Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Kiểm soát lạm phát tại Việt Nam thông qua chính sách tiền tệ 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (935.41 KB, 74 trang )

Trang 1
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
VÀ LẠM PHÁT TRONG NỀN KINH TẾ

1.1 TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ:
1.1.1 Khái Niệm Chính Sách Tiền Tệ:
Chính sách lưu thông tiền tệ hay chính sách tiền tệ là phương pháp mà chính phủ,
Ngân hàng Trung ương, hay chuyên gia tiền tệ dùng để quản lý cung tiền, hay kinh
doanh trên thị trường ngoại hối. Học thuyết tiền tệ đưa ra cái nhìn sâu sắc về chính
sách tiền tệ tối ưu được lập ra như thế nào.

Phân Loại Chính Sách Tiền Tệ:
Chính sách tiền tệ thường là chính sách mở rộng, hoặc là chính sách thắt chặt, một
chính sách mở rộng làm gia tăng tổng cung tiền trong nền kinh tế, và một chính sách
thắt chặt làm giảm tổng cung tiền. Theo truyền thống chính sách mở rộng được dùng
để chống nạn thất nghiệp trong tình trạng suy thoái bằng cách hạ thấp lãi suất, trong
khi chính sách thắt chặt nhằm mục tiêu tăng lãi suất để chống lạm phát (hoặc làm
nguội nền kinh tế quá nóng khác). Chính sách tiền tệ có thể được đối chiếu để phân
biệt với chính sách tài khóa, chính sách tài khóa thì có liên quan tới vay mượn, chi
tiêu của Chính phủ và thuế phải đóng.
Chính sách tiền tệ dựa trên mối quan hệ giữa lãi suất trong một nền kinh tế, tại mức
lãi suất đó người ta có thể mượn được tiền, và tổng cung tiền. Chính sách tiền tệ sử
dụng những công cụ đa dạng để kiểm soát một hay cả hai nhân tố đó để chi phối
những tác động như sự phát triển của nền kinh tế, lạm phát, tỷ lệ trao đổi với các loại
tiền tệ khác và nạn thất nghiệp. Tiền tệ ở nơi dưới mức phát hành độc quyền hoặc ở
nơi có hệ thống được quy định phát hành tiền tệ thông qua Ngân hàng thì bị ràng buộc
bởi Ngân hàng Trung ương, chuyên gia tiền tệ có khả năng để thay đổi cung tiền và
do đó tác động tới lãi suất (để đạt được mục tiêu của chính sách). Căn nguyên của
chính sách tiền tệ được bắt nguồn từ cuối thế kỷ 19, lúc đó nó được sử dụng để duy trì
bản vị vàng.


Một chính sách được ám chỉ là thắt chặt nếu nó làm giảm quy mô cung tiền hoặc gia
tăng lãi suất. Một chính sách mở rộng làm gia tăng quy mô cung tiền, hoặc làm giảm
lãi suất. Chính sách tiền tệ trong tương lai được coi là thích hợp nếu chuyên gia tiền tệ
Trang 2
ở Trung ương quy định lãi suất dự định dùng nó để khuyến khích phát triển kinh tế,
trung lập nếu dự định không dùng nó để khuyến khích phát triển kinh tế hay chống
lạm phát, hoặc là chặt nếu dự định dùng nó để giảm lạm phát.

1.1.2 Các Công Cụ Của Chính Sách Tiền Tệ:
Gồm có sáu công cụ sau:
- Công cụ tái cấp vốn: là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương đối với
các Ngân hàng Thương mại. Khi cấp một khoản tín dụng cho Ngân hàng Thương mại,
Ngân hàng Trung ương đã tăng lượng tiền cung ứng đồng thời tạo cơ sở cho Ngân
hàng Thương mại tạo bút tệ và khai thông khả năng thanh toán của họ.
- Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc: là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện cần vô hiệu hóa
trên tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán (cho vay) của
các Ngân hàng Thương mại.
- Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: là hoạt động Ngân hàng Trung ương mua bán
giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy tờ có giá,
gây ảnh hưởng đến khối lượng dự trữ của các Ngân hàng Thương mại, từ đó tác động
đến khả năng cung ứng tín dụng của các Ngân hàng Thương mại dẫn đến làm tăng
hay giảm khối lượng tiền tệ.
- Công cụ lãi suất tín dụng: đây được xem là công cụ gián tiếp trong thực hiện chính
sách tiền tệ bởi vì sự thay đổi lãi suất không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm bớt
lượng tiền trong lưu thông, mà có thể làm kích thích hay kìm hãm sản xuất. Nó là một
công cụ rất lợi hại. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương
chính sách và giải pháp cụ thể của Ngân hàng Trung ương nhằm điều tiết lãi suất trên
thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định.
- Công cụ hạn mức tín dụng: là một công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành chính
của Ngân hàng Trung ương để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của các tổ

chức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng Trung ương buộc
các Ngân hàng thương mại phải chấp hành khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.
- Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng
ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiên quan hệ cung
cầu ngoại hối. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác
động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính
sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng
hóa, tình trạng tài chính, tiện tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn dầu tư, dự trữ
Trang 3
của đất nước. Về thực chất tỷ giá không phải là công cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ
giá không làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều nước, đặc
biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan trọng
cho chính sách tiền tệ.

Phương Thức Tác Động Của Các Công Cụ:
- Thay đổi lãi suất chiết khấu:
Chính sách tiền tệ có thể được thực hiện đầy đủ bằng cách thay đổi quy mô cơ sở tiền
tệ. Nó trực tiếp thay đổi tổng lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế. Cơ quan hữu
trách về tiền tệ có thể thay đổi lãi suất mà mình cho các ngân hàng vay, thông qua đó
điều chỉnh lượng tiền cơ sở. Ngân hàng Trung Ương sẽ mua/bán trái phiếu đổi ra
được ngoại tệ mạnh. Khi Ngân hàng Trung Ương chi tiêu/thu thập lượng ngoại tệ
mạnh này, nó làm thay đổi lượng tiền tệ trong nền kinh tế, do đó thay đổi cơ sở tiền
tệ. Khi lượng tiền cơ sở thay đổi, thì lượng cung tiền cũng thay đổi theo.
Việc thắt chặt cung tiền có thể gián tiếp đạt được bằng cách gia tăng lãi suất danh
nghĩa. Những nhà chức trách tiền tệ ở các quốc gia khác nhau có các mức độ kiểm
soát lãi suất khác nhau ở các nền kinh tế. Tại Mỹ, Cục Dự trữ Liên bang có thể quy
định tỷ lệ chiết khấu, cũng như đạt được tỷ lệ Quỹ Liên bang mong đợi bằng các hoạt
động thị trường mở. Tỷ lệ này có tác động đáng kể đến lãi suất thị trường khác, nhưng
không phải là mối quan hệ lý tưởng. Các hoạt động thị trường mở của Mỹ là một phần
tương đối nhỏ của tổng khối lượng trên thị trường trái phiếu.

Ở các quốc gia khác, nhà chức trách tiền tệ có thể ủy nhiệm lãi suất cụ thể đối với nợ,
các tài khoản tiết kiệm hoặc các tài sản tài chính khác. Bằng cách gia tăng lãi suất có
kiểm soát, một nhà chức trách tiền tệ có thể thu nhỏ cung tiền, bởi vì lãi suất cao hơn
khuyến khích tiết kiệm và hạn chế vay mượn. Cả hai tác động này làm giảm đi quy
mô của cung tiền.
- Thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc:
Những nhà chức trách tiền tệ áp dụng điều chỉnh kiểm soát lên trên các Ngân hàng
Các cơ quan hữu trách về tiền tệ thường quy định các Ngân hàng phải gửi một phần
tài sản tại chỗ mình. Khi cần triển khai chính sách tiền tệ, cơ quan hữu trách về tiền tệ
có thể thay đổi quy định về mức gửi tài sản đó. Nếu mức gửi tăng lên như khi thực
hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, thì lượng tiền mà các Ngân hàng còn nắm giữ sẽ
giảm đi. Do đó, tiền cơ sở giảm đi,và lượng cung tiền trên thị trường cũng giảm đi.
Trang 4
Công cụ mang tính chất hành chính này ngày nay ít được sử dụng ở các nền kinh tế
thị trường phát triển.
- Tiến hành các nghiệp vụ thị trường mở:
Cơ quan hữu trách tiền tệ khi mua vào các loại công trái và giấy tờ có giá khác của
Nhà nước đã làm tăng lượng tiền cơ sở. Hoặc khi bán ra các giấy tờ có giá đó sẽ làm
giảm lượng tiền cơ sở. Qua đó, cơ quan hữu trách tiền tệ có thể điều chỉnh được lượng
cung tiền.

1.1.3 Hiệu Quả Của Chính Sách Tiền Tệ:
Chính sách tiền tệ nhắm vào hai mục tiêu là lãi suất và lượng cung tiền. Thông
thường, không thể thực hiện đồng thời hai mục tiêu này. Chỉ để điều tiết chu kỳ kinh
tế ở tình trạng bình thường, thì mục tiêu lãi suất được lựa chọn. Còn khi kinh tế quá
nóng hay kinh tế quá lạnh, chính sách tiền tệ sẽ nhằm vào mục tiêu trực tiếp hơn, đó
là lượng cung tiền.
Các nhà kinh tế học tranh luận về các thước đo cung tiền có liên quan. Cung tiền
“hẹp” hay M1 là tiền tệ trong lưu hành và tiền tệ trong chi trả và các tài khoản tiết
kiệm dễ dàng tiếp cận. Thước đo cung tiền “rộng hơn” như là M2 và M3 bao gồm tiền

ký quỹ trong một khoảng thời gian và thậm chí là tiền trên thị trường cũng như là các
quỹ. Các nhà kinh tế học tranh luận những điểm tốt hơn trong việc thực hiện đầy đủ
và hiệu quả chính sách tiền tệ nhưng có một điều hiển nhiên. Ở nhiều mức độ, chính
sách tiền tệ có một ảnh hưởng rất lớn. Ở các quốc gia như Cộng hòa Nga, Ba Lan hay
Brazil là các nước mà nhà in phải chạy hết tốc lực để chi trả cho các hoạt động của
Chính phủ, cung tiền mở rộng nhanh chóng và tiền tệ nhanh chóng trở nên vô giá trị
so với hàng hóa và dịch vụ mà nó có thể mua được. Kết quả là lạm phát ở mức rất cao
hay “lạm phát thái quá”. Với tỷ lệ lạm phát 30-40% mỗi tháng, người dân mua sản
phẩm có giá cao ngay khi họ nhận được tiền lương bằng tiền và những khoản dựa trên
thu nhập cố định làm cho đầu tư của họ biểu hiện sự vô giá trị.
Ở mức độ khác, chính sách tiền tệ giới hạn đã cho thấy hiệu quả của nó với ảnh hưởng
đáng kể. Đức, nơi có kinh nghiệm và không bao giờ quên được về lạm phát thái quá
trong suốt thời kì cộng hòa Weimar, đã duy trì một chế độ tiền tệ rất vững chắc và đưa
đến kết quả là lạm phát ở mức độ thấp. Khi chủ tịch Paul Vocker của Cục Dự trữ Liên
bang Mỹ tác động kìm hãm tiền tệ trong suốt thời kì lạm phát cao những năm 1980,
kết quả là suy sụp trong nền kinh tế và giảm mạnh lạm phát. Ngân hàng Canada, do
John Crow lãnh đạo, đã nhắm tới mục tiêu lạm phát 0-3% đầu những năm 1990 và rút
Trang 5
ngắn hoạt động của nền kinh tế chẳng hạn như một khu vực như Canada thậm chí đã
trải qua tỷ lệ lạm phát âm trong vài tháng vào thời gian đầu từ những năm 1930 đến
nay.
Không có nhiều tranh cãi, sự quyết định về thời gian và tác động sau cùng của chính
sách tiền tệ đối với nền kinh tế thì không rõ ràng. Các Ngân hàng Trung ương tạo ra
tác động đến nền kinh tế thông qua tiền tệ đã định sẵn. Trong bất kỳ trường hợp nào,
sự sáng suốt trong chính sách tiền tệ là rất quan trọng đối với nhà đầu tư. Tiền có sẵn
và tín dụng là những cân nhắc then chốt cho giá cả của một sự đầu tư.

1.2 TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT:
1.2.1 Định Nghĩa Lạm Phát:
Trong kinh tế học, lạm phát là sự gia tăng giá cả của hàng hóa và dịch vụ thông

thường của một nền kinh tế nhất định trong một khoảng thời gian. Trong một nền
kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua của đồng tiền. Nó cũng
liên quan tới sự gia tăng giá cả của một vài nhóm hàng hóa hay dịch vụ cụ thể. Khi so
sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so
với các loại tiền tệ khác. Thông thường theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu là lạm
phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia, còn theo nghĩa thứ
hai thì người ta hiểu là lạm phát của một loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn
cầu. Phạm vi ảnh hưởng của hai thành phần này vẫn là một chủ đề gây tranh cãi giữa
các nhà kinh tế học vĩ mô. Ở cả hai trường hợp, lạm phát được đo lường như là một tỷ
lệ phần trăm thay đổi của chỉ số giá.
Xu hướng chủ yếu của các nhà kinh tế học đa phần là đồng tình tỷ lệ lạm phát cao bị
gây ra bởi tỷ lệ gia tăng của cung tiền cao. Quan điểm về các yếu tố xác định tỷ lệ vừa
phải của lạm phát, đặc biệt là trong thời gian ngắn, bị thay đổi nhiều: sự thay đổi của
lạm phát đôi khi phần lớn được cho là những thay đổi trong những thay đổi thực của
nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ hay là những sự thay đổi bất thường trong những
nguồn hàng cung cấp có giá trị (ví dụ như những thay đổi làm khan hiếm), và đôi khi
là những thay đổi trong nguồn cung hay nhu cầu đối với tiền. Giữa thế kỉ 20, có hai
trường phái đã bất đồng gay gắt về nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát (ở mức độ
vừa phải): các “nhà tiền tệ” đã tranh cãi rằng cung tiền có ảnh hưởng lớn đến tất cả
các nhân tố khác trong việc xác định lạm phát, trong khi đó, những người theo thuyết
kinh tế của Keynes đã phản đối rằng nhu cầu thực tế thì luôn quan trọng hơn những
thay đổi trong cung tiền.
Trang 6
1.2.2 Các Nguyên Nhân Gây Ra Lạm Phát:
Trong một thời gian dài lạm phát thường được giả thiết là một hiện tượng tiền tệ trong
khi trong khoảng thời gian ngắn và vừa nó bị tác động bởi khả năng co giãn của tiền
lương, giá cả và tỷ lệ lãi tức có liên quan. Câu hỏi là liệu những tác động trong ngắn
hạn sau cùng có đủ để trở thành chủ đề trọng tâm của cuộc chiến giữa những nhà tiền
tệ và những người theo trường phái Keynes hay không? Trong giá cả và tiền lương
dùng để kiểm tra lưu thông tiền tệ đã kịp thời điều chỉnh để làm cho những nhân tố

hành vi đơn thuần khác nằm trên đường xu hướng thông thường. Theo quan điểm của
những người theo trường phái Keynes, giá cả và tiền lương điều chỉnh ở những tỷ lệ
khác nhau, và những khác nhau này có ảnh hưởng đối với đầu ra thực trong dài hạn
trở thành quan điểm của nhiều người trong nền kinh tế.
Nhiều lịch sử kinh tế liên quan tới câu hỏi là cái gì đã gây ra lạm phát và ảnh hưởng
của nó tới cái gì. Có rất nhiều quan điểm của các trường phái khác nhau cho rằng cái
gì gây ra lạm phát. Hầu hết có thể chia thành hai mảng khái quát: giả thuyết về chất
lượng của lạm phát và giả thuyết về khối lượng của lạm phát. Rất nhiều giả thuyết về
lạm phát kết hợp cả hai. Giả thuyết về chất lượng của lạm phát dựa vào mong đợi của
người mua chấp nhận loại tiền tệ có thể chuyển đổi thành lượng tiền tệ đủ để vào thời
gian sau người mua có thể mua được hàng hóa mong muốn. Giả thuyết về số lượng
lạm phát dựa vào cân bằng lượng cung tiền, tốc độ và những trao đổi của nó. Adam
Smith và David Hume đưa ra giả thuyết về số lượng của lạm phát đối với tiền, và giả
thuyết về chất lượng của lạm phát đối với sản lượng.
Có ba kiểu lạm phát chính, mà theo Robert J Gordon gọi là “mô hình tam giác”
- Lạm phát do cầu kéo: lạm phát xảy ra bởi những gia tăng trong tổng số cầu, do
những gia tăng trong chi tiêu của cá nhân và chính phủ, v.v... Kinh tế học Keynes cho
rằng nếu tổng cầu cao hơn tổng cung ở mức toàn dụng lao động, thì sẽ sinh ra lạm
phát. Điều này có thể giải thích qua sơ đồ AD-AS. Đường AD dịch sang phải trong
khi đường AS giữ nguyên sẽ khiến cho mức giá và sản lượng cùng tăng. Trong khi
đó, chủ nghĩa tiền tệ giải thích rằng do tổng cầu cao hơn tổng cung, người ta có cầu về
tiền mặt cao hơn, dẫn tới cung tiền phải tăng lên để đáp ứng. Do đó có lạm phát.
- Lạm phát do chi phí đẩy: hiện nay được gọi là “lạm phát do cú sốc nguồn cung”, bị
gây ra bởi những suy giảm trong tổng số cung ví dụ như do gia tăng giá cả đầu vào.
Lấy ví dụ một sự suy giảm bất chợt trong cung dầu, sẽ làm gia tăng giá dầu. Với
những nhà sản xuất thì dầu có thể là một phần trong chi phí của họ có thể chuyển nó
cho những người tiêu dùng theo cách tăng giá.
Trang 7
- Lạm phát gắn liền: được kết luận bởi những khả năng có thể xảy ra tương ứng,
thường được liên kết với “giá cả/tiền lương gia tăng dần” bởi vì nó liên quan đến

những người công nhân cố gắng gia tăng tiền lương của họ so với giá cả (tiền lương
ròng có thể gia tăng trên tỷ lệ CPI để thu được CPI sau thuế) và sau đó những người
chủ chuyển những chi phí cao hơn vào khách hàng ở mức giá cao hơn như là một
phần của “vòng luẩn quẩn”. Lạm phát gắn liền phản ánh những sự kiện trong quá khứ
và do đó có thể được xem như tàn tích của lạm phát.
Trọng tâm lớn nhất của thuyết cầu kéo đối với cung tiền: sự gia tăng khối lượng tiền
trong lưu thông tiền tệ có mối quan hệ với khả năng cung ứng của nền kinh tế (sản
lượng tiềm năng) có thể gây ra lạm phát. Điều này rõ ràng nhất khi Chính phủ chi tiêu
tài chính trong cơn khủng hoảng, ví dụ như nội chiến, bằng cách in tiền một cách quá
đáng, thường sẽ dẫn đến siêu lạm phát, là tình trạng mà giá cả ở nơi đó có thể gấp đôi
trong một tháng hoặc ít hơn. Một nguyên nhân khác có thể là do sự suy giảm nhanh
chóng đối với cầu tiền, như đã xảy ra ở châu Âu trong thời kì dịch bệnh ảm đạm.
Cung tiền cũng được xem như đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định mức
độ vừa phải của lạm phát, mặc dù có những quan điểm khác nhau đối với việc cho
rằng nó quan trọng như thế nào. Ví dụ, các nhà kinh tế học tin tưởng rằng có mối liện
hệ rất chặt chẽ; ngược lại, những nhà kinh tế học theo trường phái Keynes nhấn mạnh
rằng sử dụng tập hợp cầu trong nền kinh tế thay vì cung tiền để xác định lạm phát. Có
nghĩa là đối với những người theo trường phái Keynes thì cung tiền chỉ là một yếu tố
quyết định nằm trong tập hợp cầu. Một số nhà kinh tế thì lại coi đó là một cách tiếp
cận bịp bợm. Họ không đồng ý với ý niệm là các Ngân hàng Trung ương kiểm soát
lượng cung tiền, họ biện luận rằng các Ngân hàng Trung ương có rất ít khả năng kiểm
soát bởi vì lượng cung tiền phỏng lại lượng cầu tín dụng mà các Ngân hàng Thương
mại phát hành. Đây là thuyết tiền tệ nội sinh. Những người theo học thuyết kinh tế
Keynes ủng hộ một cách mạnh mẽ từ những năm xa xôi 1960, học thuyết này ngày
nay đã trở thành trọng điểm của những người chủ trương luật Taylor. Nhưng lập
trường này không được những trường đại học chấp nhận. Cho vay giúp ngân hàng tạo
ra tiền. Nhưng tập hợp khối lượng những khoản vay này giảm bớt khi mà tỷ lệ lãi thực
gia tăng. Do đó, nó gần giống như là những Ngân hàng Trung ương chi phối cung tiền
bằng cách tạo ra tiền rẻ hơn hoặc mắc hơn, và do đó gia tăng hay giảm bớt số lượng
tiền.



Trang 8
Có những nguyên nhân gây ra lạm phát khác:
- Lạm phát do xuất khẩu: Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung,
hoặc sản phẩm được huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị
trường trong nước giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do
tổng cung và tổng cầu mất cân bằng.
- Lạm phát do nhập khẩu: Sản phẩm không tự sản xuất trong nước được mà phải
nhập khẩu. Khi giá nhập khẩu tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng giá như trong
trường hợp OPEC quyết định tăng giá dầu, hay do đồng tiền trong nước xuống giá) thì
giá bán sản phẩm đó trong nước cũng tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị
giá nhập khẩu đội lên.
- Lạm phát tiền tệ: Cung tiền tăng (chẳng hạn do Ngân Hàng Trung ương mua ngoại
tệ vào để giữ cho đồng tiền ngoại tệ khỏi mất giá so với trong nước; hay chẳng hạn do
Ngân hàng Trung ương mua công trái theo yêu cầu của Nhà nước) khiến cho lượng
tiền trong lưu thông tăng lên là nguyên nhân gây ra lạm phát.
- Lạm phát đẻ ra lạm phát: Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý sẽ
cho rằng tới đây giá cả hàng hóa sẽ còn tăng, nên đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại. Tổng
cầu trở nên cao hơn tổng cung, gây ra lạm phát.

1.2.3 Tác Động Của Lạm Phát Đến Nền Kinh Tế:
1.2.3.1 Hiệu ứng tích cực:
Một lượng lạm phát nhỏ thì thường được xem như có ảnh hưởng khách quan đối với
nền kinh tế. Một lý do cho điều này là thật khó khăn khi thương lượng lại những giá
cả, và đặc biệt là những hậu quả trở về sau, nên với những giá cả thường gia tăng,
việc điều chỉnh các mức giá có liên quan dễ dàng hơn. Nhiều giá cả “về sau khó giải
quyết” và có khuynh hướng vượt lên trên, nên những nỗ lực để đạt được tỷ lệ lạm
phát là 0 (mức độ giá cả không thay đổi) làm giá cả, lợi nhuận và việc làm ở khu vực
khác bị giảm sút. Những nỗ lực để đạt được sự ổn định giá cả hoàn toàn cũng có thể

đưa đến giảm phát, nó thường được xem xét như một lời từ chối bởi những người theo
chủ nghĩa Keynes bởi vì những điều chỉnh về sau trong tiền lương và sản lượng được
kết hợp trong đó. Tổng quát hơn, bởi vì lạm phát vừa phải có nghĩa là giá cả của bất
cứ hàng hóa nào cho sẵn có thể gia tăng trong suốt thời gian với những lợi thế vốn có
không sớm thì muộn sẽ tạo ra được lợi tức. Sự ảnh hưởng này có khuynh hướng giữ
thế chủ động của nền kinh tế trong một thời gian ngắn bằng cách khuyến khích chi
tiêu và vay mượn, và trong thời gian dài sẽ khuyến khích đầu tư. Mặc dù, lạm phát
Trang 9
cao có khuynh hướng giảm bớt thông tin chính yếu về lâu dài bằng cách gây thiệt hại
cho việc khuyến khích để tiết kiệm, và để giảm thiểu chi tiêu lâu dài một cách hiệu
quả bằng cách tạo ra sản phẩm mắc hơn. Giảm phát, ngược lại, dẫn đến một sự
khuyến khích để tiết kiệm nhiều hơn và khuyến khích chi tiêu ngắn hạn ít hơn làm
chậm lại sự phát triển tiềm tàng của nền kinh tế.
Lạm phát cũng được coi là một áp lực rủi ro tiềm tàng đưa ra sự khuyến khích sử
dụng tiết kiệm để đầu tư, thay vì tạo ra sức mua cho những khoản tiết kiệm này để
giảm dần lạm phát. Trong đầu tư, những rủi ro lạm phát thường làm cho các nhà đầu
tư nhận lấy nhiều rủi ro hệ thống hơn, để mà thu được lợi nhuận ở ngay vào lúc lạm
phát có thể xảy ra sắp tới. Lạm phát cũng được sử dụng như là một chỉ số để điều
chỉnh chi phí sinh hoạt và như là một cơ hội cho một số trái phiếu. Thực ra mà nói,
lạm phát là tỷ lệ mà tại đó những giao dịch của nền kinh tế được chiết khấu trở về
trước.
Lạm phát cũng đưa đến cho các Ngân hàng Trung ương khả năng lèo lái, bởi vì công
cụ quan trọng nhất để kiểm soát cung tiền và tốc độ tiền là đưa ra tỷ lệ lãi suất thấp
nhất cho nền kinh tế - đó là tỷ lệ chiết khấu mà các ngân hàng có thể vay mượn từ
Ngân hàng Trung ương. Từ khi vay mượn ở mức lãi suất âm bị vô hiệu thì một tỷ lệ
lạm phát tuyệt đối sẽ đem đến “lý lẽ bào chữa” cho các giám đốc Ngân hàng Trung
ương để kích thích nền kinh tế. Bởi vì Chính phủ kiểm soát các Ngân hàng Trung
ương nên thường cũng có những áp lực về mặt chính trị để gia tăng cung tiền chi trả
cho những dịch vụ của Chính phủ, điều này làm gia tăng ảnh hưởng trong việc gây ra
lạm phát và giảm đi lượng tiền ròng của Chính phủ trong những hợp đồng khế ước và

nợ đã được thương lượng trong thời gian trước.
Tuy nhiên, nói chung, những tỷ lệ lạm phát trên số lượng danh nghĩa đã quy định để
tự do hóa tiền tệ, và khuyến khích đầu tư, đặc biệt bởi vì theo lý thuyết kinh tế hiện
tại, lạm phát sinh ra những khả năng lạm phát trong tương lai.

1.2.3.2 Hiệu ứng tiêu cực:
1.2.3.2.1 Lạm phát dự kiến:
- Thương mại quốc tế: Nếu như tỷ lệ lạm phát cao hơn, một tỷ lệ hối đoái cố định sẽ
bị hủy hoại làm suy yếu cấn đối thương mại.
- Chi phí đi lại: Bởi vì lạm phát làm suy yếu giá trị của tiền mặt, nó giống như một thứ
thuế đánh vào người giữ tiền và lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ
lạm phát nên lạm phát làm cho người ta có khuynh hướng giữ ít tiền mặt hơn trong
Trang 10
suốt thời gian lạm phát. Điều này áp đặt những chi phí thực, ví dụ như thường xuyên
đi đến ngân hàng hơn (Thuật ngữ có sự ám chỉ hài hước cho chi phí thay thế da giày
bị mòn không dùng được nữa khi đi đến ngân hàng thường xuyên).
- Chi phí thực đơn: Các công ty phải thay đổi giá cả của họ thường xuyên hơn, áp đặt
chi phí, ví dụ như các nhà hàng phải in lại thực đơn của họ.
- Giá cả có liên quan không chính xác: Các công ty không thể điều chỉnh giá đồng
thời. Nếu có lạm phát cao hơn, các công ty không thể điều chỉnh giá của họ quá thấp
hơn mức giá ở các công ty khác đã điều chỉnh. Điều này sẽ làm sai đi các quyết định
kinh tế, bởi vì những giá cả có liên quan sẽ không phản ánh được sự khan hiếm của
các hàng hóa khác có liên quan.
- Siêu lạm phát: Nếu lạm phát hoàn toàn mất kiểm soát (theo cách hướng dẫn trên) nó
có thể rất cản trở những hoạt động thông thường của nền kinh tế, tổn hại đến khả năng
cung cấp.
- Sự sợ hãi xếp hạng (còn được gọi là ảnh hưởng tài chính) có liên quan tới thuế lạm
phát. Theo lạm phát trở về trước, càng ngày càng nhiều người nhận ra bộ luật thuế có
những khía cạnh nào đó thật khó giải quyết. Ví dụ như những người đóng thuế xếp
theo thu nhập, tức là đồng đôla thu nhập tiếp theo sẽ bị đánh thuế ở tỷ lệ cao hơn đồng

đôla trước, có khuynh hướng bị sai lệch. Thực ra mà nói, Chính phủ thừa nhận lạm
phát đã đẩy người dân qua những ngưỡng này để cho phép gia tăng thuế bởi vì sức
mua thực ngang nhau đang bị đánh thuế ở tỷ lệ cao hơn.
Như đã đề cập, một số nhà kinh tế học xem lạm phát ở mức vừa phải như là lợi tức,
một số nhà điều hành kinh doanh xem lạm phát nhẹ như là “bơm mỡ vào bánh xe
thương mại”. Một số nhà kinh tế học tán thành việc giảm lạm phát tới zero như là một
mục tiêu chính sách tiền tệ - đặc biệt vào cuối những năm 1990 ở cuối giai đoạn giảm
lạm phát, khi mà chính sách được xem là trong giới hạn kiểm soát, và một vài người
tán thành giảm phát thay vì lạm phát.

1.2.3.2.2 Lạm phát không dự kiến:
Đây là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó phân phối lại của cải giữa các cá
nhân một cách độc đoán. Các hợp đồng, cam kết tín dụng thường được lập trên lãi
suất danh nghĩa khi lạm phát cao hơn dự kiến người đi vay được hưởng lợi còn người
cho vay bị thiệt hại, khi lạm phát thấp hơn dự kiến người cho vay sẽ được lợi còn
người đi vay chịu thiệt hại. Lạm phát không dự kiến thường ở mức cao hoặc siêu lạm
phát nên tác động của nó rất lớn.
Trang 11
Các nhà kinh tế có quan điểm rất khác nhau về quy mô của các tác động tiêu cực của
lạm phát, thậm chí nhiều nhà kinh tế cho rằng tổn thất do lạm phát gây ra là không
đáng kể và điều này được coi là đúng khi tỷ lệ lạm phát ổn định và ở mức vừa phải.
Khi lạm phát biến động mạnh, tác động xã hội của nó thông qua việc phân phối lại
của cải giữa các cá nhân một cách độc đoán rõ ràng là rất lớn và do vậy Chính phủ
của tất cả các nước đều tìm cách chống lại loại lạm phát này.

1.3 MỐI QUAN HỆ GIỮA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ LẠM PHÁT TRONG
MỘT NỀN KINH TẾ:
Tiền lương và giá cả sẽ bắt đầu gia tăng ở tốc độ nhanh hơn nếu chính sách tiền tệ
khuyến khích đủ tổng cầu để thúc đẩy mở rộng thị trường lao động và thị trường vốn
vượt qua khỏi công suất trong dài hạn của họ. Trên thực tế, một chính sách tiền tệ liên

tục cố gắng để giữ cho tỷ lệ thực thấp trong ngắn hạn cuối cùng sẽ đưa đến lạm phát
cao hơn và lãi suất danh nghĩa cao hơn mà không có sự gia tăng lâu dài của sản lượng
hay giảm bớt nạn thất nghiệp. Như đã nói từ trước, trong dài hạn, chính sách tiền tệ
không thể quyết định sản lượng và việc làm. Nói cách khác, trong khi có một sự cân
bằng các yếu tố khác nhau để được sự kết hợp tốt nhất giữa lạm phát cao hơn và nạn
thất nghiệp thấp hơn trong ngắn hạn thì sự cân bằng kết hợp này lại mất đi trong dài
hạn.
Chính sách cũng trực tiếp ảnh hưởng đến lạm phát thông qua những mong chờ của
người dân về lạm phát trong tương lai. Ví dụ, giả định rằng nhân viên Cục Điều tra
Liên bang nới lỏng chính sách tiền tệ. Nếu người tiêu dùng và thương gia nghĩ rằng sẽ
có lạm phát cao hơn trong tương lai, họ sẽ yêu cầu sự tăng thêm nhiều hơn trong tiền
lương và giá cả. Bản thân điều đó sẽ làm gia tăng lạm phát mà không có những thay
đổi lớn trong việc làm và sản lượng.
Nó có thể sẽ mất một thời gian khá dài để tác dụng của chính sách tiền tệ tác động đến
nền kinh tế và lạm phát. Và những chậm trễ cũng có thể biến đổi rất nhiều. Ví dụ, tác
động nghiêm trọng lên sản lượng có thể diễn ra ở một nơi nào đó từ ba tháng tới hai
năm. Và ảnh hưởng của lạm phát có khuynh hướng kéo theo sự chậm trễ lâu hơn, có
thể một tới ba năm, hay là lâu hơn nữa.
Công việc của nhân viên quản lý sẽ dễ dàng hơn nhiều nếu chính sách tiền tệ có
những tác động nhanh và chắc chắn. Những nhà làm chính sách có thể quy định chính
sách, quan sát ảnh hưởng của nó, và sau đó điều chỉnh sắp đặt cho đến khi họ loại trừ
được bất cứ sự không nhất quán nào giữa phát triển của nền kinh tế và mục tiêu.
Trang 12
Nhưng với những sự chậm trễ lâu dài kết hợp với những ảnh hưởng của chính sách
tiền tệ, nhân viên quản lý phải cố gắng để đoán trước những ảnh hưởng trong các tác
động của chính sách vào tương lai lâu dài. Để thấy được tại sao, giả định rằng nhân
viên quản lý chờ đợi để thay đổi quan điểm chính sách của họ cho tới khi họ thực sự
thấy rằng có sự gia tăng trong lạm phát. Điều đó có nghĩa là sức đẩy mang tính chất
lạm phát đã mở rộng rồi, nên nhiệm vụ giảm lạm phát sẽ khó khăn hơn và tốn chi phí
hơn trong khoảng thời gian công việc bị tổn thất. Không có gì đáng ngạc nhiên, lường

trước những tác động của chính sách trong tương lai là một việc làm khó khăn.
Dự kiến mục tiêu lạm phát như là một chiến lược cho phép chính sách tiền tệ mở ra
câu hỏi điều hành quan trọng là liệu những chính sách hiện tại có phù hợp với mục
tiêu lạm phát lâu dài hay không và sẽ xác định như thế nào. Một khả năng đáng chú ý
là Ngân hàng Trung ương có thể nhắm tới mục tiêu là khu vực kinh tế tư nhân hiện tại
dự báo được lạm phát, hoặc là những nhà dự báo chuyên nghiệp dự báo rõ ràng hoặc
là sẽ dự báo chính xác trong giá cả tài sản. Chúng tôi dùng kết quả của tình trạng thực
tế và cái duy nhất trong cân bằng cho những mong đợi vừa phải khi Ngân hàng Trung
ương sử dụng dự báo của khu vực kinh tế tư nhân như là bản chỉ dẫn cho những hành
động của chính sách. Trong một mẫu hình năng động kết hợp cả những điều chỉnh giá
cả không linh hoạt và cú sốc đối với tập hợp cầu và tập hợp cung, chúng tôi cho rằng
mục tiêu dự báo lạm phát chính xác thì mâu thuẫn, tiêu biểu là mâu thuẫn với tình
trạng thực tế của trạng thái thăng bằng đối với những mong đợi hợp lý, và những
chính sách đó gần chính xác với mục tiêu dự báo lạm phát thích hợp có những đặc
tính không mong muốn. Chúng tôi cũng thấy rằng những nền kinh tế có luật mà chính
sách dựa trên cơ sở dự báo phổ biến hơn thì đặc biệt dễ bị ảnh hưởng bởi tính không
xác định của những thăng bằng trong mong đợi hợp lý. Chúng tôi kết luận rằng, mặc
dù những dự báo trong khu vực kinh tế tư nhân có thể chứa đựng thông tin hữu ích
cho Ngân hàng Trung ương, nhưng cuối cùng thì những nhà chức trách tiền tệ phải
dựa trên một mẫu hình theo cấu trúc rõ ràng của nền kinh tế để dẫn đường cho những
quyết định trong chính sách của họ.






Trang 13
1.4 KINH NGHIỆM ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ NHẰM KIỂM
SOÁT LẠM PHÁT Ở MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI:

1.4.1 Trung Quốc:
1.4.1.1 Môi trường chính trị:
Trong thời gian Hồ Cẩm Đào nhậm chức Chủ tịch nước Cộng hoà Nhân dân Trung
Hoa và Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc, có thể thấy sự xuất hiện sự tranh
đua của tập thể lãnh đạo, nó có khả năng trở thành lời cam kết rộng rãi để cải cách
nền kinh tế liên tục và sự hòa hợp liên tục với nền kinh tế thế giới. Việc cải cách kinh
tế đã mang đến sự phát triển mạnh mẽ và những lợi ích rõ ràng. Tập thể lãnh đạo cũng
công nhận rằng nền kinh tế cần phải duy trì sự phát triển tương đối nhanh chóng để
ngăn ngừa tình trạng thất nghiệp lan tỏa và tình trạng chia rẽ xã hội có thể xảy ra.
So sánh với triển vọng của nền kinh tế, xuất hiện để đưa ra lời hướng dẫn hợp lý có
thể dự báo được, những kết cấu mang tính chính trị trong tương lai khó đánh giá hơn.
Cấu trúc mang tính chính trị và thuộc cơ quan tổ chức của Chính phủ ở mức độ thấp
hơn đang trở nên nổi bật hơn với việc phân phối lại nguồn tài nguyên chịu tác động
của hệ thống thuế đôi và hệ thống phân phối thu nhập. Trong khi tập thể lãnh đạo nghi
ngờ Hồ Cẩm Đào nhậm chức có thể ảnh hưởng tới cấu trúc chính trị, nhà cầm quyền
sẽ tập trung vào Đảng Cộng sản. Cũng như những quốc gia khác, những cá nhân và
những cơ quan tổ chức sẽ tiếp tục theo đuổi để gia tăng quyền lực của họ, nhưng hiện
nay tập thể lãnh đạo đang trong tình trạng có thể đang được duy trì và chỉ đạo sự quá
độ lên “nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”.

1.4.1.2 Những phát triển trong chính sách kinh tế vĩ mô:
Từ hai tới ba năm trở về trước, tốc độ cải cách trong việc quản lý kinh tế vĩ mô đã gia
tăng. Chính quyền Trung Ương hoạt động vững chắc từ việc can thiệp trực tiếp và
quản lý định lượng đối với nền kinh tế vĩ mô cho đến sự tín nhiệm lớn hơn đối với
công cụ chính sách tài chính và chính sách tiền tệ được sử dụng trong nền kinh tế thị
trường. Sự quản lý trực tiếp của chính quyền Trung ương đối với nền kinh tế thông
qua kế hoạch đầu ra và ổn định giá cả gần như biến mất trong cải cách kinh tế. Hơn
thế nữa, những nhà cầm quyền tài chính đã từ chối khi phân quyền tài chính từ Trung
ương đến các địa phương vào những năm 1980. Do đó, chính quyền Trung ương đã
được gia tăng thúc đẩy để dựa vào kiểm soát trực tiếp cho vay ngân hàng thông qua

kế hoạch tín dụng, để tác động đến toàn thể sự phát triển và lạm phát. Tuy nhiên, sau
các cải cách to lớn suy giảm bởi phiên họp toàn thể lần thứ ba của Ban Chấp hành
Trang 14
Trung ương Đảng thứ mười bốn vào năm 1994, tốc độ quản trị cải cách kinh tế vĩ mô
đã gia tăng. Hiện nay Chính phủ tận dụng các công cụ tiền tệ như phát hành trái phiếu
để tài trợ cho thâm hụt ngân sách; những hoạt động thị trường mở và những thủ tục
dự trữ tiền ký quỹ để quản lý khả năng thanh khỏan quá mức của Ngân hàng; và lãi
suất linh hoạt trong thị trường tín dụng liên ngân hàng để cung cấp một thị trường lớn
hơn lèo lái cấu trúc lãi suất. Gần đây, những nhà chính sách tiền tệ đã điều hành thành
công sự phát triển vừa phải và giảm bớt lạm phát từ những mức độ không thể xác định
trong năm 1993 và năm 1994. Vào năm 1996, lạm phát đã được hạ xuống 6% và tăng
trưởng thực chỉ dưới 10%. Những kết quả này đạt được nhờ sử dụng các công cụ tiền
tệ, kiểm soát phân phối tín dụng đối với đầu tư quốc gia và kiểm soát hành chính đối
với một số giá cả. Trước đây, những nhà cầm quyền chỉ thành công trong việc giảm
lạm phát bằng cách thắt chặt dữ dội tín dụng và tăng trưởng.
Thiếu hụt trong tiến triển giải quyết khó khăn của các doanh nghiệp quốc doanh yếu
kém thúc ép cải cách quản trị kinh tế vĩ mô nhanh hơn và hạn chế lợi ích có hiệu quả.
Chính quyền Trung ương miễn cưỡng từ bỏ kiểm soát lãi suất để Ngân hàng Nhân
dân Trung Quốc hoàn toàn độc lập, chủ yếu là bởi vì lo lắng cho tác động tiêu cực của
lãi suất cao hơn để các doanh nghiệp quốc doanh có thể tồn tại. Bất luận thế nào, lãi
suất cao hơn sẽ không cần thiết để ngăn giữ nhu cầu của các doanh nghiệp quốc
doanh về tín dụng. Nhiều doanh nghiệp không bị bắt buộc chịu trách nhiệm cho các
quyết định vay mượn của họ, mặc dù điều này thay đổi và hiện nay nhiều doanh
nghiệp hơn bị đẩy tới phá sản. Cho đến khi lãi suất có thể được sử dụng để kiểm soát
nhu cầu tín dụng và nhiều ngân hàng có thể quyết định cho vay hoàn toàn dựa trên cơ
sở thương mại, những nhà thẩm quyền về tiền tệ sẽ giữ lại một số tín dụng định lượng
để đạt được những mục tiêu về tiền tệ và kiểm soát lạm phát. Sự cải cách chậm chạp
của các doanh nghiệp quốc doanh cũng đang ngăn cản cải cách hệ thống ngân hàng.
Các Ngân hàng Nhà nước không thể hoạt động hoàn toàn dựa trên cơ sở thương mại
cho đến khi tìm được các phương pháp giảm bớt và cuối cùng là loại trừ ùn đống

nghiêm trọng đối với các khoản nợ không hiệu quả. Nợ xấu đang tăng lên vì nhiều
doanh nghiệp quốc doanh hơn chịu đựng những thua lỗ và tình hình này sẽ không gia
tăng cho tới khi những mức độ khác nhau mà Chính phủ sử sụng tác động mạnh mẽ
hơn để thúc đẩy tốc độ cải cách của các doanh nghiệp quốc doanh.
Việc củng cố hơn nữa khả năng chứa đựng của hệ thống thuế chính quyền Trung
ương sẽ làm cho chính sách tài chính hoạt động có hiệu quả hơn. Điều này sẽ cho
phép phát sinh thu nhập nhiều hơn và phân chia thu nhập công bằng hơn, cung cấp tất
Trang 15
cả mức độ chính phủ với sự gia tăng khả năng sản xuất để tài trợ cho chính sách phúc
lợi xã hội. Nó cũng giúp cho hệ thống ngân hàng gần như một số trách nhiệm tài
chính, như là trợ cấp các doanh nghiệp quốc doanh, các dự án cơ sở hạ tầng và nông
nghiệp, và làm cho sự cân bằng giữa chính sách tài chính và chính sách tiền tệ hiệu
quả hơn trong quản lý toàn bộ kinh tế vĩ mô.

1.4.2 Thái Lan:
1.4.2.1 Quyết định của Ủy ban chính sách tiền tệ vào ngày 27 tháng 2 năm 2008:
Bà Duangmanee Vongpradhip, Phó thống đốc ngân hàng Thái Lan, nhóm chính sách
tiền tệ, thông báo rằng hôm nay ủy ban chính sách tiền tệ đã gặp gỡ để quyết định sự
phát triển và những khuynh hướng của nền kinh tế gần nhất, quyết định quan điểm
chính sách tiền tệ thích hợp. Những vấn đề đã thảo luận như sau:
- Nhu cầu nội địa đã tăng nhanh, bao gồm cả trong tiêu dùng và đầu tư, trong khi xuất
khẩu mở rộng một cách nhanh chóng. Thêm vào đó, sự phát triển trong lĩnh vực tư
nhân nói riêng và cộng thêm kế hoạch của Chính phủ đối với các tác nhân khuyến
khích tài chính sẽ khuyến khích sự hồi phục liên tục trong nhu cầu nội địa đang tăng
nhanh, giúp giảm nhẹ ảnh hưởng từ rủi ro của việc giảm tốc độ tăng trưởng trong xuất
khẩu, căn cứ vào biểu hiện của tình trạng suy thoái ở Mỹ.
- Lạm phát hàng đầu đã điều chỉnh theo hướng đi lên và đã có thể tiếp tục tăng nhanh
ở tương lai gần kết quả là lượng dầu trên thế giới và giá cả hàng hóa cao hơn. Tuy
nhiên, việc đánh giá cao đồng bath Thái hiện nay có thể giúp làm giảm áp lực lạm
phát từ giá cả hàng hóa trên thế giới đến một mức nào đó.

Ủy ban chính sách tiền tệ cho rằng đà phát triển toàn diện của nền kinh tế Thái đã
phát triển tương xứng với sự hồi phục nhu cầu nội địa, ở một chừng mực nào đó là kết
quả của chính sách tiền tệ điều chỉnh thích hợp trong khoảng thời gian đầu. Lạm phát
hàng đầu đã giữ nguyên ở mức độ cao, nhưng được mong chờ giảm nhẹ trong thời
gian tới. Cùng lúc đó, lạm phát hạt nhân được mong chờ giữ nguyên trong giới hạn
phạm vi mục tiêu liên tục tám quý tiếp theo. Tuy nhiên, rủi ro đã giữ nguyên để sự
tăng trưởng của nền kinh tế thế giới có thể thành ra yếu kém hơn mong đợi, tác động
đến nền kinh tế Thái và những mong đợi lạm phát sắp tới. Bởi vậy, tình hình này sẽ
cần được giám sát chặt chẽ. Trong khi chờ đợi, ủy ban chính sách tiền tệ đã quyết
định giữ chính sách lãi suất ở mức 3.25% mỗi năm.


Trang 16
1.4.2.2 Sự phát triển cơ cấu chính sách tiền tệ ở Thái Lan:
Sự phát triển cơ cấu chính sách tiền tệ ở Thái Lan có thể được chia thành 3 giai đoạn:
1. Chế độ ổn định tỷ giá hối đoái (Chiến tranh thế giới thứ hai – tháng 6/1997): Đầu
tiên chế độ này đã được thông qua sau chiến tranh thế giới thứ hai. Ban đầu giá trị của
đồng bath đã được ổn định dựa vào ngoại tệ mạnh/vàng hoặc dựa vào một rổ tiền tệ.
Chế độ rổ tiền tệ được thông qua từ tháng 11 năm 1984 cho đến tháng 6 năm 1997.
Trong suốt thời gian này, Quỹ trao đổi ngang bằng đã thông báo và ủng hộ giá trị
đồng bath so với đôla Mỹ mỗi ngày, đây là điều mà thước đo tiền tệ và tài chính được
thiết kế chủ yếu để giữ nó trong ranh giới hệ thống ổn định tỷ giá hối đoái.
2. Chế độ mục tiêu tiền tệ (tháng 6/1997 – tháng 5/2000): Sau khi thông qua hệ thống
tỷ giá thả nổi vào ngày 2 tháng 6 năm 1997, Thái Lan đã nhận được sự giúp đỡ về tài
chính từ phía IMF. Trong suốt chương trình của IMF, chế độ mục tiêu tiền tệ đã được
thông qua. Trong chế độ này, ngân hàng đã đặt mục tiêu cung tiền nội địa sử dụng
phương pháp lập chương trình tài chính để bảo đảm tính ổn định của kinh tế vĩ mô
cũng như đạt được mục tiêu cuối cùng là tăng trưởng và ổn định giá cả có thể đạt
được. Ngân hàng đã lập ra những mục tiêu tiện tệ cơ bản mỗi ngày và mỗi quý, dựa
trên quản lý khả năng thanh khoản đã được thiết lập. Việc quản lý khả năng thanh

khoản mỗi ngày về cơ bản đã được tập trung để bảo đảm dựa vào tính không ổn định
quá thể của lãi suất và tính thanh khoản trong hệ thống tài chính.
3. Chế độ mục tiêu lạm phát (tháng 5/2000 đến nay): Sau chương trình của IMF, ngân
hàng đã thực hiện tái nhận định ở phạm vi rộng cả trong quốc nội và môi trường bên
ngoài và đã kết luận rằng mục tiêu cung tiền có thể sẽ kém hiệu quả hơn mục tiêu lạm
phát. Nguyên nhân chính của thay đổi này là do mối quan hệ giữa cung tiền và tăng
trưởng đầu ra đang trở nên kém ổn định hơn, đặc biệt là trong giai đoạn sau cơn
khủng hoảng nghiêm trọng và tình trạng không chắc chắn trong mở rộng tín dụng
cũng như sự thay đổi nhanh chóng trong lĩnh vực tài chính ở Thái Lan. Ngân hàng đã
thông báo thông qua mục tiêu lạm phát vào tháng 5/2000.
Ngân hàng đã quyết định để mở đầu mục tiêu lạm phát trong khuôn khổ pháp luật
hiện hành, nhờ đó mà ban chính sách tiền tệ (MPB) lần đầu tiên đã được bổ nhiệm
vào ngày 5 tháng 4 năm 2000 và được trao quyền quyết định chính sách tiền tệ bởi
thống đốc. Ban lãnh đạo, với 9 thành viên, bao gồm các chuyên gia chuyên biệt bên
ngoài và nhà lãnh đạo cao nhất của ngân hàng. Ban chính sách tiền tệ có quyền để đưa
ra chỉ thị chính sách tiền tệ với ổn định giá cả như là mục tiêu quan trọng hơn bất cứ
nhận định nào khác, và cũng để cải tiến khuôn khổ mục tiêu lạm phát phù hợp với nền
Trang 17
kinh tế Thái. Trong tương lai, sửa đổi bổ sung được đề xuất với Đạo luật ngân hàng
Thái Lan sẽ giúp cho ban chính sách tiền tệ địa vị hợp pháp chính thức và sự độclập
hoạt động của MPB trong cách quản lý chính sách tiền tệ.
Với sự thay đổi thống đốc ngân hàng Thái Lan vào ngày 30 tháng 5 năm 2001, gần
đây ngân hàng đã bổ nhiệm ủy ban chính sách tiền tệ (MPC) để thay thế ban chính
sách tiền tệ vào ngày 9 tháng 7 năm 2001. Ủy ban chính sách tiền tệ hiện nay gồm có
ba công chức thâm niên từ ngân hàng Thái Lan và bốn chuyên gia chuyên biệt từ bên
ngoài.

























Trang 18
CHƯƠNG II
TÌNH HÌNH LẠM PHÁT VÀ THỰC THI
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TẠI VIỆT NAM
NHẰM MỤC TIÊU KIỂM SOÁT LẠM PHÁT
TRONG THỜI GIAN QUA

2.1 THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 2003 TỚI NAY:
2.1.1 Các Nguyên Nhân Dẫn Đến Lạm Phát Ở Việt Nam:
Báo cáo của ADB đã cho thấy lạm phát ở Việt Nam đang có xu hướng tăng cao trong

những năm gần đây. Lạm phát trung bình chung năm 2005 là 8,3%, 2006 là 7,5% và
7,3% tại thời điểm năm 2007 là 12.6%. Chỉ số tăng giá tiêu dùng hai tháng đầu năm
2008 lên đến 6.02%, đã đi được 2/3 so với chỉ tiêu Quốc hội đề ra, trong khi vẫn còn
10 tháng ở phía trước. Điều này đã gây xôn xao dư luận trong thời gian gần đây. Có
rất nhiều ý kiến khác nhau từ phía các chuyên gia về tình hình lạm phát của Việt Nam
nhưng nhìn chung có thể tổng hợp từ một số các nguyên nhân sau:
1. Ảnh hưởng của giá thế giới đến Việt Nam:
Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới nên ảnh hưởng từ giá thế
giới đến Việt Nam cũng nhanh và rất rõ nét. Việt Nam đang nhập khẩu nhiều nguyên
liệu đầu vào cho sản xuất như 100% xăng dầu, 70% nguyên liệu dệt may, nhiều vật tư
cơ bản khác như phôi thép, phân bón... Đây là những mặt hàng tăng giá mạnh trong
thời gian qua. Trong điều kiện nước ta phụ thuộc rất lớn vào nhập khẩu (nhập khẩu
chiếm 90%GDP) giá nguyên liệu nhập tăng làm tăng giá trị thị trường trong nước.
2. Tăng giá của lương thực, thực phẩm:
Theo Tổng cục Thống kê dẫn đầu về tốc độ tăng giá trong 2 tháng đầu năm là nhóm
hàng lương thực, thực phẩm (tăng 11.56%), kế đó là dịch vụ ăn uống (tăng 10.21%),
lương thực (tăng 6.71%).
Tình trạng dịch bệnh gia súc, gia cầm và vàng lùn (lúa) nghiêm trọng, cộng với thời
tiết không thuận lợi, trong khi việc nhập khẩu các mặt hàng này bị hạn chế, đã làm
giảm mạnh nguồn cung lương thực, thực phẩm, đẩy giá lương thực thực phẩm tăng
cao. Và thêm cái rét lịch sử đã gây ra thiệt hại nghiêm trọng: tính đến ngày 18/2 toàn
Trang 19
Miền Bắc có 146.000 ha lúa bị ảnh hưởng nặng, trong đó có 10 ha phải gieo trồng lại,
cùng 63.000 vật nuôi bị chết do rét. Tổng thiệt hại ước tính khoảng 400 tỷ đồng.
Mức giá lương thực - thực phẩm ở Việt Nam thường cao hơn và không ổn định hơn
so với các nước khác, mức tăng lương thực thực phẩm luôn ở mức cao hơn mức tăng
giá tổng thể của CPI.
Trong khi đó, lương thực - thực phẩm chiếm tỷ lệ đến 42,8% trong rổ hàng hóa tính
CPI của Việt Nam. Theo phân tích của các chuyên gia ADB, trong các nguyên nhân
gây lạm phát thì sự tăng giá của nhóm lương thực thực phẩm là nhân tố chính.

3. Chi tiêu Chính phủ vào đầu tư công không hiệu quả:
Nguyên nhân đầu tiên được các chuyên gia trường đại học Harvard (Mỹ) đưa ra trong
bản nghiên cứu đề cập đến là do nhịp độ tăng chi tiêu của Nhà nước. Tổng chi tiêu
của Nhà nước trong năm 2006 là 321 nghìn tỷ đồng, tăng 221,8 nghìn tỷ đồng (hay
45%) so với năm 2004.
Như vậy, tốc độ tăng chi tiêu hàng năm của Nhà nước trong giai đoạn 2004 - 2006 là
20,3% năm (tương đương với tốc độ tăng truởng bán lẻ).
Cũng trong giai đoạn trên, thu ngân sách tăng chủ yếu không phải từ nguồn thu nội
địa mà là từ dầu mỏ, nợ và viện trợ nước ngoài. Thu nội địa trong năm 2004 chỉ đạt
119 nghìn tỷ, và trong năm 2006 là 190 nghìn tỷ, tăng có 71 nghìn tỷ. Trong khi đó
chỉ tiêu của Nhà nước tăng 131 nghìn tỷ, từ 190 lên tới 321 nghìn tỷ, tức là gần gấp
đôi mức tăng thu nội địa.
Khi chi tiêu của Nhà nước tăng hơn nhiều so với các nguồn thu ngoài dầu mỏ thì
những khoản chi tiêu này sẽ làm tăng tổng cầu. Thế nhưng nếu các khoản chi tiêu này
lại không được sử dụng một cách hiệu quả, chỉ đóng góp nhỏ cho sản lượng (tức là
không làm cho tổng cung tăng một cách tương ứng) thì tất yếu sẽ dẫn tới lạm phát.
Xu thế bội chi ngân sách do hàng trăm ngàn tỷ đồng đã bị tiêu phí vào các dự án thiếu
cân nhắc để xây dựng cơ sở hạ tầng, kích thích xuất khẩu hoặc bù lỗ nhập khẩu. Theo
số liệu thống kê, tỷ trọng tài sản cố định và đầu tư tài chính của các doanh nghiệp nhà
nước (DNNN) lớn hơn nhiều so với các thành phần kinh tế khác, trong khi chỉ số phát
Trang 20
triển tổng sản phẩm của các DNNN lại thấp hơn của các thành phần kinh tế khác. Số
việc làm tạo ra trên một đơn vị vốn đầu tư từ khối DNNN cũng thấp hơn. Điều đó
chứng tỏ hiệu quả đầu tư của DNNN còn thấp.Theo số liệu mới gần đây cả nước có
khoảng 1,500 DNNN trong đócó khoảng 600 DN làm ăn từ hoà vốn đến lỗ
4. Bội thực ngoại tệ:
Một nhân tố không thể không nhắc đến trong các yếu tố gây ra lạm phát cao ở Việt
Nam trong thời gian qua đó là nhân tố tiền tệ. Nguồn vốn từ nước ngoài được thu hút
quá nhiều vào Việt Nam một quốc gia đang được nhận định là “ngôi sao đang lên”.
Nguồn vốn này được tiếp nhận đã tạo ra sự bùng nổ chóng mặt về tiêu dùng, xây

dựng, đầu cơ đất đai và chứng khoán.
Giáo sư Kenichi Ohno, chuyên gia Diễn đàn Phát triển Việt Nam (VDF) trong khảo
sát về bùng nổ nguồn vốn và lạm phát ở Việt Nam ước tính, có ít nhất 15 tỷ USD đã
đổ vào Việt Nam trong năm 2007 từ các nguồn: dịch vụ (du lịch) 4,6 tỷ USD; vốn
FDI giải ngân 2,2 tỷ USD; vốn vay ODA 1,8 tỷ USD, cổ phiếu và trái phiếu 2,5 tỷ
USD.... Và đây là nguyên nhân chính gây nên tình trạng lạm phát ở Việt Nam.
Thêm vào đó hầu hết lượng vốn đầu tư gián tiếp tại nước ngoài hiện đang được đổ
vào chứng khoán và bất động sản là hai lĩnh vực không tạo ra sản lượng hàng hóa
thực hoặc nếu có thì cũng rất lâu. Nói cách khác những nhà đầu tư trên thị trưởng
chứng khoán và bất động sản đang “đầu tư lẫn nhau” với kỳ vọng kiếm lời cao, khác
hẳn với cách đầu tư lâu dài tạo ra giá trị hàng hóa thực dựa trên công nghệ, thị trường,
kỹ năng quản trị… của dòng vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp. Hàng ít - tiền nhiều và
lạm phát là tất yếu.
5. Yếu kém trong công tác dự báo của Chính phủ:
Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 2-2008 một trong những nguyên nhân gây
nên lạm phát đã được Bộ Trưởng Bộ Tài Chính Vũ Văn Ninh nhìn nhận là “có yếu
kém trong dự báo”.
Về khả năng dự báo lạm phát, rõ ràng chúng ta gặp nhiều khó khăn vì chúng ta thiếu
thông tin về hiện trạng của nền kinh tế, dữ liệu về tình hình kinh tế còn nhiều sai sót
và chúng ta không dự báo được một cách chính xác tương đối đường đi của nền kinh
Trang 21
tế cũng như tác động của các chính sách đến nền kinh tế. Chúng ta không có những
thông tin kinh tế kịp thời về hiện trạng nền kinh tế (quí 2, thậm chí quí 3 mới có số
liệu quí 1), và không đủ dữ liệu để thiết lập các mô hình dự đoán phức tạp. Cộng thêm
tính bất ổn quá cao của một nền kinh tế mới nổi, chúng ta không thể dự đoán chính
xác những gì sẽ diễn ra. Và kết quả là hiệu quả của chính sách tiền tệ lên nền kinh tế
là hoàn toàn nằm ngoài kiểm soát của người áp dụng nó. Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng cũng đã nói rõ: “Nếu điều hành chính sách tiền tệ tốt hơn có thể kiềm chế lạm
phát ở mức thấp hơn”. Điều này cho thấy người đứng đầu Chính phủ không thể đưa
ra quyết sách đúng khi cơ sở dữ liệu của quốc sách lại “có yếu kém” trong dự báo.

Nói cách nào đó, một vị tướng tổng tư lệnh mặt trận không thể xuất quân ra trận và
chắc chắn thắng nếu những thông tin từ Ban tham mưu tác chiến lại không đáng tin
cậy.
6. Nguyên nhân tiền tệ:
Tốc độ tăng cung tiền tại Việt Nam từ năm 2003 đến nay liên tục duy trì trên dưới
25% mỗi năm và tín dụng nội địa cũng tăng trên 35%. Trong khi nhập khẩu tăng đột
biến trong mấy năm trở lại đây để đáp ứng lượng cầu nội địa tăng thì đối với một số
hàng hóa như khách sạn, văn phòng, điện, lao động có kỹ năng (những hàng hóa đươc
sản xuất trong nước) không thể tăng tương ứng. Kết quả là giá của những hàng hóa
này phải tăng theo tốc độ tăng cung tiền.
Trong khoảng thời gian hai năm 2005-2006 GDP của Việt Nam tăng tổng là 17%,
trong đó M2 (tiền mặt cho lưu thông và tiền gửi ngân hàng) tăng tới 73%, tính từ đầu
năm 2005 cho đến cuối tháng 6 năm 2007, GDP của Việt Nam tăng 22%, còn mức
cung tiền mặt cho lưu thông và tiền gửi ngân hàng đã tăng lên đến 110%. Các chuyên
gia trường Đại Học Harvard cho rằng Chính phủ Việt Nam đã tăng cung tiền nhằm
duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong một thời gian dài. Cụ thể cung tiền ở Việt Nam
tăng mạnh trong năm 2007 là do vốn nước ngoài chảy vào tăng đột biến, từ đó buộc
Ngân hàng Nhà nước phải đóng vai trò người mua ngoại tệ cuối cùng và đưa thêm
tiền đồng vào lưu thông. Tuy nhiên khi sự mất cân đối giữa tốc độ tăng cung tiền và
tốc độ tăng trưởng GDP lớn thì sức ép lạm phát bắt đầu xuất hiện và sự mất cân đối
này đã dãn rộng ra trong vòng ba năm qua và khiến cho lạm phát bùng phát lên con số
12.6% năm 2007.
Trang 22
7. Yếu kém trong công tác điều hành vĩ mô của Chính phủ:
Đây cũng là ý kiến củaTiến sĩ Phạm Tất Thắng, Nguyên giám đốc Trung Tâm Thông
Tin- Bộ Công Thương. Ông cho rằng lạm phát trong thời gian qua là hậu quả của quá
trình điều hành một nền kinh tế thiếu sự đồng bộ phối hợp giữa các ngành và một số
quyết định đưa ra không đúng thời điểm. Minh họa cho điều này là việc Ngân hàng
Nhà nước buộc các Ngân hàng Thương mại mua 20.300 tỷ tín phiếu, điều này đã gây
“sốc’ ảnh hưởng đến thị trường, dòng tiền bị chặn lại. Ngay sau đó Ngân hàng Nhà

nước lại bơm ra 39.000 tỷ đồng điều này khiến sự vận động của dòng tiền thành bất
thường, gây hiệu ứng tiêu cực. Các biện pháp tức thời này đã gây ra hiệu ứng chạy
đua lãi suất vì khan hiếm tiền mặt.
Đồng tình với Tiến sĩ Phạm Tất Thắng, Tiến sĩ Nguyễn Văn Lai, Phó vụ trưởng Vụ
chiến lược Phát triển – NHNN đã chỉ ra lạm phát ở Việt Nam có thể tìm thấy nguyên
nhân rất lớn từ công tác điều hành vĩ mô. Theo ông Lai do không xác định đúng và
đầy đủ nguyên nhân nên Việt Nam đã lạm dụng nhiều biện pháp tình thế, không cơ
bản để chống lạm phát. Chẳng hạn giữa năm 2007 Bộ Tài Chính đã hy sinh khoảng
1000 tỷ đồng ngân sách để giảm thuế đối với hàng trăm mặt hàng nhưng “lạm phát
vẫn hoàn lạm phát”. Đến cuối 2007 khi giá tiêu dùng vẫn tăng thì lại “lôi” rổ hàng
hóa tính CPI ra điều chỉnh lại tỷ trọng
Trong năm qua đã có những chỉ trích nhất định từ phía giới truyền thông và giới
chuyên gia, dù là gay gắt hay nhẹ nhàng, dù là ngầm ý hay công khai, đối với việc
“lúng túng” của Ngân hàng Nhà nước trong việc kiểm soát cung tiền, hay trong phản
ứng với lạm phát. Việc uy tín của Ngân hàng Nhà nước không được củng cố trong
năm qua, kết hợp với việc báo đài hàng ngày hàng giờ liên tục nhắc tới vấn đề lạm
phát, thì không tránh khỏi việc người dân sẽ kỳ vọng lạm phát sẽ tiếp tục cao, và khó
kiểm soát. Điều này hoàn toàn không có lợi cho việc áp dụng chính sách tiền tệ để
khống chế lạm phát.
2.1.2 Đặc Điểm Nền Kinh Tế Việt Nam:
Cung tiền đồng trở nên khan hiếm, các Ngân hàng nói họ đang rất cần vốn để bảo
đảm dự trữ bắt buộc, để chuẩn bị mua tín phiếu bắt buộc và nếu điều chỉnh lãi suất
thấp vốn sẽ không chảy vào két ngân hàng như mong đợi. Ngân hàng thiếu tiền mặt!
Chuyện tưởng chừng như vô lý ấy nhưng lại đang diễn ra không chỉ trong tháng 2 vừa
Trang 23
qua mà trước đó đã bắt đầu vào cuối năm 2007. Vậy chuyện gì đã thực sự diễn ra
trong thời gian qua?
- Về tăng trưởng tín dụng:
Chỉ tiêu tăng tín dụng của Ngân hàng Nhà nước cho hệ thống Ngân hàng năm 2007 từ
17-21% so với cuối năm 2006. Nhưng con số này đã trở thành một thách thức không

thể đạt được của hệ thống Ngân hàng vì tốc độ tăng trưởng tín dụng thực tế năm 2007
thật sự gây bất ngờ là 53.9%. Sự đột biến này cũng thể hiện rõ trong tương quan
những năm gần đây. Cụ thể: năm 2000 tăng trưởng tín dụng là 38.1%, năm 2001 là
21.4%, năm 2002 là 22.2%, năm 2003 là 28.4%, năm 2004 là 41.5%, năm 2005 là
19.25% và 2006 là 21.4%. Thực tế cho thấy tăng trưởng tín dụng cao đã kéo theo lạm
phát cao như năm 2004 lạm phát tăng lên cao hơn so với các năm trước đạt con số
9.5%, và với tốc độ năm 2007 thì con số lạm phát là 12.63%.
Những năm trước, luồng vốn tín dụng chủ yếu đổ vào các ngành quan trọng trong sự
phát triển kinh tế như hạ tầng, công nghiệp, thương mai, dịch vụ… Tuy nhiên trong
năm 2007 đã có sự chuyển dịch đáng kể vốn sang các lĩnh vực khác như: đầu tư kinh
doanh chứng khoán, bất động sản, vàng và cho vay tiêu dùng. Dư nợ cho vay bất động
sản của Thành phố Hồ Chí Minh từ chỗ chỉ 2-3%/ tổng dư nợ cho vay nay lên khoảng
10%/ tổng dư nợ; của Thành phố Hà Nội cũng đạt tới gần 8%/ tổng dư nợ. Những lĩnh
vực này tuy vẫn góp phần vào tăng trưởng kinh tế nhưng tiềm ẩn khá nhiều rủi ro.
Nguyên nhân của sự chuyển dịch luồng vốn tín dụng thì có nhiều, nhưng nguyên nhân
chính vẫn là do thị trường chứng khoán phát triển mạnh tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp huy động vốn, nhất là vốn trung- dài hạn qua phát hành cổ phiếu và trái phiếu,
giảm vay vốn Ngân hàng. Vì vậy, trước sức ép về lợi nhuận và cạnh tranh buộc các
Ngân hàng phải mở rộng vòng tay cho vay sang các lĩnh vực khác.
Nhằm thu hút thêm lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư phục vụ cho nhu cầu cho vay vào
dịp cuối năm 2007 bên cạnh các chương trình khuyến mãi dự thưởng, nhiều Ngân
hàng (đặc biệt là các Ngân hàng Thương mại cổ phần) đang tiếp tục tăng lãi suất huy
động tiền gửi. Ngoài nguyên nhân do nhu cầu vốn của doanh nghiệp và nhu cầu vay
tiêu dùng của khách hàng cá nhân tăng cao vào dịp cuối năm, tăng trưởng tín dụng
nóng còn do các Ngân hàng chạy đua nâng tổng dư nợ cầm cố chứng khoán xuống
dưới ngưỡng 3% theo quy định của Ngân hàng Nhà nước hạn chót 31/12/2007.
Lĩnh vực tín dụng còn được các Ngân hàng tận dụng nhiều nhất là cho vay bất động
sản, tiêu dùng và bổ sung vốn lưu động cho doanh nghiệp dịp cuối năm. Áp lực chỉ thị
03 đã khiến hàng loạt các Ngân hàng Thương mại cổ phần như Việt Á, Á Châu,
Trang 24

Phương Đông, An Bình… chạy đua nâng tổng dư nợ. Mặc dù tỷ lệ cho vay chứng
khoán ở mức khá cao như 24% đối với Việt Á, 18% đối với Á Châu… nhưng các
Ngân hàng trên đều khẳng định rằng tỷ lệ dư nợ cho vay cầm cố chứng khoán sẽ được
điều chỉnh xuống dưới ngưỡng 3% trước ngày 31/12/2007. Cuộc đua nâng tổng dư nợ
đã khiến mảng tín dụng cho vay bất động sản tăng trưởng nóng. Cụ thể Á Châu cho
vay mua nhà thường từ 15-20%/tổng dư nợ và hiện nay là 20%, còn Ngân hàng Xuất
Nhập khẩuViệt Nam (Eximbank) là 12%. Lãnh đạo của một ngân hàng đã không ngần
ngại khi tuyên bố buộc phải nâng cao tổng dư nợ như một giải pháp đối phó với chỉ
thị 03 của Chính phủ.
Giữ tốc độ tăng trưởng tín dụng ở mức hợp lý nằm trong chủ quan và khả năng điều
hành của Ngân hàng Nhà nước.Tuy nhiên theo nhận định của Ngân hàng Thế giới
(WB) cho đến nay công cụ chính để cắt giảm mức tăng trưởng tín dụng được sử dụng
đến là tỷ lệ dự trữ bắt buộc.

- Dự trữ bắt buộc:
Trước độ nở của tiền tệ (tăng trưởng tín dụng) và lo ngại về chất lượng các khoản vay.
Ngân hàng Nhà nước ban hành quyết định số 1141/QĐ-NHNN ngày 30/5/2007 điều
chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng. Theo quyết định này, tỷ lệ dự
trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng bằng
VND đối với Ngân hàng Thương mại quốc doanh, Ngân hàng Thương mại cổ phần đô
thị, Ngân hàng Liên doanh, Chi nhánh Ngân hàng Nước ngoài, công ty tài chính… từ
5% lên 10% (tăng gấp đôi). Riêng đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn (Agribank), tỷ lệ trên là 8% tính trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc.
Trong lần tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc này, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho rằng
“Việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng giống như việc Ngân hàng Nhà nước thay cái
má phanh cũ bằng một má phanh mới để có thể nhạy hơn trong việc kiểm soát độ nở
của tiền tệ (tăng trưởng tín dụng)”. Động thái mạnh mẽ này của Ngân hàng Nhà nước
nhằm rút tiền mặt ra khỏi lưu thông, vì trước đó một lượng tiền lớn đã được bơm ra để
mua vào 7 tỷ USD trong 5 tháng đầu năm. Dù chia sẻ với những khó khăn của Chính
phủ, 90% trong số đại diện các Ngân hàng đưa ra ý kiến đều bức xúc tăng dự trữ bắt

buộc ở mức tăng quá nhanh và mạnh. Đặc biệt trước một chính sách tác động mạnh
đến hệ thống Ngân hàng họ phải được góp tiếng nói của mình trước đó.
Như vậy trong năm 2007 Ngân hàng Nhà Nước tăng mức dự trữ bắt buộc lên gấp đôi
đối với các loại tiền gửi ngân hàng, khống chế mức cho vay thế chấp chứng khoán
Trang 25
3%/ tổng dư nợ (Chỉ thị 03) và sau đó khống chế mức dư nợ cho vay chứng khoán
theo hướng tiếp tục thắt chặt (theo mức 20% vốn điều lệ của Ngân hàng Thương mại,
Quyết định 03). Tăng các lãi suất của Ngân hàng Thương mại (lãi suất cơ bản, lãi suất
tái cấp vốn , lãi suất chiết khấu), hạn chế bơm tiền mua ngoại tệ, phát hành tín phiếu
Ngân hàng Nhà Nước (vào ngày 17/03/2008) bắt buộc đối với các Ngân hàng Thương
mại để hút tiền về Ngân hàng Nhà nước. Hiện tại cho thấy rõ ràng các Ngân hàng
đang phản ứng khá mạnh mẽ với các chính sách mạnh của Nhà nước. Thị trường tiền
tệ đình đốn là phản ứng mãnh liệt nhất. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam người ta
chứng kiến cảnh thị trường tiền tệ “đình đốn”. Sự đình đốn này bắt đầu vào cuối năm
2007 đến nay và sự “đình đốn” cả về tiền đồng lẫn ngoại tệ.
Trong vòng một tuần các tập đoàn kinh tế lớn của Nhà nước đã duy chuyển vốn
khoảng 7.200 tỷ đồng, làm cho các Ngân hàng Thương mại bị thiếu vốn khả dụng,
đẩy lãi suất tiền đồng trên thị trường liên ngân hàng lên cao. Ngày 21/11/2007 lãi suất
qua đêm trên thị trường liên Ngân hàng đạt mức 17%/năm Ngân hàng Nhà nước đã
phải nhảy vào cuộc bơm thêm hơn 10.000 tỷ đồng vào lưu thông lãi suất mới hạ nhiệt
xuống 8%/năm
Trước tết Âm lịch Ngân hàng Thương mại đã tăng cường cho vay đáng kể, và nhu cầu
tiền đồng trong các Ngân hàng Thương mại chưa có dấu hiệu bớt căng thẳng thì ngày
16/1/2008, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định số
187/2008/QĐ-NHNN ngày 16/01/2008 về việc điều chỉnh dự trữ bắt buộc đối với tổ
chức tín dụng. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu mở rộng diện các loại tiền gửi
phải dự trữ bắt buộc bao gồm các loại tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn so với quy
đinh hiện nay là áp dụng dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn
từ 24 tháng trở xuống.
Điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc 1% đối với các loại tiền gửi so với tỷ lệ quy định

hiện nay. Cụ thể là: đối với tiền VND không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng, tỷ lệ
dự trữ bắt buộc được tăng từ 10% lên 11%, đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở
lên, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được tăng từ 4% lên 5%; đối với tiền gửi bằng ngoại tệ
không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng tăng từ 10% lên 11%, đối với tiền gửi có kỳ
hạn trên 12 tháng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng từ 4% lên 5%.
Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước không điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với
các tổ chức tín dụng hoạt động trên địa bàn nông nghiệp nông thôn.
Phản ứng đầu tiên từ các Ngân hàng Thương mại cho thấy, ngay sau khi nhận được
thông tin về Quyết định điều chỉnh dự trữ bắt buộc, các Ngân hàng Thương mại Nhà

×