Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tieu luan cao học,cải tổ liên hợp quốc nhu cầu khách quan của quan hệ quốc tế thời kỳ sau chiến tranh lạnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.04 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
PHẦN THỨ NHẤT: LIÊN HỢP QUỐC VÀ TIẾN TRÌNH CẢI TỔ

I. Vài nét về lịch sử hình thành Liên hợp quốc
II. Một số nguyên nhân chính thúc đẩy nhu cầu cải tổ Liên hợp quốc
PHẦN THỨ HAI: ĐỊNH HƯỚNG, NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ CẢI TỔ LIÊN HỢP QUỐC

I. Thách thức đối với nỗ lực cải tổ Liên hợp quốc
II. Mục tiêu và định hướng cải tổ Liên hợp quốc.
PHẦN THỨ BA: THAM GIA CỦA VIỆT NAM TẠI LIÊN HỢP QUỐC VÀ MỘT SỐ
KHUYẾN NGHỊ

I. Tham gia, đóng góp của Việt Nam tại Liên hợp quốc
II. Một số khuyến nghị về nâng tầm tham gia, đóng góp của Việt Nam
tại Liên hợp quốc
PHẦN THỨ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1


LỜI MỞ ĐẦU
Liên hợp quốc (LHQ)- tổ chức quốc tế lớn nhất hành tinh với tôn chi
ngăn chặn chiến tranh và xung đột, giữ gìn hòa bình và an ninh thế giới là một
trong những thiết chế quan trọng nhất của thế kỷ 20 nói riêng và của tồn
nhân loại nói chung. Kể từ khi thành lập, LHQ đã có những đóng góp to lớn
trong cơng cuộc giữ gìn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, cứu trợ nhân
đạo, ... Tuy nhiên, do những biến động phức tạp gần đây của hòa bình thế
giới, tổ chức này đang phải đối mặt với hàng loạt các vấn đề về lòng tin của
các quốc gia đối với vai trò duy trì hòa bình và khả năng đối phó với những
thách thức mới và cũ về an ninh, phát triển như: khủng bố, đói nghèo, dịch


bệnh và mơi trường...thực trạng đó đã và đang khiến cho LHQ phải nỗ lực tìm
kiếm các biện pháp cải tổ hệ thống LHQ cho phù hợp với tình hình mới.
Vấn đề cải tổ LHQ được đặt ra từ thập kỷ 90 của thế kỷ trước với nhiều
sáng kiến và thực tiễn đã bắt đầu kể từ sau "chiến tranh lạnh”. Tuy nhiên,
công cuộc cải tổ diễn ra một cách chậm chạp với những bước đi rất thận trọng
do khơng có sự đồng tḥn giữa các nước thành viên về cách thức tiến hành
cải tồ LHQ. Thậm chí có những ý tưởng đối lập nhau giữa một bên muốn xóa
bỏ hồn tồn LHQ và một bên muốn LHQ thực sự trở thành một “Chính phủ
tồn cầu” (a full-fledged world government).
Một số câu hỏi đặt ra là vì sao phải tiến hành cải tổ LHQ? Những yếu
tố nào tác động và đẩy mạnh quá trình cải tổ LHQ? Và, LHQ cần phải được
cải tổ theo hướng nào? Chuyên đề “Cải tổ Liên hợp quốc - nhu cầu khách
quan của quan hệ quốc tế thời kỳ sau chiến tranh lạnh” được thực hiện
nhằm tìm kiếm lời giải đáp cho các câu hỏi trên. Theo đó, Chuyên đề được
chia thành 02 phần chính. Phần thứ nhất đi sâu phân tích những nguyên nhân
khách quan và chủ quan dẫn tới nhu cầu bức thiết phải cải tổ LHQ với giới
hạn về thời gian là sau khi kết thúc chiến tranh lạnh. Phần thứ hai tập trung

2


vào định hướng và những nội dung, lĩnh vực cần cải cách trong hệ thống
LHQ.
PHẦN THỨ NHẤT
LIÊN HỢP QUỐC VÀ TIẾN TRÌNH CẢI TỔ
I. Lịch sử hình thành, mục tiêu, nguyên tắc hoạt động, cơ cấu tô
chức của LHQ
1. Lịch sử hình thành LHQ.
Ý tưởng thành lập Liên hiệp quốc được hình thành trong thời kỳ chiến
tranh thế giới thứ hai. Danh từ “Liên hiệp quốc” (United Nations) lần đầu tiên

xuất hiện trong bản Tuyên bố các quốc gia liên hợp, được 26 nước trong Mặt
trận Đồng minh chống Phát xít trong đó có Liên Xơ, Mỹ, Anh, Trung Quốc ký
ngày 01/01/1942 tại Oasinhtơn.
Ngày 30/10/1943, Hội nghị ngoại trưởng ba nước Liên Xô, Mỹ, Anh
họp tại Mátxcơva ra tuyên bố thành lập tổ chức quốc tế thay thế Hội quốc liên
để duy trì hòa bình và phát triển quốc tế sau khi chiến tranh kết thúc. Từ tháng
8 đến tháng 10/1944, các đại diện Liên Xô, Mỹ, Anh, Trung Quốc diễn ra ở
Đumbatơn (ngoại ô Oasinhtơn), quyết định thành lập một tổ chức quốc tế sau
chiến tranh với tên gọi Liên hợp quốc. Các đại biểu cũng thảo luận về tôn chi,
nguyên tắc, bộ máy của Liên hợp quốc. Tháng 1/1945, nguyên thủ ba nước
Liên Xô, Mỹ, Anh tại Hội nghị Ianta (Crưm, Liên Xô) quyết định cùng với
Trung Quốc thành lập Liên hợp quốc.
Hội nghị Xan Phranxítcơ khai mạc ngày 25/4/1945, với sự tham gia của
đại diện 51 nước, có nhiệm vụ chính là dự thảo và thơng qua Hiến chương
Liên hợp quốc. Sau hơn 2 tháng tranh luận và thỏa hiệp, ngày 26/6/1945 Hiến
chương Liên hợp quốc được thơng qua. Ngày 24/10/1945, sau khi được Chính
phủ của 51 nước tham gia Hội nghị Xan Phranxítcơ phê chuẩn, Hiến chương
bắt đầu có hiệu lực, đánh dấu sự ra đời của Liên hợp quốc.

3


Trải qua quá trình phát triển, Liên hợp quốc đã không ngừng lớn mạnh,
mở rộng quy mô hoạt động. Đến nay, Liên hợp quốc có 193 nước thành viên,
là tổ chức lớn nhất và có ảnh hưởng nhất thế giới.
2. Mục tiêu và nguyên tắc hoạt động
LHQ hoạt động hướng đến bốn mục tiêu sau:
- Duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.
- Phát triển mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc trên cơ sở tôn trọng
nguyên tắc bình đẳng về quyền lợi giữa các dân tộc và nguyên tắc dân tộc tự

quyết, đồng thời áp dụng những biện pháp phù hợp khác để củng cố hòa bình
thế giới.
- Thực hiện sự hợp tác quốc tế giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội, văn
hóa, nhân đạo; tôn trọng các quyền của con người và các quyền tự do cơ bản
cho tất cả mọi người không phân biệt dân tộc, giới tính, ngơn ngữ hay tơn
giáo.
- Xây dựng LHQ thành trung tâm điều hòa các nỗ lực quốc té vì mục
tiêu chung.
Hiến chương LHQ nêu ra các nguyên tắc chủ đạo, bao gồm:
- Bình đẳng và tôn trọng chủ quyền của tất cả các nước thành viên.
- Tất cả các nước thành viên phải làm tròn nghĩa vụ mà họ đảm nhận
theo Hiến chương và qua đó được hưởng tồn bộ các quyền và ưu đãi do tư
cách thành viên mà có.
- Tất cả các nước thành viên giải quyết tranh chấp quốc tế bằng biện
pháp hòa bình.
- Tất cả các nước thành viên thực hiện chung sống hòa bình, từ bỏ sử
dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
- Tất cả các nước thành viên giúp đỡ đầy đủ cho LHQ một khi tổ chức
này trừng phạt, cưỡng chế đối với các thành viên vi phạm Hiến chương.
- LHQ không được can thiệp vào công việc nội bộ của bất kỳ quốc gia
nào.

4


- LHQ cố gắng để các quốc gia chưa phải là thành viên LHQ cũng hành
động theo các nguyên tắc trên.
3. Cơ cấu tơ chức
LHQ có một số cơ quan chính sau:
- Đại hội đồng. Đây là cơ quan cao nhất của LHQ, bao gồm tất cả các

thành viên, có quyền bình đẳng như nhau.
- Hội đồng bảo an. Đây là cơ quan thường trực quan trọng nhất và hoạt
động thường xun của LHQ, có nhiệm vụ duy trì hòa bình và an ninh quốc tế
- Hội đồng kinh tế - xã hội có nhiệm vụ theo dõi, giúp đỡ giải quyết các
vấn đề kinh tế - xã hội ở các khu vực hoặc ở từng nước thành viên. Hội đồng
có 54 thành viên do Đại hội đồng bầu ra, nhiệm kỳ 3 năm (mỗi năm bầu lại
1/3 số thành viên).
- Hội đồng quản thác. Đây là cơ quan giám sát các vùng lãnh thổ quản
thác được dặt trong hệ thống theo các thỏa thuận riêng với quốc gia quản lý
các vùng lãnh thổ, hướng các vùng này tới thành lập chính phủ tự quản và độc
lập.
- Tòa án quốc tế. Đây là cơ quan tư pháp xét xử theo luật và pháp điển
hóa luật pháp quốc tế; giải quyết các vụ án do các quốc gia trình lên về lãnh
thổ, luật biển, bảo vệ ngoại giao, môi trường, xung đột khu vực, thực hiện các
công ước quốc tế.... Tòa án quốc tế có 15 thẩm phán, nhiệm kỳ 9 năm, cứ 3
năm bầu lại 1/3.
- Ban Thư ký. Đây là cơ quan sự vụ hành chính có nhiệm chấp hành kế
hoạch, chính sách do các cơ quan khác của LHQ đặt ra phục vụ cho những cơ
quan này. Ban Thư ký do Tổng thư ký đứng đầu, nhiệm kỳ 5 năm, có thể được
bầu 2 nhiệm kỳ. Tổng Thư ký là người điều hành và là viên chức cao nhất của
LHQ. Hiện nay, biên chế của LHQ có hơn 20 nghìn nhân viên, làm việc trên
tồn thế giới.
Ngồi 6 cơ quan chính nêu trên, LHQ còn có nhiều cơ quan trực thuộc
hoặc liên quan như: Chương trình và quỹ trực thuộc; Các tổ chức chuyên môn

5


và liên chính phủ; các viện nghiên cứu và đào tạo; các cơ quan nhân quyền;
các cơ quan hiệp ước luật biển; các tổ chức về môi trường.

II. Một số ngun nhân chính thúc đẩy nhu cầu cải tơ Liên hợp
quốc
1. Nguyên nhân khách quan
Cục diện thế giới sau chiến tranh lạnh chứng kiến những thay đổi căn
bản với sự tan rã của thế giới hai cực tồn tại trong suốt thời gian dài kể từ sau
Thế chiến thứ II. Mặc dầu thế giới đang phát triển nhanh chóng theo hướng đa
cực, song đến nay cục diện đa cực chưa thực sự hình thành mà đang trải qua
thời kỳ quá độ từ Trật tự cũ để tiến tới một Trật tự mới với hiện trạng "nhất
siêu, đa cường”. Trong đó, Mỹ là siêu cường duy nhất, trong khi Tây Âu
(EU), Nhật Bản, Nga, Trung Quốc và phần nào Ấn Độ là những cường quốc.
Cùng với đó là sự phát triển nhanh chóng của các xu thế mới, tác động sâu
rộng, nhiều chiều đến đời sống quan hệ quốc tế cũng như nhu cầu cải tổ vai
trò, sứ mệnh và hoạt động của LHQ, cụ thể:
1.1. Xu thế dân chủ hóa quan hệ quốc tế

Sau sự tan rã của Liên Xô, cục diện thế giới hiện nay cho thấy không
phải là thế giới một cực. Mỹ đã bị suy yếu tương đối và đang ra sức điều
chinh chính sách đối nội và đối ngoại, tăng cường năng lực cạnh tranh, xây
dựng Trật tự thế giới mới đi theo quỹ đạo có lợi cho Mỹ. Tuy nhiên, sự trỗi
dậy mạnh mẽ của Trung Quốc và phần nào là Ấn Độ, Brazil… đã làm thay
đổi tương quan lực lượng trên phạm vi toàn cầu. Các nước lớn đều có xu
hướng đi đầu thúc đẩy các tập hợp lực lượng để cạnh tranh ảnh hưởng, tạo vị
trí thuận lợi trong cục diện mới đang định hình, do đó đẩy nhanh xu thế dân
chủ hóa quan hệ quốc tế, trong đó các nước nhỏ ngày càng có vai trò, tiếng
nói quan trọng hơn tại các cơ chế, diễn đàn quốc tế, trong đó có LHQ.
Với vị thế quốc tế và tiềm lực ngày càng gia tăng của Nhật Bản, Đức và
các cường quốc mới nổi như Ấn Độ, Brazil, Nam Phi, các nước này đều muốn
có quyền lực lớn hơn và thực chất hơn tại các tổ chức khu vực và quốc tế,

6



trong đó có LHQ, đặc biệt là tại Hội đồng Bảo an - cơ quan LHQ có quyền
lực cao nhất trong các vấn đề liên quan đến hòa bình và an ninh quốc tế. Kể từ
những năm đầu của thế kỷ 21, các nước này đã phối hợp thúc đẩy và triển
khai vận động mạnh các nước thành viên ủng hộ cải tổ LHQ, trong đó trọng
tâm là mở rộng ghế Ủy viên thường trực HĐBA LHQ. 1 Trong khi đó, các
nước đang phát triển muốn thúc đẩy cải cách LHQ nhằm bảo đảm tổ chức này
tôn trọng ý kiến, đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu thiết thân của họ.
1.2. Xu thế tồn cầu hóa
Q trình tồn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ cùng với sự bùng nổ của khoa
học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin trong hơn hai thập kỷ qua đã
làm thay đổi thế giới. Nền tảng kinh tế tồn cầu có những chuyển dịch căn
bản và tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia và khoảng cách giàu nghèo
ngày càng gia tăng, kéo theo sự mâu thuẫn về quan điểm, lợi ích giữa nhóm
nước phát triển và nhóm nước đang phát triển. Các nước giàu ca ngợi tồn
cầu hóa và chi nhấn vào mặt thuận lợi của nó. Họ cho rằng đây là cơ hội để
các nước nghèo và các nước đang phát triển tranh thủ vươn lên thốt khỏi đói
nghèo và trở nên giàu có như những con rồng, con hổ châu Á... Còn các nước
nghèo và các nước đang phát triển thì lo lắng, trăn trở trước những khó khăn,
thách thức và mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình hội nhập vào tiến trình này.
Tuy nhiên, cũng có một điểm chung là hầu hết các nước đều lo ngại
trước sự bá quyền của Mỹ trong tiến trình tồn cầu hóa. Tổng thống Pháp
Jacques Chirac kêu gọi một thế giới đa cực trong đó Liên minh châu Âu phải
trở thành một trong những cực mạnh nhất và kêu gọi giữ gìn bản sắc văn hóa
Pháp cũng như văn hóa châu Âu trước sự thâm nhập và bành trướng mạnh mẽ
của văn hóa Mỹ. Bộ trưởng Ngoại giao Pháp Vedrine cho rằng Mỹ hiện nay
đã trở thành "siêu siêu cường" (Hyperpower) vì Mỹ đã vượt trội các nước
khác cả về kinh tế, tiền tệ, công nghệ, quân sự, lối sống, ngôn ngữ và các sản
1


Cơ chế đặc quyền của các nước thắng trận trong chiến tranh thế giới thứ II - năm nước uỷ viên thường trực HĐBA LHQ
có quyền phủ quyết gồm Mỹ, Nga (kế thừa Liên Xô), Anh, Pháp và Trung Quốc.

7


phẩm văn hóa đại chúng2. Quan điểm này được nhiều nước chia sẻ. Bộ
Trưởng Giáo dục Singapo Teo Chee Hean từng phát biểu tại cuộc hội thảo tại
Pháp nhân kỷ niệm 20 năm thành lập Viện Quan hệ quốc tế Pháp (IFRI) rằng:
"Điều bất hạnh là tồn cầu hóa thực tế là một sự Mỹ hóa".
Vì vậy, các nước nghèo và đang phát triển một mặt thừa nhận tồn cầu
hóa sẽ tiếp tục là xu thế nổi trội trong thế kỷ thứ XXI, nhưng đòi hỏi tồn cầu
hóa phải đem đến những cơ hội đồng đều cho tất cả các nước, trước hết phải
xóa nợ cho các nước nghèo, phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để các nước
nghèo và đang phát triển có khả năng hội nhập vào tiến trình tồn cầu hóa.
Muốn vậy, các nước phát triển khơng được sử dụng các tổ chức và thể chế
quốc tế, đặc biệt là LHQ, để áp đặt các luật chơi có lợi cho họ và tất nhiên bất
lợi cho các nước nghèo và đang phát triển. Các nước nghèo và đang phát triển
đòi hỏi "tồn cầu hóa phải nhân văn hóa" và trong những thập kỷ tới LHQ và
các tổ chức quốc tế cần phải nỗ lực kiến tạo một thế giới hồ bình, thịnh
vượng, trong đó tất cả các nước nhất là các nước phát triển phải cùng quan
tâm giải quyết các vấn đề bức xúc đặt ra, đó là xóa đói giảm nghèo, an ninh
lương thực, nguồn nước, bảo vệ môi trường, chuẩn mực xã hội và sự đa dạng
văn hóa...
1.3. Sự xuất hiện những thách thức tồn cầu mới về an ninh và phát triển

Trước hết là những thách thức an ninh truyền thống ngày càng gay gắt
hơn, làm thay đổi quan niệm của nhiều nước về chủ quyền quốc gia và sử
dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Những hành xử mang tính chất chủ nghĩa

đơn phương của các nước lớn, cùng với đó là chủ nghĩa ly khai, chủ nghĩa
Hồi giáo cực đoan... đang có chiều hướng gia tăng. Có thể kể đến Mùa xuân
Ả rập với sự can thiệp thô bạo của Mỹ và phương Tây nhằm thay đổi chính
thể ở một số quốc gia khu vực Trung Đông - châu Phi (Iraq, Lybia, Ai Cập,
Tunisia, Syria...); Kosovo tuyên bố độc lập, tách khỏi Serbia hay Nam Ossetia
và Abkhazia ly khai khỏi Georgia; hay thái độ ngang ngược, coi thường luật
/>2

8


pháp quốc tế của Trung Quốc tại Biển Đông những năm gần đây. Trong hầu
hết các sự kiện nêu trên, LHQ dường như chi thể hiện được vai trò khá mờ
nhạt, khiến lòng tin của các quốc gia vào LHQ đang ngày một suy giảm.
Cùng với đó là những thách thức an ninh phi truyền thống tiếp tục diễn
biến phức tạp, tác động sâu sắc, nhiều chiều đến hòa bình và an ninh ở các
khu vực và toàn cầu, vượt ra ngồi tầm kiểm sốt và khả năng giải quyết của
một quốc gia hay khu vực đơn lẻ. Đó là sự i an rộng và nhanh của chủ nghĩa
khủng bố dưới sự lãnh đạo của Nhà nước Hồi giáo cực đoan (IS) tại nhiều
quốc gia, khu vực trên thế giới như Pháp, Bi, Thái Lan, Philippines,
Singapore, Bangladesh...; những hậu quả thảm khốc của biến đổi khí hậu,
thiên tai, lũ lụt, hạn hán, an ninh năng lượng - nguồn nước - lương thực, dịch
bệnh, đói nghèo... Phải cơng bằng đánh giá LHQ đã có những đóng góp có ý
nghĩa trong việc thúc đẩy nỗ lực chung tồn cầu để ứng phó với các thách
thức này, song hiệu quả của các hoạt động trên thực tế chưa tương xứng với
sứ mệnh, trách nhiệm của một tổ chức lớn nhất thế giới.
2. Nguyên nhân chủ quan
Có thể nói, bên cạnh những thành quả đạt được, LHQ còn bộc lộ nhiều
điểm yếu kém, lỗi thời. Nguyên nhân chủ yếu nằm ngay trong cơ cấu tổ chức,
bộ máy nhân sự, phương thức làm việc, ngân sách tài chính... của tổ chức

này, khiến sức mạnh và hiệu quả hoạt động của LHQ bị hạn chế, chưa đáp
ứng được yêu cầu mới của một thế giới luôn biến đổi. Có thể nêu một số mặt
chủ yếu sau:
2.1. LHQ còn mang đậm dấu ấn của trật tự thế giới cũ thời kỳ sau
chiến tranh thế giới thứ II, thể hiện ở vị thế chi phối của các nước thắng
trận. Hiến chương LHQ đề cập đến những “quốc gia thù địch” (chống các
nước đồng minh trong chiến tranh thế giới thứ II) và nội dung này mới chi
được khoá họp năm 1994 của Đại hội đồng LHQ đề nghị xem xét “vào thời
điểm thích hợp”, mặc dù những “quốc gia thù địch” (như Đức, Ý, Nhật) từ lâu
đã trở thành những quốc gia thành viên có trách nhiệm của LHQ. Một điểm

9


bất cập khác là cơ chế đặc quyền dành cho 05 nước ủy viên thường trực
HĐBA LHQ là quyền phủ quyết. Chính cơ chế này đang bị nhiều quốc gia chi
trích mạnh mẽ và là một trong những nguyên nhân khiến các nước đòi sớm
cải tổ LHQ.

2.2. Sứ mệnh gìn giữ hồ bình, an ninh, ngăn chặn khủng hoảng,
xung đột vũ trang hoặc chiến tranh - một trong những chức năng chủ yếu của
LHQ đang bị thách thức nghiêm trọng. Khơng thể phủ nhận những đóng góp to
lớn của LHQ trong lĩnh vực này kể từ khi thành lập 3, tuy nhiên trong bối cảnh tình
hình thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp và tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lường
như hiện nay, LHQ đã bộc lộ nhiều yếu kém, bất lực, ít tác dụng, hoặc bị chi phối,
lợi dụng. Tiêu biểu như các cuộc xung đột ở Bosnia - Herzegovina, Kosovo,
Rwanda, Somalia, Afghanistan, và đặc biệt là các cuộc xung đột ở Trung Đông...
LHQ đều can dự nhưng tỏ ra bất lực hoặc kém hiệu quả. Vào thời kỳ "chiến tranh
lạnh”, phần lớn các cuộc khủng hoảng, xung đột được dàn xếp ngồi khn khổ
LHQ, tiêu biểu như chiến tranh Đơng Dương. Khơng ít các cuộc chiến tranh mà

LHQ bị chi phối, lợi dụng trao quyền “uỷ nhiệm”, như chiến tranh Triều Tiên
(1950), chiến tranh Iraq (1991) làm cho thế giới rơi vào tình trạng bị chia rẽ sâu
sắc4.

2.3. LHQ ngày càng bộc lộ thực trạng thiếu dân chủ trong các hoạt
động thuộc hệ thống của tế chức này. Nổi bật là, LHQ với 193 thành viên,
về mặt lý thuyết, là 193 lá phiếu có giá trị ngang nhau. Song trên thực tế lại
không phải như vậy, cho dù các nước đang phát triển, các nước thuộc “thế
giới thứ ba” chiếm đa số áp đảo. Quyền lực thực tế vẫn nằm trong tay các
nước lớn, đặc biệt là 05 ủy viên thường trực HĐBA. Các nước này đã và đang
giữ vai trò chủ đạo, chi phối hầu hết các hoạt động trong khn khổ LHQ. Vì
vậy, LHQ thường bị ví von là “câu lạc bộ của các ơng lớn”. Vai trò, quyền lực
của nhóm nước này có thể dễ dàng nhận thấy qua việc lựa chọn ứng cử viên
Theo Báo cáo của Đại học Colombia năm 2014, Mỹ, kể từ khi thành lập, LHQ đã góp phần làm giảm 40%
các cuộc xung đột bạo lực, 80% các cuộc xung đột gây đổ máu nhiều nhất, 80% những cuộc diệt chủng và
thanh lọc sắc tộc, chính trị và thành cơng trong 2/3 chiến dịch gìn giữ hòa bình của tổ chức này.
4
Cải tổ Liên hợp quốc - tăng cường giữ gìn hòa bình, an ninh thế giới, Tạp chí Quốc phòng toàn dân,
31/10/2011.
3

10


giữ chức Tổng Thư ký LHQ - chiếc ghế quyền lực nhất tổ chức này. Chi cần
một thành viên trong thường trực HĐBA phủ quyết thì mọi việc sẽ khơng thể
thực hiện được5. Thậm chí, khơng ít trường hợp, các nước lớn, nhất là Mỹ,
không thực hiện các nghị quyết của Đại hội đồng LHQ mặc dù đã được hầu
hết các nước thành viên bỏ phiếu thơng qua. Điển hình là Nghị quyết của
LHQ về sự cần thiết chấm dứt cấm vận kinh tế, thương mại và tài chính của

Mỹ đối với Cuba6, Mỹ đã liên tục bỏ phiếu chống và khơng thực thi trong suốt
hơn 20 năm qua. Tính chất không ràng buộc của các nghị quyết của Đại hội
đồng LHQ cũng là một quan ngại lớn của các nước thành viên.
Bên cạnh đó, các nước lớn ln nắm giữ những vị trí then chốt trong
thành phần của các cơ chế ra quyết định tại LHQ như Uỷ ban Ngân sách và
Tài chính, Tổng Thanh tra LHQ, Trợ lý Tổng thư ký tại Đại hội đồng (thường
là người Mỹ), Trợ lý Tổng thư ký tại HĐBA (thường là người Nga), Uỷ ban
chung (quyết định chương trình nghị sự của mỗi khoá họp Đại hội đồng).
Nhân sự lãnh đạo tại phần lớn các tổ chức trong hệ thống LHQ cũng đều chủ
yếu do các nước phát triển nắm giữ như Chương trình phát triền LHQ
(UNDP), Quĩ Nhi đồng LHQ (UNICEF), Chương trình lương thực thế giới
(PAM)...

Tổng thư ký LHQ Boutros Boutros-Ghali chi tại vị một nhiệm kỳ (1/1992 - 12/1996) vì khơng được sự ủng
hộ của Mỹ.
6
Tổng thống Mỹ John F. Kennedy ký sắc lệnh (proclamation) 3447 cấm vận Cuba vào ngày 03/2/1962 và có
hiệu iực ngày 07/2/1962.
5

11


PHẦN THỨ HAI
ĐỊNH HƯỚNG VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ CẢI TỔ LIÊN HỢP QUỐC
I. Thách thức đối với nỗ lực cải tổ LHQ
Cải tổ LHQ là nguyện vọng và mục tiêu chung của nhiều quốc gia trên
thế giới. Tuy nhiên, trong suốt hơn 70 năm qua, cho dù LHQ vẫn bị chi trích
là "một cơ cấu lỗi thời", song hầu như chưa có những cải cách đáng kể nào
được thực hiện và các nước vẫn chưa thể đi đến thống nhất về định hướng cải

tổ LHQ. Điều này cho thấy nỗ lực nâng cao vai trò, uy tín và hiệu quả hoạt
động của tổ chức này gặp phải những trở ngại khơng nhỏ. Có thể kể đến một
số thách thức, trở ngại chính sau:
1. Quyết định cải tổ LHQ hay không và cải tổ đến mức độ nào hay
trong những lĩnh vực nào lại nằm trong tay 05 ủy viên thường trực HĐBA.
Hay nói cách khác, bất kỳ sự sửa đổi nào trong Hiến chương LHQ hoặc liên
quan đến các vấn đề có tính chất quan trọng trong hệ thống của tổ chức này
đều phải được sự đồng thuận của 05 nước ủy viên thường trực HĐBA, trong
khi nhóm này không dễ từ bỏ hoặc chấp nhận chia sẻ đặc quyền này với các
thành viên khác. Đó là chưa kể đến sự khác biệt về quan điểm, lợi ích giữa 05
nước thành viên này, thường là giữa một bên là Mỹ, Anh, Pháp và bên kia là
Nga, Trung Quốc, trong nhiều vấn đề được đưa ra thảo luận tại Đại hội đồng,
HĐBA hay các cơ quan chuyên trách khác của LHQ, trong khi các nước
khơng thường trực thì khơng có quyền tương xứng.
2. Sự khác biệt về quan điểm, lợi ích giữa nhóm nước phát triển và
nhóm nước đang phát triển đang kéo chậm tiến trình cải tổ LHQ. Thực tế
những năm qua cho thấy sự chia rẽ sâu sắc giữa các thành viên LHQ và giữa
các nhóm nước, khu vực về những ưu tiên trong hoạt động của LHQ cũng
như nội dung, lĩnh vực cần cải tổ trong hệ thống tổ chức này. Các nước phát
triển thường coi trọng thúc đẩy giá trị dân chủ, nhân quyền, môi trường, tự do
hóa thương mại... trong khi các nước đang phát triển quan tâm đến giảm
12


nghèo, thu hẹp khoảng cách phát triển, hỗ trợ kỹ thuật và nâng cao năng lực...
Do đó, vấn đề đặt ra hiện nay là làm sao tìm được giải pháp đồng bộ, hài hòa,
vừa có thể đáp ứng được mọi lợi ích chung và riêng, cho tất cả các quốc gia
và khu vực. Song, dường như đây là nhiệm vụ bất khả thi và con đường cải
cách Liên hợp quốc sẽ còn mất rất nhiều thời gian để có thể đi tới đích.
3. Sự hạn chế về nguồn lực và những tác động, ảnh hưởng từ bên

ngoài cũng là một thách thức không nhỏ khi tiến hành cải tổ LHQ một
cách sâu rộng và toàn diện. Hiện nay 82% số nguồn tài trợ cho Liên hợp
quốc là của các khối và các nước phát triển, như Mỹ, Nhật Bản, EU, Canada...
Những nước này hiện đang bị chi trích là lạm dụng quyền để tác động, chi
phối chương trình nghị sự cải cách Liên hợp quốc theo hướng có lợi cho
mình. Bên cạnh đó, quan hệ phức tạp giữa các quốc gia thành viên bên ngoài
hệ thống Liên hợp quốc cũng là thách thức lớn bởi tính chất độc lập với Liên
hợp quốc, nhưng có thể ảnh hưởng đến cách thức hợp tác giữa các quốc gia
này trong khuôn khổ Liên hợp quốc nhằm đạt được mục tiêu chung. Những
cuộc xung đột chính trị, quân sự, lợi ích địa chính trị, khác biệt về sắc tộc, tôn
giáo, mâu thuẫn kinh tế - thương mại là những thách thức tiềm tàng đối với
các ưu tiên hợp tác giữa các nước thành viên LHQ và sự nghiệp cải tổ chung
của tổ chức này.
4. Mục tiêu và định hướng cải tô Liên hợp quốc
Mục tiêu các nước thành viên đặt ra đối với tiến trình cải tổ LHQ là
nhằm đáp ứng có hiệu quả những thách thức của tình hình thế giới trong thế
kỷ XXI Mục tiêu và định hướng bao trùm được các nước thành viên nhất trí
là nhằm dân chủ hố, nâng cao hiệu quả và tính đại diện, minh bạch trong các
hoạt động của LHQ. Sau thời gian dài thảo luận và trên cơ sở tổng hợp các ý
kiến, nội dung liên quan đến cải tổ LHQ, có thể thấy nổi lên 04 lĩnh vực được
nhiều nước thành viên LHQ quan tâm như sau:
1. Nâng cao hiệu quả hoạt đợng gìn giữ hồ bình
Kể từ khi thành lập đến nay, LHQ đã kết thúc hoạt động của 55 Phái bộ
13


gìn giữ hòa bình và hiện đang tiếp tục triển khai 16 Phái bộ khác tại các khu
vực châu Phi, châu Mỹ, châu Á, châu Âu và Trung Đông với khoảng 100.000
binh sĩ từ nhiều quốc gia thành viên.7
Trước những diễn biến mới, phức tạp của tình hình thế giới trong hai

thập niên đầu của thế kỷ XXI, LHQ đứng trước đòi hỏi phải mở rộng hoạt
động của lực lượng gìn giữ hồ bình, tham gia giải quyết các cuộc xung đột
mới. Trong khi đó, LHQ đang gặp nhiều khó khăn trong việc huy động tài
chính và binh lính. Hoạt động gìn giữ hồ bình, khơng chi bao gồm hoạt
động quân sự thuần tuý mà được mở rộng sang các nhiệm vụ mới như giám
sát bầu cử, hỗ trợ cứu trợ nhân đạo, giám sát trừng phạt, cấm vận... LHQ đã
từng xem xét đề nghị thành lập đội quân gìn giữ hồ bình thường trực thuộc
quyền quyết định của Tổng thư ký LHQ, nhưng ít nước thành viên hưởng
ứng vì lo ngại việc này sẽ vượt ra khỏi quyền quyết định của mình. LHQ
cũng bàn nhiều về việc thành lập đội qn gìn giữ hồ bình dự phòng trực
thuộc qn đội các quốc gia thành viên, sẵn sàng chịu sự điều động của
HĐBA LHQ. Đề nghị này đến nay mới được trên 30 nước trong tổng số 193
thành viên hưởng ứng.
Một lỗ hổng lớn trong hoạt động gìn giữ hòa bình của LHQ là việc xử
lý những vấn đề nảy sinh thời kỳ hậu xung đột. Hai cơ quan được cho là hoạt
động rất hiệu quả của LHQ là Cao ủy LHQ về Người tị nạn (UNHCR) và
Chương trình Lương thực Thế giới (WFP) được trang bị đầy đủ để gửi viện
trợ khẩn cấp đến những nơi vừa xảy ra thiên tai hoặc xung đột, trong khi
Chương trình Phát triển LHQ (UNDP) có thể hỗ trợ bằng những kế hoạch
kinh tế dài hạn. Tuy nhiên, đến nay khơng có cơ quan nào được phân công
làm nhiệm vụ lấp khoảng trống đang ngày càng lớn hơn giữa việc cứu trợ
khẩn cấp và kế hoạch dài hạn. Ý tưởng thành lập ủy ban Kiến tạo Hòa bình đã
được đề xuất như một tâm điểm cho sự phối hợp các hoạt động cứu trợ và
phân bổ hợp lý những khoản đóng góp của các tổ chức phi chính phủ và các
Nguồn: />
7

14



nhà tài trợ. Đối với những cuộc xung đột đang diễn ra, Tổng thư ký đã bổ
nhiệm những “đại diện đặc biệt” (Special Representative) có uy tín và sáng
tạo từ khắp các nước trên thế giới để đóng vai trò chủ chốt trong việc tìm ra
những giải pháp hòa bình tại những khu vực có xung đột. Do đó, việc thành
lập ủy ban Kiến tạo Hòa bình có thể sẽ làm cho công việc họ đang làm trở
nên hiệu quả hơn.
2. Đổi mới hoạt động trong lĩnh vực kinh tế, xã hội và phát triển
LHQ mong muốn tạo dựng một thể chế thuận tiện cho việc đạt được
nhất trí của các nước thành viên về các vấn đề kinh tế - xã hội và phát triển
nhằm điều phối có hiệu quả các chính sách và hoạt động của các cơ quan
thuộc hệ thống LHQ trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, phát triển và nhân quyền.
LHQ đang nỗ lực cải tổ Hội đồng Kinh tế và Xã hội (ECOSOC) nhằm nâng
cao quyền lực của cơ quan này đối với các tổ chức chun mơn và liên kết.
Nhưng cũng có những nước đề nghị giải tán cơ quan này, thay bằng Hội đồng
An ninh Kinh tế - Xã hội với cơ chế hoạt động và quyền hạn như HĐBA hiện
nay. Cơ quan Cao ủy LHQ về Nhân quyền thành lập năm 1993 đã được cải tổ
thành Hội đồng Nhân quyền LHQ vào ngày 15/3/2006 theo Nghị quyết
A/RES/60/251 của Đại hội đồng LHQ khóa 60. Nhiều nước thành viên cũng
đề nghị hoạt động của LHQ trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, thương mại và
đầu tư cần gắn kết chặt chẽ với phát triển bền vững và ứng phó hiệu quả với
các thách thức tồn cầu.
3. Nâng cao tính đại diện, dân chủ hố với trọng tâm là cải tơ
HĐBA LHQ
Theo quy định hiện hành, HĐBA là cơ quan chính trị quan trọng nhất
và hoạt động thường xuyên của LHQ, chịu trách nhiệm chính về việc duy trì
hồ bình và an ninh quốc tế. Những nghị quyết của HĐBA được thơng qua
mà phù hợp với Hiến chương LHQ thì các nước thành viên có nghĩa vụ phải
thi hành. HĐBA khơng phải phục tùng Đại hội đồng LHQ. Đã từng có nhiều
nước đưa ra những phương án khác nhau để cải tổ HĐBA. Nhiều nước thành
15



viên đề nghị nên quy định để HĐBA phải có trách nhiệm thực hiện nghị
quyết của Đại hội đồng LHQ. HĐBA thời gian qua đã giảm các cuộc họp kín,
trao đổi khơng chính thức, có thơng báo kịp thời về nội dung và quyết định,
các cuộc họp của mình.
Nhóm làm việc của LHQ về vấn đề mở rộng thành viên HĐBA đã có
nhiều cuộc họp, thương lượng về cơng việc cải tổ cơ quan này. Đã có nhiều ý
kiến cho rằng nên mở rộng từ 15 nước thành viên HĐBA hiện nay lên
khoảng 23 hoặc 25 nước. Ngoài 05 ủy viên thường trực, còn có các ủy viên
khơng thường trực của HĐBA. Từ năm 1946 đến 1965, HĐBA chi có 06 ủy
viên không thường trực nhưng con số này sau đó được mở rộng lên 10 ủy
viên với định mức dành cho châu Phi, châu Á, châu Mỹ, Tây Âu - mỗi khu
vực được 02 ủy viên. Riêng Đông Âu được 01 ghế và suất còn lại luân phiên
giữa châu Phi và châu Á. Các nước ủy viên không thường trực được chia làm
hai nhóm với nhiệm kỳ hai năm xen kẽ nhau, tức mỗi năm có 05 thành viên
ra đi để nhường ghế cho 05 gương mặt mới. Các ủy viên không thường trực
HĐBA LHQ hiện tại gồm Angola (2016), Ai Cập (2017), Nhật Bản (2017),
Malaysia (2016), New Zealand (2016), Senegal (2017), Tây Ban Nha (2016),
Ukraine (2017), Uruguay (2017) và Venezuela (2016).
Cùng với những biến đổi nhanh chóng của tình hình thế giới, HĐBA
đang đứng trước yêu cầu mở rộng quy mô số ủy viên thường trực. Đây là vấn
đề gây tranh cãi nhiều nhất. Theo một số đề xuất gần đây, số ủy viên thường
trực có thể sẽ tăng thêm 05 quốc gia nữa, trong đó các ứng cử viên được đề
cập nhiều nhất là Đức, Nhật Bản, Brazil, Ấn Độ và một quốc gia châu Phi (có
thể là Nam Phi hoặc Nigeria). Gần đây, đại diện một số quốc gia gợi ý rằng,
có thể 05 ủy viên thường trực mới sẽ không được trao quyền phủ quyết. Việc
cải tổ HĐBA, đặc biệt là việc mở rộng ủy viên thường trực và quy định lại
việc sử dụng quyền phủ quyết sẽ có tác động sâu rộng đến quyền lợi nhiều
nước thành viên. Các nước thành viên đều rất dè dặt, thận trọng. Những đề

xuất nêu trên vẫn còn nằm trong vòng tranh cãi, chưa có hồi kết và khó có thể
16


được giải quyết một sớm một chiều. Tuy nhiên, đây là vấn đề cốt lõi của công
cuộc cải tổ LHQ và có liên quan mật thiết tới các nỗ lực cải tổ khác. Để cải tổ
một cách triệt để và toàn diện, HĐBA cần cải cách cả về thành phần và
phương thức làm việc, nhằm đáp ứng nguyện vọng của tất cả các nước thành
viên LHQ về việc bảo đảm dân chủ thực sự và tính cơng khai, minh bạch, để
mọi người có thể giám sát được cơng việc của cơ quan này.
4. Tinh giản bợ máy, giảm lãng phí, nâng cao hiệu quả, minh bạch
và giải quyết khủng hoảng tài chính của LHQ
Bộ máy LHQ nói chung, đặc biệt là Ban Thư ký nói riêng còn quá
cồng kềnh, chức năng chồng chéo, trong khi LHQ luôn bị khủng hoảng tài
chính, nhiều nước còn mắc nợ nghĩa vụ đóng góp hàng trăm triệu, thậm chí
hàng tỷ USD, nhất là Mỹ. Một số quan chức LHQ dính líu tham nhũng; tình
trạng binh lính, nhân viên LHQ phạm tội khi thi hành nhiệm vụ ở một số nơi,
khiến cho LHQ bị suy giảm uy tín. Tình trạng đó đã và đang được chấn chinh,
cải tổ theo hướng tinh giản bộ máy, giảm lãng phí, nâng cao chất lượng tuyển
chọn nhân viên, nâng cao hiệu quả công tác. Trọng tâm của việc giải quyết
khủng hoảng tài chính là cải tiến “thang” đóng góp, dựa trên khả năng đóng
góp thực tế của các nước thành viên, thay thế “thang” đóng góp hiện hành mà
nhiều nước cho là lỗi thời và khổng công bằng.
Hiện nay, LHQ đang hoạt động dựa trên một hệ thống biên chế chính
thức, nhưng lại khơng cho phép thi tủn đầu vào trừ phi quốc tịch của nhân
viên mới đó là “thiếu tính đại diện” trong một lĩnh vực nào đó. Tuổi tuyển
dụng thấp nhất phải là 32, do đó ngay cả một sinh viên tốt nghiệp đại học xuất
sắc cũng khơng có cơ hội được tủn dụng vì thiếu tuổi dự tuyển. Bản thân hệ
thống biên chế chính thức cũng đã có vấn đề, vì nó khơng cho phép tủn
dụng những nhân viên mới với những kỹ năng mới. LHQ có tuổi về hưu bắt

buộc là 62, và vì vậy đã từng có những nhận xét mia mai về qui định này:
"Ngồi việc chờ họ về hưu, chúng ta khơng cịn cách nào khác để thốt khỏi
họ!".
17


Do đó, vấn đề cần thay đổi, cải tổ ở đây là LHQ nên chấp nhận tuyển
dụng những cán bộ chuyên môn đang làm việc thành đạt ở những tổ chức
kinh doanh và khu vực nhà nước, những người có thể đem những phong
cách, thói quen làm việc và tư duy mới mẻ đến cho LHQ. Ngoài ra, Tổng thư
ký LHQ cần phải có quyền tái phân cơng nhân viên đến những chương trình
cần nhân lực nhất của tổ chức, chứ khơng nên duy trì những vị trí cố định
khơng cần thiết như hiện nay. Và người đứng đầu một bộ phận cũng cần được
trao quyền quyết định trong việc tuyển chọn những nhân viên chủ chốt, và
sau đó phải tự chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động của bộ phận mình, chứ
khơng nên để cho nhân viên được phân công một cách ngẫu nhiên. Một điều
quan trọng nữa là LHQ phải sử dụng hợp lý những tài năng nữ, và phải cải
thiện môi trường làm việc vốn đầy tai tiếng vì chuyện q́y rối tình dục, phân
cơng cơng việc khơng cơng bằng, và khơng cố gắng tìm kiếm những ứng cử
viên nữ phù hợp cho những vị trí lãnh đạo.
Cùng với đó, chức năng kiểm tốn và thanh sát trong hệ thống LHQ
cần có mức độ độc lập nhất định về chuyên môn đối với những tranh iuận
thường xảy ra tại Đại hội đồng, Hội đồng Kinh tế và Xã hội và ủy ban Ngân
sách và Tài chính của LHQ. Vụ bê bối về tài chính liên quan đến Chương
trình đổi dầu lấy lương thực (The Oil-for-Food Programme) trị giá nhiều tỷ
USD đã cho thấy sự cần thiết phải có những tiêu chuẩn hợp lý cho việc cơng
khai tài chính và tránh xung đột lợi ích giữa các nước cung cấp cho Chương
trình và nhân viên của Ban Thư ký, trong đó có cả những trường hợp tham
nhũng của các nhân viên LHQ.
Sau khi trở thành thành viên LHQ từ năm 1977 đến nay, Việt Nam luôn

xác định rõ sự cần thiết tham gia các hoạt động của LHQ một cách có trách
nhiệm, hiệu quả, chủ động phối hợp với các quốc gia thành viên khác giải
quyết các vấn đề tồn cầu, vì hòa bình, an ninh và sự phát triển của thế giới .
Việt Nam ủng hộ quá trình cải tổ LHQ, cải tổ Hội đồng Bảo an trên cơ sở
Hiến chương LHQ, bảo đảm vai trò của các nước phát triển, là điển hình
18


trong thực hiện trương trình xóa đói giảm nghèo, thực hiện các mục tiêu thiên
niên kỷ của LHQ. Cuối năm 2016, Việt Nam cũng đã được chọn là nước đầu
tiên thử nghiệm chương trình cải tổ của LHQ nhằm phối hợp hoạt động của
nhiều cơ quan khác nhau của LHQ để giảm tình trạng hoạt động chồng chéo
và thiếu hiệu quả.
Cơng cuộc cải tổ của LHQ, trong đó trọng điểm là cải tổ Hội đồng bảo
an là quá trình lâu dài, khó khăn, phức tạp nhưng là đòi hỏi bức xúc của cộng
đồng quốc tế, là xu thế không thể đảo ngược. Với thiện chí và nỗ lực chung
của các nước thành viên, trong đó Việt Nam là thành viên tích cực, chúng ta
tin rằng sự nghiệp này nhất định sẽ thành công; LHQ nhất định sẽ được cải tổ
từng bước vững chắc đúng với những nguyên tắc, mục tiêu , phương hướng đã
được xác định để tổ chức quốc tế lớn nhất hành tinh này ngày càng hoạt động có
hiệu quả, góp phần đắc lực vào việc củng cố, giữ gìn hòa bình, an ninh thế giới và
thúc đẩy sự phát triển bền vững của nhân loại.

19


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt
1.


Bộ Ngoại giao, Vụ Tổ chức quốc tế, Kỷ yếu Hội thảo "Hội đồng Bảo an
LHQ và kinh nghiệm chuẩn bị làm thành viên Hội đồng”, Hà Nội,
12/2003.

2. Bộ Ngoại giao, Ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chỉ Minh, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 2003.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội 2011.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội 2016
7. Lưu Văn Lợi, Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam 1945-1995, NXB
Công an Nhân dân, Hà Nội, 1998, tậpl & 2.

20



×