh tế trong phạm vi cả nước hoặc bộ ngành, địa phương.( Tổng công ty 90 là tên gọi
chung phổ biến cho các liên hiệp xí nghiệp và tổng cơng ty nhà nước ở Việt Nam được
thành lập căn cứ vào Điều 5 của Quyết định số 90/Ttg của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam
về việc sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước. Tổng công ty 91 là tên gọi chung phổ thơng cho
các nhóm doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 91/Ttg
của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam về việc thí điểm thành lập tập đồn kinh doanh.) Các
tổng cơng ty này là tập hợp các doanh nghiệp Nhà nước sản xuất cùng loại sản phẩm lại với
nhau, việc làm này nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên trường
quốc tế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng việc các tổng công ty 90, 91 ra đời đã gây cản trở
cho môi trường cạnh tranh mà các tổng cơng ty đó hoạt động. Tạo ra sự cạnh tranh bất bình
đẳng giữa tổng cơng ty và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác trong cùng một lĩnh
vực.
Thể hiện qua các hoạt động sau:
Một số tổng công ty với thế mạnh về kinh tế của mình đã kiến nghị với chính phủ
thực hiện chính sách bảo hộ ngăn cản nhập khẩu, chính sách bao cấp, lãi suất ưu đãi để duy
trì vị thế độc quyền của mình. Nhiều tổng cơng ty đã thể chế hố những ưu đãi đặc quyền
của mình và đưa ra những quy định bất lợi cho các đối thủ cạnh tranh nhằm loại bỏ các đối
thủ cạnh tranh.
Với ưu thế độc quyền, nhiều công ty đã định ra những sản phẩm mà họ sản xuất tạo
ra sự bất bình đẳng giữa những người kinh doanh với nhau trên thị trường. Ví dụ: cùng một
loại hàng hố dịch vụ tổng cơng ty áp đặt nhiều giá khác nhau đối với từng loại khách hàng.
Cạnh tranh trong nội bộ tổng công ty bị hạn chế. Được sự bảo hộ của chính phủ,
nhiều tổng cơng ty hoạt động trì trệ, ỷ lại gây tốn kém, lãng phí cho xã hội. Như vậy với
mục đích chính là nâng cao năng lực cạnh tranh của các tổng công ty đã không thực hiện
được, mà việc thành lập các tổng cơng ty này đã ảnh hưởng khơng tốt, thậm chí cản trở cạnh
tranh trên thị trường.
Độc quyền tự nhiên tồn tại trong những ngành kết cấu hạ tầng đòi hỏi vốn đầu tư lớn
mà lợi nhuận đem lại chậm và khơng đáng kể. Ngồi ra độc quyền tự nhiên cịn tồn tại trong
những ngành kinh tế quan trọng, ảnh hưởng mạnh mẽ đến chiến lược phát triển kinh tế của
đất nước như: Điện, nước, dầu khí, đặc biệt này chỉ có một hoặc một vài doanh nghiệp Nhà
nước được phép hoạt động. Các doanh nghiệp này kinh doanh theo mô hình khép kín theo
chiều dọc vừa thực hiện các khâu đầu vừa thực hiện các khâu cuối. Do hình thức hoạt động
như vậy nên hạn chế cạnh tranh hay dường như khơng có đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
Do vậy các tổng cơng ty có thể đưa ra những mức giá chung cao hơn so với mức giá thực tế
của sản phẩm để thu được lợi nhuận siêu ngạch cao. Điều này làm cho người tiêu dùng mất
nhiều chi phí hơn để sử dụng các hàng hố dịch vụ trong khi chất lượng không tương xứng.
Việc nắm giữ đường trục viễn thông quốc gia sẽ tạo lợi thế cho VNPT ngăn cản các
công ty khác tham gia vào thị trường viễn thông, bởi lẽ nếu các công ty khác muốn cung cấp
dịch vụ viễn thông họ buộc phải sử dụng đường trục viễn thông quốc gia do VNPT quản lý.
Với lợi thế về thị phần sẵn có từ trước cùng với các quy định của pháp luật, VNPT đã tính
giá dịch vụ viễn thơng cung cấp cho người sử dụng cao hơn 30% so với các nước ASEAN .
Tình trạng này cũng tương tự như ở Tổng công ty điện lực Việt Nam (EVN). ở nước ta đã
có một số doanh nghiệp sản xuất điện nhưng chỉ EVN được nắm giữ hệ thống truyền tải
điện. Trong thị trường điện lực, việc sản xuất điện có liên quan mật thiết đến việc truyền tải
điện. Điều này làm cho các doanh nghiệp sản xuất điện phải phụ thuộc vào EVN - một đối
thủ cạnh tranh trên cùng thị trường. Chính vì vậy, độc quyền của EVN đối với việc kinh
doanh điện là điều không thể tránh khỏi.
Giá hàng hoá cao trong khi chất lượng phục vụ của hàng hố thì lại cịn bị hạn chế:
hệ thống giao thông kém phát triển, đường xá trật hẹp hạn chế khả năng đi lại của người
dân, tai nạn, ùn tắc giao thông xảy ra liên tục trên các con đường đặc biệt ở các thành phố
lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, tình trạng ngập úng trên các con đường khi có
mưa là điều khơng hiếm. Kho tàng, bến bãi, cảng biển ít, đường sắt kém phát triển, hệ thống
cấp thoát nước thiếu, mất vệ sinh. Ở Việt Nam chỉ có 25% mạng lưới đường bộ được rải
nhựa.
Kết quả của độc quyền tự nhiên là năng suất lao động thấp, giá cả tăng cao một cách
bất hợp lý, buộc toàn bộ nền kinh tế phải chịu mức giá đầu vào cao, làm tăng chi phí cho
các doanh nghiệp kinh doạnh khác trong nền kinh tế quốc dân.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP
Từ thực trạng cho thấy cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa cịn có nhiều tồn tại. Vậy ngun nhân của các tồn tại đó là do đâu?
Đầu tiền phải kể đến hệ thống những quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ liên quan
đến cạnh trạnh và độc quyền chưa hoàn chỉnh, ý thức chấp hành pháp luật của mọi người và
của các doanh nghiệp chưa nghiêm minh, nên những hành vi cạnh tranh không hợp thức còn
tồn tại khá phổ biến. Tiếp theo là quan điểm về vai trò của cạnh tranh và độc quyền chưa
nhất quán nên nội dung một số quy định pháp lý liên quan đến mơi trường cạnh tranh cịn
mâu thuẫn với nhau. Thủ tục hành chính chưa được cải thiện, đơn giản hố kịp thời nên cịn
gây nhiều phiền hà cho các nhà đầu tư và cũng tạo ra sự bất bình đẳng trong cạnh tranh, làm
tăng chi phí giao dịch, giảm tính hấp dẫn của mơi trường đầu tư ở trong nước so với các
nước khác. Bên cạnh đó, hệ thống thơng tin cịn yếu kém, chưa kịp thời cân xứng thiếu
minh bạch đã gây ra sự bất bình đẳng trong các cơ hội kinh doanh, ảnh hưởng không tốt đến
môi trường cạnh tranh.
Trong thời đại kinh tế hội nhập như ngày nay thì việc cải thiện mơi trường cạnh tranh
là yêu cầu cấp bách để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh của
mình, thực hiện q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố trong điều kiện tự do hoá thương
mại và hội nhập kinh tế thế giới. Để duy trì cạnh tranh lành mạnh và kiểm soát độc quyền
chúng ta cần phải thực hiện một số biện pháp sau:
Thứ nhất: tiếp tục đổi mới nhận thức về cạnh tranh, phải thống nhất quan điểm đánh
giá vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế. Phải coi cạnh tranh trong nền kinh tế pháp luật
hợp thức là động lực của sự phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh
nghiệp. Xác định một cách rõ ràng và hợp lý vai trò của Nhà nước cũng như vai trò chủ đạo
của các doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế, hạn chế bớt những doanh nghiệp Nhà
nước độc quyền kinh doanh. Thúc đẩy nhanh quá trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước,
đẩy nhanh quá trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước. Độc quyền của các doanh nghiệp Nhà
nước cần phải được giảm dần, các rào cản đối với các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế cần được tháo gỡ dần nhằm giảm giá thành sản xuất, tăng năng lực cạnh tranh chung
của toàn bộ nền kinh tế, tăng tính hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài, đồng thời giảm gánh
nặng cho ngân sách quốc gia.
Việc đổi mới nhận thức cần được thể hiện trong toàn bộ hệ thống quản lý Nhà nước,
trong các chương trình và chiến lược cải cách hành chính, trong tổ chức, phong cách làm
việc hành vi ứng xử của các cơ quan cơng quyền.
Muốn như vậy thì trước tiên cần phải đưa nội dung về cạnh tranh và độc quyền vào
chương trình giáo dục của các trường đại học thuộc khối kinh tế và kinh doanh. Để có được
đội ngũ cán bộ, các nhà kinh tế sau khi ra trường có một tầm hiểu biết về cạnh tranh và độc
quyền. Đào tạo các khoá ngắn hạn cho các doanh nghiệp và công chức Nhà nước để nâng
cao, trau dồi kiến thức về cạnh tranh và độc quyền. Sử dụng các phương tiện thông tin đại
chúng tuyên truyền về cạnh tranh và độc quyền. Để từ đó có một chính sách cạnh tranh phù
hợp và việc thực hiện các chính sách cạnh tranh này dễ dàng hơn.
Thứ hai: cải tổ pháp luật về cạnh tranh để cho cơ chế cạnh tranh được vận hành một
cách trôi chảy, hạn chế những hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường. Nới lỏng
các điều kiện ra nhập và rút lui khỏi thị trường để khuyến khích các nhà đầu tư tham gia sản
xuất kinh doanh. Như vậy việc hình thành nên khung pháp lý chung cho các loại hình kinh
doanh thuộc các khu vực kinh tế khác nhau là điều cần thiết. Việc cải tổ pháp luật về cạnh
tranh cần phải sửa đổi từ quy trình ban hành pháp luật. Việc xây dựng và hồn thiện khung
pháp lý kinh doanh cần xố bỏ những quy định hiện hành không phù hợp với nền kinh tế thị
trường, với những cam kết quốc tế nhằm mở rộng quyền kinh doanh, quyền chủ động cho
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Để thực hiện được những việc như trên thì
trong quá trình sửa đổi luật, bổ sung và ban hành pháp luật có liên quan đến cạnh tranh và
độc quyền thì cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ, ngành và chính quyền địa phương
với sự tham gia của các doanh nghiệp, các chuyên gia nghiên cứu kinh tế và người tiêu
dùng. Việc tham gia đồng bộ giữa các bên khi ban hành sửa đổi luật sẽ đưa ra được các quy
định phù hợp với tình hình thực tế về cạnh tranh và độc quyền hơn.
Thứ ba: xây dựng một cơ quan chuyên trách theo dõi, giám sát các hành vi liên quan
đến cạnh tranh và độc quyền. Rà soát lại và hạn chế bớt số lượng các lĩnh vực độc quyền,
kiểm soát giám sát độc quyền chặt chẽ hơn. Nhà nước cần giám sát chặt chẽ hơn các hành vi
lạm dụng của các doanh nghiệp lớn. Cần phải đổi mới chế độ chứng từ, kế toán kiểm toán
để tạo điều kiện thuận lợi cho cơng tác giám sát tài chính của các doanh nghiệp.
Thứ tư: Cải thiện môi trường thông tin và pháp luật theo hướng minh bạch và kịp
thời hơn, đồng thời nhanh chóng cải cách thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh. Thành lập, bổ sung đầy đủ, chi tiết và cập nhật
hàng năm những ngành nghề mà doanh nghiệp dân doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoải khơng được đăng ký kinh doanh. Cơ quan đăng ký kinh doanh đồng thời chịu trách
nhiệm cả về việc điều chỉnh nội dung giấy đăng ký kinh doanh và việc mở văn phịng đại
diện, chi nhánh trong nước và nước ngồi theo chế độ doanh nghiệp chủ động đăng ký. Xoá
bỏ các điều kiện cấp phép về nội địa hoá, tỉ lệ xuất khẩu, tự cân đối ngoại tệ.Các cơ quan
cấp phép hiện hành sẽ chuyển chức năng cấp phép, thẩm định sang chức năng xúc tiến và
cung cấp dịch vụ đầu tư. Trên cơ sở nguyên tắc cạnh tranh, chỉ áp dụng việc giới hạn mua
cổ phần của những doanh nghiệp lớn có khả năng chi phối thị trường, tạo nên độc quyền,
cịn đối với những người quản lý, người ngồi doanh nghiệp, người nước ngồi nên khuyến
khích để tăng nguồn vốn của doanh nghiệp, tạo điều kiện đổi mới máy móc, đầu tư trang
thiết bị nâng cao năng suất lao động. Khuyến khích tư nhân đẩy mạnh nghiên cứu khoa học
và chuyển giao công nghệ sản xuất. Sửa đổi chế độ hoạch tốn, kế tốn nhằm khuyến khích
khấu hao nhanh để đổi mới công nghệ, phát triển thành lập các trung tâm nghiên cứu khoa
học, gắn nghiên cứu khoa học với việc chuyển giao công nghệ. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ,
xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng phù hợp với quốc tế, sử dụng kinh nghiệm quản lý
của quốc tế để áp dụng cho các doanh nghiệp. Đơn giản hoá thủ tục xuất nhập cảnh, cấp
phép lao động, thuê chuyên gia nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài làm việc cho
các tổ chức, cơ quan Việt Nam. Cải tiến thủ tục và trình tự thu thuế, hạn chế tình trạng thu
thuế ngồi thẩm quyền của các bộ ngành và địa phương.
Thứ năm: Cơ cấu lại và kiểm soát độc quyền kể cả độc quyền tự nhiên. Cần xoá bỏ
độc quyền trong kinh doanh, chỉ duy trì độc quyền ở một số ngành quan trọng phục vụ cho
quá trình phát triển kinh tế như: sản xuất và truyền tải điện năng, khai thác dầu khí, bưu
chính viễn thơng, xây dựng cơ sở hạ tầng… kiểm sốt chặt chẽ các doanh nghiệp độc quyền
thuộc Nhà nước.
Thứ sáu: Nhà nước cần phải có luật cạnh tranh với mục đích đảm bảo và duy trì mơi
trường cạnh tranh. Nội dung luật cạnh tranh cần được thường xuyên nghiên cứu, thay đổi
cho phù hợp với những biến động của môi trường cạnh tranh trong nước cũng như những
yếu tố liên quan đến nước ngoài.
Thứ bảy: Cần thành lập các hiệp hội người tiêu dùng với những hoạt động chủ yếu là
cung cấp thông tin phục vụ người tiêu dùng và kịp thời phát hiện những hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trên thị trường. Các hiệp hội này sẽ là đối trọng của các doanh nghiệp
khống chế thị trường. Kinh nghiệm các nước cho thấy hoạt động bảo vệ lợi ích người tiêu
dùng hỗ trợ rất tốt cho việc duy trì tốt mơi trường cạnh tranh lành mạnh. Bảo vệ lợi ích
người tiêu dùng và cạnh tranh là 2 vấn đề liên quan mật thiết đến nhau.
KẾT LUẬN
Cạnh tranh là một quy luật. là một phần của nền kinh tế thị trường. Nếu khơng có
cạnh tranh thì nền kinh tế sẽ khơng thể phát triển mạnh mẽ như bây giờ được. Tuy nhiên,
cạnh tranh cũng có mặt trái của nó. Cạnh tranh thường dẫn đến độc quyền, và nó được đánh
dấu bằng sự phá sản của một bên tham gia cạnh tranh, gây ra thất nghiệp, tạo gánh nặng cho
xã hội. Xét trong một quá trình lâu dài và dựa vào tồn bộ lợi ích của xã hội thì cạnh tranh
là động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, các tổ chức
kinh tế với nhau sẽ làm nguồn lực của xã hội được phân bổ và sử dụng có hiệu quả hơn.
Nhưng mặt trái do cạnh tranh đem lại là điều không đáng ngại nếu như chúng ta có một
chính sách cạnh tranh và chống độc quyền hợp lý. Nhiều nước trên thế giới đã áp dụng tốt
chính sách cạnh tranh trong phát triển kinh tế và đem lại hiệu quả cao.
Đối với Việt Nam, thực trạng hiện nay cho thấy môi trường cạnh tranh và chống độc
quyền ở nước ta còn nhiều hạn chế còn nhiều tồn tại cần tháo gỡ. Đối với chúng ta còn
nhiều việc phải làm để có một mơi trường cạnh tranh lành mạnh. nhưng trước mắt việc phải
làm là Việt Nam cần có một chính sách cạnh tranh hợp lý, cần phải có pháp luật về cạnh
tranh,, hướng dẫn các doanh nghiệp khi tham gia cạnh tranh. để cho cạnh tranh đúng với ý
nghĩa của nó là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
Tóm lại, cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là một con dao hai lưỡi, nó có là
động lực cho sự phát triển kinh tế hay khơng cịn tuỳ thuộc vào sự vận dụng quy luật này ở
mỗi nước. Nếu có chính sách cạnh tranh hợp lý thì nước đó sẽ được lợi do cạnh tranh đem
lại. Cịn nếu khơng thì nó sẽ là một cỗ máy nghiền nát nền kinh tế. Việt Nam cũng sẽ không
tránh khỏi thất bại nếu không biết vận dụng quy luật cạnh tranh. Là nước áp dụng quy luật
cạnh tranh muộn nên Việt Nam sẽ có được nhiều kinh nghiệm của những nước đi trước, từ
đó chúng ta hy vọng Việt Nam sẽ chứng minh rằng: Việt Nam chính là mảnh đất màu mở
cho cạnh tranh phát huy hết ưu điểm của nó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin
2. Tạp chí Magic – tạp chí marketing dưới góc nhìn sinh viên
3. Báo điện tử chính phủ nước Cộng hịa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam
4. Wikipedia
5. Báo dân chí
6. CAFEF – kênh thơng tin kinh tế tài chính