Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Tiểu luận cao học, môn quan hệ quốc tế, NHẬN THỨC về CHỦ NGHĨA xã hội và CON ĐƯỜNG đi lên CHỦ NGHĨA xã hội của VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.41 KB, 23 trang )

MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU

Trang

1

B. NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN MAC – LENIN VỀ CNXH
1.Dự báo của C. Mác và V.I.Lênin về CNXH

3

2. Cách mạng Tháng Mười Nga – thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin

5

trong hiện thực

7

3. CNXH theo mơ hình kế hoạch hóa tập trung và vai trị lịch sử của mơ
hình đó
II. . CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
1. . Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt

9
11


15
19

Nam
3.Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (HĐH) và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ tiến

20

lên CNXH ở Việt Nam
4.Xây dựng nền dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
5.Tăng trưởng kinh tế đi đơi với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và
cơng bằng xã hội
I.

KẾT LUẬN

21

II.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

22

LỜI NĨI ĐẦU
1


Việt Nam đi lên từ xuất phát điểm thấp, lại thực hiện phát triển rút

ngắn không qua chế độ (tư bản chủ nghĩa) TBCN, con đường phát triển chưa
có tiền lệ lịch sử, do vậy khó tránh khỏi khó khăn, vấp váp thậm chí sai lầm.
Tuy nhiên với bản lĩnh cách mạng và khoa học, dám nhìn thẳng vào sự thật,
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đất nước
ta đã và đang thực hiện thành công công cuộc đổi mới xây dựng đất nước.
Thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội hơn 30 năm qua đã chứng tỏ tính
đúng đắn của đường lối đổi mới. Đổi mới như Đảng ta đã khẳng định:
"không phải từ bỏ mục tiêu CNXH mà là làm cho CNXH được nhận thức
đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới khơng phải xa rời
mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ
nam cho hành động cách mạng" . Thành tựu phát triển của Việt Nam trong
thời gian qua tiếp tục là bằng chứng khẳng định sự thắng lợi của chủ nghĩa
Mác-Lênin trong bối cảnh tồn cầu hóa ngày nay.

2


PHẦN 1 - LÝ LUẬN MÁC – LÊNIN VỀ
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

1.Dự báo của C. Mác và V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội (CNXH)
1.1.Dự báo của C. Mác và Ph.Ăngghen về CNXH
C. Mác và Ph.Ăngghen đã vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội
để phân tích một xã hội hiện thực là xã hội tư bản. Hai ông đã tìm ra quy luật
phát sinh, phát triển và diệt vong của nó, đồng thời dự báo về sự ra đời hình
thái kinh tế - xã hội mới cao hơn – hình thái cộng sản chủ nghĩa – mà giai
đoạn đầu là CNXH.
Hai ơng đánh giá cao vai trị lịch sử của (chủ nghĩa tư bản) CNTB
trong việc phát triển lực lượng sản xuất, tạo ra nền đại công nghiệp cơ khí và

gắn liền với nó là giai cấp vơ sản cách mạng. Đó là lực lượng sản xuất có
tính chất xã hội. CNTB càng phát triển thì nền đại công nghiệp và giai cấp vô
sản càng phát triển. Chính sự ra đời của nền đại cơng nghiệp đã quyết định
thắng lợi của CNTB đối với xã hội phong kiến, thì đến lượt nó, sự phát triển
của nền đại cơng nghiệp làm cho nền sản xuất có tính chất xã hội lại mâu
thuẫn với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN. Sự phát triển của lực lượng sản
xuất có tính chất xã hội địi hỏi phải “thủ tiêu mâu thuẫn ấy”, phải “tự giải
thốt khỏi cái tính chất tư bản của chúng, đến chỗ thực tế thừa nhận tính chất
của chúng là những lực lượng sản xuất xã hội” 1. Điều đó có nghĩa là, phải
xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN, xác lập chế độ sở hữu có tính chất
xã hội - chế độ cơng hữu. Và do đó, một xã hội mới ra đời thay thế CNTB –
đó là CNXH, chủ nghĩa cộng sản.
Hai ơng cũng dự báo rằng cách mạng vô sản trước hết nổ ra ở các
nước tư bản phát triển, đồng thời, khi giai cấp vô sản ở các nước tiên tiến đã
1

C. Mác và Ph. Ăngghen , Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 20, tr. 385.


giành được chính quyền, với kinh nghiệm và sự giúp đỡ của giai cấp vơ sản
ở các nước đó, các nước lạc hậu có thể phát triển theo con đường “rút ngắn”,
từng bước lên CNXH, chủ nghĩa cộng sản không qua giai đoạn phát triển
TBCN.
1.2 Dự báo của V.I.Lênin về CNXH
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, CNTB chuyển từ giai đoạn tự do
cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền, giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Đến giai
đoạn này, tính chất xã hội của lực lượng sản xuất trong các nước tư bản đã
đạt đến trình độ cao, và theo V.I.Lênin, nó làm cho “những quan hệ sản xuất
xã hội đang thay đổi”, làm cho “những quan hệ kinh tế - tư nhân và những
quan hệ tư hữu là một cái vỏ, khơng cịn phù hợp với nội dung của nó nữa” 2.

Điều đó địi hỏi phải làm cách mạng vơ sản để xóa bỏ CNTB, xác lập
CNXH, chủ nghĩa cộng sản.
Ông đã chỉ ra hai con đường cơ bản quá độ lên CNXH:

 Con đường thứ nhất: quá độ trực tiếp lên CNXH. Đây là con đường
tiến lên CNXH đối với các nước tư bản phát triển.

 Con đường thứ hai: quá độ lên CNXH thông qua nhiều khâu trung
gian, nhiều bước quá độ. Đây là con đường tiến lên CNXH đối với các
nước lạc hậu, kinh tế kém phát triển.
2 Cách mạng Tháng Mười Nga – thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin
trong hiện thực
Cách mạng Tháng Mười (CMT10) Nga thành công đã mở ra một thời
đại mới, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới.
Cuộc cách mạng này là bằng chứng sinh động, hiện thực và đầy sức thuyết
phục về tính cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin. Thắng lợi
của CMT10 thể hiện sự ưu việt của chủ nghĩa Mác-Lênin so với các trào lưu
2

V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.27, tr.539


cơ hội, xét lại trong phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế. Chính từ đây
CNXH khơng chỉ cịn là lý tưởng, là học thuyết mà là hiện thực cụ thể.
 Thành công của CMT10 khẳng định rằng chỉ có cuộc cách
mạng dưới sự lãnh đạo của một đảng dựa trên nền tảng tư tưởng
chủ nghĩa Mác-Lênin giành chính quyền về tay giai cấp vô sản
mới thực sự đem lại quyền lợi cho người lao động.
 CMT10 thành công đã hiện thực hóa lý tưởng về một xã hội mới
– xã hội chủ nghĩa (XHCN), mà trước đó chỉ là những ước mơ.

 CMT10 thành công đã chứng minh trên thực tế luận điểm về:
sụp đổ tất yếu của CNTB và loài người sẽ quá độ sang một xã
hội mới mà ở đó khơng cịn người bóc lột người.
 CMT10 khơng chỉ hiện thực hóa mục tiêu cách mạng là giải
phóng con người khỏi áp bức, bất cơng, xóa bỏ chế độ tư hữu,
mà còn khẳng định con đường giải phóng triệt để giai cấp cơng
nhân, nhân dân lao động trên thế giới; đồng thời khẳng định vai
trò, sứ mệnh của lực lượng cách mạng thực hiện sự nghiệp giải
phóng và xây dựng xã hội mới, đó là giai cấp cơng nhân.
 Khi dự đốn về khả năng của cách mạng, Mác-Ăngghen cho
rằng, cách mạng vô sản sẽ nổ ra ở khâu yếu nhất của CNTB.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, CNTB có bước phát triển mới,
chuyển sang giai đoạn tột cùng của nó là chủ nghĩa đế quốc.
Trên cơ sở phân tích đặc điểm phát triển không đều của chủ
nghĩa đế quốc, Lênin đã chỉ ra khả năng cho cách mạng vơ sản
có thể nổ ra và thắng lợi ở một số nước, thậm chí ở một nước.
Trong hồn cảnh đó, Lênin (1870–1924) đã vận dụng sáng tạo
và phát triển học thuyết của Mác-Ăngghen để giải quyết những
vấn đề cơ bản của cách mạng vô sản; đồng thời đấu tranh bảo vệ


lý luận Mác, phê phán không khoan nhượng với tư tưởng xét lại,
cơ hội…
 Sau CMT10, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, nhân dân
xơviết vượt qua nhiều khó khăn thử thách, với sự hy sinh to lớn
cả về người và của tiếp tục bảo vệ và phát triển những lý tưởng
về CNXH, phát triển CNXH trong hiện thực.
 Sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu
vào cuối những năm 80-đầu những năm 1990 của thế kỷ XX
không phải sự phủ định chủ nghĩa Mác- Lênin, không phải là sự

phủ định CNXH cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Đó
chỉ là sự đổ vỡ của một mơ hình phát triển cụ thể không được
điều chỉnh kịp thời trước điều kiện mới.
2. CNXH theo mơ hình kế hoạch hóa tập trung và vai trị lịch sử của
mơ hình đó
Mơ hình kế hoạch hóa tập trung có những đặc trưng cơ bản sau:
 Dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu dưới hai
hình thức: tồn dân và tập thể.
 Việc sản xuất cái gì, như thế nào, phân phối cho ai, giá cả như
thế nào được quyết định từ nhà nước và mang tính pháp lệnh.
 Phân phối mang tính chất bình qn và trực tiếp bằng hiện vật là
chủ yếu, xem nhẹ các quan hệ hàng hóa – tiền tệ.
 Nhà nước quản lý bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, xem
nhẹ các biện pháp kinh tế.
Trong điều kiện Liên Xô bị các nước tư bản bao vây, mơ hình này đã
có vai trị to lớn trong việc huy động sức người, sức của vào sự nghiệp xây
dựng đất nước. Chỉ trong một thời gian ngắn, Liên Xô đã thực hiện thắng lợi


sự nghiệp cơng nghiệp hóa (CNH), tạo ra được một nền công nghiệp hiện
đại. Đến khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, nhân dân Liên Xô phải tiến
hành cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Trong điều kiện đó, mơ hình kế hoạch
hóa tập trung một lần nữa phát huy vai trị tích cực trong việc huy động sức
người, sức của cho chiến tranh - một trong những nhân tố quyết định thắng
lợi trong chiến tranh.
Với những thắng lợi to lớn mà nhân dân Liên Xô đạt được đã dẫn đến
quan điểm cho rằng, mơ hình kế hoạch hóa tập trung là mơ hình kinh tế cùa
CNXH, cịn kinh tế thị trường là mơ hình kinh tế của CNTB.
Tuy nhiên, mơ hình này dần bộc lộ những hạn chế của nó, như khơng khai
thác được các năng lực sản xuất trong nước, khơng phát huy được nhiệt tình

và tính chủ động sáng tạo của con người trong quá trình lao động sản xuất,
khơng đẩy nhanh được sự tiến bộ khoa học và công nghệ, không mở rộng
được quan hệ kinh tế quốc tế…Từ đó, năng suất lao động xã hội thấp, hàng
hóa nghèo nàn và chất lượng kém… Đồng thời, cũng đẻ ra bộ máy hành
chính quan liêu, chủ quan duy ý chí. Điều đó chứng tỏ mơ hình đó khơng
đáp ứng được u cầu phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại, nhất là khi
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang phát triển mạnh mẽ.
Mơ hình kế hoạch hóa tập trung khơng cịn thích hợp nữa, nhưng do
chậm nhận thức và đổi mới đã dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội trong hệ
thống XHCN được xác lập sau Cách mạng Tháng Mưòi Nga. Đứng trước
khủng hoảng, Liên Xô đã tiến hành cải tổ và do sai lầm trong cải tổ đã dẫn
đến sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và các nước Đơng Âu. Thực chất sự sụp
đổ đó là sụp đổ của mơ hình CNXH tập trung, quan liêu, bao cấp.
3. Những biến đổi của thời đại và vấn đề quá độ lên CNXH
Trong lúc CNXH bị khủng hoảng trầm trọng dẫn đến sụp đổ ở Liên
Xô và Đông Âu, thì CNTB lại đạt được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế,


khoa học và công nghệ, cũng như nhiều mặt khác của đời sống xã hội. Từ đó
có quan điểm phủ nhận CNXH, lý tưởng hóa CNTB. Thực chất quan điểm
đó đã đồng nhất CNXH với mơ hình CNXH tập trung, quan liêu, bao cấp;
đồng nhất những thành tựu đạt được của nhân loại với CNTB. Rõ ràng, đây
là sự lẫn lộn giữa hiện tượng với bản chất; giữa ngẫu nhiên với tất nhiên của
lịch sử.
Như đã phân tích, đây chỉ là sự sụp đổ của một mơ hình cụ thể, chứ
khơng phải là sự sụp đổ của CNXH với tính cách là một xã hội cao hơn
CNTB. Hơn nữa, việc xây dựng một xã hội mới là một việc hết sức khó
khăn, phức tạp, những vấp váp, thậm chí đổ vỡ tạm thời là điều khó tránh
khỏi. Những đổ vỡ đó khơng phải là luận cứ để bác bỏ một xu hướng phát
triển tất yếu của xã hội, mà là mang lại những kinh nghiệm để nhận thức

ngày càng đúng đắn hơn về CNXH và con đường đi lên CNXH.
Những biến đổi trong thời đại chúng ta không thể tách rời cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ, cũng như những thành tựu do cuộc cách mạng
đó mang lại. Đặc biệt là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ được bắt
đầu vào giữa thế kỷ XX và phát triển rất nhanh chóng, nhất là từ những năm
80 của thế kỷ XX đến nay. Nó đã biến “khoa học trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp”, làm cho người lao động ngày càng được trí tuệ hóa và lao
động trí tuệ ngày càng trở thành lực lượng lao động chủ yếu. Sản xuất phát
triển theo chiều sâu, hàm lượng chất xám chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành
sản phẩm (hiện nay các sản phẩm có chất lượng cao, hàm lượng chất xám
chiếm khoảng 60-70% giá thành sản phẩm). Với vị trí có tính quyết định của
khoa học, cơng nghệ và lao động trí tuệ trong nền sản xuất hiện đại, kinh tế
thế giới đã chuyển lên một trình độ mới về chất – kinh tế tri thức. Vấn đề
hình thành, phát triển kinh tế tri thức đang là vấn đề có tính thời sự.
Sự ra đời của CNXH là kết quả hợp quy luật do sự phát triển của
CNTB tạo ra. Cho nên, vấn đề quá độ lên CNXH vẫn là xu hướng của thời


đại. Vấn đề đó được đặt ra ở các nước khác nhau với những mức độ khác
nhau và sẽ được giải quyết phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi nước.


PHẦN 2 – CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
1. Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam
Tiếp nối CMT10, cách mạng Tháng Tám và cơng cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc, thực hiện đổi mới, phát triển của Việt Nam tiếp tục khẳng
định tính đúng đắn của lý tưởng XHCN, của chủ nghĩa Mác-Lênin.
CMT10 đã mở ra con đường giải phóng dân tộc cho nhân dân Việt
Nam khỏi ách áp bức đế quốc thực dân. Chúng ta biết vào những năm 20 của

thế kỷ XX, Việt Nam đang đứng trước sự bế tắc về con đường giải phóng
dân tộc. Chính thời điểm này, Nguyễn Ái Quốc với thiên tài trí tuệ, trải
nghiệm hoạt động cách mạng và ảnh hưởng trực tiếp của CMT10, đã khẳng
định: " Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, khơng có con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản" . Vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn
cảnh cụ thể Việt Nam Bác Hồ và Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân thực hiện
cách mạng Tháng Tám lịch sử thành công, xây dựng nên nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hịa, nhà nước cơng - nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam
châu Á.
Sau cách mạng Tháng Tám, lịch sử phát triển của đất nước ta ln địi
hỏi Đảng và nhân dân phải có sự kiên định và sáng tạo trong con đường phát
triển. Đảng đã lãnh đạo toàn dân tộc kết hợp sáng tạo giữa độc lập dân tộc
với CNXH trong tiến trình cách mạng. Trong một thời gian dài cả nước đồng
thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, và sau khi giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước, tại Đại hội Đảng lần thứ IV, Đảng ta khẳng định: " trong
thời đại ngày nay, khi độc lập dân tộc và CNXH không thể tách rời nhau, và
ở nước ta, khi giai cấp cơng nhân giữ vai trị lãnh đạo cách mạng thì thắng
lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự bắt đầu của cách
mạng XHCN, sự bắt đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH, sự bắt đầu của thời


kỳ thực hiện nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản" . Điều này khẳng
định sự sáng tạo và nhất quán trong lựa chọn con đường phát triển của cách
mạng Việt Nam – con đường đi theo ánh sáng CMT10.
Về mục tiêu chung của CNXH mà Đảng ta đề ra là: “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”3. Về con đường đi lên CNXH ở
nước ta, Đảng ta chỉ rõ: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá
độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị
của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế
thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt

về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng
nền kinh tế hiện đại.
Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tạo ra sự biến đổi về chất của
xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên
phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình
thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất q độ. Trong các lĩnh vực của đời
sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường đi lên CNXH ở
Việt Nam
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, những đặc trưng bản chất của CNXH bao
gồm:
Một là, CNXH là một chế độ do nhân dân làm chủ, Nhà nước phải
phát huy quyền làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và
sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng CNXH.
Hai là, CNXH có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không

3

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà

Nội, 2001, tr. 85-86


ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là
nhân dân lao động.
Ba là, CNXH là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong
đó người với người là bè bạn, là đồng chí, là anh em, con người được giải
phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú,
được tạo điều kiện để phát triển hết mọi khả năng sẵn có của mình.

Bốn là, CNXH là một xã hội công bằng và hợp lý, làm nhiều hưởng
nhiều, làm ít hưởng ít, khơng làm khơng hưởng, các dân tộc bình đẳng, miền
núi tiến kịp miền xi.
Năm là, CNXH là một cơng trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự
xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ xuất phát từ quan điểm
của chủ nghĩa Mác – Lênin và từ tình hình thực tiễn của Việt Nam:
Trước hết, Hồ Chí Minh đã lưu ý chúng ta cần nhận thức rõ tính quy
luật chung và đặc điểm lịch sử cụ thể của mỗi nước để nhận rõ đặc trưng tính
chất của thời kỳ quá độ của Việt Nam đi lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát
triển TBCN.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra những đặc điểm và mâu thuẫn của thời kỳ quá
độ lên CNXH ở Việt Nam, trong đó đặc điểm bao trùm to nhất là từ một
nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không kinh qua giai đoạn
phát triển TBCN. Đặc điểm này thâu tóm đầy đủ những mâu thuẫn, khó
khăn, phức tạp, chi phối tồn bộ tiến trình q độ lên CNXH ở nước ta, từ đó
phải tìm ra con đường với những hình thức, bước đi và cách làm phù hợp với
đặc điểm Việt Nam.
Về nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ, Người nói "Chúng ta phải xây
dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của CNXH, đưa miền Bắc tiến dần lên
CNXH, có cơng nghiệp và nơng nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên


tiến. Trong quá trình cách mạng XHCN, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ
và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài".
Về những nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi CNXH ở Việt Nam, Hồ
Chí Minh chỉ rõ phải: Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng;
nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước; Phát huy tính tích cực, chủ động của
các tổ chức chính trị- xã hội; xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức và tài, đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp cách mạng XHCN.

3. Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (HĐH) và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá
độ tiến lên CNXH ở Việt Nam
Thực hiện CNH, HÐH và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN là những con đường cơ bản, phương hướng chính yếu đi lên CNXH
trong lĩnh vực kinh tế ở nước ta.
Quá độ lên CNXH từ một nền sản xuất nhỏ bỏ qua chế độ TBCN, tất
yếu chúng ta phải tiến hành CNH và kết hợp ngay từ đầu CNH với HÐH nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ để phát triển mạnh mẽ và bền vững
lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH. Phấn đấu
đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Khác với CNH theo kiểu cũ, khép kín, hướng nội, thiên về phát triển
cơng nghiệp nặng, chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên, đất đai và
viện trợ của các nước XHCN đi trước, ngày nay CNH gắn với HÐH trong
một nền kinh tế mở; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển mạnh
công nghiệp và dịch vụ, gắn CNH, HÐH với từng bước phát triển kinh tế tri
thức và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Kết hợp tốt các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra với các lợi
thế của nước đi sau, để rút ngắn q trình CNH, HÐH, thực hiện "đi tắt đón


đầu". Coi trọng cả tốc độ tăng trưởng và chất lượng phát triển, cả phát triển
nhanh và bền vững.
CNH, HÐH là sự nghiệp của toàn dân, toàn xã hội. Nhà nước có chính
sách để khơi dậy, phát huy các nguồn lực của nhân dân, của mọi thành phần
kinh tế, đồng thời huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn ngoại lực để
đẩy mạnh CNH, HÐH đất nước. Lấy thị trường làm cơ sở chủ yếu để phân
bổ các nguồn lực kết hợp sự điều tiết của nhà nước; lấy tiêu chuẩn trước hết
là hiệu quả kinh tế để đầu tư. Nhà nước có chính sách khuyến khích và ưu
đãi cho một số ngành, lĩnh vực, địa bàn, doanh nghiệp vừa và nhỏ và một số
mục tiêu (xuất khẩu, tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo...).

Hết sức coi trọng CNH, HÐH nông nghiệp, nông thôn; phát triển công
nghiệp và xây dựng kết cấu hạ tầng; phát triển kinh tế vùng, kinh tế biển, đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ đáp ứng yêu cầu phát
triển; sử dụng hợp lý tài nguyên, chú trọng bảo vệ và cải thiện môi trường
sinh thái.
Từ Ðại hội VI, Ðảng ta dứt khốt từ bỏ mơ hình kinh tế phi hàng hóa,
phi thị trường, mơ hình kinh tế tập trung bao cấp, chủ trương phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Ðến Ðại hội VII, Ðảng ta khẳng định
"phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN,
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước". Ðến Ðại hội
IX, lần đầu Ðảng ta khẳng định phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN và xem đó là mơ hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam. Quan niệm trên đây là một đột phá lý luận sáng tạo của
Ðảng ta trong nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta.
Với quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, Ðảng ta đã
chính thức thừa nhận kinh tế thị trường khơng phải là riêng có của CNTB, có
thể và cần phải sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng CNXH, kinh tế thị
trường là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, có thể kết hợp


kinh tế thị trường với CNXH. Tuy nhiên, kinh tế thị trường định hướng
XHCN khác với kinh tế thị trường TBCN cả về mục đích, bản chất, chế độ
sở hữu, chế độ quản lý, chế độ phân phối.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN bao gồm nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế đan xen, hỗn hợp trong đó kinh tế nhà nước
đóng vai trị chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể tạo thành nền
tảng của nền kinh tế quốc dân; kinh tế tư nhân, kể cả kinh tế tư bản tư nhân
được khuyến khích phát triển trong mọi ngành nghề mà luật pháp không
cấm, kể cả tư nhân quy mô lớn. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp
luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định

hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài, bình đẳng trước pháp luật, hợp tác và
cạnh tranh lành mạnh. Phải phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận
hành các loại thị trường, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN; nâng cao hiệu quả quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước trên cơ
sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường; phát huy mặt tích cực, hạn chế
mặt tiêu cực, mặt trái của kinh tế thị trường, giữ vững định hướng XHCN.
4. Xây dựng nền dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân
Phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là
mục tiêu và bản chất của chế độ XHCN. Ðể thực hiện mục tiêu đó, vấn đề
trung tâm là phải xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN thật sự của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình
chủ yếu bằng nhà nước, thơng qua nhà nước dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Nhà
nước là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Trong q trình lãnh đạo cơng cuộc đổi mới, Ðảng ta hết sức coi trọng
việc cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Ðặc biệt tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 11994) Ðảng ta khẳng định chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt


Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. So với nhà nước pháp quyền
tư sản, nhà nước pháp quyền XHCN khác về bản chất. Pháp quyền dưới
CNTB về thực chất là công cụ thống trị của giai cấp tư sản, cịn pháp quyền
dưới CNXH là cơng cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Nhà nước
bảo đảm quyền công dân, quyền con người, nâng cao trách nhiệm pháp lý
giữa Nhà nước và công dân; thực hành dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ
cương, kỷ luật. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng và phối
hợp các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Hiến pháp và các đạo luật giữ
vị trí tối cao trong điều chỉnh các quan hệ của đời sống xã hội. Trong xã hội
ta, hiến pháp và pháp luật là sự thể chế hóa cương lĩnh, đường lối, quan điểm
của Ðảng, đồng thời là sự thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Nhà

nước quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục đạo đức.
Trong hệ thống chính trị, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị xã hội giữ vai trị rất quan trọng trong việc thực hiện dân chủ XHCN, đại
diện cho quyền làm chủ của nhân dân. Vì vậy cần tiếp tục đổi mới tổ chức và
hoạt động của Mặt trận và các đồn thể chính trị - xã hội nhằm tập hợp rộng
rãi các tầng lớp nhân dân, phát huy tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội
đối với đường lối của Ðảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Sự lãnh đạo đúng đắn của Ðảng là nhân tố quyết định thắng lợi của sự
nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Vì vậy, phải coi xây
dựng Ðảng là nhiệm vụ then chốt, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Ðảng, xây dựng Ðảng một cách toàn diện và đồng bộ
cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, về đạo đức, về phong cách và phương thức
lãnh đạo. Ðảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, coi đó là quy
luật tồn tại và phát triển của Ðảng. Kiên quyết khắc phục các nguy cơ đối với
một Ðảng cầm quyền, nhất là nguy cơ quan liêu, xa dân, thoái hóa, biến chất,
đi đến mất phương hướng về chính trị. Ðảng kiên định nền tảng tư tưởng của
Ðảng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định nguyên


tắc tổ chức cơ bản của Ðảng là tập trung dân chủ, phát huy dân chủ trong
Ðảng đi đôi với giữ vững kỷ cương, kỷ luật Ðảng, kiên trì nguyên tắc một
đảng lãnh đạo là Ðảng Cộng sản, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa
đảng đối lập.
5. Tăng trưởng kinh tế đi đơi với phát triển văn hóa, thực hiện tiến
bộ và cơng bằng xã hội
Kinh tế, văn hóa, xã hội là những lĩnh vực quan trọng có quan hệ chặt
chẽ với nhau cần được phát triển một cách đồng bộ, hài hòa.
Trong khi coi trọng phát triển kinh tế nhanh và bền vững, chúng ta
đồng thời cũng hết sức coi trọng phát triển văn hóa bởi vì văn hóa là nền tảng
tinh thần của xã hội, văn hóa, con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của
đổi mới, của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nền văn hóa mà chúng

ta xây dựng là một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền
văn hóa thống nhất trong đa dạng. Phải làm cho văn hóa thực sự thấm sâu
vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy
kinh tế - xã hội phát triển, xây dựng lối sống có văn hóa cho con người.
Chiến lược kinh tế - xã hội phải đặt con người vào vị trí trung tâm, tạo điều
kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển, phát huy mọi năng lực của
mình.
Kết hợp chặt chẽ các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong
từng chính sách phát triển; kết hợp tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội ngay từ đầu, trong mỗi bước đi và trong cả q trình.
Khơng hy sinh mục tiêu xã hội cho tăng trưởng kinh tế, song cũng khơng vì
mục tiêu xã hội mà làm hạn chế, triệt tiêu động lực tăng trưởng kinh tế.
Khuyến khích, tạo điều kiện để mọi người làm giàu hợp pháp và hợp
đức đi đơi với xóa đói, giảm nghèo, xử lý vấn đề phân hóa hai đầu trong
chính sách kinh tế và chính sách xã hội; đổi mới các chính sách đối với y tế,


giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa - thơng tin, thể dục - thể
thao, tạo việc làm, dân số, gia đình, trẻ em... Xây dựng hệ thống chính sách
an sinh xã hội, bảo hiểm xã hội, chính sách ưu đãi xã hội, chính sách tiền
lương, chính sách phân phối thu nhập cơng bằng, hợp lý.
6. Xây dựng CNXH đi đôi với bảo vệ Tổ quốc XHCN
Ðây là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau,
hỗ trợ lẫn nhau. Trong điều kiện mới, chúng ta đã nhận thức sâu sắc, cụ thể
hơn về mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữa kinh tế với quốc
phòng - an ninh - đối ngoại, giữa thế trận quốc phòng với thế trận an ninh
trên phạm vi quốc gia cũng như trên từng địa bàn. Ðã nhận thức toàn diện
hơn khái niệm "an ninh quốc gia": không chỉ an ninh chính trị mà cịn an
ninh kinh tế, an ninh văn hóa, an ninh tư tưởng, an ninh xã hội... Khái niệm
"bảo vệ Tổ quốc" được xác định đầy đủ hơn: không chỉ là bảo vệ lãnh thổ,

biên giới, hải đảo, vùng trời, vùng biển mà còn là bảo vệ chế độ XHCN, bảo
vệ Ðảng, Nhà nước, nhân dân; bảo vệ kinh tế, văn hóa dân tộc, sự nghiệp đổi
mới... Chúng ta bước đầu xây dựng hệ quan điểm mới về chiến tranh nhân
dân, về hậu phương trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao; làm sáng tỏ
nội dung mới của chiến lược bảo vệ Tổ quốc, chiến lược quốc phòng toàn
dân.
7. Quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế
Trong những năm đổi mới, trên cơ sở ngày càng nhận thức sâu sắc hơn
tình hình thế giới và khu vực, Ðảng ta đã có sự đổi mới quan trọng về tư duy
đối ngoại. Ðảng đã khẳng định Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy
của các nước trong cộng đồng quốc tế, vì hịa bình, độc lập và phát triển;
thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đi đơi với đa phương hóa, đa
dạng hóa các quan hệ quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế,
đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác; trong hoạch định chính
sách đối ngoại, đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên vị trí hàng đầu. Nhiệm vụ


của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hịa bình, tạo điều kiện quốc
tế thuận lợi cho cơng cuộc đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hịa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Trên đây là hệ thống quan điểm, lý luận về CNXH và con đường đi lên
CNXH ở nước ta mà bước đầu chúng ta đã xác định được. Tuy nhiên trong
nội dung những quan điểm đó, cịn nhiều vấn đề cụ thể chưa phải đã thật rõ.
Hơn nữa bên cạnh đó, có nhiều vấn đề mới đặt ra. Chẳng hạn, các vấn đề
quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng phát triển, giữa tăng trưởng
nhanh và phát triển bền vững; vấn đề quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội; vấn đề quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống
chính trị, giữa đổi mới và ổn định; vấn đề quan hệ giữa độc lập tự chủ và chủ
động hội nhập quốc tế,…



KẾT LUẬN
Thành tựu lý luận mà Đảng ta và nhân dân ta đạt được qua thực tiễn
30 năm đổi mới tập trung nổi bật ở quan điểm về nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, nền
dân chủ hướng tới đông đảo quần chúng nhân dân, đảm bảo dân chủ và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Đảng Cộng sản cầm quyền trong
sạch, vững mạnh, coi đó là khâu then chốt, đại đoàn kết dân tộc là động lực
mạnh mẽ và quyết định thành bại của công cuộc đổi mới và xây dựng
CNXH...
Sự xác định đúng đắn những vấn đề trên cho thấy, lý luận, tư duy lý
luận của Đảng về CNXH thấm nhuần tính khoa học và cách mạng của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đã đóng vai trị quan trọng đối với
thực tiễn đổi mới, làm nên những thành tựu đổi mới.
Từ thực tiễn đổi mới, Ðảng và Nhà nước ta càng tích lũy thêm nhiều
kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý. Có thể rút ra một số bài học lớn sau đây:
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Ðổi mới khơng phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội, mà là làm cho
chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu
quả hơn để đi tới thắng lợi. Ðổi mới không phải là xa rời mà là nhận thức
đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Ðảng và kim chỉ nam cho hành
động cách mạng.
Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức
và cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực
tiễn; từ kinh tế, chính trị, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội; từ hoạt động lãnh đạo của Ðảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động cụ



thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị. Ðổi mới tất cả các mặt của đời
sống xã hội nhưng khơng làm đồng loạt, dàn đều, mà phải có trọng tâm,
trọng điểm, có những bước đi thích hợp; bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và
đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Ðảng là
then chốt và phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội.
Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát
huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén
với cái mới. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân
dân. Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân có vai trị quan
trọng trong việc hình thành đường lối đổi mới của Ðảng. Dựa vào nhân dân,
xuất phát từ thực tiễn phong phú của nhân dân, thường xuyên tổng kết thực
tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ra quy luật các mặt của cuộc sống
để đi lên - đó là chìa khóa của thành công.
Bốn là, phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức khai thác ngoại lực,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Phát
huy nội lực, xem đó là nhân tố quyết định đối với sự phát triển; đồng thời coi
trọng huy động các nguồn ngoại lực, thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế,
tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phát huy nội lực mạnh hơn, nhằm tạo ra
sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững. Hội nhập và
hợp tác quốc tế phải dựa trên các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và
tồn vẹn lãnh thổ, khơng can thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau, bình đẳng,
cùng có lợi; giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
và phát triển nền văn hóa dân tộc.
Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng, khơng
ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Xây dựng Ðảng
trong sạch, vững mạnh là khâu then chốt, là nhân tố quyết định thắng lợi của
sự nghiệp đổi mới. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt



Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là yêu cầu bức thiết của xã hội;
Nhà nước phải thể chế hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả quyền cơng dân,
quyền con người. Phát huy vai trị Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới.
Xác lập những mối quan hệ hợp lý giữa Ðảng, Nhà nước và Mặt trận
Tổ quốc cùng các đồn thể nhân dân thơng qua hệ thống cơ chế thích hợp,
làm cho tất cả các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị ngày càng vững
mạnh, quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện ngày một tốt hơn, từ đó
tạo ra động lực mạnh mẽ cho cơng cuộc đổi mới.
Tuy nhiên, cịn khơng ít những vấn đề lý luận, cả lý luận về kinh tế thị
trường định hướng XHCN, liên quan tới cơ cấu kinh tế, chế độ sở hữu, cơ
chế quản lý... cũng như lý luận về chính trị, về Đảng cộng sản cầm quyền,
nhà nước pháp quyền, hệ thống chính trị, xã hội dân sự...chúng ta cần tiếp
tục nghiên cứu để làm sáng tỏ. Sự phát triển của thực tiễn và sự nâng cao
không ngừng năng lực tư duy lý luận của Đảng, trình độ nhận thức của xã
hội, nhất là giới lý luận sẽ từng bước góp phần làm sáng tỏ và đem lại lời giải
đầy đủ, thấu đáo hơn những vấn đề đó. Trên tinh thần của đổi mới, nhìn
thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, chúng ta cần thẳng thắn nhận rõ rằng, lý
luận về CNXH và con đường đi lên CNXH như hiện nay của chúng ta vẫn
chưa ngang tầm những đòi hỏi của thực tiễn cách mạng, của yêu cầu phát
triển và hiện đại hóa xã hội. Thành tựu của đổi mới cịn có thể to lớn hơn
nữa, nếu lý luận đổi mới theo định hướng XHCN có những bước tiến đột
phá, đủ sức tạo ra một xung lực tinh thần thúc đẩy thực tiễn phát triển.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. C. Mác và Ph. Ăngghen , Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà

Nội, 2004
2. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980



×