Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

1 tiểu luận môn tác phẩm kinh điển,tư TƯỞNG của LÊNIN về VAI TRÒ của lý LUẬN CÁCH MẠNGTRONG tác PHẨM làm gì và vấn đề đặt RA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.39 KB, 20 trang )

TƯ TƯỞNG CỦA LÊNIN VỀ VAI TRÒ CỦA LÝ LUẬN CÁCH
MẠNGTRONG TÁC PHẨM "LÀM GÌ" VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CÔNG
TÁC XÂY DỰNG CHỈNH ĐỐN ĐẢNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
HIỆN NAY.

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX chủ nghĩa tư bản phát triển
tương đối ổn định và hịa bình, phong trào cơng nhân phát triển
về bề rộng và có xu hướng thiên về đấu tranh nghị trường. Lúc
này nhiều chính đảng của giai cấp cơng nhân được thành lập như
ở Đức, Mỹ, Pháp, Anh… Tháng 7/1889 Quốc tế II được thành
lập. Khi Ăngghen còn sống nội bộ Quốc tế II ổn định và kiên
quyết đấu tranh chống xu hướng cải lương, thỏa hiệp, cơ hội…
Năm 1895 Ăngghen mất, bọn cơ hội xét lại trong Quốc tế II ngóc
đầu dậy chống chủ nghĩa Mác, lũng đoạn phong trào công nhân,
mưu toan biến các đảng dân chủ xã hội ở Tây âu thành các đảng
cơ hội, cải lương. Đồng thời làm cho phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế bị phân hóa thành các trào lưu tư tưởng khác
nhau. Trào lưu cơ hội cánh hữu, do Becstanh đứng đầu, cơng khai
địi xét lại chủ nghĩa Mác, thực chất là phủ nhận chủ nghĩa Mác.
Trào lưu cơ hội phái giữa, do Cauxky cầm đầu, là chủ nghĩa cơ
hội dấu mặt, họ khoác áo chủ nghĩa Mác nhưng chống lại chủ
nghĩa Mác. Phái tả, do Lênin đứng đầu, kiên trì bảo vệ và phát
triển chủ nghĩa Mác. Lênin cho rằng cả hai trào lưu cơ hội cánh


hữu và phái giữa đều là bọn cơ hội chủ nghĩa, tay sai của giai cấp
tư sản.
Vào thời kỳ này, chủ nghĩa tư bản ở Nga đang phát triển
mạnh. Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp công
nhân Nga cũng phát triển. Trong 25 năm (1865-1890) riêng số
cơng nhân trong các xí nghiệp đại cơng nghiệp tăng từ 7 vạn lên


gần 1,5 triệu. Sang đầu thế kỷ XX số lượng công nhân tăng lên
gần 3 triệu người. Dưới ách thống trị tàn bạo của chế độ Nga
hồng, cơng nhân và nơng dân Nga khơng được hưởng một chút
quyền tự do chính trị nào cả. Các cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân liên tiếp nổ ra, qui mơ ngày càng to lớn hơn, tính chất
có bước phát triển.
Từ những năm 70 và nhất là từ những năm 80 của thế kỷ
XIX, công nhân Nga bắt đầu thức tỉnh và đấu tranh chống bọn tư
bản, song đều thất bại vì các cuộc đấu tranh đó đều mang tính tự
phát.
Do u cầu khách quan của phong trào cơng nhân Nga, các tổ
chức chính trị đầu tiên của cơng nhân Nga được thành lập, (Năm
1875 "Hội liên hiệp công nhân miền Nam Nga" thành lập ở
Ôđetxa; năm 1878 "Hội liên hiệp công nhân miền Bắc Nga"
thành lập ở Pêtecbua), nhưng đều bị Nga hoàng đàn áp và tan rã.
Mặc dù vậy, phong trào công nhân vẫn không ngừng phát triển.
Chỉ từ 1881-1886 có tới 48 cuộc bãi cơng, số công nhân tham gia


lên tới 8 vạn người. Lúc này, trung tâm cách mạng đã chuyển từ
Anh, Đức sang Nga.
Nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của phong trào cơng nhân,
năm 1883 nhóm mác-xít đầu tiên, gọi là "Giải phóng lao động",
ra đời ở Giơnevơ (Thụy Sĩ). Nhóm này do Plêkhanốp lãnh đạo.
Họ đã cố gắng truyền bá chủ nghĩa Mác vào nước Nga nhưng bị
phái "Dân túy" cản trở. Phái "Dân túy" cho rằng, đưa chủ nghĩa
Mác vào Nga là phá sản nước Nga. Theo quan điểm của phái
"Dân túy", sự nghiệp cách mạng ở nước Nga là do giai cấp nông
dân Nga lãnh đạo và họ phủ nhận vai trò, sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân. Quan điểm như vậy của phái "Dân túy" đã

làm cho quần chúng lạc hướng, sao nhãng cuộc đấu tranh chống
lại giai cấp áp bức bóc lột. Họ làm cho giai cấp cơng nhân Nga
khơng nhận thức được vai trị sứ mệnh lịch sử của mình, đồng
thời kìm hãm việc thành lập một chính đảng độc lập của giai cấp
cơng nhân.
Vì vậy, để truyền bá chủ nghĩa Mác vào nước Nga, nhóm
"Giải phóng lao động" đã tích cực đấu tranh chống phái " Dân
túy" nhưng họ khơng đánh bại hồn tồn được phái "Dân túy" vì
họ mắc sai lầm nghiêm trọng. Họ đã khơng đả động gì đến vai trị
của nơng dân trong cách mạng, mà còn cho rằng, giai cấp tư sản
Nga là một lực lượng có thể ủng hộ cách mạng. Hơn nữa, họ
đang sống lưu vong ở nước ngoài, chưa hề liên hệ gì với phong


trào công nhân, chưa kết hợp chủ nghĩa xã hội khoa học với
phong trào công nhân.
Phong trào công nhân tự phát ngày càng phát triển mạnh ở
Nga, đặt ra yêu cầu phải kết hợp chủ nghĩa xã hội khoa học với
phong trào công nhân. V. I. Lênin là người lần đầu tiên thực hiện
sự kết hợp đó ở Nga. Năm 1895 V. I. Lênin thống nhất các tổ
chức Mác xít ở Pêtécbua thành "Hội liên hiệp giải phóng giai cấp
cơng nhân". Song tổ chức này bị chính quyền Nga hồng khủng
bố. V. I. Lênin và những người lãnh đạo của Hội bị bắt. Ban lãnh
đạo mới được thành lập do Máctốp đứng đầu chủ trương: công
nhân chỉ nên đấu tranh kinh tế, cịn đấu tranh chính trị là cơng
việc của giai cấp tư sản tự do và quyền lãnh đạo cuộc đấu tranh
chính trị nên để cho giai cấp tư sản tự do. Đây là phái " Kinh tế",
là bọn cơ hội, thỏa hiệp, cải lương đầu tiên trong hàng ngũ các tổ
chức Mác xít ở Nga. V. I. Lênin coi luận điệu của phái "Kinh tế"
là phản lại chủ nghĩa Mác; là phủ nhận sự cần thiết thành lập một

chính đảng của giai cấp cơng nhân; là mưu mơ muốn giai cấp
cơng nhân phụ thuộc về chính trị giai cấp tư sản. Người cho rằng,
phái "Kinh tế" là trung tâm của chính sách thỏa hiệp và chủ nghĩa
cơ hội. Do đó, muốn thành lập chính đảng của giai cấp vô sản
phải đánh bại phái "Kinh tế".
Năm 1898, tại Minxcơ, một nhóm Mác xít đã họp và tun
bố thành lập "Đảng công nhân dân chủ-xã hội Nga". Tuy nhiên,


Đại hội không thông qua được cương lĩnh và điều lệ. Ban chấp
hành Trung ương do Đại hội bầu ra đều bị bắt ngay sau khi Đại
hội vừa kết thúc. Do đó, trên thực tế, Đảng vẫn chưa hình thành.
Thực trạng đó đã làm cho các tổ chức Mác xít và phong trào cơng
nhân Nga rơi vào tình trạng dao động về tư tưởng, tan rã về tổ
chức. Tình hình càng trở nên nghiêm trọng khi phái "Kinh tế" lợi
dụng các cơ quan ngôn luận (như báo "Tư tưởng công nhân" và
"Báo sự nghiệp công nhân") để tuyên truyền những quan điểm cơ
hội, xét lại. Vấn đề cấp bách đặt ra là phải thành lập một đảng tập
trung thống nhất trong tồn quốc để chấm dứt tình trạng phân tán,
tan rã đang diễn ra lúc đó.
Theo V. I. Lênin, muốn thành lập một chính đảng cách mạng
tập trung thống nhất, trước hết phải đánh bại các quan điểm tư
tưởng cơ hội của phái "Kinh tế" biểu hiện chủ nghĩa cơ hội
Bécstanh ở Nga.
Nhằm mục đích chống lại và đánh bại khuynh hướng cơ hội
chủ nghĩa đó của phái "Kinh tế", đồng thời cũng để chống chủ
nghĩa cơ hội quốc tế, đặt cơ sở chính trị tư tưởng, tổ chức cho
việc thành lập một chính đảng kiểu mới, V. I. Lênin đã viết tác
phẩm "Làm gì?". Tác phẩm được bắt đầu viết từ tháng 5 năm
1901 và xuất bản vào tháng 02 năm 1902. ( Tác phẩm sử dụng để

viết Thu hoạch được in trong V. I. Lênin , toàn tập, tập 6, Nxb
Tiến bộ, Mátxcơva, 1975, tr. 1-245).


Tác phẩm "Làm gì" có bố cục bao gồm: Lời tựa, 5 chương, kết
luận và phụ lục. Chương I: Chủ nghĩa giáo điều và tự do phê bình;
Chương II:Tính tự phát của quần chúng và tính tự giác của Đảng
dân chủ xã hội. Chương III: Chính trị cơng liên chủ nghĩa và chính
trị dân chủ-xã hội. Chương IV: Lối làm việc của phái "Kinh tế" và
tổ chức của những người cách mạng. Chương V: Kế hoạch xây
dựng một tờ báo chính trị của tồn nước Nga.
Về nội dung, ở Lời tựa, V. I. Lênin chỉ ra: Cuốn sách "Làm gì"
Lênin viết là nhằm phát triển tỉ mỉ những ý đã nói trong bài báo
"Bắt đầu từ đâu" ("Tia lửa" số 4, tháng Năm 1901) và giải thích lý
do vì sao tác phẩm này không kết cấu như ý định ban đầu. Ở
chương I, V. I. Lênin, vạch trần bản chất, nguồn gốc của chủ nghĩa
cơ hội; khẳng định vai trò, tầm quan trọng của lý luận cách mạng.
Trong chương II, V. I. Lênin phê phán chủ nghĩa cơ hội, làm rõ
tính tự phát của quần chúng và tính tự giác của Đảng dân chủ - xã
hội, chỉ rõ mối quan hệ giữa chủ nghĩa xã hội khoa học với phong
trào cơng nhân, chỉ ra vai trị của Đảng là phải giáo dục, giác ngộ,
đưa yếu tố tự giác vào phong trào công nhân. Chương III, V. I.
Lênin tập trung làm rõ bản chất cơ hội, cải lương của phái "Kinh
tế" về quan điểm, nhiệm vụ chính trị; vạch rõ cương lĩnh, sách
lược của Đảng dân chủ – xã hội Nga. Chương IV, V. I. Lênin tập
trung vạch trần bản chất cơ hội, cải lương của phái "Kinh tế" trên
lĩnh vực tổ chức và chỉ rõ giai cấp công nhân Nga cần phải có một


Đảng tập trung thống nhất. Chương V, V. I. Lênin vạch ra kế

hoạch xây dựng một Đảng tập trung thống nhất của toàn nước Nga.
Phần kết luận V. I. Lênin tóm tắt về ba thời kỳ trong lịch sử Đảng
dân chủ – xã hội Nga.
Trong các nội dung trên, quá trình đấu tranh khơng khoan
nhượng chống chủ nghĩa cơ hội, V. I. Lênin đã làm nổi bật vai trò
của lý luận cách mạng.
Trước hết, V. I. Lênin nêu lại những tư tưởng của Mác nói về
vai trị của lý luận: " Mác viết cho các lãnh tụ của đảng như thế này:
"Nếu thực sự cần phải liên hợp thì cứ ký kết những thỏa hiệp nhằm
đạt những mục tiêu thực tiễn của phong trào, nhưng chớ có bn
bán ngun tắc, chớ có nhân nhượng về lý luận. Tư tưởng của Mác
là như thế, thế mà trong chúng ta, cịn có những người đã nhân danh
Mác mà tìm cách làm giảm ý nghĩa của lý luận! "1.
Như vậy, ở đây ta thấy, V. I. Lênin trích dẫn lại lời của Mác
để nhắc nhở những người cộng sản rằng, lý luận là lập trường của
giai cấp , nó gắn liền với giai cấp, nếu có phải nhân nhượng thì
tuyệt đối khơng được nhân nhượng về lý luận và nguyên tắc!
Những kẻ nhân danh Mác mà tìm cách làm giảm ý nghĩa của lý
luận cách mạng đó chính là bọn cơ hội.
Lý luận cách mạng có vị trí, vai trị vơ cùng to lớn, nó là địi hỏi
tất yếu khách quan của phong trào cách mạng. "Cao trào tự phát của
1

V. I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva 1975, tập 6, tr. 30.


quần chúng càng tăng lên và phong trào càng mở rộng thì sự cần
thiết có một ý thức cao trong cơng tác lý luận, chính trị và tổ chức
của đảng dân chủ – xã hội càng phải tăng lên vô cùng nhanh chóng
hơn"1. Bởi vì, phong trào cơng nhân tự bản thân nó bao giờ cũng

mang tính tự phát. Phong trào đấu tranh tự phát đó khơng vượt qua
được giới hạn cao nhất của nó là chủ nghĩa cơng đồn. Cuộc đấu
tranh của cơng đồn ở các nước tư bản chống lại bọn chủ và chính
phủ là một cuộc đấu tranh chỉ cốt là để cải thiện điều kiện bán sức
lao động của công nhân cho bọn tư bản mà thơi. Trong khi đó lợi ích
của giai cấp cơng nhân khơng những là đấu tranh để địi cải thiện đời
sống mà còn là để thủ tiêu chủ nghĩa tư bản. V. I. Lênin đã phân tích
khá sâu sắc vai trị của lý luận và kiên quyết phê phán "khuynh
hướng tư tưởng sùng bái tính tự phát của cơng nhân; phê phán chủ
nghĩa kinh tế". Ơng khẳng định dứt khốt: " Khơng có lý luận cách
mạng thì cũng khơng thể có phong trào cách mạng"2.
V. I. Lênin chỉ rõ: Lý luận cách mạng ở đây là lý luận của
chủ nghĩa Mác. Đây là lý luận mang bản chất cách mạng và khoa
học. Bởi vì, chủ nghĩa Mác là kết quả sự phát triển những tư
tưởng tiên tiến của nhân loại cùng với trí tuệ thiên tài và cơng lao
to lớn của C. Mác và Ph. Ăng Ghen trong điều kiện nghiên cứu
chủ nghĩa tư bản một cách khách quan, toàn diện, hệ thống.
Trong đó triết học Đức đóng vai trị mở đường:
1
2

V. I. Lênin, sđd, tr. 67.
V. I. Lênin, sđd, tr. 30.


"Nếu khơng có triết học Đức mở đường, đặc biệt là nếu
khơng có triết học Hêghen, thì chủ nghĩa xã hội khoa học Đức, chủ
nghĩa xã hội khoa học duy nhất, chưa hề có từ trước tới nay, sẽ
khơng bao giờ được xây dựng nên"1.
V. I. Lênin cũng chỉ rõ vai trị, vị trí của chủ nghĩa xã hội

khơng tưởng:
"Cũng giống như chủ nghĩa xã hội, lý luận Đức sẽ khơng bao
giờ qn rằng nó đã dựa được vào Xanhxi mơng, Phuriê và Ơoen
là ba nhà tư tưởng, mặc dù học thuyết của ba ơng có tính chất ảo
tưởng và không tưởng, đã được liệt vào hàng những nhà tư tưởng
vĩ đại nhất của tất cả các thời đại, và đã dự kiến một cách tài tình
được rất nhiều chân lý mà ngày nay chúng ta đem khoa học ra
chứng minh đều thấy là đúng"2.
Theo V. I. Lênin, học thuyết Mác được xây dựng trên cơ sở
của triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị Anh, chủ nghĩa xã hội
không tưởng Pháp. Học thuyết Mác chỉ ra những quy luật vận
động, phát triển khách quan của tự nhiên, xã hội và tư duy nói
chung, quy luật vận động và phát triển của chủ nghĩa tư bản nói
riêng. Đó là lý luận giúp con người ta không những nhận thức
được một cách đúng đắn về thế giới mà còn trang bị khả năng để
cải tạo thế giới. Chủ nghĩa Mác là học thuyết duy nhất đúng từ
trước tới nay bàn về giải phóng triệt để con người và tồn xã hội.
1
2

V. I. Lênin, sđd, tr 32 – 33.
V. I. Lênin, sđd, tr 33.


Đó là lý luận khơng những chỉ ra mục tiêu mà cịn chỉ ra lực
lượng, phương thức để giải phóng con người, giải phóng xã hội.
Chủ nghĩa Mác là sự khái quát thực tiễn đấu tranh giai cấp của
giai cấp công nhân, thể hiện một cách khoa học mục tiêu, lý
tưởng, lợi ích, lập trường, sứ mệnh lịch sử, chiến lược, sách lược
của giai cấp cơng nhân. Chính vì vậy chủ nghĩa Mác là thế giới

quan, là vũ khí tư tưởng, lý luận sắc bén của giai cấp công nhân,
là ngọn đèn chỉ lối, soi đường để giai cấp công nhân làm cách
mạng vô sản lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản, xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản…Chủ nghĩa
Mác là lý luận cách mạng, là tiền đề không thể thiếu được, làm
cho Đảng cộng sản ra đời, tạo bước chuyển phong trào công nhân
từ tự phát thành tự giác. Chủ nghĩa Mác là lý luận cách mạng, khi
nó thâm nhập vào quần chúng sẽ trở thành lực lượng vật chất to
lớn.
Riêng đối với đảng dân chủ - xã hội Nga lúc bấy giờ nó lại
có một tầm quan trọng hơn nữa. V. I. Lênin đưa ra ba lý do để
làm rõ điều này:
Thứ nhất: Đảng đang trong quá trình hình thành và đang bị
phân tán về tư tưởng, tổ chức. Vì vậy Đảng cần được trang bị lý
luận Mác- lý luận tiên phong làm cơ sơ để thống nhất về chính
trị, tư tưởng, tổ chức, nếu khơng thì sẽ dẫn đến những hậu quả tai
hại cho phong trào cách mạng. V. I. Lênin viết: "thứ nhất, đảng ta


chỉ mới thành hình, đang tạo nên bộ mặt của mình và cịn xa mới
thanh tốn được hết những xu hướng khác của tư tưởng cách
mạng, những xu hướng khác đang có cơ làm cho phong trào đi
chệch con đường đúng đắn. Ngược lại, chính trong thời gian vừa
qua, chúng ta lại thấy trỗi dậy (đúng như Ác-xen-rốt đã nói trước
từ lâu với "Phái kinh tế") những khuynh hướng cách mạng không
dân chủ-xã hội. Trong những điều kiện như thế, một sai lầm thoạt
trơng "khơng quan trọng" có thể đưa đến những hậu quả tai hại
nhất và phải cận thị mới coi những cuộc tranh luận giữa các phe
phái và sự phân định ranh giới chặt chẽ giữa các sắc thái này nọ
có thể quyết định tương lai của đảng dân chủ-xã hội Nga trong rất

nhiều năm"1
Thứ hai, Đảng là một bộ phận của phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế: "Điều đó khơng những chỉ có nghĩa là chúng
ta phải chống chủ nghĩa sô vanh quốc gia. Điều đó cịn có nghĩa
là một phong trào bắt đầu ở một nước trẻ tuổi chỉ có thể đạt được
kết quả, nếu nó vận dụng được kinh nghiệm của các nước khác.
Muốn vận dụng được như vậy thì khơng thể chỉ biết qua kinh
nghiệm ấy, hoặc chỉ giản đơn sao chép lại những nghị quyết mới
nhất, mà cần phải biết phân tích một cách có phê phán kinh
nghiệm ấy và tự mình kiểm tra lại nó. Ai hình dung được phong
trào công nhân hiện đại đã phát triển và lan rộng đến mức nào thì
1,

V. I. Lênin, sđd, tr. 31.


sẽ hiểu được việc thực hiện những nhiệm vụ ấy địi hỏi phải có
một dự trữ về lực lượng lý luận và kinh nghiệm chính trị (và cách
mạng) như thế nào"1.
"Thứ ba, đảng dân chủ-xã hội Nga có những nhiệm vụ dân
tộc mà chưa từng một đảng xã hội chủ nghĩa nào trên thế giới đã
có."2
Đó chính là ba lý do càng khẳng định vị trí vai trị của lý luận
cách mạng đối với Đảng dân chủ - xã hội Nga nói riêng, Đảng
cộng sản nói chung. Trong khi đó Đảng dân chủ xã hội Nga đang
bị chủ nghĩa cơ hội lũng đoạn và xuyên tạc về mặt lý luận. Đảng
phải được trang bị lý luận Mác cách mạng và khoa học để có cơ
sở đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội. Mặt khác, là đội tiên phong,
là lãnh tụ chính trị của giai cấp, đảng phải tiên phong về lý luận
thì đảng mới làm cho giai cấp cơng nhân trở thành giai cấp tiên

phong; và chỉ có được vũ trang bằng lý luận Mác thì đảng mới có
đủ trí tuệ và khả năng thực hiện vị trí vai trị của một lãnh tụ
chính trị. V. I. Lênin chỉ rõ: "Chỉ đảng nào được một lý luận tiền
phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm trịn vai trị chiến sĩ
tiền phong"3.
Trong tác phẩm V. I. Lênin còn chỉ ra rằng, phong trào cơng
nhân có được trang bị lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học thì
mới phát triển lên trình độ tự giác. Nhiệm vụ hàng đầu và quan
1

. V. I. Lênin, sđd, tr. 31.
V. I. Lênin, sđd, tr. 31.
3
V. I. Lênin, sđd, tr. 32.
2


trọng nhất của Đảng cộng sản là gắn phong trào công nhân với lý
luận của chủ nghĩa xã hội khoa học. Khơng làm như vậy thì
phong trào cơng nhân khơng thể giành được thắng lợi và nhất
định rơi vào ảnh hưởng của hệ tư tưởng tư sản.
Chính vì lý luận cách mạng có vị trí, vai trị to lớn như vậy,
V. I. Lênin đòi hỏi Đảng và mọi cán bộ đảng viên phải học tập
nhiều hơn những vấn đề lý luận, đặc biệt: "Riêng đối với những
người lãnh đạo, nhiệm vụ của họ là phải học tập, ngày càng nhiều
hơn, tất cả những vấn đề lý luận; phải tự giải thoát, ngày càng
nhiều hơn, khỏi ảnh hưởng của những câu cổ truyền của thế giới
quan cũ, và không được bao giờ quên rằng chủ nghĩa xã hội, từ
khi đã trở thành một khoa học, đòi phải được coi là một khoa học,
nghĩa là phải được nghiên cứu"1.

Học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác để vận dụng vào thực
tiễn cách mạng nhưng không phải là học tập, vận dụng một cách
giáo điều, xơ cứng. Học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác đòi hỏi
phải nắm vững bản chất cách mạng, khoa học của học thuyết.
Trên cơ sở đó vận dụng một cách sáng tạo để đề ra Cương lĩnh,
Đường lối, xác định những vấn đề xây dựng đảng cho phù hợp
với thực tiễn của từng giai đoạn cách mạng. Phải thường xuyên
nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm, bổ sung, phát
triển làm giàu thêm kho tàng lý luận cách mạng.
1

V. I. Lênin, sđd, tr. 34.


V. I. Lênin cũng đòi hỏi cán bộ, đảng viên không chỉ học tập,
nghiên cứu lý luận cách mạng mà cịn phải tích cực tun truyền,
phổ biến cho quần chúng: "Cần phải có nhiều nhiệt tình hơn nữa
trong việc phổ biến trong quần chúng công nhân cái ý thức ngày
càng sáng rõ đã đạt được bằng cách ấy và phải củng cố ngày càng
mạnh mẽ tổ chức của đảng và tổ chức cơng đồn…"1. V. I. Lênin
cịn chỉ rõ: "Muốn đem lại cho cơng nhân những tri thức chính trị,
những người dân chủ - xã hội phải đi vào tất cả các giai cấp
trong dân cư, họ phải phái các đội ngũ trong đạo quân của họ đi
về tất cả các ngả"2.
Trong tác phẩm V. I. Lênin đã đấu tranh không khoan
nhượng chống lại chủ nghĩa cơ hội, những kẻ khoác áo chủ nghĩa
Mác nhưng phản bội lại chủ nghĩa Mác và làm tay sai cho chủ
nghĩa tư bản. V. I. Lênin chỉ rõ, cuộc đấu tranh trên mặt trận tư
tưởng lý luận là một trong ba hình thức đấu tranh giai cấp. Người
viết: "Ăngghen công nhận rằng cuộc đấu tranh vĩ đại của đảng

dân chủ – xã hội không phải chỉ có hai hình thức (chính trị và
kinh tế) … mà có ba hình thức, và xếp hình thức đấu tranh lý luận
ngang với hai hình thức đấu tranh trên"3. Chính vì vậy Đảng và
cán bộ đảng viên của Đảng phải tích cực tham gia đấu tranh trên

1
2

3

V. I. Lênin, sđd, tr. 34.
V. I. Lênin, sđd, tr. 101.
V. I. Lênin, sđd, tr. 32.


mặt trận lý luận tư tưỏng, coi đó là một bộ phận khăng khít của
cuộc đấu tranh giai cấp. Đồng thời, trong điều kiện xã hội cịn có
đối kháng giai cấp, V. I. Lênin khẳng định phải tăng cường hệ tư
tưởng xã hội chủ nghĩa. Đây là một tất yếu khách quan, vì:
"…vấn đề đặt ra chỉ là như thế này: hệ tư tưởng tư sản hoặc hệ tư
tưởng xã hội chủ nghĩa. Khơng có hệ tư tưởng trung gian (vì nhân
loại khơng tạo ra một hệ tư tưởng "thứ ba" nào cả; vả chăng,
trong một xã hội bị những sự đối kháng giai cấp chia xẻ thì khơng
bao giờ có hệ tư tưởng ở ngồi hoặc ở trên các giai cấp). Vì
vậy,mọi sự coi nhẹ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa đều có nghĩa là
tăng cường hệ tư tưỏng tư sản"1.
Như vậy, qua nghiên cứu tác phẩm "Làm gì", ta có thể thấy
đây là một tác phẩm lớn của V. I. Lênin. Bằng lý luận và phương
pháp bút chiến sắc sảo V. I. Lênin đã đấu tranh đánh bại chủ
nghĩa cơ hội, qua đó đã khẳng định vai trị của lý luận cách mạng

(lý luận Mác). Đó là lý luận của phong trào giải phóng giai cấp
của giai cấp vô sản, là hệ tư tưởng của Đảng cộng sản.
Với tác phẩm "Làm gì" V. I. Lênin đã phát triển những tư
tưởng của C. Mác và Ph. Ăng Ghen và hoàn chỉnh học thuyết về
đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, một học thuyết thống nhất,
chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn. Học thuyết đó là nền tảng lý
luận, là kim chỉ nam hành động cho đảng kiểu mới của giai cấp
1

V. I. Lênin, sđd, tr. 49-50.


công nhân Nga và các Đảng cộng sản các nước trên thế giới,
đồng thời là tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt đảng kiểu mới với
đảng kiểu cũ, Đảng cộng sản chân chính với các đảng cơ hội cải
lương.
Đã hơn một thế kỷ trôi qua từ khi tác phẩm ra đời đến nay,
thế giới đã trải qua biết bao đổi thay và biến động, nhưng những
luận điểm cơ bản của V. I. Lênin trong tác phẩm "Làm gì" vẫn
giữ nguyên giá trị lý luận và mang tính thời sự sâu sắc. Tác phẩm
sẽ mãi cịn là vũ khí lý luận, tư tưởng sắc bén của giai cấp công
nhân, là cơ sở khoa học để thành lập, xây dựng và củng cố các
Đảng Mác – Lênin chân chính.
Đối với Đảng cộng sản Việt nam, vận dụng các nguyên lý
của V. I. Lênin trong tác phẩm "Làm gì" cùng các nguyên lý khác
của học thuyết Mác – Lênin về đảng kiểu mới của giai cấp công
nhân, Đảng ta đã trở thành một đảng Mác – Lênin rất vững
mạnh, một bộ phận kiên cường của phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế.
Việc chủ nghĩa Mác – Lênin được truyền bá vào Việt nam

đã thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
nam phát triển. Ngày 3.2.1930 Đảng cộng sản Việt nam ra đời là
một tất yếu lịch sử, là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác –
Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
nam. Cũng chính ngay từ khi ra đời Đảng ta đã xác lập và kiên


định với hệ tư tưởng Mác – Lênin. Đến Đại hội đại biểu tồn
quốc lần thứ VII Đảng ta chính thức xác định: Cùng với chủ
nghĩa Mác – Lênin Đảng lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của mình. Đây là bước
phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng
ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh, như văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: "là một hệ thống quan điểm
toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát
triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại"1.. Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh là hệ tư tưởng của Đảng cộng sản Việt nam, của giai cấp
cơng nhân Việt nam, chi phối tồn bộ đời sống tinh thần của nhân
dân ta.
Thấm nhuần học thuyết cách mạng và khoa học của chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo
vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của thực tiễn cách mạng, Đảng
cộng sản Việt nam đã giải quyết đúng đắn các vấn đề quan trọng
về đường lối và phương pháp cách mạng, lãnh đạo nhân dân Việt
nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, đưa cách mạng Việt
nam vững bước đi lên.
1


Đảng CSVN, Van kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Tr.83.


Ngày nay, đất nước ta đang ở vào thời kỳ phát triển mới, thời
kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiếp tục thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc trong điều kiện vừa có thời cơ thuận lợi, vừa có những thách
thức, khó khăn, cản trở. Tình hình đó địi hỏi Đảng ta phải khơng
ngừng .đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực và sức
chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị,
tư tưởng và tổ chức, làm cho Đảng thực sự ngang tầm nhiệm vụ
chính trị của thời kỳ mới.
Qua nghiên cứu tác phẩm "Làm gì" của V. I. Lênin chúng ta
nhận thức sâu sắc vai trò dẫn đường của lý luận đối với thực tiễn
cách mạng nói chung, cơng tác xây dựng đảng nói riêng. Để bảo
đảm cho Đảng khơng ngừng nâng cao tính tiên phong và năng lực
lãnh đạo chính trị đối với xã hội thì một trong những vấn đề có ý
nghĩa hết sức quan trọng là phải tiến hành tốt cơng tác tư tưởng,
lý luận trong tình hình mới. Chỉ có tiến hành tốt cơng tác tư
tưởng, lý luận; không chậm trễ, mắc sai phạm trong công tác lý
luận, Đảng mới tránh được nguy cơ sai lầm về đường lối chính
trị, mới giữ vững được vai trị lãnh đạo của Đảng đối với xã hội.
Những quyết sách của Đảng đưa ra mới đúng đắn, giữ vững được
niềm tin của quần chúng đối với Đảng, hành động trong Đảng và
ngoài xã hội mới thống nhất.


Để tiến hành tốt công tác lý luận tư tưởng cần học tập, nghiên
cứu sâu sắc chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nắm

vững bản chất cách mạng và khoa học của nó, khẳng định nó mãi
là ngọn đèn soi sáng sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Trên
cơ sở đó, đi sâu vào mọi mặt của đời sống xã hội, phân tích
những việc đã làm được, những vấn đề cần phải tiếp tục làm sáng
tỏ, tổng kết kinh nghiệm, tiếp tục bổ sung, phát triển lý luận.
Trong điều kiện chúng ta đang thực hiện nền kinh tế thị
trường và chính sách mở cửa, hội nhập, giao lưu quốc tế cần
nghiên cứu để có những quyết sách đúng đắn, phát huy cao độ
mặt tích cực, hạn chế tiêu cực, thực hiện đoàn kết toàn dân, phát
huy nội lực, bảo vệ lợi ích của nhân dân, giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa. Trước những vấn đề bức xúc hiện nay như nạn
tham nhũng, tệ quan liêu…Công tác lý luận cần có sự đầu tư
nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, tìm ra nguyên nhân, đề xuất những
giải pháp đấu tranh có hiệu quả. Đồng thời, trong đièu kiện cuộc
cách mạng khoa học kỹ thuật đang phát triển như vũ bão, cần
nghiên cứu làm rõ những cái mới của thời đại để tận dụng thời
cơ, đưa đát nước phát triển đi lên, loại trừ nguy cơ tụt hậu vể kinh
tế.
Bên cạnh đó, trong bối cảnh tình hình thế giới có những diễn
biến phức tạp, nhất là từ sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và
Đông Âu sụp đổ và cuộc tiến công về tư tưởng của các thế lực


thù địch, cần phải đấu tranh bảo vệ những giá trị vĩnh hằng của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nghiên cứu nhận
rõ sự thích nghi của chủ nghĩa đế quốc, nắm vững âm mưu thủ
đoạn của chúng thì mới đối phó có hiệu quả.
Để tiến hành tốt cơng tác tư tưởng, lý luận trong tình hình
mới cần thực hiện tốt các nghị quyết của Đảng , đặc biệt là nghị
quyêt TW 5 (khóa IX) "Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư

tưởng lý luận trong tình hình mới".
Đối với quân đội, trong điều kiện kỹ thuật và cơng nghệ
chiến tranh có những thay đổi: vũ khí trang bị ngày càng hiện đại,
sử dụng cơng nghệ cao với nhiều cách đánh mới, đặt ra nhiều vấn
đề mới cho công tác lý luận và thực tiễn cần phải được làm sáng
tỏ. Vì vậy phải tăng cường nghiên cứu thì chúng ta mới có thể
hồn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống.



×