Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tiểu luận: Tài nguyên nước vùng Nam Bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.9 KB, 16 trang )

Bài tiểu luận Quản lý nguồn nước
Lời nói đầu:
Nước là tài nguyên đặc biệt quan trọng, quyết định đối với sự tồn tại và phát
triển của sự sống trên trái đất. Đặc điểm của tài nguyên nước là được tái tạo theo
quy luật thời gian và không gian. Tài nguyên nước là thành phần chủ yếu của môi
trường sống, quyết định sự thành công trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia. Hiện nay
nguồn tài nguyên thiên nhiên quý hiếm và quan trọng này đang phải đối mặt với
nguy cơ ô nhiễm và cạn kiệt. Nguy cơ thiếu nước, đặc biệt là nước ngọt và sạch
là một hiểm họa lớn đối với sự tồn vong của con người cũng như toàn bộ sự sống
trên trái đất. Do đó con người cần phải nhanh chóng có các biện pháp bảo vệ và
sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên nước.
Ở nước ta, khu vực Nam Bộ là khu vực có trữ lượng nước lớn, hệ thống
sông dày đặc, là khu vực điển hình của vùng sông nước Việt Nam. “Tiểu luận về
tài nguyên nước vùng Nam Bộ” giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tài nguyên nước
vùng Nam Bộ, cũng như vai trò quan trọng của nó trong cuộc sống và những vấn
đề đang gặp phải ảnh hưởng tới nguồn tài nguyên này.

Lớp LT3QL - 1 - Nhóm 6
Bài tiểu luận Quản lý nguồn nước
NỘI DUNG
I. Tổng quan điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội.
1. Điều kiện tự nhiên.
Địa hình trên toàn vùng Nam Bộ khá bằng phẳng, phía Tây giáp Vịnh Thái
Lan, phía Đông và Đông Nam giáp biển Đông, phía Bắc và Tây Bắc giáp
Campuchia và một phần phía Tây Bắc giáp Nam Trung Bộ. Đây là một vùng
đồng bằng sông nước rất đặc trưng, có diện tích tự nhiên là 6.130.000 ha và độ
phì nhiêu cao nhất trong tất cả các đồng bằng nước ta. Toàn vùng có đến 4.000
kênh rạch, dài tổng cộng 5.700km. Địa hình và thổ nhưỡng của hai tiểu vùng có
khác nhau: Đông Nam Bộ có độ cao 100m - 200m là vùng đất đỏ bazan và đất
phù sa cổ; Tây Nam Bộ (đồng bằng sông Cửu Long) có độ cao trung bình chưa


đầy 2m, là vùng đất phù sa mới. Đồi núi trong vùng không nhiều và tập trung ở
miền Đông, như núi Bà Rá (Bình Phước, 736m), núi Chứa Chan (Đồng Nai,
839m), núi Bao Quan (Bà Rịa - Vũng Tàu, 529m), núi Thị Vải (Bà Rịa - Vũng
Tàu, 461m), núi Bà Đen (Tây Ninh, 986m)... Ở miền Tây chỉ có hai điểm cao là
dãy Thất Sơn (An Giang, cao nhất là núi Cấm 718m), dãy Hàm Ninh (Kiên
Giang, cao nhất là núi Chúa 602m.
Nam Bộ nằm trong vùng đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa và cận
xích đạo, nền nhiệt ẩm phong phú, ánh nắng dồi dào, thời gian bức xạ dài, nhiệt
độ và tổng tích ôn cao. Biên độ nhiệt ngày đêm giữa các tháng trong năm thấp và
ôn hòa. Độ ẩm trung bình hàng năm khoảng từ 80 - 82%. Khí hậu hình thành trên
hai mùa chủ yếu quanh năm là mùa khô và mùa mưa. Mùa mưa từ tháng 5 đến
tháng 11, mùa khô từ tháng 12 tới tháng 4. Về mùa vụ sản xuất có khác với khu
vực Đồng bằng Bắc Bộ.
2. Điều kiện kinh tế - xã hội:
Khu vực Nam Bộ hiện nay với 19 đơn vị hành chính đã trở thành một trong
những vùng kinh tế trọng điểm của cả nước. Được tập trung ở những tỉnh thành
phố: Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa–Vũng Tàu, Bình Phước, Tây
Ninh, Long An và Tiền Giang. Vùng kinh tế có nhiều tiềm năng, lợi thế, năng
động sáng tạo, duy trì tốc độ tăng trưởng cao, tạo động lực phát triển kinh tế
chung của Việt Nam. Với giải pháp cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, là khai
thác hiệu quả tiềm năng và lợi thế của toàn vùng để phát triển ổn định và bền
Lớp LT3QL - 2 - Nhóm 6
Bài tiểu luận Quản lý nguồn nước
vững; là cầu nối để hội nhập, hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực. Có mức
tăng trưởng kinh tế trung bình 12,6%/năm, chiếm 60% sản xuất công nghiệp của
đất nước theo giá trị, 70% của doanh thu xuất khẩu của cả nước và 40% của tổng
sản phẩm nội địa của đất nước (GDP). Thu nhập đầu người bên trong khu vực
này là 31,4 triệu VNĐ/năm.
II. Tài nguyên nước N am B ộ và các vấn đề đang gặp phải .
1-Tài nguyên nước trời:

Nam Bộ có lượng mưa hàng năm dao động từ 966 - 1325mm và góp trên 70
- 82% tổng lượng nước trong suốt cả năm. Mưa phân bổ không đều, giảm dần từ
khu vực giáp ranh từ Thành phố Hồ Chí Minh xuống khu vực phía Tây và Tây
Nam. Ở khu vực Đông Nam có lượng mưa thấp nhất. Khi xuất hiện cường độ
mưa lớn xảy ra trên một số khu vực trong vùng, thường gây hiện tượng xói mòn
ở những vùng gò cao. Khi mưa kết hợp với cường triều và lũ sẽ gây ngập úng,
ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của dân cư trong vùng.
Thêm vào đó theo kết quả nghiên cứu thực hiện liên tục trong giai đoạn
1996 - 2009, do thạc sĩ Nguyễn Thị Kim Lan - Phân viện Khí tượng thủy văn và
môi trường phía Nam (Viện Khoa học khí tượng thủy văn và môi trường) - thực
hiện thì 50% lượng mưa của vùng Nam Bộ là mưa axit, điều này là hệ quả của
việc ô nhiễm môi trường do khí thải các khu công nghiệp.
2-Tài nguyên nước ngầm:
Tốc độ đô thị hóa nhanh cùng các hoạt động công nghiệp, năng lượng, giao
thông kéo theo tình trạng ô nhiễm môi trường trầm trọng. Trong đó, sự suy giảm
nguồn nước cũng như chất lượng nguồn nước ngầm đang làm ảnh hưởng không
nhỏ đến sự phát triển bền vững của các đô thị.
Cùng với sự gia tăng các đô thị trên toàn quốc là sự gia tăng dân số đô thị.
Theo đó, nhu cầu sử dụng nước không ngừng tăng. Thống kê sơ bộ cho thấy,
lượng nước khai thác sử dụng cho các đô thị từ vài trăm đến hàng triệu m
3
/năm,
trong đó khoảng 50% nguồn nước cung cấp cho các đô thị được khai thác từ
nguồn nước ngầm. Các nguồn nước ngầm được khai thác nằm ngay trong đô thị
hoặc ven đô thị. Thế nên, theo thời gian, nhiều nguồn nước đã cạn kiệt hoặc đang
bị ô nhiễm bởi sự xâm lấn quá nhanh của đô thị . Tại TP.HCM khai thác khoảng
Lớp LT3QL - 3 - Nhóm 6
Bài tiểu luận Quản lý nguồn nước
500.000 m
3

(khoảng 200 triệu m
3
/năm). Các đô thị khu vực đồng bằng Nam Bộ
cũng đang khai thác khoảng 300.000 m
3
/ngày (110 triệu m3/năm). Các kết quả
nghiên cứu quan trắc mới nhất cho thấy, tại TP.HCM, Hòn Gai, Cà Mau, Sóc
Trăng, Bạc Liêu… Bên cạnh đó nền sản xuất nông nghiệp cũng góp phần gây ô
nhiễm nguồn nước ngầm như sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật không
khoa học. Vì vậy nguồn nước ngầm đang có những dấu hiệu cạn kiệt, ô nhiễm,
nhiễm mặn. Mực nước của các tầng chứa nước khai thác bị hạ thấp liên tục theo
thời gian.
Hiện tượng suy giảm chất lượng nước cũng khá rõ, đặc biệt là ô nhiễm
Asen và vật chất hữu cơ, các hợp chất nitơ. Các kết quả nghiên cứu đã chỉ ra
rằng, sự nâng cao của nồng độ Asen trong nguồn nước tại TP.HCM… Các thành
phần hóa học khác như NH
4
, NO
2
cũng có sự biến động rõ rệt.
3-Tài nguyên nước mặt:
Toàn vùng có hai hệ thống sông lớn nhất là hệ thống sông Đồng Nai và hệ
thống sông Cửu Long. Hệ thống sông Đồng Nai ở khu vực Đông Nam Bộ có
lượng phù sa khá thấp, tốc độ bồi lắng ven biển khá chậm, nhưng nhờ lòng sông
sâu nên là nơi tập trung các cảng chính của khu vực như cảng Sài Gòn, cảng Cát
Lái, cảng Hiệp Phước, cảng Phú Mỹ... Hệ thống sông Cửu Long đóng vai trò rất
quan trọng trong quá trình hình thành đồng bằng sông Cửu Long mà diện tích lên
Lớp LT3QL - 4 - Nhóm 6
Bài tiểu luận Quản lý nguồn nước
tới 39.734km². Với lượng nước trung bình hằng năm vào khoảng 4.000 tỷ m

3
,
vận chuyển khoảng 100 triệu tấn phù sa, sông Cửu Long đã phối hợp với biển
Đông để tạo ra những vạt đất phù sa phì nhiêu dọc theo đê ven sông, các giồng
cát ven biển và đất phèn trên trầm tích đầm mặn trũng thấp như vùng Đồng Tháp
Mười, tứ giác Long Xuyên, Tây Nam sông Hậu và bán đảo Cà Mau. Điểm bất lợi
là lượng phù sa bồi lắng quá lớn làm cạn các luồng lạch và cửa biển.
*Hệ thống sông Đồng Nai
Toàn cảnh hệ thống sông Đồng Nai
Chiếm gần đại bộ phận miền Đông Nam Bộ, sông Đồng Nai có một vị trí
khá quan trọng về mặt tài nguyên nước, nguồn điện năng và về mặt giao thông
thủy.
Sông Đồng Nai bắt nguồn từ vùng núi phía Bắc thuộc cao nguyên Lang
Biang (Nam Trường Sơn) ở độ cao 1.770m. Hướng chảy chính của sông là Đông
Bắc - Tây Nam và Bắc - Nam. Sau khi hợp hai nhánh Đa Nhim và Đa Dung,
sông Đồng Nai vòng bao lưu vực sông La Ngà, chảy qua nhiều thác ghềnh, mà
thác cuối cùng nổi tiếng là thác Trị An cách Biên Hòa 30km. Qua Trị An, sông
Đồng Nai chảy vào đồng bằng. ở thượng lưu thác Trị An, sông Đồng Nai có
nhánh lớn La Ngà gia nhập, với diện tích lưu vực 4.100km
2
. Ở hạ lưu thác Trị
An, lại nhận thêm nhánh sông Bé với diện tích lưu vực 8.200km
2
. Về phía Tây
Lớp LT3QL - 5 - Nhóm 6
Bài tiểu luận Quản lý nguồn nước
lưu vực có sông Sài Gòn bắt nguồn từ cao nguyên Hớn Quản chảy song song với
sông Bé và đổ vào sông Đồng Nai. Từ thượng nguồn đến hợp lưu với sông Sài
Gòn, dòng sông chính dài khoảng 530 km. Đoạn sông Đồng Nai từ đó đến chỗ
gặp sông Vàm Cỏ có tên là sông Nhà Bè. Đoạn này dài khoảng 34 km. Sông Sài

Gòn và sông Vàm Cỏ chảy trong đồng bằng thấp nên thủy triều ảnh hưởng lên
đến tận nguồn. Cũng có ý kiến cho rằng sông Vàm Cỏ trước đây là phân lưu của
sông Cửu Long, về sau sông chuyển dòng về phía Tây Nam.
Hệ thống phân lưu ở cửa sông Đồng Nai rất phức tạp giữa vùng cửa Xoài
Rạp và mũi Ô Cấp hai bên bán đảo Cần Giờ, với những diện tích rộng lớn chằng
chịt rừng tràm, rừng đước.
Toàn bộ chiều dài sông Đồng Nai đến cửa Xoài Rạp ước khoảng 586km,
diện tích lưu vực cho đến ngã ba Lòng Tàu là 29.520 km
2
. Độ dốc trung bình của
lưu vực là 0,064. Mật độ lưới sông thay đổi từ 0,64 km/km
2
đến xấp xỉ 2 km/km
2
.
Lưu vực sông Đồng Nai có lượng mưa tương đối phong phú với trung tâm
mưa lớn nhất tại Bảo Lộc trên cao nguyên Di Linh. Lượng mưa đạt tới
2.876 mm mỗi năm. Ở thượng nguồn lưu vực phía nam cao nguyên Lang Biang,
lượng mưa vào loại trung bình: 1.300 mm đến 1.800 mm. Sau cao nguyên Di
Linh, lượng mưa có giảm, nhưng vẫn còn phong phú từ 2.000 -
2.300 mm.
Tính trung bình, hằng năm trên lưu vực lượng mưa đạt xấp xỉ 2.300 mm.
Mùa mưa trên lưu vực bắt đầu từ tháng V và kết thúc vào tháng XI có lượng
nước chiếm 80-85% tổng lượng nước cả năm. Tháng có lượng nước lớn nhất
trong năm thường là tháng IX, có nơi tháng X, và có thể đạt từ 25 - 30% lượng
nước năm.
Hệ thống sông Đồng Nai có khá nhiều phụ lưu. Số phụ lưu có chiều dài
dòng sông trên 10km tới 233 con. Tuy vậy trong số các phụ lưu này, đáng kể
cũng chỉ có một vài sông lớn như Đa Nhim, La Ngà, Đak Nông, Đạ Huoai, Bé,
Sài Gòn và hệ thống Vàm Cỏ - Đa Nhim (mà thượng lưu còn gọi là Đa E Cấp,

bắt nguồn từ dãy núi Jaric (1930m).
Tóm lại về mặt hình thái, đây là một sông lớn, song lưu vực hầu như ở trên
lãnh thổ nước ta. Đồng Nai có dạng một sông già, được thanh xuân hóa dưới tác
dụng của tân kiến tạo. Đây là vùng được nâng lên là chủ yếu, nên độ cao bình
Lớp LT3QL - 6 - Nhóm 6

×