Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

FED là gì QUYỀN lực của FED đối với nền KINH tế THẾ GIỚI THẾ nào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (486.78 KB, 9 trang )

FED LÀ GÌ? QUYỀN LỰC CỦA FED ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI
THẾ NÀO
Mục lục


1. FED là gì?



2. Vai trị và nhiệm vụ của FED



o

2.1. Vai trị

o

2.2. Nhiệm vụ

3. Vì sao FED l ại có thể gây tác động tới nền kinh tế tồn cầu? quyền
lực của fed
o



3.1. Những ảnh hưởng từ FED đến tài chính tồn cầu

4. Các công cụ tiền tệ của FED
o



4.1. Mua và bán trái phi ếu chính phủ

o

4.2. Quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc

o

4.3. Điều chỉnh lãi suất chiết khấu

FED là gì? quyền lực của FEB đối với nền kinh tế thế giới như thế nào?
FED là m ột tổ chức tài chính lớn nhất nước Mỹ, có sức ảnh hưởng bậc
nhất về tài chính tiền tệ. Bạn thường nghe về FED tăng lãi su ất, FED
“bơm tiền”, vậy FED là gì? cùng cafehoctap tìm hiểu khái niệm, vai trị,
nhiệm vụ và những ảnh hưởng của tổ chức này lên nền kinh tế toàn thế
giới nhé!


FED là gì? quyền lực của FEB đối với nền kinh tế thế giới như thế nào?
FED là gì?
FED (Federal Reserve System) hay còn g ọi là Cục dự trữ Liên bang Hoa Kỳ,
là Ngân hàng Trung ương Hoa K ỳ. Tổ chức này được thành lập vào ngày
23/12/1913. Cục dự trữ Liên bang đư ợc ký duyệt bởi Tổng thống Woodrow
Wilson nhằm thực hiện chính sách tiền tệ, đảm bảo sự ổn định và an toàn cho
nền kinh tế Mỹ.
FED bao gồm các cơ sở tài chính của chính phủ và tư nhân. Cục dự trữ Liên
bang gồm các thành phần chính sau đây:



Hội đồng Thống đốc gồm 7 thành viên, nhiệm kỳ 14 năm. Những vị trí
này được chỉ định bởi Tổng thống Hoa Kỳ và được Thượng viện thông
qua. Những cá nhân này sẽ đưa ra các quyết định quan trọng về chính
sách tiền tệ của FED.



Ủy Ban Thị Trường Mở Liên Bang (FOMC). H ọ có nhiệm vụ thực hiện
các nghiệp vụ thị trường mở liên bang như mua bán trái phi ếu chính
phủ, giao dịch ngoại hối,…



Ngân hàng của Cục dự trữ Liên bang gồm 12 Ngân hàng D ự trữ Liên
bang khu vực. Những ngân hàng này có trụ sở ở các thành phố lớn. Bao
gồm Boston, New York, Chicago, Richmond, Philadelphia, St. Louis,
Atlanta, Kansas City, Clevel and, Minneapolis, San Francisco và Dallas.



Các ngân hàng thành viên

Vai trò và nhiệm vụ của FED


Một tổ chức tài chính lớn như Cục dự trữ Liên bang có vai trị và nhi ệm vụ
quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế Hoa Kỳ và ảnh hưởng đến toàn thế
giới. Sau khi đã biết FED là gì, chúng ta cùng tìm hi ểu về vai trò và nhiệm
vụ của FED.
Vai trò

Cục dự trữ Liên bang là tổ chức hồn tồn độc lập và khơng phụ thuộc vào
các chính sách của chính phủ Hoa Kỳ. FED là tổ chức duy nhất trên toàn thế
giới được phép phát hành USD (Đơ la M ỹ). Chính vì vậy FED là cơ quan có
vai trị quan trọng trong việc hoạch định và điều chỉnh chính sách tiền tệ của
Hoa Kỳ.
Việc điều chỉnh lãi suất thông qua các phiên h ọp và thay đổi lượng cung tiền
qua các nghiệp vụ thị trường mở của Cục dự trữ Liên bang có tác động rất
lớn đến tình hình tài chính tồn c ầu. FED có vai trị thực hiện những chính
sách trên nhằm đảm bảo sự ổn định và phát triển của nền kinh tế Hoa Kỳ.
Nhiệm vụ
Từ những vai trò to lớn như trên, ta có thể thấy nhiệm vụ mà FED phải thực
hiện là rất phức tạp và quan trọng. Những nhiệm vụ chính mà Cục dự trữ Liên
Bang phải thực hiện trong Đạo luật năm 1977 đư ợc nêu rõ:


Thực thi chính sách ti ền tệ của Chính phủ thông qua giảm tỷ lệ thất
nghiệp, đảm bảo ổn định giá cả hàng hóa và ban hành lãi su ất phù hợp
cho nền kinh tế.



Đảm bảo sự ổn định tình hình kinh t ế, kiểm sốt những rủi ro có khả
năng xảy ra trên tồn th ị trường tài chính Hoa K ỳ.



Giám sát các tổ chức ngân hàng thành viên nh ằm đảm bảo an toàn thanh
khoản cho hệ thống tài chính. Quyền lợi về tín dụng của nhân dân cũng
được chú trọng bảo vệ.




Cung cấp các dịch vụ tài chính cho các t ổ chức nước ngồi, tổ chức
quản lý tài sản trong nước và Chính phủ Mỹ. FED đảm nhận vai trò chi
trả trong vận hành hệ thống tồn quốc gia.

Vì sao FED lại có thể gây tác động tới nền kinh tế toàn cầu? quyền lực
của fed
Khi Cục dự trữ Liên bang nhận thấy CPI (Chỉ số giá tiêu dùng) tăng cao, giá
cả hàng hóa đang ở mức cao; điều này cho thấy tình trạng lạm phát đang trở
nên nghiêm trọng. FED sẽ tiến hành kìm hãm mức tăng giá của hàng hóa
nhằm ổn định nền kinh tế. Tổ chức này thực hiện một số điều chỉnh về lãi
suất (cụ thể là tăng lãi suất), thắt chặt cung ứng tiền thông qua bán trái phi ếu
Kho bạc, tăng mức dự trữ của các ngân hàng thành viên.


Khi FED tăng lãi suất, mọi hoạt động cho vay của doanh nghiệp và cá nhân
đều sẽ gặp khó khăn. Khơng những Hoa Kỳ mà tồn cầu đều chịu ảnh hưởng
từ việc điều chỉnh chính sách tiền tệ của FED.

Những ảnh hưởng từ FED đến tài chính tồn cầu


Cục dự trữ Liên bang tăng lãi su ất sẽ làm tăng gánh nặng nợ công. Đa
phần các quốc gia đều sử dụng USD (Đơ la Mỹ) để thanh tốn quốc tế
(như nợ công), việc tăng lãi suất sẽ làm tỷ giá USD so với đồng nội địa
tăng lên; từ đó, quốc gia có khoản nợ phải chịu nợ nhiều hơn.




Bởi việc tăng lãi suất của Fed đã gây ảnh hưởng tỷ giá các quốc gia
khác. Khi đó lợi suất của đồng USD sẽ hấp dẫn nhà đầu tư hơn; việc
bán các đồng nội tệ để mua USD diễn ra mạnh mẽ sẽ dẫn đến tỷ giá leo
thang. Điều này gây khó khăn cho quá trình nh ập khẩu nguyên vật liệu
của các quốc gia sản xuất hàng hóa.



Fed tăng lãi suất cũng khiến các quốc gia khác “rục rịch” tăng lãi suất
theo. Một phần vì lo sợ đồng tiền quốc nội sẽ mất giá trị so với USD;
đồng thời lo sợ “nhập khẩu” lạm phát.



Khi Cục dự trữ Liên bang tăng lãi su ất kéo theo NHTW của các quốc
gia khác tăng lãi suất; khi đó các NHTM của các quốc gia cũng sẽ tăng
lãi suất cho vay. Việc này ảnh hưởng nghiêm trọng đến doanh nghiệp
và cá nhân có nhu c ầu sử dụng vốn.

Có thể thấy từ việc phải ổn định tình hình lạm phát ở Hoa Kỳ, FED có thể
làm ảnh hưởng đến tồn bộ nền kinh tế. Cụ thể, nhiều doanh nghiệp phải cắt


giảm nhân lực dẫn đến thất nghiệp; chi tiêu trở nên khó khăn và nền kinh tế
lâm vào suy thối.
Các cơng cụ tiền tệ của FED
Chúng ta đã tìm hi ểu tầm quan trọng, sức ảnh hưởng, vai trò và nhi ệm vụ của
tổ chức này ở trên. Vậy Cục dự trữ Liên bang có những cơng cụ gì để thực
hiện những nhiệm vụ “khó khăn” đó? T ổ chức này có gồm 3 cơng cụ tiền
tệ chính:

Mua và bán trái phi ếu chính phủ


Khi Cục dự trữ Liên bang thực hiện việc mua vào trái phiếu chính
phủ từ các NHTM, lượng tiền của các ngân hàng này sẽ được tăng lên;
khi lượng cung tiền dồi dào, lãi suất sẽ giảm và việc cho vay trở nên dễ
dàng. Biện pháp này đư ợc thực hiện nhằm kích thích nền kinh tế phát
triển.



Ngược lại, khi FED bán các trái phiếu chính phủ cho ngân hàng thành
viên, lượng tiền sẽ được rút một phần khỏi nền kinh tế; việc lượng tiền
khan hiếm sẽ làm lãi suất tăng và ngư ời dân sẽ thắt chặt chi tiêu. Biện
pháp này được thực hiện để kìm hãm nền kinh tế lạm phát ở mức cao.

Quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc


Cục dự trữ Liên bang sẽ quy định mức dự trữ an toàn của các ngân hàng
thành viên. Qua đó FED có th ể kiểm soát lượng tiền cung ứng ra thị
trường. Khi FED quy định mức dự trữ cao, đồng nghĩa là FED đang
muốn thắt chặt cung tiền ra nền kinh tế, các ngân hàng thành viên phải
tăng lãi suất để đảm bảo kế hoạch lợi nhuận.



Ngược lại khi FED yêu c ầu mức dự trữ thấp, tổ chức này đang
muốn lượng tiền lưu thông được tăng lên, lúc này lãi suất sẽ giảm để
kích thích nhu c ầu vay.


Điều chỉnh lãi suất chiết khấu


Khi các NHTM có nhu c ầu vay ngắn hạn, họ sẽ thực hiện vay lãi suất
liên ngân hàng hoặc vay từ FED (thường là thấp hơn lãi suất liên ngân
hàng). Khi FED tăng lãi suất chiết khấu thì các ngân hàng thành viên
sẽ “e dè” việc đi vay; bên cạnh đó họ cũng hạn chế cho vay bên ngoài.
Đây là biện pháp áp dụng khi FED muốn thắt chặt cung ứng tiền tệ.



Ngược lại khi Cục dự trữ Liên bang giảm lãi suất chiết khấu, kích
thích nhu cầu vay của ngân hàng thành viên. Các ngân hàng lúc này s ẽ
tích cực cho vay bên ngồi n ền kinh tế hoặc đầu tư; bởi nếu có nhu cầu
vay ngắn hạn, họ có thể vay từ FED. Đây là biện pháp áp dụng khi Cục
dự trữ Liên bang muốn tăng cung ứng tiền ra thị trường.


Mọi quyết định từ FED đều sẽ ảnh hưởng đến “ví tiền” của mỗi chúng ta. Bài
viết trên đã làm rõ FED là gì và những ảnh hưởng đến vĩ mơ của họ. Vì vậy
bạn nên hiểu rõ những điều trên để có kế hoạch đầu tư đúng đắn.
Tồn cầu hóa đem lại nhiều lợi ích cho nhân lo ại song nó cũng làm tr ầm
trọng hơn một số tệ nạn. Một trong những hậu quả đáng tiếc ấy là rửa tiền
trở nên dễ dàng hơn, do đó khuy ến khích những hoạt động phi pháp khác.
Vậy Rửa tiền là gì? Bài vi ết dưới đây phần nào sẽ giúp các bạn giải đáp
thắc mắc.

Rửa tiền là gì?
Rửa tiền là việc biến đổi thu nhập phi pháp thành tài s ản mà các cơ quan

công quyền không thể truy ra nguồn gốc phi pháp ấy. Rửa tiền không phải là
một hiện tượng mới. Theo nhiều sử gia, thương nhân Trung Qu ốc đã biết “rửa
tiền” hơn ba ngàn năm trư ớc để tránh thuế của triều đình. Tuy nhiên, ho ạt
động này đã bùng n ổ với tồn cầu hóa, gây nhiều hậu quả nghiêm trọng về
kinh tế và xã hội, đặc biệt ở các nước đang phát triển hoặc chuyển tiếp.
Ai cần rửa tiền?
Có thể xếp những người rửa tiền (ngoài các tổ chức khủng bố, một hiện tượng
tương đối mới) làm ba nhóm:
- Những người bn lậu (ma túy, vũ khí, lao đ ộng bất hợp pháp…).


- Những người tham nhũng.
- Những người muốn tránh thuế, nói chung là những người muốn giữ kín thu
nhập thật sự (dù là hợp pháp) của mình.
Tiền bẩn có thể từ các doanh nghiệp làm ăn công khai, ch ẳng hạn khi họ
chuyển tiền từ nước này sang nư ớc khác để tránh thuế. Có hai phương pháp
để làm việc này. Một là khai gian giá trị những dịch vụ mà bản chất là hợp
pháp. Hai là khai (như trong hóa đơn) một dịch vụ hồn tồn khơng có (kể cả
việc lập công ty ma). Trong các ngu ồn tiền cần rửa thì có lẽ nguồn kinh
doanh là phản ánh tính tồn cầu hóa nhiều nhất, mà một trong những biểu
hiện là việc khai man giá chuyển giao (transfer price) để tránh thuế của các
công ty xuyên quốc gia.
Tất nhiên, ba nhóm trên khơng hồn tồn bi ệt lập: tham nhũng, rửa tiền, và
kinh doanh bất chính có nhiều chỗ giống nhau, cấu kết với nhau, và tiếp sức
cho nhau. Ví dụ, tham nhũng thì cần có người để rửa tiền hối lộ, người rửa
tiền này có thể là tội phạm chuyên nghiệp, hoặc công ty ma. Ngư ợc lại, tội
phạm và doanh nghiệp cũng thường đút lót các quan chức tham ô để làm ngơ
dịch vụ rửa tiền.
Công nghiệp rửa tiền
Dù khơng ít tội phạm đích thân rửa tiền bẩn của mình, một ngành “cơng

nghiệp” rửa tiền đã xuất hiện để phục vụ những cá thể có tiền bẩn. Đội ngũ
của ngành này, chủ chốt là những người rửa tiền chuyên nghiệp, ngày càng
được tăng cường với nhiều luật sư cao giá, ngư ời giao dịch chứng khoán, mua
bán bất động sản, cố vấn thuế vụ, kế toán...
Thật vậy, có lẽ biến tướng nổi bật nhất của bộ máy rửa tiền là càng ngày nó
càng xâm nhập sâu vào nhiều lĩnh vực kinh doanh, ngành ngh ề tương đối có
uy tín trong xã hội (như các ngân hàng lớn, hiệp hội thể thao, cơ sở văn hóa,
thậm chí các cơ quan từ thiện). Qua đó, cách thức và phương tiện rửa tiền
ngày càng tinh vi, đa dạng, quy mô hơn.
Nhìn chung, hình thức rửa tiền cũng đang trải qua nhiều thay đổi: ít dựa vào
tiền mặt, vào hệ thống ngân hàng… mà sử dụng nhiều hơn các công c ụ và thị
trường tài chính khác (như ch ứng khốn) hoặc hình thức “hàng đổi hàng” (ví
dụ: ma túy đổi lấy vũ khí).
Từ thập kỷ 1990, cơng nghiệp rửa tiền lại được thêm nhiều “cú hích” do các
thay đổi về thể chế và chính sách tài chính cũng như nh ững tiến bộ về công
nghệ.


Thứ nhất, hầu hết mọi quốc gia đều nới lỏng kiểm soát ngoại hối, nhất là từ
đầu thập kỷ 1990. Ở nhiều nước, việc đổi nội tệ ra ngoại tệ, và ngược lại, là
hồn tồn tự do. Lượng tiền hốn đổi hàng ngày đã tăng từ 590 tỷ USD năm
1989 lên 1.880 tỷ năm 2004. Đi xa hơn, nhi ều quốc gia đã chính thức sử dụng
chung một thứ tiền (trường hợp đồng euro), hoặc công nhận USD hay euro
như là nội tệ bán chính thức của họ. Một số cơng cụ tài chính mới (như các
loại hợp đồng chứng khốn), đơi khi rất phức tạp, đã xuất hiện. Nhờ thế, một
lượng tiền (sạch hay bẩn) khổng lồ có thể được chuyển từ nước này sang
nước khác trong nháy mắt, ngồi tầm kiểm sốt của cơ quan cơng lực.
Thứ hai, tiến độ mở cửa kinh tế ở hầu hết các nước đã tăng vọt, nhất là từ 1015 năm gần đây. Các thị trường tài chính (đ ặc biệt là vốn) trở nên thơng
thống hơn. Số lượng tiền lưu hành toàn cầu đã tăng gấp ba (từ 6.800 tỷ USD
năm 1990 lên đến 19.900 tỷ USD năm 2005), mức độ phức tạp cũng tăng lên.

Hiển nhiên, càng nhiều loại hình dịch vụ tài chính thì càng lắm cơ hội và
cách thức để chuyển tiền phi pháp, hoặc đưa tiền bẩn vào luồng tiền sạch.
Thứ ba, cạnh tranh thu hút v ốn ngày càng kịch liệt giữa các nước, các công ty
phát hành chứng khoán, các ngân hàng và các lo ại định chế tài chính trung
gian khác. Đây cũng là sự kiện làm những người rửa tiền thích thú vì h ọ biết
rằng sớm muộn gì cũng có ngân hàng, hay các cơng ty ch ứng khốn, sẵn sàng
nhận tiền của họ mà không cần biết nguồn gốc tiền ấy.
Thứ tư, là tác động của cuộc cách mạng thông tin. Ở rất nhiều nước, ngân
hàng là lĩnh vực đưa tiến bộ công nghệ thông tin vào ứng dụng sớm và nhanh
nhất. Những thành quả của cuộc cách mạng thông tin đã được những người
rửa tiền lợi dụng triệt để, trong khi đó, ở lĩnh vực này, các cơ quan cơng l ực
tỏ ra chậm chạp hơn nhiều, nhất là khi họ cần phối hợp giữa nhiều địa
phương hay xuyên qu ốc gia.
Cuối cùng, phải kể đến những lối rửa tiền mới, sử dụng internet. Những trang
web “đen” như trang sex, c ờ bạc, cá cược... thường được dùng để rửa tiền vì
các cơ quan cơng l ực khó có thể truy ra tiền ấy từ đâu đến và vào tay ai.

Hậu quả và chính sách
Cũng có người cho rằng, một số quốc gia, nhất là ở phương Tây, đã có l ợi
nhờ tiền bẩn.
Khách quan nhìn từ quan điểm phân bố nguồn lực (tạm gác qua một bên
những phán đoán đ ạo lý và pháp luật), một số nhà kinh tế cực đoan (tôn sùng


thị trường) cho rằng khơng có tiền nào là bẩn, tiền nào là sạch. Theo họ, “rửa
tiền” chỉ là phản ứng “hợp lý” của mọi “cá thể kinh tế”: không ai muốn trả
thuế và ai cũng muốn vận dụng tài sản của mình vào những hoạt động đem lại
nhiều lợi nhuận nhất. Như vậy, tiền bẩn, theo họ, đã giúp phát triển kinh tế.
Song, ngay trên cơ sở thuần lý thuyết, ý kiến này là hoàn toàn sai lầm. Tự
bản chất của nó, sự phân bố tài nguyên do rửa tiền khơng chỉ theo tín hiệu lợi

nhuận, mà phần lớn là để trốn tránh luật pháp. Hoạt động rửa tiền vừa lãng
phí nguồn lực kinh tế của xã hội (vào các hoạt động tội phạm sinh ra tiền
bẩn, thay vì vào các hoạt động sản xuất thật sự hữu ích), vừa bóp méo sự
phân bố các nguồn lực ấy.
Ngồi những ảnh hưởng về phân bố tài nguyên, luồng tiền bẩn cũng sẽ làm
sai lệch các thống kê kinh tế. Ngoài ra, ảnh hưởng của mỗi loại tiền bẩn có
khác nhau (chẳng hạn tiền bẩn do tham nhũng có ảnh huởng khác tiền bẩn do
bn lậu). Thiếu những con số chính xác, tất nhiên là chính sách kinh t ế
(nhất là về tiền tệ, như việc điều chỉnh lãi suất) sẽ không thể đúng liều lượng
và hữu hiệu được.
Tiền bẩn và hoạt động rửa tiền cũng ảnh hưởng sâu sắc đến phân bố thu nhập
(tạo bất công) và làm chao đảo sự tín nhiệm của xã hội vào các thị trường tài
chính. Nhìn từ quan điểm tăng trưởng vĩ mơ, có th ể đây là tai hại nguy hiểm
nhất.
Làm sao để chống rửa tiền? Rõ ràng là cần sự quyết tâm của mọi quốc gia và
sự phối hợp toàn cầu. Một khó khăn căn b ản hiện nay là mỗi nước đánh giá
tính quan trọng của mỗi loại tiền bẩn một khác. Ở các nước chậm tiến thì nạn
tham nhũng rửa tiền là vấn đề nhức nhối nhất. Trái lại, các nước phương tây
thì xem việc rửa tiền bẩn liên hệ đến khủng bố là quan trọng nhất và không
hề “chê” tiền bẩn do tham nhũng ở các nước khác.



×