Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

QUAN HỆ GIỮA MỸ VÀ CÁC NƯỚC LỚN SAU CHIẾN TRANH LẠNH (Tiểu luận Môn Quan hệ các nước lớn sau chiến tranh lạnh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.68 KB, 39 trang )

HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
QUAN HỆ GIỮA MỸ VÀ CÁC NƯỚC LỚN
SAU CHIẾN TRANH LẠNH
Môn: Quan hệ các nước lớn sau chiến tranh lạnh
Nhóm lớp CT38
1. Nguyễn Hiền Mi (nhóm trưởng)_ CT38A
2. Nguyễn Thu Hà (0010)
3. Lê Kim Chi
4. Nguyễn Thu Hiền
5. Phạm Minh Tuấn
6. Nguyễn Đăng Duy
7. Nguyễn Đức Tâm
8. Hồ Sử Quỳnh Thy
9. Phan Phượng Anh_CT38B
10.Phí Ngọc Dung
A, SỨC MẠNH CỦA MỸ SAU CHIẾN TRANH LẠNH
Để đánh giá sức mạnh của một quốc gia là một nước lớn có tầm ảnh hưởng lớn
không chỉ trong khu vực mà còn cả phạm vi toàn thế giới, có 3 đặc điểm : Sức
mạnh, ảnh hưởng, tư duy.
I. SỨC MẠNH CỦA MỸ
1. Sức mạnh cứng
1.1 Về quân sự
Sức mạnh quân sự luôn là yếu tố cơ bản được tính đến trong chính sách quan hệ
quốc tế và chính trị quốc tế. Sức mạnh quân sự là yếu tố then chốt trong chiến tranh và là
yếu tố có tính chất răn đe khi không có chiến tranh. Sức mạnh quân sự thể hiện ở các
mặt: số lượng và chất lượng quân đội; năng lực chi huy; trình độ lý luận quân sự và
trang thiết bị, khí tài quân sự đặc biệt là những vũ khí có sức hủy diệt lớn. Trước
thời kỳ chiến tranh lạnh, sức mạnh về quân sự là sức mạnh quốc gia chủ yếu của Mỹ.
Về sức mạnh quân sự Mỹ hiện là siêu cường số 1 trên Thế giới. Tổng thống giữ
chức vụ tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang quốc gia và bổ nhiệm các lãnh đạo của quân
đội, bộ trưởng quốc phòng và Bộ tổng tham mưu Liên quân Hoa Kỳ . Bộ Quốc phòng


Hoa Kỳ giám sát các lực lượng vũ trang, bao gồm Lục quân, Hải quân, Thủy quân lục
chiến, và Không quân .Trong năm 2008, các lực lượng vũ trang đã có 1.400.000 quân
hiện dịch cùng với hàng trăm ngàn trong mỗi ngành như Lực lượng Trừ bị và Vệ binh
Quốc gia.
Bên ngoài biên giới Hoa Kỳ, Quân đội Hoa Kỳ khai triển 770 căn cứ và cơ sở tiện
ích trên tất cả các lục địa, trừ Nam Cực. Vì mở rộng sự hiện diện quân sự trên toàn cầu,
các học giả cho rằng Hoa Kỳ đang duy trì một "đế quốc của các căn cứ.".
Chi tiêu quân sự của Hoa Kỳ năm 2008 là hơn 600 tỉ USD, chiếm 41 phần trăm
chi tiêu quân sự trên toàn thế giới và lớn hơn chi tiêu quân sự của 14 nước xếp kế tiếp
cộng lại. Chi tiêu quân sự của Hoa Kỳ đứng hạng 2 trong tốp 15 quốc gia chi tiêu
mạnh tay nhất cho quân sự , sau Ả rập Saudi. Ngân sách đề nghị của Bộ Quốc phòng
năm 2011 là 549 tỉ, tăng 3,4 phần trăm so với năm 2010 và tăng 85% so với 2001. thêm
159 tỉ cho chiến dịch tại Iraq và Afghanistan.
Sức mạnh quân sự của Mỹ không chỉ thể hiện ở những con số ấn tượng đó mà còn thể
hiện ở trình độ công nghệ và kỹ thuật ứng dụng trong quốc phòng. Là quốc gia đứng đầu
về ứng dụng công nghệ thông tin và viễn thông vào lĩnh vực quân sự, vô địch trong
việc phối hợp và xử lý thông tin trên chiến trường và tiêu diệt các mục tiêu từ xa với độ
chính xác rất cao. => Xét về cơ cấu lực lượng, Mỹ có thế thượng phong về hạt nhân, áp
đảo về không quân, mạnh nhất thế giới về hải quốc gia duy nhất có khả năng triển khai
sức mạnh toàn cầu.
1.2 Về kinh tế
Hoa Kỳ có một nền kinh tế hỗn hợp tư bản chủ nghĩa được kích thích bởi tài
nguyên thiên nhiên phong phú, một cơ sở hạ tầng phát triển tốt, và hiệu suất cao.Hoa Kỳ
sở hữu nền kinh tế quốc gia lớn nhất thế giới với giá trị 16 nghìn tỷ dollar.Hoa Kỳ
chiếm 21% GDP thế giới.Hoa Kỳ có mức GDP trên đầu người lớn hơn bất kỳ một siêu
cường đang nổi lên nào và cao hơn hầu hết các nước công ngiệp phát triển khác, ở mức
khoảng USD $48.000. Hoa Kỳ có mức GDP trên đầu người cao thứ 6 thế giới tình theo
sức mua tương đương, sau Luxemburg và Na Uy, Tuy nhiên, một người dân thường
Mỹ có mức thời gian lao động trong cuộc đời lớn hơn khá nhiều so với một người bình
thường Châu Âu.

Nước này thường có mức độ tăng trưởng kinh tế từ mức trung bình tới cao.Trong
20 năm qua, mức tăng trưởng kinh tế Hoa Kỳ trung bình chỉ hơn 3% mỗi năm.Hoa Kỳ là
nước nhập cảng hàng hóa lớn nhất và là nước xuất cảng đứng hạng ba.Canada,
Trung Hoa, Mexico, Nhật Bản, và Đức là các bạn hàng lớn nhất của Hoa Kỳ. Hàng xuất
cảng hàng đầu là máy móc điện, trong khi xe hơi chiếm vị trí hàng đầu về nhập cảng.
Hoa Kỳ là nơi đóng trụ sở của nhiều tập đoàn quốc tế và các định chế tài
chính.Các công ty Mỹ giữ vai trò hàng đầu trong nhiều lĩnh vực như vật liệu mới, điện
tử và viễn thông, công nghệ thông tin, vũ trụ, năng lượng, kỹ thuật nano, công nghệ sinh
học,dược phẩm, tin học sinh học (bioinformatics), cơ khí hóa chất (chemical engineering)
và phần mềm.Nước này là nhà sản xuất hàng đầu về hàng hóa tiêu dùng và sản phẩm
nông nghiệp, dù họ phụ thuộc vào dầu mỏ nhập khẩu.
Hoa Kỳ vẫn là một siêu cườngcông nghiệp với các sản phẩm hóa học dẫn đầu
ngành sản xuất.Hoa Kỳ là nước sản xuất dầu lớn hạng ba trên thế giới và nước tiêu thụ
dầu đứng hạng nhất.Đây là nước sản xuất năng lượng điện và hạt nhân số một của thế
giới cũng như khí đốt thiên nhiên hóa lỏng, nhôm, sulfur, phosphat, và muối.Nông nghiệp
chỉ chiếm 1% GDP nhưng chiếm 60% sản xuất nông nghiệp của thế giới. Hoa Kỳ xếp
hạng ba trong danh sách chỉ số thuận lợi làm ăn của Ngân hàng Thế giới Sở Giao dịch
Chứng khoán New York lớn nhất thế giới theo giá trị đô la.Hoa Kỳ có ảnh hưởng
mang tính quyết định với các định chế tài chính quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân
hàng thế giới; đồng dollar Mỹ là đồng tiền tệ dự trữ và trao đổi quan trọng nhất thế
giới.
1.3 Về khoa học – kĩ thuật:
Mĩ cũng là cường quốc số 1 TG về vấn đề này. Ngân sách dành cho Nghiên cứu và Phát
triển của Mĩ bằng 7 nước giàu nhất sau Mỹ cộng lại, chiến 40,6% tổng chi phí toàn cầu.
Bằng phát minh khoa học của Mỹ chiếm hơn 60% toàn bộ số bằng phát minh khoa học
trên thế giới.Và đi đầu 20 trong 29 ngành khoa học và công nghệ mũi nhọn trên thế giới.
2/3 số người đạt giải Nobel về kinh tế và khoa học là công dân Mỹ.
2.
Sức mạnh mềm:
Các nguồn lực tạo ra sức mạnh mềm của một quốc gia bao gồm văn hóa (ở đó nó lôi

cuốn các quốc gia khác), các giá trị (hấp dẫn và không thể bị thực tế của quốc gia sở tại
cắt gọt do không tương thích) và các chính sách (được nhìn nhận là mang tính phổ quát
và hợp pháp trong con mắt của các quốc gia khác).
Về chính trị và văn hóa:
Văn hóa Hollywood:
Nói đến ảnh hưởng của văn hóa đại chúng Mỹ đối với tòan bộ phần còn lại của thế giới
không thể không nhắc đến ảnh hưởng của Hollywood.Không có ngóc ngách nào trên trái
đất này mà phim Hollywood chưa từng đặt chân đến và chinh phục.
Phim Hollywood từ trước đến nay (đặc biệt là trong một hai thập niên gần đây) chủ yếu
là nhằm mục đích thương mại hóa, kiếm được lợi nhuận càng nhiều càng tốt. Yếu tố nghệ
thuật thường bị xem nhẹ, yếu tố câu khách, thu hút khách đến rạp xem phim là yếu tố
chủ đạo. Mặc dù có một số phim Hollywood được chuyển thể từ các tác phẩm văn học cổ
điển, đa số các phim này thất bại nặng nề về mặt nghệ thuật và vì vậy không được mấy ai
đi xem.
Ẩm thực :McDonald trở thành trào lưu
Trong suốt 7 thập kỷ hình thành và phát triển, McDonald vẫn luôn được ghi nhận như
một sự khởi nguồn cho cuộc cách mạng thực thu về ẩm thực ở nước Mỹ và sau đó là ở
khắp thế giới.
Cuộc cách mạng ẩm thực được tập đoàn này tiến hành .McDonald cũng bị tai tiếng vì
đồ ăn làm trẻ em béo phì, vì chăn nuôi gia súc gia cầm theo phương thức công nghiệp
Nhưng thương hiệu này đã làm thay đổi thói quen ẩm thực của con người đến mức khó
có thể hình dung ra thế giới không còn có McDonald nữa.
Giáo dục:
Đối với nhiều học giả Hoa Kỳ, giáo dục chính là một trong những lối đi thú vị và hiệu
quả nhất để có thể "chiếm trọn trái tim và lý trí" của công chúng bên ngoài. Hay nói
theo cách của Giáo sư Joseph Nye thì nền giáo dục Mỹ chính là một nguồn lực vô cùng
hấp dẫn mà quốc gia này sở hữu. Và từ đó, Mỹ có thể đã - đang - và vẫn có thể chinh
phục thế giới từ chính sức mạnh mềm này.
Bên cạnh vai trò vượt trội trong thứ bậc về giáo dục đại học (GD ĐH), Mỹ còn có hệ
thống giáo dục ĐH phức hợp và đa dạng nhất thế giới.Trung Quốc có thể hơn Mỹ về số

lượng sinh viên theo học, nhưng hệ thống GD ĐH vẫn không thể phát triển bằng.
Tiểu kết: Đánh giá toàn diện, Mỹ là siêu cường mạnh nhất hiện nay. Chính nhờ có
sức mạnh đó mà Mỹ đã là nước đi đầu trong việc thúc đẩy nhiều tiến trình lịch sử,
tạo nên những cơ chế cho sự phát triển của toàn cầu hóa.Bởi vì sức mạnh của nước
Mỹ sẽ cho phép “nước Mỹ trở thành động lực, người hưởng lợi và người làm lợi
cho quá trình toàn cầu hóa”. Trong đó, sức mạnh kinh tế của Mỹ đang là chỗ dựa
cho quyền lực chính trị Mỹ trong việc chi phối quá trình toàn cầu hóa và việc giải
quyết các vấn đề toàn cầu
3. Sức mạnh thông minh (quyền lực thông minh)
Quyền lực thông minh hay sức mạnh thông minh là một thuật ngữ trong quan hệ quốc tế
mà triết gia người Mỹ Joseph Nye định nghĩa như sau "khả năng kết hợp quyền lực cứng
và quyền lực mềm vào một chiến lược mang lại thắng lợi." Theo Chester A. Crocker, Fen
Osler Hampson, và Pamela R. Aall, quyền lực thông minh "có liên quan tới chiến lược sử
dụng ngoại giao, thuyết phục, xây dựng năng lực và điều khiển các sức mạnh và sự ảnh
hưởng trong những con đường đạt hiệu quả cao và có tính chính đáng cả về chính trị lẫn
xã hội" – cốt yếu là tận dụng các các sức mạnh quân sự và toàn bộ các kiểu ngoại giao.
Sức mạnh thông minh là sự kết hợp của sức mạnh cứng và sức mạnh mềm.Sức mạnh
mềm là khả năng giành được những kết quả mong muốn, bằng sự lôi cuốn hơn là ép buộc
hay phải đánh đổi.
Thuật ngữ này được đưa ra sau cuộc tấn công của Mỹ vào Iraq năm 2003 như là một
phản ứng lại chính sách đối ngoại ngày càng mang xu hướng tân bảo thủ của tổng thống
Mỹ khi này là George W. Bush. Được coi là một phiên bản thứ hai của chính sách của
Bush nhưng mang tính tự do hơn, các đề xuất của nó coi trọng các tổ chức quốc
tế có vài trò lớn hơn, chống lại chủ nghĩa đơn phương một mình, đối với nước
Mỹ.Quyền lực thông minh còn được xem là một lực chọn khác của quyền lực mềm, vì
lạm dụng quyền lực mềm có thể khiến Đảng Dân chủ Hoa Kỳ ngày càng xem là yếu
đuối.
Ngoại trưởng Hillary Clinton còn tuyên bố thêm: nước này không chỉ sử dụng sức
mạnh quân sự mà sẽ theo đuổi cách tiếp cận “sức mạnh thông minh” bằng việc kết
hợp sử dụng các loại vũ khí cứng với “sức mạnh mềm” từ sức thuyết phục và hấp

dẫn về văn hóa. Hay như phu quân của bà Ngoại trưởng-ông Bill Clinton đã từng sử
dụng nó, nước Mỹ ngày nay sẽ dẫn dắt thế giới thông qua sức mạnh của các chuẩn mực
giá trị thay vì hình mẫu về sức mạnh.
Chưa đầy một năm trước, một ủy ban sức mạnh thông minh của hai đảng đã kết luận rằng
hình ảnh và tầm ảnh hưởng của nước Mỹ đã bị sa sút trong nhiều năm gần đây, và rằng
nước Mỹ cần phải chuyển từ việc gieo rắc sự sợ hãi ra bên ngoài sang khơi gợi chủ nghĩa
lạc quan và hy vọng cho các nước khác.
Nước Mỹ có thể trở thành một cường quốc thông minh bằng cách một lần nữa đầu tư
vào hàng hóa công cộng toàn cầu, đó là cung cấp những thứ mà người ta muốn và
các chính phủ ở mọi nơi trên thế giới muốn nhưng không thể có được nếu thiếu
vắng sự lãnh đạo của nước mạnh nhất thế giới. Sự phát triển và y tế cộng đồng cùng
với đối phó với sự biến đổi khí hậu là những ví dụ tốt. Bằng việc bổ sung sức mạnh quân
sự và kinh tế Mỹ với việc đầu tư lớn hơn cho sức mạnh mềm, và tập trung vào hàng hóa
công cộng toàn cầu, nước Mỹ có thể tái thiết lộ trình cần thiết
II, PHẠM VI ẢNH HƯỞNG CỦA MỸ ĐẾN TOÀN THẾ GIỚI
Với những sức mạnh mà Mỹ đang có, sự tham gia, đến từng quốc gia trong khu
vực và trên toàn thế giới, không ai có thể phủ nhận tầm ảnh hưởng của Mỹ ngày này. Đó
là lí do tại sao cả thế giới phải dõi theo nước Mỹ trong những cuộc bầu cử hay bất kì biến
động gì. Bởi nhất cử nhất động của quốc gia này đều có thể thay đổi chính sách đối ngoại
của các quốc gia khác, đặc biệt là trong kỉ nguyên toàn cầu hóa
Hoa Kỳ có ảnh hưởng kinh tế, chính trị và quân sự trên cán cân quốc tế mà khiến chính
sách ngoại giao của Hoa Kỳ là một đề tài quan tâm lớn nhất trên khắp thế giới
1.
Phương tiện truyền thông và văn hóa
Hollywood (bộ phim Mỹ và ngành công nghiệp truyền hình) thống trị hầu hết các
thị trường truyền thông thế giới. Nó là phương tiện chính mà mọi người trên toàn thế giới
thấy được thời trang và lối sống, hải quan, cảnh quan ở Mỹ.
Nhiều nước dựa trên chương trình truyền hình của Mỹ để phát sóng lại (chẳng hạn
như HBO Châu Á , Châu Âu CNBC, CNN International, American’s Next Top Model –
có nhiều phiên bản theo từng nước ). Nhiều người trong số những nhà phân phối phát

sóng chủ yếu là lập trình Mỹ trên kênh truyền hình của họ. Năm 2006, một cuộc khảo sát
của 20 quốc gia Radio Times tìm thấy bảy show diễn Mỹ trong mười theo dõi nhiều
nhất: CSI: Miami , Lost , Desperate Housewives, The Simpsons , CSI: Crime Scene
Investigation , không có một Trace và cuộc phiêu lưu của Jimmy Neutron: Boy Genius.
Phim Mỹ cũng rất phổ biến trên thế giới, thường thống trị các rạp chiếu phim.
Điều chỉnh lạm phát, bộ phim có doanh thu cao nhất mọi thời đại là Cuốn theo chiều
gió . Thường là một phần của đàm phán trong hiệp định thương mại tự do giữa Mỹ và
các nước khác liên quan đến hạn ngạch truyền hình . Một trong những trường hợp
là Mexico , đã bãi bỏ hạn ngạch truyền hình sau khi thành lập các Hiệp định Thương mại
Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) với Mỹ. Gần đây Hàn Quốc đã đồng ý giảm hạn ngạch dưới áp
lực của Hoa Kỳ như là một phần của một thỏa thuận thương mại tự do.
Nhiều nghệ sĩ có tầm ảnh hưởng rộng lớn chẳng hạn như Elvis Presley và Michael
Jackson được công nhận trên toàn thế giới và đã bán được hơn 500 triệu album. Album
của Michael JacksonThriller , 100 triệu, là album bán chạy nhất mọi thời đại.
2.
Mỹ kinh doanh và thương hiệu
Trong mười thương hiệu toàn cầu hàng đầu, bảy trụ sở tại Hoa Kỳ. Coca-cola
nắm giữ vị trí hàng đầu, thường được xem như một biểu tượng của Mỹ hóa. Thức ăn
nhanh cũng thường được xem như là một biểu tượng sự thống trị thị trường Mỹ. Các
công ty như Starbucks, McDonald, Burger King, Pizza Hut, Kentucky Fried Chicken và
số những thương hiệu khác có nhiều cửa hàng trên toàn thế giới.
Nhiều người trong số các công ty máy tính lớn nhất thế giới cũng có cơ sở ở Mỹ,
chẳng hạn như Microsoft , Apple ,Intel , Dell và IBM , và hầu hết các phần mềm mua
trên toàn thế giới được tạo ra bởi các công ty Mỹ có trụ sở. => Hoa Kỳ chiếm một vị trí
rất mạnh mẽ trong lĩnh vực phần mềm.
Các thương hiệu thời trang của Mỹ được ưa chuộc trên toàn thế giới như Nike Collection,
Hollister, Banana Republic, Abercrombie and Fitch, Levi Strauss & Co. , The North
Face, Oxxford Clothes …
3. Tổ chức quốc tế
- Mỹ cùng với đồng minh Anh, Pháp giữ 3 trong 5 ghế Thành viên thường trực Liên Hợp

Quốc.
- NATO ( Liên minh Đại Tây Dương) nối liền các nước trù phú nhất, có ảnh hưởng nhất
ở châu Âu đối với Mỹ vì vậy làm cho Mỹ trở thành người tham dự chủ chốt ngay trong
cả việc nội bộ của châu Âu. Hay nói cách khác, Mỹ là anh cả và đang thực thi nhiệm vụ
đảm bảo an ninh hoàn toàn miễn phí cho toàn bộ châu Âu
- Những quan hệ chính trị song phương với Nhật đã ràng buộc nền kinh tế và quân sự
song phương với Nhật đã ràng buộc nền kinh tế hùng mạnh nhất châu Á này với Mỹ và
với một nước Nhật về cơ bản vẫn còn là một nước bảo hộ của Mỹ.
- Mỹ cũng tham gia vào các tổ chức đa phương xuyên Thái Bình Dương như Diễn đàn
hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) và Mỹ cũng là người tham gia chủ
chốt trong khu vực này.
- Các cơ quan tài chính “Liên quốc gia” là một bộ phận trong hệ thống của Mỹ. Quỹ tiền
tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB) – đại diện cho lợi ích “toàn cầu” mà khách
hàng của các cơ quan ấy được hiểu là thế giới. Tuy nhiên, trên thực tế, những cơ quan ấy
do Mỹ khống chế mạnh mẽ, mà khởi thủy của chúng là sáng kiến của Mỹ, đặc biệt trong
Hội nghị Bretton Woods năn 1944
III, TƯ DUY NƯỚC LỚN
Khi quyền lực lớn lên, định nghĩa về lợi ích quốc gia cũng rộng hơn. Nói cách
khác, khi đã vươn lên thành một lực lượng trên sân khấu chính trị thế giới, Mỹ, Trung
Quốc, Nga hay bất kỳ một nước lớn nào khác, một cách rất tự nhiên, đều khao khát trở
thành bá quyền. Tham vọng đó được thực hiện bằng tínhchủ động và áp đặt lên các vấn
đề của thế giới và khu vực trên nhiều phương diện: kinh tế, chính trị, văn hóa – tư
tưởng…
1. Tính chủ động:
- Mỹ thể hiện tư duy nước lớn của mình bằng việc thường đi đầu trong các vấn đề quốc
tế : trong phong trào chống khủng bố, các cuộc chiến tranh Trung Đông, chủ động đề
xuất các kiến nghị ,giải pháp hay can thiệp vào các vấn đề xung đột trên thế giới như Vấn
đề Biển Đông,
- Vị thế chính trị của Mỹ và đồng minh trong các tổ chức quốc tế: đóng góp khoảng
22% ngân sách Liên hiệp quốc và là thành viên thường trực của Hội đồng bảo an Liên

hiệp quốc (với quyền phủ quyết). Lập trường của họ về các vấn đề quốc tế thường được
các quốc gia khác ủng hộ, đặc biệt là Anh Quốc, Canada, New Zealand, Úc, Đức, Nhật
Bản, Hàn Quốc và Israel. Nước Mỹ có thể tích cực và chủ động trong việc can thiệp vào
những chủ trương nghị quyết của các tổ chức quốc tế lớn để có thể thực hiện những mục
tiêu chính trị của mình.
2. Tính áp đặt
- Mỹ muốn phổ biến toàn thế giới nhân quyền và tự do dân chủ kiểu Mỹ. Nó đã trở
thành biểu thương hiệu Mỹ - Brand America, Một khái niệm được nhiều chính trị gia và
học giả Mỹ ưa dùng . Dân Chủ và Nhân Quyền là hai chiêu bài mà nước Mỹ quảng bá
rộng rãi nhất và muốn xuất cảng chúng trên khắp thế giới, lẽ dĩ nhiên theo quan niệm về
dân chủ và nhân quyền của Mỹ. Nước Mỹ thường tự hào là một thị trấn trên một ngọn
đồi (A city on a hill) nhìn xuống tất cả các quốc gia khác ở dưới thấp, hay là một cái
đầu tầu phun khói (đen) dẫn đầu kéo cả đoàn toa thế giới đi theo quan niệm về dân chủ
và nhân quyền trên đường ray của mình. Nước Mỹ cũng tự cho mình cái quyền làm
“Quan tòa phán xét nhân quyền trên thế giới” [It presumes to be the "Judge of Human
Rights in the World"], vì thế hàng năm Mỹ thường tung ra một bản phúc trình về
tình trạng nhân quyền, trong đó có vấn đề tôn giáo, của các nước khác.Nước Mỹ nổi
tiếng trong việc áp đặt Dân chủ nhân quyền lên các nước trong đó có VN. Và họ sẵn sàng
cấm vận, ngừng giao thương, gây áp lực trên trường quốc tế đối với các nước mà Mỹ cho
rằng không có tự do dân chủ, tín ngưỡng,
=>>>> Tất cả làm nên tư duy bá quyền của Mỹ
B, NỘI DUNG CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA MỸ SAU CHIẾN TRANH LẠNH
I.
ĐÔI NÉT VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA MỸ TRƯỚC VÀ TRONG
CHIẾN TRANH LẠNH
Từ khi ra đời cho đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Mỹ là nước biệt lập
với thế giới, với các mối quan hệ quốc tế.Đến chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ mới bắt
đầu hình thành một chiến lược để ứng phó với những đe dọa của chiến tranh, và vượt ra
khỏi chủ nghĩa biệt lập. Đến hết chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ đã thay thế Đế quốc
Anh với tư cách là quốc gia hàng hải, buôn bán và tài chính lớn nhất thế giới, một bá

chủ mới của thế giới xuất hiện. Từ đây, chiến tranh lạnh hình thành.Trong suốt thời
gian này, Mỹ triển khai thực hiện “chiến lược ngăn chặn” nhằm ngăn chặn Liên Xô và
chủ nghĩa cộng sản.Mỹ ngày càng can dự vào các công việc chủ yếu của thế giới và
cam kết hỗ trợ cho tất cả các nền dân chủ yêu cầu sự giúp đỡ của Mỹ.
II.
NỘI DUNG CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI MỸ SAU CHIẾN TRANH LẠNH
1.
Cơ sở hình thành
1.1.
Bối cảnh thế giới:
- Chiến tranh lạnh kết thúc và Liên Xô tan rã đã đánh dấu sự sụp đổ của trật tư Yalta,
đưa đến sự chấm dứt của chiến lược “ngăn chặn Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản” mà
Mỹ theo đuổi trong hơn 4 thập kỉ.
- Cuộc cách mạng khoa học công nghệ và sự phát triển lực lượng sản xuất đưa loài
người vào một kỉ nguyên mới. Hầu hết các quốc gia, trước hết là các nước phát triển
đang ở trong cuộc chạy đua mạnh mẽ tiến vào kỉ nguyên mới. Mỹ vẫn còn tiềm năng
dẫn đầu song không còn độc tôn mà phải tính đến các đối thủ có tính cạnh tranh cao.
- Toàn cầu hóa và khu vực hóa đang diễn ra mạnh mẽ trong nền kinh tế thế giới và
ngày càng ảnh hưởng sâu rộng đến các mặt của đời sống nhân loại. Những quan điểm
cổ điển về ưu thế cạnh tranh bị đảo lộn, sự định vị hoạt động kinh tế xã hội không còn
bị phụ thuộc một cách căn bản vào vị trí địa lý và nguồn tài nguyên như trước nữa.
Những tính toán chiến lược của Mỹ cho đến thế kỷ XXI đều tính đến những nhân tố
đó.
- Thế giới đa trung tâm đang hình thành ngày càng rõ nét, trong đó không một
cường quốc nào dành ưu thế tuyệt đối như hai siêu cường Mỹ, Liên Xô trong thời kỳ
chiến tranh lạnh.
- Hòa bình, hợp tác và phát triển dã và đang là xu thế nổi trội trong QHQT sau chiến
tranh lạnh, làm tăng lên sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia.
1.2.
Bối cảnh trong nước:

- Mỹ vẫn phải đối đầu với những thách thức tiềm tàng đối với an ninh quốc gia:

Quan hệ với Nga và Trung Quốc được cải thiện đáng kể, tuy nhiên không thể
không tính đến những khác biệt về chính sách, bất ổn tiềm tàng mà các nước này
phải đương đầu.

Nguy cơ vũ khí giết người hàng loạt – hạt nhân, hóa học, sinh học – rơi vào tay
những nước bất trị và những kẻ khủng bố.
- Nền kinh tế cùng nhiều lĩnh vực chính sách được coi là đối nội trở nên quốc tế
hóa
- Mỹ khó có thể nêu cao những giá trị cơ bản của mình trong khi làm ngơ đối với
những vi phạm nghiêm trọng những giá trị đó xảy ra ở những nơi bên ngoài biên giới
quốc gia của Mỹ: Mỹ không thể tuyên bố ủng hộ dân chủ, tự do và công bằng khi làm
ngơ với diệt chủng, đàn áp, tra tấn …
Bối cảnh trong và ngoài nước thay đổi đặt ra yêu cầu cấp bách phải điều
chỉnh chính sách đối ngoại.
2.
Nội dung chính sách đối ngoại Mỹ - Ba mục tiêu lớn nhằm đạt được và giữ vững
vị trí bá quyền
Như đã nói ở trên, sau khi Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu sụp đổ, trong bối
cảnh quốc tế mới cực kỳ phức tạp, chiến lược “ngăn chặn Liên Xô và chủ nghĩa cộng
sản” được điều chỉnh thành chiến lược toàn cầu “cam kết và mở rộng”, với ba mục
tiêu chính:
- Phục hưng nền kinh tế Mỹ
- Duy trì, củng cố ưu thế quân sự
- Thúc đẩy dân chủ ở nước ngoài.
Ba mục tiêu có mối quan hệ và tác động qua lại lẫn nhau.Muốn được đảm bảoan
ninh, Mỹ phải duy trì thương mại tự do và các cơ cấu dân chủ. Trong thời kỳ phát triển
về kinh tế, Mỹlại càng cần củng cố an ninh và hướng tới tự do. Trong Lời nói đầu Chiến
lược an ninh quốc gia Mỹ 1996, Bill Clinton cũng khẳng định: “Đòn bẩy ngoại giao đặc

biệt của chúng ta, cũng như sức mạnh tư tưởng của chúng ta làm cho các nhà ngoại giao
giữ vị trí hàng đầu giữa những người ngang sức… Nhưng dù lực lượng quân sự là yếu
tố không thể thay thế được của sức mạnh cường quốc của chúng ta, kể cả khi chiến tranh
lạnh đã hết, đất nước ta vẫn phải duy trì các lực lượng quân sự có hiệu quả để ngăn chặn
nguy cơ từ nhiều phía và khi cần thiết, chiến đấu và chiến thắng địch.”
Kể từ sau sự kiện 11/9, Chính quyền của Đảng Cộng hòa gấp rút soạn thảo chiến
lược an ninh quốc gia cho thời kỳ mới – thời kỳ chống khủng bố. Ba mục tiêu chiến
lược vẫn được giữ vững, tuy nhiên tất cả đều nhằm định hướng mới nổi bật là chống
khủng bố.Tất cả sức mạnh quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao… đều nhằm một mục
đích là huy động sức mạnh Mỹ và sức mạnh của thế giới để chống lại chủ nghĩa khủng
bố.
Nhìn chung, cả ba mục tiêu xuyên suốt nói trên trong chính sách đối ngoại Hoa Kỳ
đều nhằm hướng tới một mục tiêu lớn là nhằm đảm bảo vị trí lãnh đạo thế giới của
nước này, với xu hướng chỉ đạo chính là an ninh thế giới và quốc phòng gắn bó chặt
chẽ với nhau. Trong bài phát biểu tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại New York City ngày
21/10/1999, Cố vấn an ninh Quốc gia Mỹ về vai trò lãnh đạo toàn cầu của Mỹ Samuel
R.Berger khẳng định: “Sức mạnh và sự thịnh vượng của Mỹ là vô địch. Chưa bao giờ sự
lãnh đạo của chúng ta lại cấp bách và cần thiết đến thế.”
2.1.
Phục hưng nền kinh tế
a.
Nội dung:
Mỹ chủ trương xây dựng nền kinh tế vững mạnh, giành lại vị trí lãnh đạo
trong nền kinh tế thế giới và coi đây là ưu tiên số một của chiến lược toàn cầu của
mình.
b.
Cơ sở, mục đích
Trong báo cáo về kinh tế đọc trước quốc hội Mỹ (17/2/1993), B.Clinton nêu rõ
ràng kế hoạch kinh tế của Mỹ có "tầm nhìn vươn xa hơn chu kỳ kinh doanh ngày nay"
nhằm "vươn tới thế kỷ sau" với mục tiêu "về lâu dài sẽ mang lại cho nước Mỹ mức

tăng trưởng kinh tế cao hơn, sản phẩm được tăng cao, nhiều việc làm chất lượng hơn
và một vị trí cạnh tranh kinh tế được cải thiện trên thế giới".
c.
Sự điều chỉnh qua các đời Tổng thống
Chính quyền Clinton coi trọng kinh tế hơn trong chiến lược toàn cầu của Mỹ
so với tổng thống Bush và có kế hoạch dung hòa nhất định giữa hướng nội và hướng
ngoại.
Xây dựng một nền kinh tế phát triển mạnh được như chính quyền Mỹ ngày nay coi
là cơ sở vững chắc cho chiến lược toàn cầu mới của mình.
Trong thời gian vận động tranh cử, ông Obama chủ trương tiếp tục thúc đẩy đà
phục hồi kinh tế; cam kết tạo ra thêm hàng triệu việc làm mới; tăng gấp đôi xuất khẩu
nhằm hỗ trợ việc làm; giảm một nửa lượng nhập khẩu năng lượng vào năm 2020 bằng
cách phát triển năng lượng xanh; giảm thâm hụt ngân sách; tăng thuế đối với thiểu số
những người giầu có nhất nhưng giảm thuế thu nhập cho tầng lớp trung lưu và những gia
đình có thu nhập thấp; cải cách bộ luật thuế doanh nghiệp để giảm thuế cho những công
ty đưa việc làm từ nước ngoài về Mỹ; khuyến khích tăng sản lượng hàng hóa "Made in
America".
2.2.
Duy trì, củng cố ưu thế quân sự của Mỹ trên thế giới
a.
Nội dung
Mỹ chủ trương hiện đại hóa quân đội, tăng cường tiềm lực quân sự để làm
công cụ răn đe chiến lược, nhằm khống chế và kiềm chế các nước đồng minh và đối thủ,
đối phó với các cuộc xung đột khu vực.
Mỹ cho rằng chiến lược dính líu và mở rộng vẫn phải dựa trên xây dựng lực lượng
vũ trang mạnh, đủ sức khống chế đồng minh và đủ khả năng đối phó với những thách
thức và đe dọa đối với Mỹ sau chiến tranh lạnh.
b.
Cơ sở, mục đích
Chiến lược quốc phòng của Mỹ nêu ra những quan ngại an ninh dài hạn:

1/ tiềm năng xuất hiện một nước cạnh tranh toàn cầu. Từ nay đến 2015, Mỹ
tiếp tục giữ được vị trí siêu cường duy nhất của mình. Tuy nhiên, từ sau 2015, Trung
Quốc và Nga có tiềm năng thách thức vị trí siêu cường duy nhất của Mỹ, mặc dù tương
lai của những nước này cũng chưa chắc chắn;
2/ kịch bản con bài tẩy (wild card scenario) : sự xuất hiện của những thách thức
công nghệ mới, Mỹ mất quyền tiếp cận đối với những phương tiện sống còn, và các chế
độ thù địch thay thế các chế độ thân thiện với Mỹ ở các nước;
3/ quan ngại về sự thay đổi môi trường an ninh nếu Mỹ không can dự vào các
công việc của thế giới và mất vị trí áp đảo về quân sự của mình.
Nhà Trắng và Lầu năm góc chủ trương điều chỉnh chiến lược quân sự sao cho phù
hợp với tình hình mới, vừa cắt giảm quân sự và chi tiêu quốc phòng, vừa củng cố, tăng
cường sức mạnh quân sự. Như vậy Mỹ vẫn luôn tìm cách duy trì ưu thế tuyệt đối về quân
sự của mình trên thế giới. B.Clinton cho rằng "quân đôi Mỹ vẫn sẽ là lực lượng chiến đấu
được huấn luyện tốt nhất, chuẩn bị tốt nhất và được trang bị tốt nhất trên thế giới".
c.
Sự điều chỉnh qua các đời Tổng thống
Bush nhiều lần kêu gọi thiết lập “trật tự thế giới mới” một cực- Mỹ. Trong “thong
điệp lien bang” năm 1991, Bush đã 6 lần tuyên bố “thế kỷ XXI là thế kỷ của nước Mỹ”.
Kế tục chính sách của Bush, 27.9.93, Clinton đã công bố chiến lược toàn cầu mới trong
diễn văn trước Đại hội đồng LHQ với tên “Chiến lược mở rộng”. Chiến lược “mở rộng”
dân chủ kiểu Mỹ tập trung vào 4 điểm: +, Củng cố và mở rộng các nền “dân chủ”, lấy
“dân chủ thị trường” làm nóng cốt” +, thực hiện chiến lược diễn biến hòa bình vs nước
XHCN, hậu thuẫn tích cực nền dân chủ ở Đông Âu và Liên Xô cũ +, ngăn chặn và tự do
hóa các nhà nước thù địch +, thong qua các hoạt động hòa bình, nhân đạo, giúp cho nền
dân chủ và kinh tế thị trường bám rễ vào các khu vực chậm phát triển nhất là châu Phi.
Trong thời gian này, hoạt động ngoại giao và hoạt động quân sự đối ngoại của Mỹ tập
trung vào 4 hướng: +, củng cố, mở rông hệ thống lien minh quân sự đã có thời chiến
tranh lạnh trên hai hướng Đông, tây, lục địa châu Âu và Á +, thúc đẩy hình thành các khu
vực mậu dịch tự do như NAFTA ở Bắc Mỹ, FTTA toàn châu Mỹ, TAFTA toàn châu Đại
Dương +, chuẩn bị sẵn sang lực lượng quân sự “đa nhiệm” với hệ thống vũ khí hiện đại

nhất và có học thuyết quân sự thích hợp để làm nhiệm vụ can thiệp quân sự, phi quân sự
“khác với chiến tranh” trong thời bình ở nước ngoài +, thúc đẩy mở rộng dân chủ và nhân
quyền theo kiểu Mỹ
Các nguyên nhân khiến Mỹ không phát huy được sức mạnh của mình:
- Sức mạnh quân sự của Mỹ tuy lớn mạnh nhưng lại được sử dụng quá phân tán và
quá tải vào nhiều những hoạt động vũ trang ở nước ngoài trong khi Mỹ vẫn không
ngăn chặn được việc phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt và chống lại có hiệu quả
những hoạt động phá hoại, khủng bố và xâm nhập vào các mạng thong tin thương
mại, ngân hang, quân sự ngay trong long nước Mỹ
- Tinh thần độc lập tự chủ của nhân dân và các dân tộc rất cao sau chiến tranh
lạnh, họ không chấp nhận sự áp đặt của Mỹ.
- Về kinh tế và chính trị, Mỹ không còn đủ mạnh và không còn sự thống nhất nội bộ
như sau Chiến tranh TG thứ 2 để thực hiện vai trò sen đầm quốc tế của mình
2.3.
Thúc đẩy dân chủ ở nước ngoài
a.
Nội dung
“Thúc đẩy dân chủ” thực chất là việc Mỹ dựa vào hình thái ý thức và các tiêu
chuẩn giá trị của mình, lấy sức mạnh kinh tế, quân sự làm sức ép, vận dụng nhiều
thủ đoạn khác nhau gây ảnh hưởng và làm thay đổi cục diện chính trị của nước
khác, thiết lập chế độ dân chủ kiểu Mỹ trên toàn thế giới. Thông qua đó Mỹ muốn
thiết lập trật tự thế giới mới, thực hiện âm mưu bá quyền của mình.
b.
Mục tiêu, phương tiện thực hiện
Mục tiêu:

Đảm bảo lợi ích kinh tế: thông qua việc khống chế chặt chẽ chính phủ các nước
nhằm giành quyền kiểm soát những nguồn tài nguyên quan trọng

Ngăn chặn sự trỗi dậy của các nước/nhóm nước vốn là mối đe dọa lớn đối với

Mỹ: Trung Quốc, Ấn Độ, EU

Dung túng các nước thân cận nhằm lôi kéo đồng minh, đồng thời chống lại các
nước đối địch thông qua việc đưa ra tiêu chuẩn kép: mỗi nhóm nước có một loại
tiêu chuẩn riêng để đánh giá mức độ dân chủ
Phương tiện, cách thức:

Tấn công hoặc can thiệp quân sự

Gây sức ép chính trị: Tự coi mình là “luật sư bảo vệ nhân quyền”, hàng năm
Chính phủ Mỹ đều công bố Sách trắng về nhân quyền với những “tiêu chuẩn kép”
nói trên, lấy đó để gây sức ép chính trị với các nước XHCN hoặc một số nước theo
chủ nghĩa dân tộc, yêu cầu các nước này phát triển theo chiều hướng Mỹ mong
muốn
Ví dụ: Mỹ không che giấu ý đồ và mục tiêu lâu dài của Mỹ chuyển hoá Trung Quốc
thành một nước "đi theo mô hình kinh tế thị trường, đa nguyên hoá chính trị và pháp trị".
Mặc dù từ năm 1994, Mỹ đã không còn gắn vấn đề dân chủ nhân quyền với việc trao cho
Trung Quốc quy chế thương mại bình thường (quy chế tối huệ quốc), Mỹ vẫn theo dõi sát
sao hồ sơ nhân quyền của Trung Quốc.Năm 1999, 2000,Mỹ đều bảo trợ nghị quyết lên
án những vấn đề nhân quyền của Trung Quốc tại Hội nghị hàng năm của Uỷ ban Nhân
quyền Liên Hợp Quốc.

Lợi dụng các tổ chức phi chính phủ để ủng hộ phe đối lập, xúi giục người dân
biểu tình, lật đổ chính quyền đương thời ở các nước “đối địch”

Tấn công văn hóa (các phương tiện thông tin truyền thông)
c.
Sự điều chỉnh qua các đời Tổng thống
Từ Bush (cha) đến G.W. Bush: Coi thúc đẩy dân chủ là mục tiêu hàng đầu trong
chính sách đối ngoại


Bush (cha) phát biểu trong Thông điệp Liên bang năm 1990: “Bốn mươi năm qua,
Mỹ và các nước đồng minh luôn ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản để bảo đảm cho
dân chủ được tồn tại. Giờ đây, do một số nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa bắt
đầu sụp đổ, mục tiêu của chúng ta là phải bảo đảm cho dân chủ được phát triển”

B.Clinton: “Mục tiêu chủ yếu của chiến lược an ninh quốc gia trong thời đại mới
là dùng lực lượng quân sự luôn sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ đất nước, giúp nền
kinh tế Mỹ khôi phục lại sức sống, thúc đẩy dân chủ ở nước ngoài phát triển.”
(Theo Báo cáo chiến lược an ninh quốc gia: Chiến lược tham gia và mở rộng,
1994)

G.W.Bush: “Thúc đẩy dân chủ trên phạm vi toàn cầu là yêu cầu cấp bách mà an
ninh quốc gia Mỹ đặt ra” (Bài phát biểu nhậm chức nhiệm kỳ hai, ngày 20/01/
2005)
Sự điều chỉnh của B. Obama:

Trước khi nhậm chức, trả lời phỏng vấn tờ Bưu điện Washington, ông B. Obama
cho biết sẽ xem xét thúc đẩy dân chủ “thông qua một thấu kính thực sự để mang
lại một cuộc sống tốt đẹp cho người dân trên thế giới”

Sau khi nhậm chức: chủ trương thực hiện chính sách mềm dẻo, đề cao “sức
mạnh thông minh”, không lấy danh nghĩa “phổ biến các giá trị dân chủ” để áp
đặt các quốc gia khác
C, Quá trình triển khai CSĐN với các nước lớn
I .Mỹ - Nhật Bản:
1.
Về An ninh- Quân sự
Với việc ký kết Tuyên bố chung ngày 17/4/1996 và việc thông qua Phương châm chỉ
đạo an ninh mới tháng 9/1997, liên minh Nhật - Mỹ đã được nâng lên một tầm cao mới

của thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh. Hai nước Nhật, Mỹ đều coi việc tiếp tục tăng cường
hợp tác an ninh chính trị và kể cả an ninh quốc phòng với nhau trong thế kỷ XXI có
tầm quan trọng đặc biệt đối với an ninh và phát triển kinh tế chung của cả khu vực Châu
Á – Thái Bình Dương nói chung và Đông Á, đặc biệt là Đông Bắc Á nói riêng. chứ
không chỉ là phục vụ cho lợi ích của riêng hai nước. Phạm vi hoạt động của Lực lượng
phòng vệ Nhật Bản do đó đã được Mỹ ủng hộ theo mong muốn của Nhật là ngày càng
mở rộng hơn. Quan hệ an ninh song phương này đã chuyển đổi từ tính chất phòng thủ
truyền thống là chủ yếu trong thời kỳ Chiến tranh lạnh nay sang chuyển sang thời
kỳ mới - Hậu Chiến tranh lạnh, là tăng cường sự can thiệp vào các vấn đề khu vực
để bảo đảm an ninh quốc gia mỗi bên, bảo đảm cho lợi ích chiến lược của họ, và
cũng để nhằm bảo đảm cho an ninh chung của khu vực và cả thế giới. Như bình luận
của giới phân tích chính trị thì “Hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ” trong bối cảnh mới đã
được nâng cấp chính là để đối phó với mọi khả năng bất trắc có thể xảy ra trên bán đảo
Triều Tiên do những bất đồng từ cuộc khủng hoảng hạt nhân đang xảy ra, nếu các bên
liên quan không tự kiềm chế được; ngoài ra cũng là để đề phòng Trung Quốc, ngăn
Trung Quốc dùng sức mạnh quân sự giải phóng Đài Loan Có một thực tế cần lưu ý,
cũng từ nhiều bình luận của giới phân tích chính trị đã cho rằng, xu hướng dân tộc chủ
nghĩa đang nổi lên trong không ít người dân Nhật, nhất là ở các quan chức chính phủ, các
chính trị gia với việc nước này hiện đang mong muốn nâng cao vai trò của mình trong
cộng đồng quốc tế. Họ ủng hộ việc cần sửa đổi Hiến pháp Nhật Bản, cho phép quân đội
Nhật Bản có quyền hạn lớn hơn cũng như với việc mong muốn trở thành thành viên
thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Phía Mỹ đã bày tỏ công khai quan
điểm của mình và cho rằng, Mỹ có lý do để chấp nhận xu hướng mới này trong khi vẫn
tham vấn cho Nhật Bản tránh các hành động cực đoan có thể dẫn đến “nguy cơ tái hiện
chủ nghĩa Đại Đông Á trước đây” như dư luận thế giới và cả những người dân Nhật lo
ngại. Mỹ vẫn mong muốn Nhật Bản phấn đấu trở thành một phần quan trọng của
cán cân quyền lực Châu Á. Hơn nữa, cùng với tiến triển thời gian, khi Nhật Bản đã có
đủ điều kiện của một “quốc gia bình thường” và đã là “ người khổng lồ hai chân”,
khi đó quân đội Mỹ và các căn cứ quân sự hải ngoại của Mỹ trên lãnh thổ, lãnh hải
Nhật Bản sẽ giảm đi hoặc bị dỡ bỏ hoàn toàn. Nhật Bản vì thế phải tích cực chuẩn bị

để đóng vai trò đó.
Tiếp theo hai văn bản quan trọng đã ký kết giữa hai bên Nhật - Mỹ trên đây, ngày 20/2/
2005 liên minh Nhật - Mỹ còn ký tiếp Tuyên bố chung về hợp tác an ninh trong tình
hình mới. Tuyên bố chung này là sự tiếp tục tăng cường liên minh Nhật - Mỹ để kịp thời
đối phó với 3 ngòi nổ chiến tranh tiềm tàng ở Đông Á (bán đảo Triều Tiên, hoạt động
khủng bố trong khu vực, eo biển Đài Loan), Mỹ cho rằng Nhật Bản phải trở thành căn cứ
tiền tiêu của Mỹ ở Viễn Đông, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống có thể xảy ra, đồng
thời Mỹ đưa ra ý tưởng biến các căn cứ và quân đội Mỹ đóng ở Nhật Bản thành một đầu
mối quan trọng trong cả chuỗi phòng thủ Đông Bắc Á nói riêng, Đông Á nói chung.
Từ một số sự kiện chính trị lớn đã diễn ra trên đây trong quan hệ liên minh Nhật - Mỹ từ
sau Chiến tranh lạnh đã đủ cho thấy tuy chưa phải là hoàn toàn suôn sẻ trong mọi mọi
quan hệ hợp tác cùng phát triển và cùng gìn giữ, nâng cao vị thế cường quốc của lẫn
nhau, song vẫn có thể nói rằng, quan hệ Nhật - Mỹ là quan hệ đồng minh bền chặt,
gắn bó với nhau về các lợi ích kinh tế, chính trị và an ninh, được phát triển trong một
cơ chế an ninh song phương rõ ràng trên cơ sở một Hiệp ước an ninh cụ thể đã được
ký từ năm 1951. Ảnh hưởng của quan hệ chính trị - an ninh Nhật - Mỹ là rất lớn đối với
khu vực Đông Bắc Á cũng như toàn bộ khu vực Đông Á và cả Châu Á - Thái Bình
Dương. Hiện nay trong khu vực Đông Bắc Á chưa có quan hệ song phương nào khác
vượt khỏi tầm gắn bó của quan hệ đồng minh Nhật - Mỹ. Từ đó cũng cho thấy, liên tục
thời gian gần đây, kiên quyết vượt qua mọi rào cản dư luận thế giới, khu vực và cả trong
nước, ngày 9/1/2007, Nhật Bản đã chính thức tuyên bố nâng cấp hệ thống bộ máy an
ninh phòng thủ của mình từ Cục Phòng vệ đã tồn tại từ hơn nửa thế kỷ nay (1954) lên Bộ
Quốc phòng. Sự kiện này được coi là một bước ngoặt rất lớn của nước Nhật trong tiến
trình phấn đấu nhanh chóng trở thành một “quốc gia bình thường”, không chỉ thế mà còn
là một cường quốc cả về kinh tế, chính trị, quân sự
2.
Về mặt Kinh tế:
Năm 1993, khi trình bày dự án về "Cộng đồng kinh tế Châu A' - Thái Bình Dương"
tại hội nghị Seatle, tổng thống Clinton nói rõ quan hệ giữa Mỹ với Nhật Bản là hạt
nhân trong chính sách của Mỹ với cộng đồng Thái Bình Dương, còn chính phủ Nhật thì

luôn coi quan hệ Nhật - Mỹ là hòn đá tảng trong quan hệ đối ngoại của Nhật Bản.
Sự thâm nhập và nương tựa lẫn nhau về kinh tế giữa Mỹ và Nhật Bản khăng khít đến
mức không thể tách rời được. Mỹ là thị trường xuất khẩu và là nơi đầu tư lớn nhất của
Nhật Bản, cũng là nơi cung cấp kỹ thuật mới, sản phẩm kỹ thuật và thông tin cho Nhật
Bản.
Tuy vậy, trong tình hình hiện nay, giữa hai nước đang có những mâu thuẫn kinh tế lớn.
Một là vấn đề thâm hụt trong cán cân buôn bán hết sức gay gắt, một nửa mức thâm hụt
hàng năm của Mỹ là với Nhật Bản. Hai là cuộc đấu tranh giữa Mỹ và Nhật Bản nhằm
giành quyền chủ đạo kinh tế ở khu vực Châu A' - Thái Bình Dương.
Do vậy trong một thời gian tương đối lâu dài sau này, xu hướng phát triển kinh tế Mỹ
- Nhật là hợp tác, bất đồng, mâu thuẫn, xung đột. Nhưng mâu thuẫn và xung đột chỉ
nằm trong giới hạn của nó chứ không thể dẫn tới chiến tranh kinh tế Mỹ - Nhật.
Hợp tác: Hoa Kỳ là thị trường quan trọng nhất đối với NB cả về xuất khẩu và nhập
khẩu:
Năm 1991, NB trở thành nước nhập khẩu nông sản hàng hóa lớn nhất thế giới và các sản
phẩm nông nghiệp nhập khẩu từ Mỹ đã đảm bảo đáp ứng 30% tổng số khối lượng nông
sản nhập khẩu của NB. Năm 1992, xuất khẩu nông sản hàng hóa Mỹ sang NB chiếm xấp
xỉ 20% tổng khối lượng xuất khẩu nông sản của Hoa Kỳ
Năm 1993, Nb đã phải ký thỏa ước GATT đồng ý mở của thị trường gạo.
Tóm lại NB ngày càng trở thành nước xuất khẩu lớn đối với thị trường Hoa Kỳ. nói
cách khác NB và Hoa Kỳ trở thanh những bạn hàng hết sức quan trọng của nhau.
Mâu thuẫn: Thâm hụt mậu dịch của Mỹ đối với Nhật Bản rất lớn. Năm 1992, mức
thâm hụt là 49 tỷ USD. Năm 1993, con số này lên tới 60 tỷ USD. Chính vì vậy, Mỹ đã
tuyên bố áp dụng các biện pháp trả đũa đối với Nhật Bản theo điều luật "Super 301",
theo đó Mỹ sẽ tăng thuế đối với các hàng xuất khẩu của Nhật Bản vào Mỹ, đặc biệt là
các sản phẩm của ngành viễn thông. Tuy nhiên, những biện pháp cứng rắn này cũng vẫn
không mang lại hiệu quả nhiều vì nó đi ngược lại những nguyên tắc của GATT, và vì
phản ứng của nhiều nước về cơ bản có lợi cho Nhật Bản.
Đồng thời, từ nhiều năm nay, chính phủ Mỹ thực hiện chính sách nâng cao giá của
đồng Yên so với đồng USD. Bởi vì nếu giá USD so với Yên tụt xuống dưới mức 100 sẽ

có nguy cơ dẫn đến bùng nổ cuộc khủng hoảng thị trường tiền tệ thế giới và các nước sẽ
bán tháo chứng khoán Mỹ, khiến Mỹ phải nâng cao lãi suất gây ảnh hưởng bất lợi đối với
việc phục hồi kinh tế của mình.
Tháng 4/1995, đồng Yên đạt mức tăng giá chưa từng có trong hơn 50 năm qua, tỷ giá là
84 Yên/1 USD. Do đó, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã vội nâng lãi suất lên 0,75% để làm
dịu bớt sự lo ngại về lạm phát và ổn định lại đồng USD. Trong khi đó, chính phủ Nhật
Bản đã phải họp khẩn cấp để bàn biện pháp đối phó với tình hình đó, vì đồng Yên lên giá
quá cao gây phương hại nghiêm trọng cho nền kinh tế Nhật Bản mới bắt đầu phục hồi.
II, Mỹ - Nga
Những năm đầu thập niên 90 được coi là thời kỳ " trăng mật" của quan hệ Nga
- Mỹ. Thực ra đây là thời kỳ Nga hầu như ngả hẳn về phía Mỹ, trên thực tế phụ thuộc
Mỹ trong nhiều vấn đề chính trị quốc tế, hy vọng sớm thiết lập mối quan hệ mới về chất,
quan hệ liên minh, hợp tác chặt chẽ với Mỹ. Đối với Mỹ, nước Nga chiếm vị trí rất quan
trọng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ. Mặc dầu trong quan niệm của họ, Nga là nước "
chiến bại" trong chiến tranh lạnh, song LB Nga vẫn có một vị thế mà Mỹ không thể xem
thường. Mặt khác, Nga lại là một thực thể CT - KT - XH rất phức tạp, rất khó tiên đoán.
Thực chất Mỹ đang cố gắng duy trì sự cân bằng giữa hợp tác và cạnh tranh, giữa đối
tác chiến lược và đối thủ tiềm tàng trong quan hệ với Nga.
1.
Về an ninh – quân sự:
1.1 Vấn đề vũ khí hạt nhân
- Tiếp theo những Hiệp ước và thỏa thuận đã đạt được về vấn đề vũ khí hạt nhân chiến
lược giữa Liên Xô và Mỹ (những năm 1972, 1973, 1979), tháng 7 năm 1991, Tổng
thống Liên Xô M.Goocbachop và Tổng thống Mỹ G.Bush đã ký Hiệp ước cắt giảm
vũ khí tiến công chiến lược (START-1). Theo Hiệp ước này LX và Mỹ sẽ thủ tiêu 1/3
kho vũ khí hạt nhân chiến lược của mình trong vòng 7 năm từ ngày kí.
3/1/1993, Tổng thống Nga B.Enxin và Tổng thống Mỹ Bush ký START-2, theo đó
mỗi bên chỉ giữ lại 3-3500 đầu đạn hạt nhân chiến lược. Với START2, Tổng thống 2
nước muốn khẳng định họ sẽ vừa tiếp tục con đường hòa dịu, hợp tác giảm căng thẳng
trong lĩnh vực hạt nhân, vưà duy trì sự cân bằng chiến lược hạt nhân.

1/1994, Tổng thống 2 nước ký một văn bản khác có ý nghĩa quan trọng 1 cách tượng
trưng: Tuyên bố chung thỏa thuận 2 nước không chĩa tên lửa chiến lược vào nhau và vào
các đồng minh của nhau.
11/5/1995, 2 Tổng thống đã ký các hiệp định không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT)
và 24/9/1996, ký Hiệp định cấm thử vũ khí hạt nhân toàn diện (CTBT).
3/1997, trong cuộc gặp thượng đỉnh song phương tại Henxinki (Phần Lan), 2 bên đã có
những thỏa thuận quan trọng trong lĩnh vực vũ khí hạt nhân:
+ Kéo dài thời hạn thủ tiêu đầu đạn hạt nhân theo Hiệp ước START-2 đến 31/12/2007
+ Ngay sau khi START-2 có hiệu lực, hai bên lập tức đàm phán về START-3.
+ Mỹ tiếp tục hỗ trợ Nga theo chương trình Nunn-Lugar về hợp tác giảm nguy cơ (hợp
tác xung quanh vấn đề tháo gỡ, phá hủy, bảo đảm an toàn, chuyển các nguyên vật liệu hạt
nhân sang sử dụng cho mục đích kinh tế, )
+ Công nhận ý nghĩa cốt lõi của Hiệp định ABM năm 1972 trong việc tiếp tục cắt giảm
vũ khí hạt nhân chiến lược và an ninh hạt nhân.
- Sau sự kiện 11/9, quan hệ Nga – Mỹ nói chung, trong lĩnh vực hạt nhân nói riêng đã
bước sang một trang mới. Đó là ngày 24/5/2002, Nga và Mỹ đã ký START-3 để trong
10 năm tới mỗi bên chỉ giữ lại 1700-2200 đầu đạn.
- Tổng thống Obama tiếp tục đàm phán cắt giảm kho vũ khí hạt nhân với Nga.
1.2 Vấn đề an ninh châu Âu
- Việc Liên Xô tan rã làm xuất hiện những “khoảng trống quyền lực” ở Đông Âu và trên
lãnh thổ Liên Xô trước đây đã thúc đẩy giới cầm quyền Mỹ ngày càng tích cực thực hiện
chiến lược can dự sâu hơn vào khu vực có tầm quan trọng đặc biệt này. Châu Âu sau
CTL thì vẫn cần có 1 thiết chế nhằm đảm bảo an ninh trên lục địa này. Trong khi đó, Mỹ
muốn sử dụng NATO như một công cụ để kiềm chế Nga. Biểu hiện là cuộc không
kích 78 ngày đêm của Mỹ và NATO vào Liên bang Nam Tư năm 1999.
Việc NATO liên tục mở rộng về phía Đông, cụ thể là việc kết nạp một loạt các nước
Đông Âu và Liên Xô cũ (Rumani, Xlovakia, Xlovenia, Bungari, ), đồng thời cùng nhiều
phương sách khác nhau là cách mà Mỹ tấn công vào không gian địa – chính trị, vào lợi
ích chiến lược của Nga.
- Ông Obama thừa nhận vai trò của Nga, cam kết tiếp tục hợp tác trong các vấn đề quốc

tế.
2. Về kinh tế:
- 6/1992, Tổng thống Mỹ Bush đã cam kết sẽ viện trợ cho Nga 1,6 tỷ USD và phối hợp
với các nước công nghiệp phát triển (G7) viện trợ 43 tỷ USD cho Nga chuyển đổi nền
kinh tế.
- Tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 18 (7/1992), nhóm G7 đã đưa ra lời hứa viện trợ 24 tỷ
USD, sau đó nâng lên thành 43,5 tỷ USD tại Hội nghị lần thứ 19 năm 1993.
Tuy nhiên đó chỉ là những lời hứa suông. Mỹ và phương Tây để để mặc cho Nga vật
lộn với những khó khăn chồng chất của mình.
- 4/1993, Ủy ban Nga – Mỹ về hợp tác kinh tế và kỹ thuật được thành lập tháng 4 năm
1993 tại cuộc gặp cấp cao ở Vancouver (Canada) giữa TT Mỹ Clinton và TT Nga Elsin.
Đầu tháng 9/1993, dưới sự chủ tọa của A.Gor và V.Cherrnomyrdin đã diễn ra phiên
họp lần thứ nhất của Ủy ban tại Washington.Tại phiên họp này 3 văn kiện lớn về hợp tác
trong lĩnh vực vũ trụ đã được thông qua:
+ Về các chuyến bay vũ trụ chung và hợp tác xây dựng trạm vũ trụ hoạt động thường
xuyên
+ Về nghiên cứu lý thuyết ngành hàng không học
+ Về chuẩn bị các chương trình cho modun vũ trụ.
Cùng với đó là các hiệp định về việc mở cửa cho Nga ra thị trường quốc tế trong lĩnh
vực phóng tên lửa thương mại; về hợp tác mở rộng khả năng các nhà máy điện chạy bằng
nhiên liệu hữu cơ,
12/1993, tại Moscow diễn ra phiên họp lần 2 của Ủy ban, sau đó là họp thường kỳ 6
tháng 1 lần. Kết quả là sau 5 năm với 10 lần họp, Ủy ban đã thông qua hơn 220 văn
kiện, trong đó: 53 văn kiện về hợp tác nghiên cứu vũ trụ, 51 văn kiện về quan hệ kinh
tế - thương mại, 43 văn bản trong lĩnh vực năng lương; 24 văn bản về khoa học và công
nghệ, 18 văn bản về sinh thái, 6 văn bản về nông nghiệp,
- Năm 1993, Mỹ thông qua Luật “Về quan hệ hữu nghị với Nga và các quốc gia mới
độc lập” (Các nước Cộng hòa Xô viết cũ), đã xem xét lại hơn 70 điều luật có tính phân
biệt đối xử, tạo điều kiện nhất định cho việc xuất khẩu phu quan thuế của Nga sang Mỹ

×