Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Một số Giải pháp &phát triển trang trại chăn nuôi bò thịt ở nước ta giai đoạn 2007-2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.69 KB, 59 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Chăn nuôi là một ngành kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, cung cấp cho
con nguời và xã hội về thực phẩm và mục đích khác. Là một ngành luôn chiếm vị
trí quan trọng trong đời sống xã hội.
Cùng với sự phát triển của nó, chăn nuôi sẽ ngày phải phát triển cho đến
nay vẫn chua có ngành nào thay thế đuợc nó trong việc sản xuất và cung cấp thực
phẩm.
Trong xu huớng phát triển của nền nông nghiệp, ngành trồng trót sẽ giảm
dần và ngành chăn nuôi sẽ tăng lên cả về quy mô lẫn tỷ trọng bởi vì.
- Xu huớng phát triển của xã hội loài nguời so với sản phẩm của ngành
trồng trọt, các sản phẩm của ngành chăn nuôi sẽ đuợc tiêu thụ nhiều hơn.
- Là ngành có giá trị kinh tế cao hơn ngành trồng trọt, nó sẽ có khả năng
tích luỹ vốn cho phát triển kinh tế xã hội nông thôn.
Trên tinh thần đó, việc xem xét và tim ra những uu điểm và hạn chế để phát
triển ngành chăn nuôi ở nước ta trong giai đoạn hiện nay là cần thiết. Vì lẽ đó đề
tài “Một số giải pháp &phát triển trang trại chăn nuôi bò thịt ở nước ta giai
đoạn 2007-2015’’
Mục đích nghiên cứu đề tài là: Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản
phát triển kinh te trang trai chăn nuôi . Phân tích thực trạng phát triển chăn nuôi
bò ở nuoc ta,chỉ ra những phuơng huớng và giải pháp để phát triển chăn nuôi bò ở
nuoc ta phát triển lên.
Kết cấu của đề tài bao gồm 3 chuơng chính.
Chơng I: Cơ sở lý luận chung về kinh tế trang trại và kinh tế trang trại chăn
nuôi .
Chơng II: Thực trạng va co hoi phát triển chăn nuôi bò thit o Viet Nam
200-2007
Chơng III: Muc tieu va giai phap thuc hien phat trien chan nuoi bo thit.
Để hoàn thành đề tài tốt nghiệp này em xin chân thành cảm ơn Vụ Nông Nghiệp
thuộc Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư, cảm ơn các đơn vị phòng ban trực thuộc Vụ Nông
nghiệp đã giúp đỡ thông tin cần thiết để em hoàn thành đề tài này.
Em xin cảm ơn TS Phan Thị Nhiệm là nguời trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ


em hoàn thành đề tài tốt nghiệp này.
Trong thời gian thực tập tại Vụ Nông nghiệp không tránh khỏi những phiền hà,
thiếu sót . Rất mong được sự thông cảm thứ lỗi của ban lãnh đạo, các cán bộ Vụ
Nông nghiệp . Do thời gian và kinh phí có hạn với khả năng còn nhiều hạn chế đề
tài còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết triệt để, rất mong đợc sự giúp đỡ của
Vụ Nông nghiệp ,Khoa Kinh tế &Phat Triển truờng Đại học kinh tế quốc dân Hà
Nội. Em xin chân thành cảm
PHẦN I : CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI
I. Khái niệm, bản chất của kinh tế trang trại:
a. Khái niệm về trang trại :
- Trang trại nói chung là cơ sở sản xuất nông nghiệp, ở đây nói về trang trại
trong nền kinh tế thị trờng thời kỳ công nghiệp hoá, với các khái niệm cụ thể sau:
+ Trang trại là tổ chức sản xuất cơ sở của nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá
trong thời kỳ công nghiệp hoá.
- Trang trại là đơn vị sản xuất nông nghiệp độc lập tự chủ, là chủ thể pháp lý
có t cách pháp nhân trong các quan hệ kinh tế xã hội.
- Trang trại có cơ sở vật chất kỹ thuật để đảm bảo sản xuất nông nghiệp, có tổ
chức lao động sản xuất kinh doanh, có quản lý kiểu doanh nghiệp (hạch toán kinh
tế).
- Trang trại là tổ chức sản xuất nông nghiệp có vị trí trung tâm thu hút các hoạt
động kinh tế của các tổ chức sản xuất t liệu sản xuất, các hoạt động dịch vụ và các
tổ chức chế biến tiêu thụ nông sản.
+ Trang trại là loại hình sán xuất đa dạng và linh hoạt về tổ chức hoạt động
sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp.
- Trang trại có các hình thức sở hữu t liệu sản xuất và phơng thức quản lý khác
nhau.
+ Trang trại gia đình là loại hình trang trại phổ biến nhất trong nông nghiệp ở
tất cả các nớc, thờng do các chủ gia đình làm chủ và quản lý sản xuất kinh doanh
của trang trại, sử dụng lao động gia đình là chủ yếu và có thể sử dụng lao động
thuê ngoài, sở hữu một phần hoặc toàn bộ t liệu sản xuất (ruộng đất, công cụ sản

xuất, vốn …) cũng có thể đi thuê ngoài một phần hoặc toàn bộ t liệu sản xuất trên.
+ Trang trại tu bản tu nhân là loại hình trang trai nông nghiệp ít phổ biến ở các
nớc, đến nay số lợng không nhiều thờng là các trang trại t bản t nhân, công ty cổ
phần, sản xuất kinh doanh trên cơ sở sử dụng lao động làm thuê kể cả lao động
sản xuất và lao động quản lý.
- Trang trại thờng có các qui mô khác nhau (nhỏ, vừa và lớn ) song song tồn
tại lâu dài với sự thay đổi về cơ cấu tỷ lệ và qui mô trung bình…Trang trại thờng
có các cơ cấu sản xuất khác nhau với cơ cấu thu nhập khác nhau, trong và ngoài
nông nghiệp, với phơng thức quản lý kinh doanh khác nhau (chuyên môn hoá, đa
dạng hoá sản phẩm) với trình độ năng lực sản xuất khác nhau.
Tóm lại: Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông, lâm, ng
nghiệp, có mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hoá, t liệu sản xuất thuộc quyền sở
hữu hoặc quyền sử dụng của chủ thể độc lập. Sản xuất đợc tiến hành trên qui mô
ruộng đất và các yếu tố sản xuất đợc tập trung tơng đối lớn, với cách thức tổ chức
quản lý tiến bộ và trình độ kỹ thuật cao: hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị tr-
ờng.
b- Khái niệm về kinh tế trang trại:
- Kinh tế trang trại là nền kinh tế sản xuất nông sản hàng hoá, phát sinh và
phát triển trong thời kỳ công nghiệp hoá, thay thế cho nền kinh tế tiểu nông tự cấp
tự túc.
- Kinh tế trang trại là tổng thể các quan hệ kinh tế của các tổ chức hoạt động
sản xuất kinh doanh nông nghiệp bao gồm: các hoạt động trớc và sau sản xuất
nông sản hàng hoá xung quanh các trục trung tâm là hệ thống các trang trại thuộc
các ngành, nông, lâm, ng nghiệp ở các vùng kinh tế khác nhau.
- Kinh tế trang trại là sản phẩm thời kỳ công nghiệp hoá. Quá trình hình thành
và phát triển kinh tế trang trại gắn liền với quá trình công nghiệp hoá từ thấp đến
cao. Thời kỳ bắt đầu công nghiệp hoá kinh tế trang trại với tỷ trọng còn thấp, qui
mô nhỏ và năng lực sản xuất hạn chế, nên chỉ đóng vai trò xung kích trong sản
xuất nông sản hàng hoá phục vụ công nghiệp hoá. Thời kỳ công nghiệp hoá đạt
trình độ kinh tế trang trại với tỷ trọng lớn, qui mô lớn và năng lực sản xuất lớn trở

thành lực lợng chủ lực trong sản xuất nông sản hàng hoá cũng nh hàng nông
nghiệp nói chung phục vụ công nghiệp hoá.
- Kinh tế trang trại phát triển trong thời kỳ công nghiệp hoá, phục vụ nhu cầu
sản xuất hàng hoá trong công nghiệp là phù hợp với quy luật phát triển kinh tế, là
một tất yếu khách quan của nền kinh tế nông nghiệp trong quá trình chuyển từ sản
xuất tự cấp, tự túc lên sản xuất hàng hoá.
- Kinh tế trang trại là loại hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp mới có
tính u việt hơn hẳn so với các lạo hình sản xuất nông nghiệp khác nh: Kinh tế
nông nghiệp phát canh thu tô, kinh tế t bản t nhân, đồn điền, kinh tế cộng đồng,
nông nghiệp tập thể, kinh tế tiểu nông.
- Kinh tế trang trại đến nay đã khẳng định vị trí của mình trong sản xuất hàng
hoá thời kỳ công nghiệp hoá ở các nghành sản xuất nông- lâm– ng nghiệp ở các
vùng kinh tế ở nhiều nớc trong khu vực và trên thế giới. Đã thích ứng với các trình
độ công nghiệp hoá khác nhau.
Thời gian tới bớc vào thế kỷ 21 theo dự báo của nhiều nhà kinh tế trên thế
giới, kinh tế trang trại có bớc phát triển mạnh mẽ, với số lợng ngày càng nhiều ở
các nớc đang phát triển, trên con đờng công nghiệp hoá và vấn đề còn tồn tại ở các
nớc công nghiệp hoá cao, trên cơ sở điều chỉnh số lợng và cơ cấu trang trại cho
phù hợp .
c- Khái niệm về kinh tế trang trại chăn nuôi:
- Cũng nh khái niệm về kinh tế trang trại nói chung, ta đi vào xem xét khái
niệm cụ thể về kinh tế trang trại chăn nuôi.
- Kinh tế trang trại chăn nuôi là một nền sản xuất kinh tế trong nông nghiệp
với nông sản hàng hoá là sản phẩm của chăn nuôi đại gia súc, gia cầm…Đó là
tổng thể các mối quan hệ kinh tế của các tổ chức sản xuất hoạt động kinh doanh
nông nghiệp, xét ở phạm vi chăn nuôi. Bao gồm các hoạt động trớc và sau sản
xuất nông sản hàng hoá xung quanh các trục trung tâm là hệ thống các trang trại
chăn nuôi ở các vùng kinh tế khác nhau.
- Kinh tế trang trại chăn nuôi cũng là sản phẩm của thời kỳ công nghiệp hoá,
quá trình hình thành và phát triển các trang trại gắn liền với quá trình công nghiệp

hoá từ thấp đến cao, tỷ trọng hàng hoá từ thấp đến cao cũng nh trình độ sản xuất,
qui mô và năng lực sản xuất đáp ứng đợc nhu cầu sản phẩm hàng hoá nh thịt,
trứng, sữa… trên thị trờng, phù hợp với sự phát triển kinh tế thị trờng hiện nay.
- Kinh tế trang trại chăn nuôi là một nền tảng lớn của một hệ thống kinh tế
trang trại nói chung, là một bộ phận của nền sản xuất trong nông nghiệp, khác với
các nghành sản xuất khác: Lâm nghiệp hay Thuỷ sản phụ thuộc nhiều vào điều
kiện đất đai, khí tợng và thời tiết nh đối với chăn nuôi đó chỉ là những ảnh hởng
tác động đến vật nuôi, nó phụ chính vào điều kiện chăm sóc, nuôi dõng của các
trang trại. Sản phẩm của chăn nuôi nó phục vụ trực tiếp nhu cầu tiêu dùng của đại
đa số nguời dân trong cả nớc.
- Kinh tế trang trại chăn nuôi là sự phát triển tất yếu của qui luật sản xuất hàng
hoá , trong điều kiện kinh tế thị trờng, xuất phát từ nhu cầu thị trờng, do vậy các
yếu tố đầu vào nh vốn, lao động, giống, khoa học công nghệ, cũng nh các sản
phẩm đầu ra nh thịt, trứng, sữa đều là hàng hoá.
Vậy có thể đúc kết lại khái niệm về kinh tế trang trại chăn nuôi nó là một
hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông nghiệp với mục đích chủ yếu là sản
xuất hàng hoá nh: thịt, trứng, sữa…Với qui mô đất đai, các yếu tố sản xuất đủ lớn,
có trình độ kỹ thuật cao, có tổ chức và quản lý tiến bộ, có hạch toán kinh tế nh các
doanh nghiệp.

2. Bản chất của kinh tế trang trại nói chung và kinh tế trang trại chăn nuôi
nói riêng.
a. Bản chất của trang trại nói chung.
- Kinh tế trang trại là một đơn vị sản xuất kinh doanh cơ sở trực tiếp sản xuất
trồng trọt trên đồng ruộng và chăn nuôi trang chuồng trại với qui mô lớn, trình độ
sản xuất và quản lý tiến bộ…Là hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông, lâm
nghiệp và thuỷ sản với mục đích chính là sản xuất ra hàng hoá để cung ứng ra thị
trờng. Là loại hình sản xuất hàng hoá với tỷ trọng hàng hoá chiếm từ 70% đến
80% trở lên, đáp ứng phần lớn hàng hoá ra thị trờng không chỉ ở trong nớc mà còn
xuất khẩu ra nớc ngoài.

- Kinh tế trang trại với hình thức sản xuất nông nghiệp theo kiểu tập chung,
quy mô lớn và đã có từ lâu trên Thế giới và ở Việt nam.
+ Ở Trung Quốc kinh tế trang trại có từ thời hán với các hình thức: hoàng
trang, cung trang, gia trang và điền trang
+ Ở Việt Nam kinh tế trang trại đã có từ thời Lý, Trần với các hình thức nh
thái ấp, các điền trang trong nông nghiệp. Thời nhà Lê_Nguyễn, kinh tế trang trại
tồn tại dới các hình thức nh: đồn điền, điền trang...
- Đến thời kỳ chủ nghĩa t bản : Lực lợng sản xuất phát triển thì hình thức sản
xuất tập chung qui mô lớn trong nông nghiệp theo kiểu trang trại.
- Đến Nghị quyết 10 của Bộ chính trị khoá VI (4/1988) về phát huy quyền làm
chủ kinh tế hộ, đã đặt nền móng cho sự phát triển một cách nhanh chóng. Vì vậy
kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp theo nghĩa rộng bao
gồm : Nông -Lâm; Thuỷ sản có mục đích chính là sản xuất hàng hoá, t liệu sản
xuất thuộc quyền sở hữu hay sử dụng của một chủ trang trại, sản xuất đợc tiến
hành trên qui mô ruộng đất với các yếu tố sản xuất tập chung đủ lớn, trình độ kỹ
thuật cao hơn phơng thức tổ chức sản xuất tiến bộ gắn với thị trờng có hạch toán
kinh tế theo kiểu doang nghiệp .
b. Bản chất của kinh tế trang trại chăn nuôi nói riêng
- Kinh tế trang trại chăn nuôi là một đơn vị kinh doanh cơ sở trực tiếp sản xuất
về chăn nuôi trong chuồng trại với qui mô lớn, trình độ sản xuất và quản lý tiến
bộ, là hình thức sản xuất với mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hoá là các sản
phẩm chăn nuôi để cung ứng ra thị trờng, tỷ trọng hàng hoá chiếm từ 70 đến 80%
trở lên, đáp ứng đợc sản phẩm hàng hoá ra thị trờng trong và ngoài nớc.
- Kinh tế trang trại chăn nuôi cũng đợc phát triển rất sớm, nhng với qui mô
nhỏ, tỷ trọng hàng hoá cha cao cho nên hàng hoá cung ứng ra thị trờng còn ít.
- Cho đến hiện nay thì kinh tế trang trại chăn nuôi đã phát triển cả về qui mô
số lợng, tỷ trọng hàng hoá cao, nhng tập chung chủ yếu ở các vùng đồng bằng; đối
với các khu vực trung du niềm núi phía bắc thì còn cha phát triển nhiều tuy nhiên
đã có một số trang trại chăn nuôi sản xuất kinh doanh khá hiệu quả .
II. Vai trò , đặc trng của kinh tế trang trại:

1- Vai trò của kinh tế trang trại:
- Phát triển kinh tế trang trại có vai trò rất lớn trong nền kinh tế quốc dân nó có
tác động lớn về kinh tế, xã hội và môi trờng.
- Vì nó là hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp chủ yếu của nền sản xuất
hàng hoá. Vì vậy nó có vai trò rất lớn trong việc sản xuất lơng thực, thực phẩm
cung cấp cho xã hội.
- Trang trại là tế bào quan trọng để phát triển nông nghiệp nông thôn, thực
hiện sự phân công lao động xã hội trong điều kiện nớc ta chuyển từ sản xuất tự
cấp tự túc sang sản xuất hàng hoá.
- Sự hình thành và phát triển kinh tế trang trại có vai trò cực kỳ to lớn đợc biểu
hiện :
+ Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất lấy việc khai thác tiềm năng
và lợi thế so sánh phục vụ nhu cầu xã hội làm phơng thức sản xuất chủ yếu. Vì
vậy nó cho phép huy động khai thác, đất đai sức lao động và nguồn lực khác một
cách đầy đủ , hợp lý và có hiệu quả. Nhờ vậy nó góp phần thúc đẩy tăng trởng và
phát triển kinh tế trong nông nghiệp nông thôn nói riêng và phát triển kinh tế xã
hội nói chung.
+ Trang trại với kết quả và hiệu quả sản xuất cao, góp phần chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, phát triển các loại cây trồng vật nuôi có giá trị hàng hoá cao, khắc
phục dần tình trạng manh mún tạo vùng chuyên môn hoá cao, đẩy nhanh nông
nghiệp sang sản xuất hàng hoá.
+ Qua thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trang trại tạo ra nhiều nông sản,
nhất là các nông sản làm nguyên liệu cho công nghiệp. Vì vậy trang trại góp phần
thúc đẩy công nghiệp nhất là công nghiệp chế biến và dich vụ sản xuất ở nông
thôn phát triển.
+ Kinh tế trang trại là đơn vị sản xuất có qui mô lớn hơn kinh tế hộ, vì vây có
khả năng áp dụng hiệu quả các thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất,
nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực.
+ Với cách thức tổ chức sản xuất và quản lý kinh doanh tiên tiến, trang trại là
nơi tiếp nhận và chuyền tải các tiến bộ khoa học công nghệ đến hộ nông dân thông

qua chính hoạt động sản xuất của mình.
+ Về mặt xã hội: Phát triển kinh tế trang trại làm tăng hộ giàu ở nông thôn,
tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho ngời lao động và dân c ở nông thôn, góp
phần thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn là tấm gơng cho các hộ nông
dân về cách thức tổ chức sản xuất kinh doanh tiên tiến và có hiệu quả. Tất cả
những vấn đề đó góp phần quan trọng giải quyết các vấn đề kinh tế – xã hội ở
nông thôn.
+ Về mặt môi trờng: Phát triển kinh tế trang trại góp phần cải tạo và bảo vệ
môi trờng sinh thái. Thực hiện phát triển kinh tế trang trại nớc ta đã đem lại nhiều
kết quả về kinh tế xã hội và môi trờng. Nhng phát triển kinh tế trang trại ở nớc ta
phải phù hợp với điều kiện tự nhiên kinh tế từng vùng và từng địa phơng. nhất là
những vùng địa phơng có điều kiện đất đai và điều kiện sản xuất hàng hoá .
2. Đặc trng của kinh tế trang trai nói chung và kinh tế trang trại công
nghiệp nói riêng :
a. Đặc trng của kinh tế trang trại nói chung:
Từ những khái niệm về kinh tế trang trại đã nêu ở trên ta đi vào tìm hiểu đặc trng
của kinh tế trang trại có những điểm gì khác so với các loại hình tổ chức sản xuất
nông nghiệp khác:
- Ngay khi kinh tế trang trại mới hình thành ở một số nớc công nghiệp hoá Tây
Âu, Các Mác đã là ngời đầu tiên đa ra nhận xét chỉ rõ đặc trng cơ bản của kinh tế
trang trại khác với kinh tế tiểu nông…Ngời chủ trang trại sản xuất và bán tất cả
các sản phẩm của họ làm ra và mua vào tất cả kể cả thóc giống, còn ngời tiểu
nông sản xuất và tự tiêu thụ hầu hết các sản phẩm làm ra mua, bán càng ít càng
tốt, cho đến nay trải qua hàng thế kỷ phát triển kinh tế trang trại đã chứng minh
đặc trng cơ bản cuả kinh tế trang trại là sản xuất nông sản. Hàng hoá theo nhu cầu
của thị trờng, tỷ xuất hàng hoá đạt từ 70 đến 80% trở lên, tỷ xuất hàng hoá càng
cao, càng thể hiện đợc bản chất và trình độ phát triển của kinh tế trang trại. Khác
với kinh tế tiểu nông… Là sản xuất tự túc theo nhu cầu của gia đình nông dân.
- Chủ trang trại là chủ thể kinh tế cá thể (bao gồm kinh tế gia đình và kinh tế
tiểu chủ) nắm một phần quyền sở hữu và toàn bộ quyền sử dụng đối với ruộng đất,

t liệu sản xuất, vốn và sản phẩm làm ra.
- Kinh tế trang trại sản xuất kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường của
thời kỳ công nghiệp hoá, nên mọi hoạt động đều xuất phát từ nhu cầu thị trờng
nông sản trong và ngoài nớc. Vì vậy tất cả các yếu tố đầu vào của kinh tế trang
trại (đất đai, lao động, vốn khoa học, công nghệ) cũng như yếu tố đầu ra (nông sản
thô, sản phẩm chế biến) đều là hàng hoá.
- Do đặc trng của sản xuất hàng hoá chi phối đòi hỏi phải tạo ưu thế cạnh tranh
trong sản xuất kinh doanh, để thực hiện yêu cầu tái sản xuất mở rộng, hoạt động
của kinh tế trang trại được thực hiện theo xu thế tập trung tích tụ sản xuất ngày
càng cao, tiến đến qui mô tối ưu của trang trại phù hợp với từng ngành sản xuất,
từng vùng kinh tế, từng thời kỳ công nghiệp hoá, tạo ra tỷ xuất hàng hoá cao, khối
lượng hàng hoá nhiều, chất lượng hàng hoá tốt và giá thành hạ. Đi đôi với việc tập
trung, nâng cao năng lực sản xuất của từng trang trại còn diễn ra xu thế tập trung,
các trang trại thành những vùng sản xuất hàng hoá chuyên môn hoá về từng loại
sản phẩm như lương thực, trái cây,thịt, trứng, sữa …Với khối lợng hàng hoá lớn .
- Kinh tế trang trại có nhiều loại hình khác nhau trong đó trang trại gia đình là
phổ biến, có những đặc trưng là rất linh hoạt trong tổ chức hoạt động vì có thể
dung nạp các trình độ sản xuất khác nhau về xã hội hoá, chuyên môn hoá sản xuất
nông nghiệp.
+ Dung nạp các qui mô sản xuất khác nhau: Trang trại nhỏ, vừa, thậm chí đến
cực lớn.
+ Dung nạp các cấp trình độ công nghệ sản xuất khác nhau từ thô sơ đến hiện
đại, riêng biệt hoặc đan xen.
+ Liên kết các loại hình kinh tế khác nhau (cá thể, t nhân, hợp tác, quốc doanh
với các hình thức hợp tác sản xuất kinh doanh đa dạng).
+ Chính vì vậy mà kinh tế trang trại có khả năng thích ứng với các trình độ,
với các thời kỳ công nghiệp hoá từ thấp đến cao, ở các nước đang phát triển cũng
như các nước công nghiệp phát triển.
- Kinh tế trang trại có đặc trưng là tạo ra năng lực sản xuất cao về nông sản hàng
hoá do các đặc điểm về tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh của các trang trại

quyết định. Chủ trang trại, chủ doanh nghiệp là người có ý chí, năng lực tổ chức
quản lý, có kiến thức và kinh nghiệm nhất định về sản xuất kinh doanh nông
nghiệp và thường là người trực tiếp quản lý trang trại. Trang trại gia đình có tổ
chức quản lý sản xuất kinh doanh thích hợp, tiến bộ và sử dụng có hiệu quả hơn
các tư liệu sản xuất (đất đai, vốn ,công nghệ …) Chọn và ứng dụng có hiệu quả
các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, tạo ra năng lực sản xuất và hiệu quả
kinh tế cao của các trang trai, thể hiện qua các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật chủ yếu về
sản lượng, năng xuất và giá thành sản phẩm.
- Tổ chức quản lý sản xuất của trang trại tiến bộ hơn, trang trai có nhu cầu cao
hơn nông hộ về ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và thường xuyên tiếp cận với thị trường
biểu hiện.
+ Do mục đích của trang trại là sản xuất hàng hoá, nên hầu hết các trang trại
đều kết hợp giữa chuyên môn hoá với phát triển tổng hợp, đây là điểm khác biệt
so với hộ sản xuất tự túc, tự cấp.
+ Do sản xuất hàng hoá đòi hỏi các trang trại phải ghi chép hạch toán kinh
doanh, tổ chức sản xuất khoa học trên cơ sở những kiến thức về nông học, kinh tế
thị trường.
+ Sự hoạt động của trang trại đòi hỏi phải tiếp cận với thị trường để biết được
thị trường cần những sản phẩm gì, số lượng bao nhiêu, chất lượng và chủng loại,
giá cả và thời điểm cung cấp như thế nào… Nếu chủ trang trại không có những
thông tin về các vấn đề trên, hoạt động kinh doanh sẽ không có hiệu quả. Vì vậy
tiếp cận thị trường là yêu cầu cấp thiết đối với các trang trại nói chung, chủ trang
trại nói riêng.
b- đặc trưng của kinh tế trang trại chăn nuôi nói riêng:
Trên cơ sở khái niệm về kinh tế trang trại nói chung và kinh tế trang trại chăn
nuôi nói riêng mà chúng ta đi vào tìm hiểu đặc trưng kinh tế trang trại chăn nuôi
được thể hiện qua những điểm sau:
- Kinh tế trang trại chăn nuôi có đặc trưng là sản xuất sản phẩm hàng hoá mà
sản phẩm nó là các loại thịt, trứng, sữa… đáp ứng được nhu cầu của thị trờng,
như vậy để đáp ứng được nhu cầu của thị trờng thì quy mô trang trại chăn nuôi

phải ở mức độ tương đối lớn, khác biệt với hộ gia đình.
- Kinh tế trang trại chăn nuôi sản xuất các sản phẩm thịt, trứng, sữa… trong
điều kiện kinh tế thị trường thời kỳ công nghiệp hoá nên mọi hoạt động sản xuất
kinh doanh đều xuất phát nhu cầu thị trường. Chính vì vậy tất cả các yếu tố đầu
vào như vốn, lao động, giống, khoa học công nghệ… cũng như các yếu tố đầu ra
như sản phẩm thịt, trứng , sữa… đều là sản phẩm hàng hoá.
- Do đặc trưng sản xuất hàng hoá ngành chăn nuôi chi phối mà phải đòi hỏi tạo
ra ưu thế cạnh tranh trong sản xuất và kinh doanh, để thực hiện yêu cầu tái sản
xuất mở rộng, hoạt động kinh tế trang trại chăn nuôi theo xu thế tích tụ, tập trung
sản xuất kinh tế ngày càng cao, tạo ra tỷ xuất hàng hoá cao, khối lượng hàng hoá
ngày càng nhiều, chất lượng tốt. Đi đôi với việc tập trung, nâng cao năng lực sản
xuất của từng trang trại còn diễn ra xu thế tập trung các trang trại thành các vùng
chuyên môn hoá về từng loại như vùng chuyên canh nuôi đại gia súc như: trâu, bò
…vùng thì chuyên môn hoá nuôi lợn nái sinh sản, lợn thịt, sữa với mục đích tạo ra
khối lượng hàng hoá lớn .
- Kinh tế trang trại chăn nuôi cũng có nhiều loại hình khác nhau trong đó trang
trại gia đình vẫn là phổ biến, có đặc trng rất linh hoạt trong từng hoạt động, vì có
thể dung nạp các trình độ sản xuất khác nhau về xã hội hoá, chuyên môn
hoá..Dung nạp các quy mô sản xuất trang trại chăn nuôi khác nhau như các trang
trại chăn nuôi nhỏ, vừa và lớn và thậm chí đến cực lớn. Dung nạp các cấp độ công
nghệ sản xuất khác nhau từ thô sơ đến hiện đại, riêng biệt hoặc đan xen. Liên kết
các loại hình kinh tế khác nhau cá thể,tư nhân, hợp tác quốc doanh…Với các hình
thức hợp tác sản xuất kinh doanh đa dạng. Chính vì vậy mà kinh tế trang trại chăn
nuôi có khả năng thích ứng với các nước đang phát triển và ở các nước công
nghiệp phát triển .
- Kinh tế trang trai chăn nuôi có đặc trưng là tạo ra năng lực sản xuất cao về
nông sản hàng hoá mà chủ yếu là sản phẩm thịt, trứng, sữa …do đặc điểm về tính
chất quản lý sản xuất kinh doanh của trang trại quyết định. Chủ trang trại là người
có ý chí, có năng lực tổ chức quản lý, có kiến thức và có kinh nghiệm trong sản
xuất chăn nuôi, cũng như kinh doanh trong cơ chế thị trường.

III-Điều kiện ra đời và phát triển kinh tế trang trại nói chung và trang trại
chăn nuôi nói riêng:
1-Điều kiện ra đời và phát triển kinh tế trang trại nói chung :
a-Điều kiện về môi trường pháp lí.
- Có sự tác động tích cực và phù hợp của nhà nước .
- Có quỹ ruộng đất cần thiết và chính sách tập trung ruộng đất .
- Có sự hỗ trợ của công nghiệp chế biến.
- Có sự phát triển nhất định của kết cấu hạ tầng, trước hết là giao thông, thuỷ lợi
.
- Có sự hình thành vùng sản xuất nông nghiệp chuyên môn hoá.
- Có sự phát triển nhất định của các hình thức liên kết kinh tế trong nông
nghiệp .
- Có môi trường pháp lý thuận lợi cho các trang trại ra đời và phát triển.
b-Các điều kiện đối với chủ trang trại và trang trại:
- Chủ trang trại phải là người có ý chí quyết tâm làm giàu từ nghề nông
- Chủ trang trại phải có sự tích luỹ nhất định về kinh nghiệm sản xuất về tri
thức và năng lực tổ chức sản xuất kinh doanh.
- Có sự tập chung nhất định về quy mô các yếu tố sản xuất trước hết là tiền
vốn và ruộng đất, đây là một điều kiện rất cần thiết đối với một trang trại.
- Quản lý sản xuất kinh doanh của trang trại phải dựa trên cơ sở hạch toán kinh
tế (lỗ, lãi) và phân tích kinh doanh như các doanh nghiệp.
2- Điều kiện ra đời và phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi nói riêng:
* Cũng như điều kiện ra đời và phát triển kinh tế trang trại nói chung, đối với
trang trại chăn nuôi nói riêng, cũng kế thừa trên cơ sở các điều kiện ra đời và phát
triển của kinh tế trang trại nói chung, kinh tế trang trai chăn nuôi ra đời và phát
triển cần có các điều kiện sau:
a-Điều kiện môi trờng pháp lí :
- Các trang trại chăn nuôi sản xuất kinh doanh phải thoả mãn sản phẩm hàng
hoá với tỷ trọng hàng hoá từ 70 đến 80% trở lên, các yếu tố đầu vào, đầu ra là
hàng hoá.

- Các trang trại chăn nuôi sản xuất kinh doanh phải đảm bảo được lợi nhuận
theo yêu cầu để đáp ứng đợc nhu cầu tái sản xuất mở rộng.
- Có sự hỗ trợ của công nghệ chế biến. Đây là một điều kiện mà đối với các
trang trại hiện nay phát triển với quy mô lớn. Cần phải có sự hỗ trợ của công
nghiệp chế biến để có thể đáp ứng đợc các loại sản phẩm về chủng loại và về chất
lợng.
- Có sự hình thành vùng sản xuất nông nghiệp chuyên môn hoá như chuyên
môn hoá về nuôi trâu, bò, ngựa …và chuyên môn hoá về nuôi lợn nái sinh sản,
lợn thịt, lợn thịt xuất khẩu, lợn sữa, gia cầm như gà, vịt.
- Có sự phát triển nhất định của kết cấu hạ tầng mà trước hết là giao thông,
thuỷ lợi…Đặc biệt là hệ thống giao thông là điều kiện quan trọng phát triển cho
ngành chăn nuôi nói riêng và nông nghiệp và các ngành khác nói chung, muốn có
sự phát triển thì hệ thống giao thông phải phát triển, hàng hoá tiêu thụ dễ dàng với
chi phí thấp, giá thành hạ, lợi nhuận cao.
- Có môi trường pháp lý thuận lợi khuyến khích, thúc đẩy kinh tế trang trại
chăn nuôi ra đời và phát triển .
- Có sự tác động tích cực và phù hợp của nhà nước thông qua các chính sách
tác động, khuyến khích, hỗ trợ giúp các trang trại chăn nuôi ra đời hình thành và
phát triển.
b-Điều kiện vói trang trại và chủ trang trại chăn nuôi:
- Chủ trang trại phải là người có ý chí quyết tâm làm giàu từ nghề nông, cụ thể
là từ chăn nuôi phát triển tới một trình độ quy mô một trang trại chăn nuôi.
- Chủ các trang trại chăn nuôi phải có sự tích luỹ nhất định về kinh nghiệm sản
xuất và kinh doanh về tri thức và năng lực tổ chức sản xuất kinh doanh.
- Có sự tập trung nhất định về quy mô các yếu tố sản xuất trước hết là tiền
vốn và đất đai.
- Quản lý sản xuất kinh doanh của các trang trại chăn nuôi phải dựa trên cơ sở
hạch toán kinh tế (lỗ, lãi) và phân tích kinh doanh.
IV-Các loại hình kinh tế trang trại nói chung và chăn nuôi nói riêng:
1-Xét về tính chất sở hữu:

Xét về tính chất sở hữu thì đối với kinh tế trang trại nói chung và kinh tế trang
trại chăn nuôi nói riêng nó cũng bao gồm các loại hình sau:
a-Trang trại gia đình :
- Là loại hình trang trại chủ yếu trong nông, lâm, ngư nghiệp với các đặc trưng
được hình thành từ hộ nông dân sản xuất hàng hoá nhỏ mỗi gia đình là một chủ
kinh doanh có tư cách pháp nhân do chủ hộ hay ngời có uy tín ,năng lực trong gia
đình đứng ra làm quản lý.
+ Ruộng đất tuỳ theo thời kỳ có nguồn gốc khác nhau (từ địa chủ thực dân
chuyển cho nông dân, từ nhà nớc giao do thừa kế, mua bán chuyển nhượng) Quy
mô ruộng đất khác nhau giữa các trang trại ở các nước và ngay cả trong một nước,
nhưng so với các loại hình trang trại khác, trang trại gia đình thường có quy mô
ruộng đất nhỏ hơn.
+ Vốn của trang trại do nhiều nguồn vốn tạo nên, như vốn của nông hộ tích
luỹ thành trang trại, vốn vay và vốn cổ phần, vốn liên kết và vốn trợ cấp khác.
Nhưng trang trại gia đình nguồn vốn tự có chiếm tỷ trọng lớn chủ yếu tích luỹ
theo phơng châm “Lấy ngắn nuôi dài “ Điều tra 3044 trang trại năm 1999 cho thấy
vốn tự có của chủ trang trại chiếm 91,34%, có nơi như Đắk Lắk chiếm 96% có
nơi tỷ trọng vốn tự có nhỏ cũng chiếm 79,9% như Sơn La. Cho đến nay thì tỷ
trọng vốn tự có của chủ gia đình các trang trại nói chung và chăn nuôi nói riêng
giảm dần và tăng dần tỷ lệ vốn vay của các trang trại để đầu tư cho phát triển sản
xuất kinh doanh.
+ Sức lao động của các trang trại cùng do nhiều nguồn, của trang trại và thuê
mớn, nhưng trang trại gia đình lao động chủ yếu từ nguồn lao động của trang trại,
lao động thuê mướn chủ yếu là lao động thời vụ, lao động thuê thường xuyên chỉ
ở trang trại gia đình có quy mô lớn, kinh doanh sản phẩm mang tính liên tục
(trồng hoa, chăn nuôi bò sữa … )
+ Quản lý trang trại tuỳ theo quy mô khác nhau, có các hình thức quản lý khác
nhau, những trang trại gia đình do chủ thể gia đình trực tiếp quản lý, nếu chủ thể
gia đình không có điều kiện trực tiếp quản lý thì giao cho một thành viên trong gia
đình có năng lực và uy tín quản lý .

b. Trang trại uỷ thác cho người nhà, bạn bè quản lý sản xuất kinh doanh từng
việc theo từng vụ liên tục hay nhiều vụ.
- Loại trang trại này thường có quy mô nhỏ, đất ít nên chuyển sang làm nghề
khác, nhưng không muốn bỏ ruộng đất, vì sợ sau này muốn trở về khó đòi, hay
chuộc lại ruộng đất. Ở nhiều nước hình thức này trở nên phổ biến, đặc biệt là các
nước châu á như ở Đài Loan 75% chủ trang trại gia đình áp dụng hình thức này.
2- Xét về loại hình sản xuất :
+ Trang trại sản xuất cây thực phẩm , các trang trại loại này thường ở vùng sản
xuất thực phẩm trọng yếu , xung quanh các khu đô thị, khu công nghiệp và gần thị
trường tiêu thụ .
+ Trang trại sản xuất cây công nghiệp (chè, cà phê, cao su, mía …)thường
phát triển ở vùng cây công nghiệp gắn với hệ thống chế biến.
+ Trang trại sản xuất cây ăn quả nằm ở vùng cây ăn quả tập trung, có cơ sở
chế biến và thị trường tiêu thụ thuận lợi.
+ Trang trại nuôi trồng sinh vật cảnh thờng phát triển ở gần các khu đô thị, các
khu di tích, thuận lợi cho việc tiêu thụ.
+ Trang trại nuôi trồng đặc sản (hươu, trăn, rắn, ba ba, dê, cây dợc liệu…)
nằm ở những nơi thuận lợi cho nuôi trồng và tiêu thụ.
+ Trang trai nuôi trồng thuỷ sản: Tôm,cá…Loại này thì phất triển khá phổ
biến ở các vùng đồng bằng, trung du và miền núi nhưng mạnh nhất là ở đồng bằng
và các vên biển.
+ Trang trại chăn nuôi : Đây là loại hình trang trại đang được phát triển rất
mạnh trong cả nước, nhưng cha thực sự chuyên môn hoá mà chủ yếu phát triển
chăn nuôi tổng hợp kết hợp với trồng trọt. Loại này được phân ra các loại hình sau
- Trang trại chăn nuôi đại gia súc như: Trâu, bò…loại hình này phát triển
mạnh ở các cùng đồng bằng, trung du miền núi nơi có đồng cỏ chăn thả và có thị
trường tiêu thụ.
- Trang trại chăn nuôi gia súc như lợn ; loại hình này thì phát triển tập trung ở
các vùng đồng bằng và trung du có địa hình thấp và có thị trường tiêu thụ dễ dàng.
- Trang trại chăn nuôi gia cầm; Gà, vịt loại hình này còn cha phát triển mạnh ở

nước ta hiện nay, tuy nhiên cũng đã phát triển tập trung ở các vùng đồng bằng, nơi
có thị trường tiêu thụ thuận lợi.
- Trang trại kinh doanh nông nghiệp tổng hợp; loại hình này thường phát triển
mạnh ở các vùng trung du, miền núi có điều kiện về đất đai nhưng thị trường tiêu
thụ còn hạn chế.
- Trang trại kinh doanh nông, công nghiệp và dịch vụ đa dạng, nhưng hoạt
động nông nghiệp vẫn là chủ yếu.
V-Tình hình phát triển kinh tế trang trại nói chung và trang trại chăn nuôi
nói riêng ở nước ta và một số nuớc trên thế giới :
1-Tình hình phát triển kinh tế trang trại nói chung và trang trại chăn nuôi
nói riêng ở nớc ta:
a-Tình hình phát triển kinh tế trang trại nói chung ở nước ta :
Ở nước ta hiện nay, phần lớn các nông hộ đều là các hộ tiểu nông. Tuy nhiên,
trên thực tế đã và đang có xu hướng hình thành các hộ sản xuất hàng hoá theo kiểu
trang trại. Các trang trại xuát hiện không những ở những vùng sản xuất hàng hoá,
mà cả ở những vùng sản xuất hàng hoá cha phát triển, không những ở vùng có
diện tích đất bình quân đầu người cao mà còn ở những có diện tích bình quân đầu
người thấp do hiện nay luật đất đai đã phát triển và ưu đãi cho các hộ có nhu cầu
thuê mớn đất đai để phát triển sản xuất.
- Vùng trung du và miền núi: Về thực chất đã xuất hiện các trang traị từ trước
những năm đổi mới kinh tế nhưng quy mô còn nhỏ bé dới hình thức các mô hình
kinh tế gia đình kiểu vườn rừng, vườn đồi …Trong những năm đổi mới kinh tế
trang trại trong vùng phát triển mạnh hơn các vùng khác và hình thành ba dạng
chủ yếu. Từ các hộ vùng đồng bằng lên xây dựng vùng kinh tế mới, các hộ vốn là
thành viên của các lâm trường, nông trường, một số tư nhân đến xin nhận hoặc
thuê đất lập trại để tiến hành sản xuất kinh doanh.
Phương hướng kinh doanh chủ yếu dới dạng : kinh doanh tổng hợp theo phơng
thức nông –lâm kết hợp; chuyên trồng cây ăn quả; chuyên trồng cây công nghiệp;
chuyên chăn nuôi đại gia súc…và trồng cây lâm nghiệp
- Vùng ven biển: Tuỳ theo điều kiện của từng vùng các nông, ngư trại…Phát

triển theo quy mô và đặc điểm khác nhau. Trong đó vùng ven biển miền Bắc vùng
Đông Nam Bộ và vùng đồng bằng Sông Cửu Long đã tương đối phát triển và phân
thành hai loại: Hội kinh doanh lớn chuyên về nuôi trồng thuỷ sản và hải sản, hộ ít
vốn có sự kết hợp nuôi trồng thuỷ sản với sản xuất nông nghiệp. Quy mô ở ven
biển Đông Nam Bộ và đồng bằng Sông Cửi Long gấp 2-3 lần vùng ven biển Bắc
Bộ. Vùng ven biển Miền Trung sự phát triển các ngư trại còn hạn chế .
- Vùng đồng bằng : Đã xuất hiện các trang trại trồng trộ và chăn nuôi nhưng
quy mô nhỏ hơn trong đó có sự kết hợp với nghành nghề phi nông nghiệp.
Kinh tế trang trại đã trở thành nhân tố mới cho sự phát triển kinh tế ở nônh
thôn. Phát triển kinh tế trang trại là động lực mới nối tiếp và phát huy động lực
kinh tế hộ, là điểm đột phá trong bớc chuyển nông nghiệp sang sản xuất hàng hoá.
Các trang trại đã tạo ra khối lượng nông sản hàng hoá từng bước đáp ứng nhu cầu
trong nước và xuất khẩu.
Chủ trang trại có cơ cấu xuất thân rất đa dạng, trong đó chủ trang trại có
nguồn gốc xuất thân từ hộ nông dân làm ăn giỏi là chủ yếu chiếm tới 71,19%.
Ngoài ra chủ trang trại còn là các thành phần xuất thân khác như các cán bộ hưu
trí, công chức, đương chức, nhưng cũng đều xuất thân từ nông dân.
Quy mô các trang trại ở mức độ khác nhau, tuỳ theo từng loại hình kinh
doanh ,vùng và thành phần xuất thân. Nhưng nhìn chung các trang trại có quy mô
nhỏ là chủ yếu, quy mô diện tích của các trang trại không đồng đều và phụ thuộc
vào nghành nghề chuyên canh cây trồng hay vật nuôi. Có những loại trang trại lấy
chăn nuôi làm nghề chính thì diện tích chỉ có 1 đến 2ha. ở các tỉnh miền núi phía
Bắc phát triển mạnh các loại hình trang trai trồng rừng. ở đồng bằng sông Cửu
Long phát triển các trang trại lấy sản xuất lương thực làm trọng điểm và kết hợp
với trồng cây ăn quả, gắn liền với điều kiện thiên nhiên hình thành và phát triển
trang trại nuôi trồng đánh bắt hải sản, thuỷ sản. Có những trang trại có quy mô lên
đến 1.860ha. Ở Tây Nguyên với chủ trương giao đất, nhất là trồng rừng, thực hiện
chơng trình phủ xanh đất trống đồi trọc đã giúp cho nhiều trang trại phát triển theo
hướng sản xuất hàng hoá làm mục tiêu.
Về số lượng thì ở nước ta tính đến năm 1989 thì cả nớc có 5215 trang trại các

loại như trang trại trông cây lương thực, và trang trại kết hợp trồng cây ăn quả,
trang trại thuỷ sản …Cho đến năm 1992 cả nước đã có 13.246 trang trại các loại
nhiều gấp 2,53 lần so với năm 1989. Đên ngày 01/07/2002 cả nước có 97.167
trang trại tăng gấp 6,8 lần so với năm 1992. Đến năm 2004 có Nghị Quyết
03/2004/NQ-CP. Về kinh tế trang trại và thôn t liên tịch số 69/2004/TTLT-TCTK
của Bộ NN&PTNT và Tổng Cục thống kê ra để hướng dẫn tiêu chí xác định kinh
tế trang trại thì cả nước tính đến thời điểm 01/10/2006. Cả nước có 70.762 trang
trại đạt tiêu chí trong đó.
+ 21.798 trang trại trồng cây hàng năm.
+ 16.614 trang trại trồng cây lâu năm.
+ 16.951 trang trại nuôi trồng thuỷ sản.
+ 2006 trang trại trồng cây lâm nghiệp.
+ 2762 trang trại chăn nuôi.
+ 1630 trang trại lâm nghiệp.
Trong đó quy mô bình quân một trang trại 6,2 lao động; lao động thuê ngoài
bình quân 3,4 lao động; Quy mô về vốn bình quân một trang trại đầu tư sản xuất là
136,5 triệu đồng; Quy mô đất đai bình quân một trang trại 6,08ha (trong đó bao
gồm đất đai và diện tích mặt nước ) các trang trại sử dụng 369,6 nghìn ha đất tạo
ra 4965,9 tỷ đồng. Giá trị hàng hoá : Bình quân một trang trại 81,7triệu đồng giá
trị hàng hoá. Tổng số các trang trại sử dụng 374.701 lao động trong đó 168.634
lao động là của hộ gia đình ;Còn 206.067 lao động thuê ngoài.
Tính đến năm 2002 cả nước có khoảng 113.000 trang trại trông đó các tỉnh
phía Bắc từ Thừa Thiên Huế trở ra có 67.000 trang trại với mức vốn đầu tư bình
quân 116,22 triệu đồng. Điều đó phản ánh trình độ đầu tư thâm canh, áp dụng tiến
bộ kỹ thuật theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của các trang trại trong hơn
10 năm qua đã dần dần tăng lên.
Quá trình chuyển kinh tế hộ sang kinh tế trang trại đã trở thành xu hướng nh-
ưng còn có những mặt hạn chế sau:
- Vẫn còn có những nhận thức chưa đúng về trang trại và kinh tế trang trại,
băn khoăn về việc phát triển kinh tế trang trại ở nước ta.

- Quỹ đất đai còn hạn hẹp đang là một trong những nguyên nhân hạn chế
phát triển kinh tế theo hướng trang trại.
- Việc quy hoạch, định hướng các vùng sản xuất hàng hoá tập trung chưa tốt
- Thị trường hàng hoá nông sản không ổn định, sản phẩm làm ra khó tiêu thụ,
quan hệ giữa nông dân với các tổ chức thương mại, các doanh nghiệp chế biến ch-
ưa thoả đáng gây trở ngại co sản xuất và sự đầu tư theo hướng sản xuất hàng hoá.
- Trình độ công nghệ còn thấp dẫn đến chất lượng nông sản kém, khó cạnh tranh
và không thích ứng với nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng nên khó tiêu
thụ.
- Các chính sách vĩ mô của nhà nước chưa thực sự tác động đồng bộ, chưa theo
kịp với yêu cầu của sản xuất, nên chưa thực sự khuyến khích hộ phát triển theo h-
ướng trang trại.
- Trình độ của chủ trang trại chưa đáp ứng được với yêu cầu của thực tế, trong
Nghị Quyết 03/2004/NQ-CP của Chính Phủ có thống nhất nhận thức về kinh tế
trang trại với ưu điểm là mặc dù vẫn dựa vào kinh tế hộ nhưng mở rộng quy mô
và nâng cao hiệu quả sản xuất hàng hoá, gắn sản xuất hàng hoá với chế biến và
tiêu thụ sản phẩm ; có tác dụng tăng thu nhập trên cơ sở sử dụng hiệu quả sử dụng
đất đai, vốn, lao động, kỹ thuật. Kinh tế trang trại cũng phân bố lại lao động dân c-
ư , góp phần xoá đói giảm nghèo ở nông thôn, quá trình chuyển dịch, tích tụ ruộng
đất là một quá trình khách quan và được chấp nhận. Chính vì vậy nhà nước đảm
bảo một số chính sách khuyến khích lâu dài đối với kinh tế trang trại đó là về đất
đai, thuế đầu tư tín dụng, lao động, khoa học công nghệ, môi trường, thị trường và
bảo hộ tài sản của trang trại .
Kinh tế trang trại như đã nói thì tính ưu việt “vợt trội”so với kinh tế cá thể hoặc
hộ nông dân ở chỗ mở rộng được quy mô sản xuất, gắn được sản xuất với ché biến
và tiêu thụ, sử dụng hiệu quả đất trống hoang hoá, sức lao động dư thừa , tiền vốn
đầu tư từ nông dân. Mặt khác chính ở đây cũng phát huy được động lực kinh tế để
phân phối lại lao động, giảm nhẹ thất nghiệp và đặc biệt là nơi áp dụng tiến bộ kỹ
thuật để nâng cao chất lượng hàng hoá và năng xuất lao động. Đó chính là phư-
ơng thức sản xuất tiến bộ sẽ phát triển tốt nếu nhà nước đảm bảo việc tổ chức và

có chính sách khuyến khích thích đáng đi vào cuộc sống.
Sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ song nền kinh tế thị
trường đã kích thích sản xuất và đạt được sự tăng trưởng đáng kể, các chủ trương
chính sách hiện tại chưa đầy đủ, nhưng đảm bảo cho sự phát triển đúng hướng,
trước mắt là kinh tế hộ đồng loạt phát triển trên cơ sở một điều kiện công bằng
chung về thị trường về đầu tư tín dụng. Xong xã hội sẽ phân hoá và các hộ có
năng lực đầu tư, có năng lực tổ chức quản lý sẽ có lãi, tích luỹ tái sản xuất tốt hơn
do đó có tiềm năng phát triển trang trại chăn nuôi tốt hơn. Sử dụng khoa học công
nghệ cao hơn sẽ kích thích kinh tế phát triển mạnh hơn so với giai đoạn hiện nay.
Tổng thu nhập trên đơn vị diện tích sẽ ngày càng tăng cao hơn và môi trờng sinh
thái tốt hơn, bền vững đó chính là tiềm năng phát triển theo quy luật chuyển từ sản
xuất nhỏ cá thể sang sản xuất trang trại, hợp tác xã hoặc hình thức cao hơn
Về mặt xã hội kinh tế trang trại so với kinh tế hộ bình quân hiện nay có gây ra sự
chênh lệch cao hơn về giàu nghèo, nhưng nhìn chung xã hội nông thôn được cải
thiện nhanh hơn, giải quyết được việc làm, phân công lao động hợp lý hơn, tạo
điều kiện đẩy mạnh sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Nông nghiệp – Nông
thôn theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá.
b-Tình hình phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi ở nước ta:
Ở nước ta hiện nay phần lớn các trang trại chủ yếu là trồng cây lương thực,
cây hàng năm, cây lâu năm và trang trại nuôi trồng thuỷ sản phát triển mạnh mẽ
về quy mô và số lượng, còn về trang trại chăn nuôi thì còn kém phát triển cả về
quy mô và số lượng. Chủ yếu chỉ còn mức độ hộ gia đình, hoặc với quy mô trang
trại nhưng dưới dạng kết hợp giữa chăn nuôi và trồng trọt…
Đối với khu vực trung du miền núi thì trang trại chăn nuôi còn chưa phát triển,
chủ yếu là trang trại trồng cây ăn quả, cây hàng năm có kết hợp với chăn thả gia
súc: Trâu, bò, lợn…Kết hợp việc chuyên canh về chăn nuôi mới chỉ là phơng h-
ướng hiện nay, do quy mô ruộng đất còn hạn chế, vốn và thị trờng cha phát triển.
Vùng ven biển: Trang trại chăn nuôi nói chung cũng cha phát triển lắm ở đây
chủ yếu là phát triển các trang trại nuôi trồng thuỷ hải sản là chính, hầu như trang
trại chăn nuôi ở khu vực này chưa xuất hiện.

Vùng đồng bằng: Vùng này thì trang trại chăn nuôi có phát triển hơn so với
các vùng khác. Nhng quy mô diện tích đất đai ít, thường tập chung ở các vùng đô
thị, ven đô, kinh doanh thường chuyên môn hoá như nuôi gà, thỏ, lợn, bò sữa, bò
thịt, bồ câu. Chẳng hạn như quận 12 thành phố Hồ Chí Minh có trang trại nổi
tiếng về nuôi 600 cặp bồ câu với 20m
2
đất. Đây là một điển hình với quy mô diện
tích nhỏ hẹp mà tận dụng tối đa khả năng chăn nuôi gia cầm như bồ câu của ông
Phạm Thành Châu ở trên.
Đến nay kinh tế trang trại chăn nuôi cũng đã dần dần được phát triển từ quy
mô kinh tế hộ hoặc chăn nuôi theo mô hình kết hợp VAC. Tuy nhiên vẫn còn hạn
chế về số lượng. Khi có Nghị Quyết 03/2004/NQ-CP của Chính Phủ và Thông
Tư liên tịch số 69/2004/BNN-TCTK của Bộ NN&PTNT và Tổng Cục Thống kê
đã thúc đẩy và phát triển cho các trang trại phát triển theo những định hướng của
nhà nước.
Đến nay trang trại chăn nuôi đã phát triển mạnh ở các tỉnh miền núi phía Bắc,
số lượng trang trại đã tăng lên khá nhanh chưa có con số chính xác về số lượng
các trang trại chăn nuổi tổng cả nước.
Về quy mô diện tích đất đai thì đa số các trang trại chăn nuôivới diện tích bình
quân nhỏ hẹp chỉ từ 1ha đến 2ha là chủ yếu. Và các trang trại chủ yếu vẫn là chăn
nuôi lợn chiếm đa số còn đối với các trang trại chăn nuôi đại gia súc: Trâu, bò…
Chăn nuôi gia cầm: Gà,vịt, ngan, ngỗng…Còn cha phát triển.
Về chủ trang trại chăn nuôi thì vẫn chiếm phần đa số các nông dân có vốn, có
ít kinh nghiệm trong chăn nuôi, ngoài ra có một số cán bộ hưu trí có vốn nhưng
cũng đều có nguồn gốc từ nông dân.
Hiện nay việc chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển mạnh tuy nhiên vẫn còn ở
mức độ quy mô nhỏ, hộ gia đình là chủ yếu. Việc chuyển dịch phát triển kinh tế
hộ chăn nuôi sang kinh tế trang trại đang là một vấn đề cần phải giải quyết như
vấn đề đất đai, vấn đề vốn và quan là về thị trường còn hạn chế, công nghệ chế
biến còn kém phát triển làm cho hàng hoá chưa đảm bảo về chất lượng, giá thành

cao, kinh doanh chưa hiệu quả. Việc chuyển từ kinh tế hộ chăn nuôi lên kinh tế
trang trại chăn nuôi đang là một thách thức đối với nước ta cũng như đối với các
nước đang phát triển.
2. Tình hình phát triển kinh tế trang trại ở mộy số nớc trên thế giới :
- Hiện nay trên thế giới kinh tế phát triển khá mạnh cả về quy mô số lượng và
các hình thức khác nhau như trang trại theo kiểu tư bản tư nhân khá phát triển, chủ
trang trại không trực tiếp quản lý mà thuê hoàn toàn lao động, trang trại chăn nuôi
khá phát triển nhưng chủ yếu là trang trại chăn nuôi bò sữa điển hình như ở Mỹ,
Nga, Nhật Bản …Còn đa số là phát triển trang trại sản xuất cây lương thực, cây ăn
quả, cây hàng năm, cây công nghiệp như ở Malaysia, Đài Loan…
Ở đây ta chỉ xem xét tình hình phát triển kinh tế trang trại của một số nước
trong cùng khu vực có điều kiện tự nhiên, khí hậu gần giống với Việt Nam xem
đặc thù trang trại của những nước này phát triển như thế nào.
Malaysia: Là nước ở đông nam á, có diện tích rộng 329.200km2 nhưng có ắ
diện tích đất rừng, nổi tiếng giàu tài nguyên thiên nhiên. Malaysia có khoảng
600.000 trang trại gia đình, quy mô trung bình 2 đến 3ha trên một trang trại ngoài
ra còn một số đồn điền trồng cây công nghiệp quy mô hàng trăm ha trở lên của
nhà nước và các công ty tư nhân trong và ngoài nước.
Sản phẩm công nghiệp chiếm 90% sản phẩm trồng trọt hàng năm, các trang
trại sản xuất 4triệu tấn dầu cọ và chiếm 73% sản lượng dầu cọ thế giới. 1,6 đến 1,8
triệu tấn cao su(trên diện tích 2 triệu ha),đạt giá trị xuất khẩu 3 tỷ đôla, 6,3 triệu
tấn dầu thực vật, 72 000 tấn dừa quả, 23.000 tấn hồ tiêu, 274.000 tấn ca cao. Tổng
diện tích cây ăn quả của các trang trại gia đình năm 1999 là 130.000ha, năm 2000
là 260.000ha. Ngoài cây ăn quả, cây công nghiệp các trang trại đã tự túc được
80% lương thực và 25-30% sản phẩm chăn nuôi. Nhiều cơ sở chăn nuôi gia đình
đã bắt đầu hiện đại hoá, có cơ sở đã dùng máy tính để quản lý. Nghành trồng trọt
đang phát triển cơ giơí hoá ở khâu làm đất, thu hoạch, chế biến nông sản xuất
khẩu. Như vậy có thể nói Malaysia là một nước trong cùng khu vực thế nhưng nền
kinh tế trang trại cũng chủ yếu là phát triển trang trại cây công nghiệp, cây hàng
năm. Nhưng trang trại về trồng trọt và chăn nuôi chưa phát triển vẫn ở quy mô hộ

gia đình nhưng cũng có tiến bộ về khoa học công nghệ, sử dụng máy tính để quản
lý. Vì sao Malaysia chưa phát triển về chăn nuôi tới trình độ quy mô trang trại?
Đài Loan: Là một nước châu á có diện tích 36.000 km2, trang trại gia đình là
lực lượng sản xuất nông nghiệp của Đài Loan trang trại ở Đài Loan phát triển từ
rất sớm: Năm 1952 Đài Loan có 679.750 trang trại, đến năm 1981 đã lên tới
821.564 trang trại nhưng quy mô trang trại ở Đài Loan nhỏ chỉ khoảng 1ha. Đài
Loan có các loại hình trang trại sau:
-Trang trại có ruộng đất tự có tự canh.
-Trang trại có một phần ruộng đất và thuê thêm đất để sản xuất.
-Trang trại không có đất hoàn toàn phải thuê đất để sản xuất.
-Trang trai nhận ruộng đất của hộ khác uỷ thác để sản xuất.
Hiện nay hình thức trang trại uỷ thác cho một nông dân khác làm hoặc quản
lý được phát triển để sản xuất rộng rãi và trở thành một tập quán phổ biến trong
nông thôn nhất là hình thức này sau khi được chính quyền công nhận và được bổ
xung vào đạo luật phát triển nông nghiệp của Đài Loan(1/5/1983). Có hai mức độ
uỷ thác:
-Trang trại uỷ thác cho một nông dân làm một hoặc nhiều khâu như (làm đất,
giao thông, chăm sóc, thu hoạch trong từng thời vụ) trên một phần hoặc toàn bộ
ruộng đất của mình, chi phí thanh toán theo giá thoả thuận.
- Chủ trang trại uỷ thác cho một nông dân khác quản lý theo hình thức khoán
gọn toàn bộ đất đai, hoặc toàn bộ quy trình sản xuất một cây trồng hoặc một sản
phẩm trong thời gian thoả thuận và thanh toán theo giá thoả thuận.
Nhật Bản : Nhật Bản là một nước ở châu á trang trại phát triển khá mạnh,
hiện nay Nhật Bản có 4 loại hình trang trại sau.
- Các trang trại chuyên làm nông nghiệp: Không làm việc gì khác và nguồn
thu nhập duy nhất là sản xuất nông nghiệp. Năm 1988 có 62.000 cơ sở quy mô
diện tích từ 2-3ha trở lên, bình quân 4ha, sản xuất 45% sản lượng thóc gạo của cả
nước. Ngoài ra còn có các loại trang trại chăn nuôi: Lơn, gà, bò sữa, bò thịt có quy
mô lớn và chuyên môn hoá.
- Các trang trại làm nông nghiệp chính: Thu nhập từ nông nghiệp là chủ yếu,

ngoài ra còn làm các công việc ngoài nông nghiệp nhưng thu nhập không đáng kể.
Năm 1988 có 404.000 cơ sở có quy mô từ 1-2ha. Sử dụng lao động gia đình sản
xuất nông nghiệp trong lúc thời vụ khẩn trương, lúc nông nhàn đi làm công nhân ở
các xí nghiệp hoặc làm nghành nghề thủ công ngay ở trang trại như lắp ráp linh
kiện điện tử, nghề thủ công mỹ nghệ.
- Các trang trại coi nông nghiệp là nghề phụ, còn ngoài nông nghiệp là nghề
chính: Loại này năm 1987 có 3 triệu cơ sở thường có ruộng đất (0,5-1ha).Các
trang trại giành thời gian chủ yếu làm các công việc như làm công nhân thờng
xuyên hoặc thời vụ cho các xí nghiệp công nghiệp. Sản xuất nông nghiệp chủ yếu
vào các ngày nghỉ hàng tuần,ngày lễ, nghỉ phép.
- Loại trang trại ở nông thôn của những người dân thành Phố: Những năm gần
đây loại này xuất hiện càng nhiều do những người công nhân, viên chức, nhà
buôn…Ở thành phố về nông thôn thuê những mảnh đất nhỏ để lao động sản xuất
nông nghiệp trong những ngày nghỉ cuối tuần, ngày lễ, ngày nghỉ phép để thay đổi
môi trường làm việc, lao động và sinh hoạt tránh không khí ô nhiễm ở thành phố
và tăng thêm một phần thu nhập.
Ruộng đất của các trang trại gia đình ở Nhật Bản hiện nay vẫn chủ yếu là sở
hữu riêng, số lượng lĩnh canh ít.
Qua nghiên cứu tình hình phát triển kinh tế trang trại của một số nớc có cùng
khu vực có những nhận xét chung sau đây:
- Các nớc phổ biến là trang trại gia đình trong sản xuất nông,lâm nghiệp.
- Quy mô phổ biến từ 1-3ha.
-Kinh tế trang trại đã tạo ra số lượng sản phẩm hàng hoá lớn cho xã hội như: Các
trang trại ở Malaysia chủ yếu trồng cây công nghiệp cây ăn quả với sản lượng dầu
cọ và cao su đứng hàng đầu Thế giới.
- Sau khi nghiên cứu 4 loại hình kinh tế trang trại ở Đài Loan trong đó có một
loại hình trang trại độc đáo đó là hình thức trang trại uỷ thác, đây là hình thức
trang trại mà nhân viên tại chức hoặc về hưu có thể tham khảo và vận dụng. Hình
thức này đem lại lợi ich cho cả hai phía. Người uỷ thác yên tâm công tác mà vẫn
có thu nhập từ trang trại không sợ mất quyền sở hữu và quyền sử dụng đất. Người

đợc uỷ thác có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, thâm canh tăng năng xuất cây
trồng vật nuôi mang lại lợi ích cho cá nhân và tăng sản phẩm cho xã hội.
VI-Chủ trơng,chính sách phát triển kinh tế trang trại hiện nay ở Việt nam.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và nhà nước, kinh tế hộ nông dân đã
phát huy tác dụng to lớn, tạo ra sức mạnh mới trong sự nghiệp phát triển nông
nghiệp và kinh tế nông thôn. Trên nền tảng kinh tế tự chủ của hộ nông dân đã hình
thành các trang trại được đầu tư vốn, lao động với trình độ công nghệ và quản lý
cao hơn, nhằm mở rộng quy mô sản xuất hàng hoá và nâng cao năng xuất hiệu quả

×