BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÌNH DƯƠNG
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
ĐỀ TÀI: Giải pháp mở rộng hoạt động thanh tốn quốc tế
tại ngân hàng TMCP Sài Gịn
Giảng viên hướng dẫn : Ts.Đinh Thị Trúc
Sinh viên thực hiện
: Phạm Quý Mậu
Lớp
: K33TC2
Bình Dương ,Ngày 21tháng 3 Năm2021
Lời mở đầu
Đóng góp một phần khơng nhỏ vào hoạt động thương mại quốc tế chính
là hoạt động thanh tốn quốc tế. Chất lượng và tốc độ phát triển thương mại
quốc tế phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó thanh tốn quốc tế giữ vai trị
hết sức quan trọng. Trong những năm vừa qua, hoạt động thương mại quốc tế
nói chung và hoạt động thanh tốn quốc tế nói riêng của nước ta đã trải qua
những bước thăng trầm, nhưng đang ngày càng hoàn thiện và phát triển.
Trong quá trình học tập tại trường, được sự hướng dẫn của các thầy cơ
giáo,thêm vào đó là mơn học mà em yêu thích.Đến khi thực tập tại ngân hàng
TMCP Sài Gịn chi nhánh Đà Nẵng(SCB),em nhận thấy thanh tốn quốc tế đã
được ngân hàng xem là một trong những hoạt động chủ yếu trong hoạt động
kinh doanh của mình. Và trong những năm gần đây, hoạt động thanh toán
quốc tế của SCB Đà Nẵng đã từng bước phát triển.Tuy nhiên, hiện nay hoạt
động thanh toán quốc tế của ngân hàng vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần
phải khắc phục, cùng với nó là sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng trong
và ngoài nước. Bởi vậy, việc nghiên cứu để hồn thiện, mở rộng hoạt động
thanh tốn quốc tế tại SCB Đà Nẵng là cần thiết.Xuất phát từ lý do trên, nên
em đã chọn đề tài: " Giải pháp mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế tại
ngân hàng TMCP Sài Gòn " làm đề tài cho chuyên đề của mình.
Kết cấu chuyên đề gồm ba phần:
Chương I: Hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng TMCP Sài
Gòn chi nhánh Đà Nẵng.
Chương III: Giải phảp mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng
TMCP Sài Gòn chi nhánh Đà Nẵng.
Hoàn thành chuyên đề này trước hết em xin chân thành cảm ơn các cơ
chú, anh chị Phịng Kinh Doanh của ngân hàng TMCP Sài Gòn chi nhánh Đà
Nẵng đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình thực tập.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn Cô giáo Huỳnh Thị Diệu Linh đã tận
tình chỉ bảo hướng dẫn cho em trong q trình hồn thành chun đề này. Em
xin cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Thương Mại-Du Lịch trường Đại học
Kinh Tế Đà Nẵng đã dạy dỗ và giúp đỡ em trong những năm học vừa qua.
CHƯƠNG I
HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về Ngân hàng thương mại.
1.1.1. Ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Lịch sử ra đời và phát triển của Ngân hàng Thương mại :
Lịch sử ra đời và phát triển của Ngân hàng Thương mại :
❖ Lịch sử ra đời :
Nghề kinh doanh tiền tệ ra đời gắn liền với quan hệ thương mại. Trong
thời kỳ cổ đại đã xuất hiện việc giao lưu thương mại giữa các lãnh địa với các
loại tiền khác nhau thì nghề kinh doanh tiền tệ xuất hiện để thực hiện việc
nghiệp vụ đổi tiền. Lúc đầu nghề kinh doanh tiền tệ do Nhà Thờ đứng ra tổ
chức vì là nơi tơn nghiêm được dân chúng tin tưởng, là nơi an toàn để ký gửi
tài sản và tiền bạc của mình sau đó nó phát triển ra cả 3 khu vực : các nhà thờ,
tư nhân, nhà nước với các nghiệp vụ đổi tiền, nhận tiền gửi, bảo quản tiền, cho
vay và chuyển tiền.
Đến thế kỷ XV, đã xuất hiện những tổ chức kinh doanh tiền tệ có những
đặc trưng gần giống ngân hàng, đầu tiên gồm ngân hàng Amstexdam ( Hà Lan
năm 1660 ) Ham Bourg ( Đức năm 1619 ) và Bank của England ( Anh năm
1694 ).
❖ Các giai đoạn phát triển :
Từ thế kỷ XV đến nay, ngành ngân hàng đã trải qua những bước tiến dài
và góp nhiều phát minh vĩ đại vào lịch sử phát triển của loài người.Có thể chia
ra các giai đoạn phát triển làm 3 giai đoạn :
- Giai đoạn I : ( Từ thế kỷ XV - cuối XVIII )
Hoạt động của những giai đoạn này có những đặc trưng sau :
+ Các ngân hàng hoạt động độc lập chưa tạo một hệ thống chịu sự ràng
buộc và phụ thuộc lẫn nhau.
+ Chức năng hoạt động của mỗi ngân hàng giống nhau, gồm nhận ký
thác của khách hàng, chiết khấu và cho vay, phát hành giấy bạc vào lưu thông,
thực hiện các dịch vụ tiền tệ khác như đổi tiền, chuyển tiền ...
- Giai đoạn II : ( Từ thế kỷ XVIII - XX )
Mọi ngân hàng đều phát hành giấy bạc ngân hàng làm cản trở quá trình
phát triển của nền kinh tế, vì vậy từ đầu thế kỷ XVIII nghiệp vụ này được giao
cho một số ngân hàng lớn và sau đó tập trung vào một ngân hàng duy nhất gọi
là Ngân hàng phát hành, các ngân hàng còn lại chuyển thành Ngân hàng
thương mại.
- Giai đoạn III : ( Từ đầu thế kỷ XX đến nay )
Ngân hàng phát hành vẫn thuộc sở hữu tư nhân không cho nhà nước can
thiệp thường xuyên vào các hoạt động kinh tế thông qua các tác động của nền
kinh tế, các nước đã quốc hữu hoá hàng loạt các Ngân hàng phát hành từ sau
cuộc khủng khoảng kinh tế năm 1929 đến năm 1933. Khái niệm Ngân hàng
trung ương đã thay thế cho Ngân hàng phát hành với chức năng rộng hơn ngoài
nghiệp vụ phát hành và quản lý nhà nước về tiền tệ, góp phần thúc đẩy q
trình phát triển tăng trưởng kinh tế.
1.1.1.2.
Khái niệm và chức năng của Ngân hàng thương mại
1.1.1.2.1. Khái niệm :
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ
yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hồn trả
và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm
phương tiện thanh toán.
1.1.1.2.2. Chức năng:
Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt, kinh doanh dịch vụ
tiền tệ. Ngân hàng thương mại không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất như
những doanh nghiệp thuộc lĩnh vực sản xuất kinh doanh nhưng tạo điều kiện
thuận lợi cho qúa trình sản xuất, lưu thông và phân phối sản phẩm xã hội bằng
cách cung ứng vốn tín dụng, vốn đầu tư cho các doanh nghiệp, các tổ chức
kinh tế mở rộng kinh doanh, góp phần tăng nhanh tốc độ phát triển kinh tế.Vai
trị quan trọng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế được thể hiện qua
các vai trò như :
❖ Chức năng tập trung vốn của nền kinh tế:
Trong nền kinh tế có những chủ thể có dư tiền và khoản tiền đó chưa
được sử dụng một cách triệt để (ví dụ như vẫn còn cất giấu trong nhà chưa
được mang ra lưu thông) nhưng họ cũng muốn tiền này sinh lời cho mình và họ
nghĩ là cho vay và có những chủ thể cần tiền để hoạt động kinh doanh.Nhưng
những chủ thể này khơng quen biết nhau và cũng có thể không tin tưởng nhau
nên tiền vẫn chưa được lưu thơng. Ngân hàng thương mại với vai trị trung
gian của mình, nhận tiền từ người muốn cho vay,trả lãi cho họ và đem số tiền
ấy cho người muốn vay vay.
❖ Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện
thanh tốn:
Chức năng này có nghĩa là ngân hàng tiến hành nhập tiền vào tài khoản
hay chi trả tiền theo lệnh của chủ tài khỏan. Khi các khách hàng gởi tiền vào
ngân hàng, họ sẽ được đảm bảo an toàn trong việc cất giữ tiền và thực hiện thu
chi một cách nhanh chóng tiện lợi, nhất là đối với các khỏan thanh tóan có giá
trị lớn, ở mọi địa phương mà nếu khách hàng tự làm sẽ rất tốn kém khó khăn
và khơng an tồn (ví dụ: chi phí lưu thơng, vận chuyển, bảo quản…).
❖ Chức năng tạo ra tiền ngân hàng trong hệ thống ngân hàng hai cấp:
Vào cuối thế kỉ 19 hệ thống ngân hàng hai cấp được hình thành, các ngân
hàng khơng cịn họat động riêng lẽ nữa mà tạo thành hệ thống, trong đó ngân
hàng trung ương là cơ quan quản lý về tiền tệ, tín dụng là ngân hàng của các
ngân hàng. Các ngân hàng còn lại kinh doanh tiền tệ, nhờ họat động trong hệ
thống các NHTM đã tạo ra bút tệ thay thế cho tiền mặt.
Quá trình tạo ra tiền của NHTM được thực hiện thơng qua tín dụng và
thanh tóan trong hệ thống ngân hàng, trong mối liên hệ chặt chẽ với hệ thống
ngân hàng trung ương mỗi nước. Vậy tiền “bút tệ” được NHTM tạo ra bằng
cách nào? Bây giờ chúng ta giả sử rằng tất cả các NHTM đều không giữ lại
tiền dự trữ quá mức quy định, các séc không chuyển thành tiền mặt và các yếu
tố phức tạp khác bị bỏ qua thì quá trình tạo thành tiền như sau:
Tên các ngân hàng
Ngân hàng A
Tiền gửi mới
1.000.00
0
Thanh toán
cho vay mới
Dự trữ bắt buộc
900.000
100.000
Ngân hàng B
900.000
810.000
90.000
Ngân hàng C
810.000
729.000
81.000
...
...
10.000.0
9.000.0
00
00
...
Tiền toàn hệ thống ngân
hàng
1.000.000
Giả sử ngân hàng A có khoản tiền gửi mới là 1.000.000đ, dự trữ bắt buộc
là 10% thì số tiền nó có thể cho vay là 900.000. Khoản tiền cho vay đó được
đưa đến người vay, người vay tiền không bao giờ vay tiền về mà cất trong nhà
vì như thế họ phải chịu lãi một cách vơ ích, họ dùng tiền đó chi trả các khỏan.
Và số tiền đó đến tay người được chi trả, người chi trả đem số tiền đó gửi vào
ngân hàng B, ngân hàng B lúc này sẽ có một lượng tiền gửi mới là 900.000. Dự
trữ bắt buộc là 10%, số tiền có thể cho vay là 810.000. Số tiền này được cho
người cần vay vay, người cho vay chi trả các khỏan đến người được chi trả,
người được chi trả đem số tiền được trả gửi vào ngân hàng C. Lúc này ngân
hàng C sẽ có số tiền gửi mới là 810.000. Và cứ như thế tiếp tục… cho đến khi
lượng tiền gửi mới bằng 0. Người ta tính được rằng lượng tiền gửi mới trong
tòan hệ thống ngân hàng là 10.000.000, lượng tiền dự trữ bắt buộc là 1.000.000
và tiền cho vay là 9.000.000. Và do cách thức này mà tiền đã được tạo ra trong
hệ thống ngân hàng hai cấp.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
Có thể phân các hoạt động của Ngân hàng thương mại thành ba hoạt động
cơ bản là:
1.1.2.1
Hoạt động huy động vốn.
1.1.2.1.1. Huy động vốn nhàn rỗi của xã hội :
Đây là nguồn vốn quan trọng nhất của Ngân hàng Thương mại. Nó được
huy động từ các hình thức sau :
❖ Các khoản tiền gửi của khách hàng :
* Tiền gửi tiết kiệm của dân cư :
Đây là một trong những khoản tiền gửi lớn của ngân hàng. Thông thường
người gửi tiết kiệm nhận được một cuốn sổ nhỏ trong đó nhân viên ngân hàng
xác định toàn bộ số tiền rút ra,gửi thêm,số tiền lãi.Khách hàng ở đây là tất cả
các dân cư có khoản tiền nhàn rỗi tạm thời chưa có nhu cầu sử dụng , có thể
gửi vào ngân hàng nhằm tìm kiếm một khoản tiền lãi .
Việc phân chia các khoản tiền gửi tiết kiệm của dân cư có thể theo nhiều
tiêu thức khác nhau. Nhưng thường người ta phân chia các khoản tiền gửi tiết
kiệm của dân cư theo tiêu thức thời gian, tức là gồm tiền gửi tiết kiệm khơng
kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
* Tiền ký gửi :
Đây là những khoản tiền mà khách hàng đem ký gửi vào ngân hàng .Việc
sử dụng những khoản tiền ký gửi được thực hiện theo những thoả thuận giữa
khách hàng và ngân hàng.Lịch sử phát triển của ngân hàng cho thấy rằng hình
thức ban đầu của hoạt động ngân hàng là việc khách hàng nhờ bảo quản những
đồng tiền vàng. Người chủ phải bảo đảm trả lại chính những đồng tiền mà họ
được chuyển giao và bảo quản . Trong những trường hợp này người chủ không
thể tiến hành các nghiệp vụ cho vay đối với những đồng tiền nhận bảo quản đó
và khơng thể thu lợi nhuận để trả lợi tức cho người gửi tiền.
❖ Vốn vay của các tổ chức tài chính tín dụng :
Các Ngân hàng thương mại có thể thu hút vốn bằng cách vay ở các tổ
chức tài chính tín dụng. Trong hoạt động quan hệ quốc tế, việc vay mượn từ
các tổ chức tín dụng quốc tế cũng cung cấp cho ngân hàng những nguồn vốn
quan trọng. Tuy nhiên đối với các quốc gia đang phát triển, các ngân hàng
thương mại thường có quan hệ quốc tế hạn hẹp, do đó việc thu hút những
nguồn vốn này còn nhiều hạn chế và thường được huy động theo các chương
trình dự án quốc tế.
1.1.2.1.2. Nguồn vốn vay từ ngân hàng trung ương:
Ngân hàng trung ương cấp tín dụng cho các ngân hàng thương mại dưới
nhiều hình thức như cho vay, mua bán, chiết khấu, tái chiết khấu đối với các
giấy tờ có giá cuả ngân hàng thương mại. Vốn hình thành từ nguồn này đảm
bảo cho khả năng thanh toán của ngân hàng thương mại.
1.1.2.1.3. Nguồn vốn điều hoà trong hệ thống :
Các ngân hàng thương mại có nhiều chi nhánh nằm trên các địa bàn khác
nhau nên luôn luôn xuất hiện tình trạng thừa vốn hoặc thiếu vốn đối với các chi
nhánh trong cùng một hệ thống. Sở dĩ xuất hiện tình trạng này là do trên mỗi
địa bàn thì có những điều kiện kinh tế xã hội khác nhau do đó có tác động
mạnh mẽ đến nguồn vốn và khả năng sử dụng vốn của từng chi nhánh. để giải
quyết tình trạng này các ngân hàng thương mại hoặc các sở tài chính sẽ thực
hiện việc điều hồ nguồn vốn trong hệ thống. Chính vì vậy nguồn vốn điều hồ
trong hệ thống cũng là một nguồn vốn khá quan trọng, nó giúp cho ngân hàng
có thể mở rộng được hoạt động trên thị trường và làm tăng lợi nhuận của ngân
hàng.
1.1.2.2. Hoạt động sử dụng vốn
1.1.2.2.1. Hoạt động cho vay :
Hướng cơ bản trong sử dụng và khai thác các nguồn vốn của Ngân hàng
thương mại là cho vay. Hoạt động cho vay có thể được phân loại bằng nhiều
cách như :Mục đích, thời hạn, hình thức đảm bảo, phương pháp hoàn trả và
nguồn gốc khách hàng .
❖ Căn cứ theo hình thức bảo đảm thì khoản mục tín dụng được chia
thành :
+ Cho vay có bảo đảm : là hoạt động quan trọng của ngân hàng. Cho vay
có bảo đảm biểu hiện việc cho vay có cầm giữ các vật thế chấp cụ thể nào đó.
Vật thế chấp có thể bao gồm nhiều loại khác nhau như : bất động sản,
biên nhận ký gửi hàng hố, máy móc thiết bị, cổ phiếu ... Yêu cầu cơ bản của
những vật thế chấp là có thể bán được.
Sự bảo đảm là u cầu phải có đối với các khoản vay vì một trong những
lý do chính là sự yếu kém về mặt tài chính của người vay.
Khách hàng khơng có khả năng trả nợ hoặc khơng có người bảo đảm trả
thay thì khi đến hạn tài sản cầm cố, thế chấp có thể là động sản và cũng có thể
là bất động sản.
+ Cho vay không bảo đảm : Khác với cho vay bảo đảm, cho vay không
bảo đảm được dựa trên tính liêm khiết và tình hình tài chính của người vay lợi
tức có thể được trong tương lai và tình hình trả nợ trước đây. Trong hoạt động
ngân hàng một số khoản vay lớn nhất được thực hiện dựa trên một cơ sở không
bảo đảm.
❖ Căn cứ theo các phương pháp hồn trả thì khoản mục tín dụng
được phân chia thành :
+ Các khoản cho vay hoàn trả một lần :
Những khoản cho vay hoàn trả một lần thường là những khoản cho vay
thẳng, nghĩa là hợp đồng yêu cầu trả vốn một lần vào thời gian đáo hạn cuối
cùng. Những khoản lãi có thể được trả vào những thời điểm khác nhau hoặc trả
khi đáo hạn.
+Các khoản cho vay hồn trả nhiều lần:
Cho vay hồn trả nhiều lần địi hỏi việc hoàn trả theo những thời điểm
nhất định.Cho vay hoàn trả nhiều lần thực hiện theo nguyên tắc trả dần trong
suốt kỳ hạn thực hiện hợp đồng.
Đối với nhiều người có khoản cho vay hồn trả nhiều lần ví dụ như các
khoản trả góp đóng một vai trị như một phương tiện tích luỹ . Nó làm tăng
hiệu quả sử dụng vốn.
❖ Căn cứ theo kỳ hạn thì khoản mục tín dụng được phân chia
thành:
+ Cho vay ngắn hạn :
Các khoản cho vay ngắn hạn có kỳ hạn 1 năm hoặc ít hơn,cho vay ngắn
hạn được thực hiện trong một thời gian nhất định dưới 1 năm hoặc trên cơ sở
theo yêu cầu.
+ Cho vay trung và dài hạn :
Việc quy định về thời gian cho các khoản vay trung và dài hạn theo
những quy định riêng của từng quốc gia.Theo quy định của nước ta,những
khoản vốn cho vay từ 1 năm đến 3 năm được coi là trung hạn, những khoản
vốn cho vay từ 3 năm trở lên được coi là dài hạn.Những khoản cho vay này
thường có giá trị lớn và người vay thưòng dùng để đầu tư, mở rộng sản
xuất,nâng cấp tài sản cố định .
1.1.2.2.2. Hoạt động đầu tư :
Hoạt động đầu tư hay còn gọi là hoạt động chứng khoán giúp Ngân hàng
Thương mại sử dụng và khai thác tối đa các nguồn vốn đã huy động. Đồng
thời, nó cũng mang lại nguồn thu nhập quan trọng cho Ngân hàng Thương
mại.Ngân hàng Thương mại có thể đầu tư vốn mua chứng khốn ngắn hạn của
chính phủ.
Những chứng khốn này vừa mang lại thu nhập cho Ngân hàng Thương
mại, vừa góp phần vào việc cân bằng thu chi ngân sách thường xun;đồng
thời góp phần điều hồ lưu thơng tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân.
1.1.2.2.3 Hoạt động ngân quỹ :
Là hoạt động phục vụ cho việc chi trả đối với khách hàng.Nó bao gồm
nghiệp vụ quỹ tiền mặt, tiền gửi ở các ngân hàng khác và ở Ngân hàng Thương
mại,tiền trong q trình thu nhận,và cũng có thể bao gồm cả nghiệp vụ về
chứng khoán ngắn hạn.
+ Quỹ tiền mặt bao gồm tiền giấy và tiền đúc được sử dụng để chi trả cho
khách hàng.
+ Tiền gửi của Ngân hàng Thương mại ở Ngân hàng Trung ương bao
gồm tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền gửi thanh toán ( dư thừa).
+ Tiền gửi ở các ngân hàng khác phục vụ cho việc chi trả theo yêu cầu
của khách hàng, của Ngân hàng Thương mại này qua một Ngân hàng Thương
mại khác.
1.1.2.3. Hoạt động trung gian thanh toán và các loại hình dịch vụ
khác :
Tất cả các quan hệ trao đổi, mua bán hàng hoá, dịch vụ và các hoạt động
khác trong nền kinh tế đều được kết thúc bằng khâu thanh tốn. Việc thanh
tốn có thể được thực hiện trực tiếp bằng tiền hoặc khơng dùng tiền mặt (thanh
tốn chuyển khoản) thơng qua trung gian ngân hàng.Thanh tốn khơng dùng
tiền mặt qua trung gian ngân hàng có đặc điểm sau:
- Thanh tốn khơng dùng tiền mặt sử dụng tiền ghi sổ hay cịn gọi là bút
tệ.
- Trong thanh tốn khơng dùng tiền mặt, mỗi thanh tốn có ít nhất ba bên
tham gia, đó là: người trả tiền, người nhận tiền và trung gian thanh toán.
- Khi tiến hành các nghiệp vụ thanh tốn khơng dùng tiền mặt phải sử
dụng các chứng từ thanh toán riêng, đó là các lệnh thu hoặc lệnh chi do chính
người nhận tiền hay người trả tiền lập ra.
1.2. Hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại:
1.2.1. Khái niệm thanh toán quốc tế :
“ Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ tiền tệ, nảy sinh trên
cơ sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa các tổ chức hay cá nhân nước
này với tổ chức hay cá nhân nước khác, hoặc giữa một quốc gia với tổ chức
quốc tế, thông qua quan hệ giữa các ngân hàng có liên hệ. Cùng với xu hướng
không ngừng mở rộng quan hệ thương mại và các mối quan hệ khác giữa các
quốc gia trên thế giới, địi hỏi hoạt động thanh tốn quốc tế cũng phải được
mở rộng, hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu phục vụ tốt hơn”.
1.2.2. Vai trò của hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng
thương mại :
Hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại là một mắt xích
khơng thể thiếu trong tồn bộ dây chuyền thực hiện một hợp đồng ngoại
thương. Thực hiện tốt vai trị trung gian thanh tốn của mình trong hoạt động
thanh tốn quốc tế, Ngân hàng thương mại đã đóng góp rất nhiều cho nền kinh
tế, cho khách hàng và cho bản thân các ngân hàng.
- Đối với nền kinh tế mà đặc biệt là đối với hoạt động kinh tế đối ngoại:
thanh tốn quốc tế có vị trí quan trọng đặc biệt trong hoạt động kinh tế đối
ngoại nói chung và trong hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng, đặc biệt trong
bối cảnh hiện nay khi mỗi quốc gia đều đặt kinh tế đối ngoại lên vị trí hàng
đầu, coi hoạt động kinh tế đối ngoại là con đường tất yếu trong chiến lược phát
triển kinh tế của mình.
Ngồi ra,nó cịn hạn chế rủi ro trong qúa trình thực hiện hợp đồng kinh tế
đối ngoại: trong hoạt động kinh tế đối ngoại, do vị trí địa lý của bạn hàng cách
xa nhau làm hạn chế việc tìm hiểu khả năng tài chính, khả năng thanh tốn của
người mua, của con nợ, đồng thời trong điều kiện tiền tệ thường xuyên biến
động…
- Đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng: việc hoàn thiện để phát
triển hoạt động thanh tốn quốc tế có một ý nghĩa hết sức thiết thực, hoạt động
thanh toán quốc tế là một dịch vụ thuần tuý làm tăng khả năng cạnh tranh của
Ngân hàng, nó bổ sung và hỗ trợ cho các hoạt động khác của Ngân hàng.
1.2.3. Các điều kiện trong thanh toán quốc tế của Ngân hàng Thương
mại
1.2.3.1. Điều kiện về tiền tệ
Trong thanh toán quốc tế các bên phải sử dụng đơn vị tiền tệ nhất định
của một nước nào đó. Vì vậy, trong các hiệp định và hợp đồng đều có quy định
tiền tệ. Điều kiện này quy định việc sử dụng đồng tiền nào để thanh toán trong
hợp đồng ngoại thương và hiệp định ký kết giữa các nước. Đồng thời điều kiện
này cũng quy định cách xử lý khi giá trị đồng tiền đó biến động. Người ta có
thể chia thành hai loại tiền sau:
Đồng tiền tính tốn (Account Currency): là loại tiền được dùng để thể
hiện giá cả và tính tốn tổng giá trị hợp đồng.
Đồng tiền thanh toán (Payment Currency): là loại tiền để chi trả nợ nần,
hợp đồng mua bán ngoại thương.
1.2.3.2. Điều kiện về địa điểm thanh toán:
Địa điểm thanh toán được quy định rõ trong hợp đồng ký kết giữa các
bên. Địa điểm thanh tốn có thể là nước nhập khẩu hoặc nước người xuất khẩu
hay có thể là một nước thứ 3.
Tuy nhiên, trong thanh toán quốc tế giữa các nước, bên nào cũng muốn
trả tiền tại nước mình, lấy nước mình làm địa điểm thanh tốn. Sở dĩ như vậy
vì thanh tốn tại nước mình thì có nhiều điểm thuận lợi hơn.Ví dụ như có thể
đến ngày mới phải chi tiền, đỡ đọng vốn nếu là người nhập khẩu, hoặc có thể
thu tiền về nhanh nên luân chuyển vốn nhanh nếu là người xuất khẩu, hay có
thể tạo điều kiện nâng cao được địa vị của thị trường tiền tệ nước mình trên thế
giới…
1.2.3.3. Điều kiện về thời gian thanh toán:
Điều kiện thời gian thanh toán có quan hệ chặt chẽ với việc luân chuyển
vốn, lợi tức, khả năng có thể tránh được những biến động về tiền tệ thanh tốn.
Do đó, nó là vấn đề quan trọng và thường xẩy ra tranh chấp giữa các bên trong
đàm phán ký kết hợp đồng.
Thơng thường có 3 cách quy định về thời gian thanh toán:trả tiền trước,trả
tiền ngay,trả tiền sau
1.2.3.4. Điều kiện về phương thức thanh toán
Đây là điều kiện quan trọng nhất trong hoạt động thanh toán quốc tế.
Phương thức thanh toán là cách mà người mua trả tiền và người bán thu tiền về
như thế nào. Có nhiều phương thức thanh tốn khác nhau. Tuỳ từng điều kiện
cụ thể mà người mua và người bán có thể thoả thuận để xác định phương thức
thanh tốn cho phù hợp.
1.2.4. Các phương tiện dùng trong thanh toán quốc tế của Ngân hàng
thương mại :
Để tiến hành các nghiệp vụ thanh tốn quốc tế được thuận tiện, có hiệu
quả, người ta sử dụng các phương tiện thanh toán thích hợp. Phương tiện thanh
tốn là cơng cụ mà người ta thực hiện trả tiền trong quan hệ buôn bán với
nhau. Tuỳ theo điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mối quan hệ thương mại, quan
hệ thanh tốn, có thể lựa chọn và sử dụng một trong những phương tiện thanh
toán như sau:
1.2.4.1 Hối phiếu:
1.2.4.1.1.Khái niệm:
Định nghĩa hối phiếu của luật các nước khơng như nhau. Nhìn chung có
thể định nghĩa như sau: “Hối phiếu là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do
một người ký phát cho một người khác, yêu cầu người này khi nhìn thấy phiếu,
hoặc đến một ngày cụ thể nhất định hoặc đến một ngày có thể xác định trong
tương lai phải trả một số tiền nhất định cho một người nào đó hoặc theo lệnh
của người này trả cho người cầm phiếu.”
1.2.4.1.2 Việc thành lập hối phiếu:
Hối phiếu phải làm thành văn bản, hối phiếu nói, điện tín, điện thoại...
đều khơng có giá trị pháp lý. Theo Pháp Lệnh Thương Phiếu Việt Nam, hình
mẫu hối phiếu có thể do Ngân hàng nhà nước ban hành cịn theo luật các nước
thì do người phát hành tự định đoạt bởi vì hình mẫu hối phiếu không quyết
định giá trị pháp lý của hối phiếu. Tiếng Anh là ngôn ngữ thông dụng để tạo
lập hối phiếu. Hối phiếu có thể lập thành nhiều bản có giá trị như nhau, trong
thanh toán bản nào đến trước sẽ được thanh tốn trước.Hối phiếu là một mệnh
lệnh địi tiền, việc trả tiền là vô điều kiện, không được viện một lý do nào khác.
1.2.4.1.3.Quyền lợi và nghĩa vụ của những người có liên quan đến hối
phiếu:
•
Người ký phát (thường là người xuất khẩu): có trách nhiệm ký phát cho
đúng luật, ký tên vào mặt trước góc phải của tờ hối phiếu và phải hoàn trả tiền
lại cho những người hưởng lợi của tờ hối phiếu trong trường hợp hối phiếu
được chuyển nhượng nhưng bị từ chối trả tiền; đồng thời có quyền được hưỏng
lợi số tiền ghi trên hối phiếu và quyền chuyển nhượng quyền hưởng lợi cho
người khác.
•
Người trả tiền hối phiếu (là người nhập khẩu hoặc là một người khác do
người nhập khẩu chỉ định) có trách nhiệm trả tiền hối phiếu, nếu là hối phiếu
có kỳ hạn thì phải ký chấp nhận trả tiền hối phiếu khi hối phiếu được xuất
trình.
•
Người hưởng lợi hối phiếu : có quyền được nhận số tiền của hối phiếu
•
Người chuyển nhượng hối phiếu: là người đem quyền hưởng lợi của
mình chuyển cho người khác bằng thủ tục ký hậu.
1.2.4.1.4.Chấp nhận hối phiếu:
Hối phiếu sau khi ký phát phải được xuất trình cho người trả tiền để
người này ký chấp nhận trả tiền, đối với những hối phiếu có kỳ hạn.
1.2.4.1.5 .Ký hậu hối phiếu:
Ký hậu là một thủ tục pháp lý dùng để chuyển nhượng hối phiếu. Người
hưởng lợi muốn chuyển nhượng hối phiếu cho người khác thì phải ký vào mặt
sau của tờ hối phiếu rồi chuyển hối phiếu cho người đó.
1.2.4.1.6.Các loại ký hậu:
•
Ký hậu để trắng: là việc ký hậu không chỉ định người được hưởng
quyền lợi hối phiếu do thủ tục hối phiếu mang lại. Người nào cầm hối phiếu sẽ
trở thành người được hưởng lợi hối phiếu.
•
Ký hậu theo lệnh : là việc ký hậu chỉ định một cách suy đoán ra người
hưởng lợi hối phiếu do thủ tục ký hậu đem lại. Người ký hậu chỉ ghi câu: trả
theo lệnh ơng X và ký tên.
•
Ký hậu hạn chế: là việc ký hậu chỉ định rõ rệt người được hưởng lợi hối
phiếu và chỉ người đó mà thơi.
•
Ký hậu miễn truy địi: là việc ký hậu mà người ký hậu ghi thêm câu
“miễn truy đòi” cùng với một trong ba loại ký hậu nêu trên.
1.2.4.1.7.Bảo lãnh hối phiếu:
Bảo lãnh là sự cam kết của người thư ba trả tiền cho người hưởng lợi khi
hối phiếu đến kỳ hạn trả tiền. Hình thức văn tự thơng thường của sự bảo lãnh
được ghi bằng chữ “bảo lãnh” và người bảo lãnh ký tên.Ngồi ra, một số nước
cịn dùng hình thức bảo lãnh bằng một văn thư riêng biệt thường gọi là bảo
lãnh mật để đảm bảo uy tín của người trả tiền.
1.2.4.1.8 .Từ chối trả tiền hối phiếu-kháng nghị:
Khi đến hạn trả tiền mà người trả tiền từ chối thì người hưởng lợi phải
chứng thực sự từ chối đó bằng một văn bản kháng nghị lập ra trong thời hạn
quy định theo luật và phải báo cho người chuyển nhượng trực tiếp để đòi tiền
hoặc có thể địi tiền bất cứ người nào trong giây chuyền đã ký hậu chuyển
nhượng hối phiếu hoặc đòi người ký phát hối phiếu.
1.2.4.2.Séc
1.2.4.2.1. Khái niệm
Séc là một tờ mệnh lệnh vô điều kiện của người chủ tài khoản, ra lệnh cho
ngân hàng trích từ tài khoản của mình để trả cho người có tên trong séc , hoặc
trả theo lệnh của người ấy hoặc trả cho người cầm séc một số tiền nhất định,
bằng tiền mặt hay bằng chuyển khoản.
1.2.4.2.2 Những người liên quan đến séc:
Người phát hành séc để trả nợ gọi là người phát hành séc.Ngân hàng
thanh toán là người trả tiền. Người nhận tiền là người hưởng lợi tờ séc. Séc có
thể chuyển nhượng cho nhiều người liên tiếp bằng thủ tục ký hậu trong thời
hạn hiệu lực của séc.
1.2.4.2.3.Các loại Séc: :
Có thể chia thành các loại sau: séc ghi tên, séc vô danh, séc theo lệnh.
Hoặc căn cứ vào góc độ khác có thể chia ra : séc gạch chéo, séc gạch chéo
thường, séc gạch chéo đặc biệt, séc chuyển khoản, séc du lịch, séc xác nhận
1.2.4.3. Lệnh phiếu:
Ngược lại với hối phiếu,lệnh phiếu do con nợ viết ra để hứa cam kết trả
tiền cho người hưởng lợi. Với tính thụ động trong thanh toán như trên, trong
thanh toán quốc tế, lệnh phiếu ít thông dụng hơn hối phiếu.
Lệnh phiếu là một tờ giấy hứa cam kết trả tiền vô điều kiện do người lập
hối phiếu phát ra hứa trả một số tiền nhất định cho người hưởng lợi hoặc theo
lệnh của người này trả cho người khác quy định trong kỳ phiếu đó.
1.2.4.4. Thẻ thanh tốn
Thẻ thanh tốn là hình thức thanh tốn khơng dùng tiền mặt ứng dụng
cơng nghệ điện tử, tin học kỹ thuật cao, do một tổ chức nhất định phát hành
theo yêu cầu và khả năng chi trả của khách hàng. Thẻ giúp cho người sử dụng
có thể thanh tốn các khoản mua hàng hố một cách nhanh chóng, thuận tiện,
chính xác và an tồn.
Hiện nay, ở các nước đã sử dụng các loại thẻ tín dụng (credit card),thẻ
thanh toán (debit card)...để rút tiền mặt hoặc có thể sử dụng thẻ để thanh tốn
tiền hàng hố, dịch vụ.
1.2.5. Các phương thức thanh toán quốc tế của ngân hàng thương
mại:
Bạn thử hình dung nếu bạn có quan hệ đối tác làm ăn với các thương nhân
nước ngoài mà bạn khơng có các phương thức thanh tốn quốc tế thì sẽ như thế
nào? Hẳn là khơng thể kinh doanh được rồi. Các phương thức thanh toán quốc
tế gồm các phương thức sau :
1.2.5.1. Phương thức chuyển tiền (Remittance)
“ Phương thức chuyển tiền là phương thức mà trong đó khách hàng
(người trả tiền) yêu cầu Ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho
một người khác (người hưởng lợi) ở một địa điểm nhất định bằng phương thức
chuyển tiền do khách hàng yêu cầu”.
Phương thức này có thể mô tả khái quát theo sơ đồ sau:
Ngân hàng chuyển
tiền
Ngân hàng trả
tiền
(1)
(3)
(2)
Người yêu cầu
chuyển tiền
Người thụ hưởng
(1). Người chuyển tiền yêu cầu Ngân hàng nước mình chuyển một số tiền
nhất định cho người được hưởng ở nước ngoài.
(2). Ngân hàng phục vụ người chuyển tiền nhận thực hiện yêu cầu của
người chuyển tiền, làm thủ tục chuyển tiền ra nứơc ngoài.
(3). Ngân hàng nước ngoài nhận đựơc chuyển tiền sau khi đã nhận tiền
chuyển đến, thực hiện trả tiền cho người nhận. Thanh toán chuyển tiền bao
gồm các loại:
- Chuyển tiền bằng điện (Telegraphic Transfer – T/T).
Chuyển tiền bằng điện tốc độ nhanh, nhưng chi phí cao. Ngày nay khi
tham gia mạng SWITF thì hầu hết chuyển tiền được thực hiện trên mạng
SWITF.
- Chuyển tiền bằng thư (Mail Transfer – M/T).
Chuyển tiền bằng thư chi phí thấp hơn chuyển tiền bằng điện, song tốc độ
lại chậm hơn. Chuyển tiền bằng điện thì người chuyển tiền khơng bị đọng vốn
lâu ngày, nhưng tỷ giá ngoại tệ áp dụng trong điện hối cao hơn tỷ giá ngoại tệ
trong thư hối.
1.2.5.2. Phương thức ghi sổ (Open account).
“ Là phương thức thanh toán mà người bán mở một tài khoản (hoặc một
quyển sổ) để ghi nợ người mua sau khi người bán đã hồn thành giao hàng
hố hay dịch vụ, đến từng định kỳ (tháng, quý, nửa năm) người mua trả tiền
cho người bán”.
Đặc điểm của phương thức này là một phương thức thanh tốn khơng có
sự tham gia của Ngân hàng với chức năng là người mở tài khoản và thực thi
thanh tốn.Chỉ mở tài khoản đặc biệt, khơng mở tài khoản song biên. Nếu
người mua mở tài khoản để ghi thì tài khoản ấy chỉ là tài khoản theo dõi,
khơng có giá trị quyết tốn giữa hai bên, chỉ có hai bên tham gia thanh tốn:
người bán và người mua. Trình tự tiến hành:
(1). Giao hàng hoặc dịch vụ cùng với gửi chứng từ hàng hoá.
(2). Báo nợ trực tiếp.
(3). Người mua dùng phương thức chuyển tiền để trả tiền khi đến định kỳ
thanh toán.
Ngân hàng
bên bán
(3)
(3)
Ngân hàng bên
mua
(3)
(2)
Người bán
Người mua
(1)
Phương thức này thường được dùng cho thanh toán nội địa, hai bên mua
bán phải thực sự tin cậy lẫn nhau.
1.2.5.4.Phương thức thanh toán nhờ thu( Collection of payment).
“ Phương thức thanh toán nhờ thu là một phương thức thanh tốn quốc tế
trong đó người xuất khẩu (người bán) sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ giao
hàng, hoặc cung ứng dịch vụ cho người nhập khẩu (người mua), uỷ thác cho
Ngân hàng phục vụ mình thu hộ số tiền ở người nhập khẩu nước ngoài, trên cơ
sở hối phiếu do người xuất khẩu ký phát”. Trong thanh toán quốc tế, khi sử
dụng phương thức này các nước thường vận dụng “ Bản quy tắc thống nhất về
nhờ thu chứng từ thương mại – ICC 522” do phòng thương mại quốc tế Paris
ban hành, bản sửa đổi năm 1995.
(1)
Người nhập khẩu
Người xuất khẩu
(2)
(7)
(3)
Ngân hàng
nước xuất
(4)
(3)
(6)
(5)
Ngân hàng
nước nhập
nhập khẩu
* Quy trình thanh toán uỷ thác thu:
Khi việc chi trả được tiến hành theo phương thức uỷ thác thu, thì có thể
mơ tả khái qt quy trình đó như sau:
(1). Căn cứ vào hợp đồng mua bán ngoại thương, người xuất khẩu tiến
hành gửi hàng cho người nhập.
(2). Ngay sau khi đã gửi hàng ra nước ngoài, người xuất khẩu lập bộ
chứng từ, phát hành hối phiếu và gửi cho Ngân hàng phục vụ mình để nhờ
Ngân hàng thu hộ tiền.
(3). Nhận đựơc bộ chứng từ hàng hoá, hối phiếu do người xuất khẩu gửi
tới, Ngân hàng xuất khẩu tiến hành kiểm tra chứng từ và lập thư uỷ nhiệm, rồi
gửi các chứng từ ấy cho Ngân hàng nước người nhập khẩu.
(4). Nhận được các chứng từ từ Ngân hàng xuất khẩu, Ngân hàng nhập
khẩu phải kiểm tra những nội dung trên các chứng từ đó, rồi thông báo cho
người nhập khẩu biết.
(5). Sau khi đựơc thông báo về bộ chứng từ do người xuất khẩu gửi tới.
Nếu nhất trí, thì người nhập khẩu phải chấp nhận trả tiền hối phiếu hoặc trả
tiền ngay bộ chứng từ đó.
(6). Sau khi đã được người nhập khẩu trả tiền, Ngân hàng nhập khẩu làm
thủ tục chuyển trả số tiền ấy cho người xuất khẩu thông qua Ngân hàng xuất
khẩu.
(7). Khi đã nhận được tiền do Ngân hàng nhập khẩu chuyển tiền đến,
Ngân hàng xuất khẩu trả số tiền đó cho người xuất khẩu.
Trong thanh toán ngoại thương, nhờ thu được chia làm hai loại:
Nhờ thu phiếu trơn (nhờ thu không kèm chứng từ – Clean collection):
Uỷ thác thu kèm chứng từ (Documentary collectttion).
1.2.5.3..Phương thức tín dụng chứng từ (Letter of credit – L/C).
“ Thư tín dụng (L/C) là một bản cam kết dùng trong thanh tốn, trong đó
một Ngân hàng (Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu) theo yêu cầu của người
nhập khẩu tiến hành mở và chuyển đến chi nhánh hay đại lý của ngân hàng này
ở nước ngoài (Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu) một L/C cho người được
hưởng (Người xuất khẩu) một số tiền nhất định trong thời hạn qui định, với
điều kiện người được hưởng phải xuất trình đầy đủ các chứng từ phù hợp với
những nội dung, điều kiện ghi trong thư tín dụng “.
Tuỳ theo từng L/C cụ thể, mà cịn có các Ngân hàng khác tham gia như:
- Ngân hàng thanh toán, chiết khấu (The Negotiating Bank)
- Ngân hàng xác nhận L/C (The confirming Bank).
* Qui trình thanh tốn L/C:
(3)
Ngân hàng mở L/C
(7)
Ngân thông báo
(8)
(2)
(11
)
(10
)
L/C
(9)
(6)
(4)
(5)
Người nhập khẩu
Người xuất khẩu
(1)
(1). Người nhập khẩu dựa vào hợp đồng mua bán ngoại thương ký với
người xuất khẩu làm đơn xin mở L/C gửi đến ngân hàng của mình, yêu cầu
Ngân hàng này mở L/C cho người xuất khẩu hưởng.
(2). Theo đơn xin mở L/C, Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu mở một
L/C (phát hành L/C) cho người xuất khẩu hưởng. Ngân hàng này chuyển bản
chính L/C cho người xuất khẩu (Ngân hàng thơng báo).
(3). Ngân hàng xuất khẩu hối phiếu gửi về ngân hàng phục vụ mình,yêu
cầu ngân hàng này trả tiền cho bộ chứng từ xác nhận L/C bằng văn bản và gửi
bản chính L/C cho người xuất khẩu.
(4). Căn cứ vào nội dung của L/C, Người xuất khẩu thực hiện giao hàng
cho người nhập khẩu.
(5). Sau khi hoàn tất việc giao hàng, người xuất khẩu phải hoàn chỉnh
ngay bộ các chứng từ hàng hố và từ đó. được bộ chứng từ. Kiểm tra kỹ nội
dung các chứng từ đó nếu thấy phù hợp thì ngân hàng thanh tốn (hoặc chấp
nhận chiết khấu theo những điều khoản của L/C).
(6). Ngân hàng thông báo nhận
(7). Ngân hàng thông báo chuyển bộ chứng từ thanh toán cho Ngân hàng
phục vụ người nhập khẩu.
(8). Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu (Ngân hàng phát hành L/C) sau
khi nhận đựơc bộ các chứng từ từ Ngân hàng thông báo chuyển đến, tiến hành
kiểm tra kỹ các chứng từ này, nếu thấy đáp ứng được những yêu cầu của L/C,
thì chuyển tiền trả cho Ngân hàng thơng báo.
(9). Ngân hàng phát hành L/C thông báo cho người nhập khẩu biết đã trả
tiền cho người xuất khẩu, đồng thời yêu cầu người nhập khẩu hoàn lại số tiền
này, sau đó Ngân hàng phát hành L/C trao người nhập khẩu bộ chứng từ để
làm căn cứ nhận hàng.
1.2.6. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng hoạt động thanh tốn
quốc tế của Ngân hàng thương mại :
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán quốc tế của
Ngân hàng thương mại nhưng có thể phân thành hai nhóm nhân tố cơ bản là
nhóm các nhân tố bên ngồi ngân hàng và nhóm các nhân tố bên trong ngân
hàng.
1.2.6.1. Nhóm các nhân tố bên ngồi ngân hàng
- Các chính sách vĩ mơ của Nhà nước: đây là một nhân tố quan trọng, có
ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, các
khách hàng của ngân hàng và ảnh hưởng đến chính hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng thương mại.
+ Chính sách quản lý ngoại hối: Nhà nước thực hiện quản lý ngoại hối
thơng qua việc đề ra các chính sách nhằm kiểm soát luồng vận động của ngoại
hối vào ra và các quy định về trạng thái ngoại tệ của các tổ chức tín dụng. Căn
cứ vào tình hình cụ thể và những biến động trên thị trường mà Nhà nước áp
dụng các chính sách quản lý ngoại hối tự do hay thắt chặt nhằm hướng sự vận
động của hoạt động ngoại hối đi vào ổn định theo chủ trương của Nhà nước.