Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

TƯ TƯỞNG của c mác và PH ĂNGGHEN về TÍNH tất yếu KHÁCH QUAN PHẢI THÀNH lập ĐẢNG CỘNG sản TRONG “TUYÊN NGÔN của ĐẢNG CỘNG sản”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.61 KB, 23 trang )

TƯ TƯỞNG CỦA C. MÁC VÀ PH. ĂNGGHEN VỀ TÍNH TẤT YẾU
KHÁCH QUAN PHẢI THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN TRONG “TUYÊN
NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN”,Ý NGHĨA TRONG XÂY DỰNG ĐẢNG.
Trên một thế kỷ rưỡi đã trôi qua kể từ khi tác phẩm: “Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản” của C. Mác và Ph. Ăngghen ra đời. Trong khoảng thời gian
đó, nhiều biến cố lịch sử đã diễn ra trên thế giới. Nhưng lịch sử và thời gian
không làm giảm ý nghĩa của nó, trái lại càng khẳng định giá trị bền vững của
tác phẩm. Khi đánh giá về tác phẩm: “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” V. I.
Lênin viết: “Cuốn sách nhỏ ấy có giá trị bằng hàng bộ sách, tinh thần của nó
đến bây giờ vẫn cịn cổ vũ và thúc đẩy tồn thể giai cấp vơ sản có tổ chức và
đang chiến đấu của thế giới văn minh”1.
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” do C.Mác và Ph.Ăngghen soạn
thảo, được xuất bản và cơng bố trước tồn thế giới ngày 24 tháng 2 năm 1848
tại Luân Đôn. Thực tiễn lịch sử chứng minh: “Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản” ra đời đã thực sự trở thành cương lĩnh chính trị và kim chỉ nam cho hành
động của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, là ngọn cờ dẫn dắt giai
cấp vơ sản và nhân dân lao động tồn thế giới đấu tranh chống chủ nghĩa tư
bản, giải phóng lồi người thốt khỏi mọi áp bức bóc lột, xây dựng một xã hội
mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Việc hồn thành và cơng
bố tác phẩm không phải là một sự kiện ngẫu nhiên mà được xuất phát từ
những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội đã chín muồi, kết tinh của tinh hoa
trí tuệ nhân loại và cơng sức lao động sáng tạo, bền bỉ của C. Mác và Ph.
Ăngghen.
Cuối thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII, lồi người đã có bước tiến dài
trong đời sống kinh tế xã hội, các công trường thủ cơng có tính chất chun
1

V. I. Lênin, Tồn tập, tập 2, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1974, tr.10.


2



mơn hố cao được hình thành và thay thế cho kiểu sản xuất phường hội trước
đó. Những phần tử đầu tiên của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản được hình
thành, phát triển từ đấy. Chủ nghĩa tư bản dần dần hình thành phát triển ở
phần lớn Châu Âu, Bắc Âu thay thế cho chế độ phong kiến. Cuối thế kỷ
XVIII là thời kỳ bão táp của cách mạng tư sản. Trên lĩnh vực kinh tế, nó là sự
ra đời của cách mạng ở các nước như Anh, Pháp, Đức.
Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, loài người đã đạt được những
thành tựu to lớn về văn hoá, khoa học, tư tưởng với những phát minh vạch
thời đại như Thuyết tương đối của Anhxtanh, Thuyết tiến hoá của Đácuyn.
Cũng ở thời gian này cách mạng tư sản diễn ra ở khắp nơi trên thế giới.
Về tình hình kinh tế, xã hội ở Châu Âu:
Những năm giữa thế kỷ XIX phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
đã phát triển mạnh mẽ, cùng với sự phát triển của nền đại cơng nghiệp, giai
cấp cơng nhân có sự gia tăng nhanh chóng cả về số lượng, chất lượng, trong
đó có cả sự chuyển đổi về cơ cấu. Tỷ trọng giai cấp công nhân công nghiệp
tăng đáng kể, đây là bộ phận hạt nhân của giai cấp công nhân.
Với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản do lực lượng sản xuất có tính
chất xã hội hố ngày càng cao mâu thuẫn với quan hệ sản xuất dựa trên chế
độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, giai cấp vô sản hiện đại ra đời và sớm
bước lên vũ đài chính trị đấu tranh chống lại giai cấp tư sản. Chính vì thế,
mâu thuẫn giữa giai cấp vơ sản và giai cấp tư sản ngày càng trở nên gay gắt.
Những cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản trong những năm 30, đầu những
năm 40 của thế kỷ XIX đã cho thấy vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp vô
sản, tiêu biểu là cuộc đấu tranh của công nhân dệt ở thành phố Ly-ông (Pháp)
năm 1837; cuộc nổi dậy của công nhân dệt vùng Xilêdi (Đức) năm 1844;
phong trào Hiến chương ở Anh kéo dài 10 năm (1838-1848),…Tuy các cuộc
đấu tranh đó đều thất bại, nhưng ý thức chính trị của giai cấp vơ sản đã được



3

xác định, đó là ý thức đấu tranh giành chính quyền, ý thức xoá bỏ chế độ tư
hữu.
Những trào lưu tư tưởng ảnh hưởng tới phong trào đấu tranh của giai
cấp công nhân vào những năm giữa thế kỷ XIX.
Vào những năm này, các trào lưu tư tưởng hình thành đa dạng, phong
phú và phức tạp. Song, trào lưu tư tưởng có ảnh hưởng nhiều nhất tới phong
trào vơ sản là chủ nghĩa xã hội không tưởng của Xanh Xi Mơng, Xác-LơPuriê, Rơ Be Ơoen. Điểm tiến bộ trong tư tưởng của các ông là mong muốn
xây dựng một chế độ cơng bằng, bác ái, mọi người đều có quyền bình đẳng.
Nhưng những tư tưởng này lại có những hạn chế rất cơ bản là khơng giải
thích được bản chất chế độ tư bản chủ nghĩa; chưa vạch ra được quy luật vận
động phát triển của xã hội; chưa nhận thấy được vai trò, sứ mệnh lịch sử của
giai cấp vơ sản.Tư tưởng đó cho rằng con đường đi tới chế độ cơng bằng, bình
đẳng, bác ái khơng phải là cách mạng xã hội mà là con đường giáo dục, nêu
gương; chủ trương cải tạo xã hội bằng pháp luật, bằng thực nghiệm…Những
hạn chế này không những không đáp ứng được yêu cầu cuộc đấu tranh của
giai cấp vô sản mà cịn kìm hãm sự thống nhất về tư tưởng trong phong trào
cơng nhân. Trong khi đó, giai cấp cơng nhân, phong trào công nhân đã phát
triển mạnh mẽ, chủ nghĩa xã hội không tưởng không thể đáp ứng được sự phát
triển này, địi hỏi phải có một lý luận tiên tiến dẫn đường.
Cùng thời điểm, ở Châu Âu xuất hiện nhiều tổ chức của giai cấp vô
sản, song chưa có tổ chức nào thể hiện rõ tính chất của một tổ chức chính trị.
Một trong những tổ chức được C. Mác quan tâm nhiều hơn là “Liên đoàn
những người chính nghĩa” (thành lập 1836) do Jiơ Dép Mơn lãnh đạo. Đây là
một tổ chức mang tính quốc tế, bao gồm những phần tử tiên tiến của giai cấp
vô sản ở nhiều nước tham gia. “Liên đồn những người chính nghĩa” chịu
nhiều ảnh hưởng của tư tưởng chủ nghĩa xã hội không tưởng. Tổ chức này khi



4

thành lập có mời C. Mác và Ph. Ăngghen tham gia nhưng hai ông đều từ chối.
Mặc dù không tham gia nhưng hai ông vẫn thường xuyên trao đổi thư từ để
từng bước giác ngộ tư tưởng chính trị của ban lãnh đạo Liên đoàn.
Mùa xuân năm 1847 ban lãnh đạo “Liên đồn những người chính
nghĩa” đã đồng ý những điều kiện do C. Mác và Ph. Ăngghen đưa ra và Mác,
Ăngghen đã chính thức tham gia tổ chức này. Mùa hè năm 1847, tại Đại hội
của “Liên đồn chính nghĩa” C. Mác và Ph. Ăngghen trình bày rõ những
quan điểm chính trị của mình, Đại hội thảo luận và thừa nhận những quan
điểm đó. Đại hội đổi tên “Liên đồn những người chính nghĩa” thành “Liên
đồn những người Cộng sản”, đổi khẩu hiệu, chương trình hành động “Tất
cả mọi người đều là anh em” thành khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước, đoàn
kết lại”. Đại hội thống nhất coi đây là Đại hội lần thứ nhất của “Liên đồn
những người Cộng sản” và tun bố mục đích “Lật đổ chế độ tư bản chủ
nghĩa, xây dựng xã hội mới - xã hội khơng cịn giai cấp”. Đại hội giao cho
C. Mác và Ph. Ăngghen soạn thảo Cương lĩnh và Điều lệ của Liên đoàn.
Tại Đại hội thứ nhất của Liên đoàn đã đề ra phải soạn thảo cương lĩnh
của những người cộng sản. Tháng 9 năm 1947 Ban chấp hành Trung ương của
Liên đoàn đã phát bản dự thảo có tên “Cẩm nang của những người Cộng sản”
cho các khu bộ, chi bộ của Liên đoàn. Văn kiện mang đậm dấu ấn của chủ
nghĩa xã hội không tưởng nên Mác, Ăngghen đã phản đối kịch liệt.
Nhày 22 tháng 10 năm 1947 tại phiên họp của Ban chấp hành của Liên
đoàn ở Pari, Mác và Ăngghen phê phán bản dự thảo “Cẩm nang” và Ban chấp
hành Liên đoàn đã đồng ý với hai ông là bác bỏ văn kiện này; Ban chấp hành
Liên đoàn đã giao cho Ăngghen soạn một dự thảo mới. Vì thế, cuốn: “ Những
nguyên lý của chủ nghĩa Cộng sản” được Ăngghen viết ngay sau đó. Đây chính
là bản sơ thảo cương lĩnh viết dưới dạng hỏi đáp, gồm 25 câu. Đến 29 tháng 11
năm 1847 tại Đại hội lần thứ 2 của “Liên đoàn những người Cộng sản” Mác và



5

Ăngghen đã bảo vệ cơ sở khoa học này trước Đại hội, Đại hội đã thảo luận và
uỷ quyền cho Mác, Ăngghen hoàn chỉnh cương lĩnh của Liên đoàn. Mác,
Ăngghen đã đổi tên: “Những nguyên lý của chủ nghĩa Cộng sản” thành:
“Tuyên ngôn của đảng Cộng sản”.
Trong một thời gian ngắn, từ tháng 12/1847 đến tháng 1/1848 C.Mác
và Ph.Ăngghen đã tập trung sức lực, trí tuệ hồn thành: “Tun ngơn của
Đảng Cộng sản” và gửi bản thảo sang Luân Đôn. “Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản” được xuất bản và công bố lần đầu tiên ở Luân Đôn vào ngày 24
tháng 2 năm 1848. Tháng 4 và tháng 5 năm đó “Tun ngơn” được in lại một
lần nữa, sau đó được xuất bản bằng nhiều thứ tiếng ở nhiều nước khác nhau.
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đánh dấu sự ra đời của một học
thuyết cách mạng - Học thuyết Mác, một thế giới quan khoa học của chủ nghĩa
Cộng sản.
Lần đầu tiên trong lịch sử, loài người thực hiện được cuộc cách mạng tư
tưởng với đỉnh cao của trí tuệ. Những quy luật vận động của tự nhiên, xã hội và
tư duy của con người được khám phá và hệ thống hố. Tồn bộ thành tựu trí tuệ
của lồi người được tổng kết và khái quát. Sự ra đời của: “Tun ngơn của Đảng
Cộng sản” đã đáp ứng những địi hỏi cấp thiết về tư tưởng, lý luận và thực tiễn của
phong trào công nhân.
Trong: “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, chủ nghĩa Mác được hình
thành cơ bản với tất cả các bộ phận cấu thành của nó gồm: triết học, kinh tế
chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học. Đặc biệt, trong tác phẩm C.
Mác và Ph. Ăngghen đã sử dụng tài tình phép biện chứng duy vật để luận
giải mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng để xem xét một xã hội cụ thể, đó chính là
xã hội tư bản. Đó là sự luận giải sự hình thành, phát triển và tất yếu diệt
vong của giai cấp tư sản, đồng thời làm rõ sứ mệnh lịch sử thế giới của giai



6

cấp vô sản, khẳng định giai cấp vô sản chỉ có thể giải phóng mình khi đồng
thời phải giải phóng tồn xã hội và chỉ rõ: giai cấp vơ sản khơng thể hồn
thành sứ mệnh lịch sử nếu khơng thành lập được chính đảng của giai cấp.
Đảng Cộng sản ra đời là vấn đề tất yếu khách quan, xuất phát từ vấn đề giai
cấp và đấu tranh giai cấp, từ yêu cầu thực hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của
giai cấp vô sản. Đảng là người đưa yếu tố tự giác vào phong trào công
nhân, là người lãnh đạo và tổ chức phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản
đến thắng lợi.
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” được trình bày gồm phần mở đầu
và 4 chương. Các lần tái bản, C. Mác và Ph. Ăngghen đều viết những lời tựa
và bổ sung thêm một số vấn đề mà trước đó bản “Tun ngơn” chưa đề cập
tới. Phần mở đầu C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ rõ tính cách mạng và niềm tin
tất thắng của những người cộng sản trong sự nghiệp đấu tranh của mình.
Chương 1- Tư sản và vô sản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã phân tích sâu sắc q
trình phát sinh, hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản, từ đó các ơng
chỉ ra: chính sự vận động nội tại, khách quan của xã hội tư bản sẽ dẫn đến sự
sụp đổ tất yếu của giai cấp tư sản và sự thắng lợi tất yếu của giai cấp vô sản;
giai cấp vô sản có sứ mệnh lịch sử thủ tiêu chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã
hội cộng sản chủ nghĩa. Chương 2- Những người vô sản và những người cộng
sản, C. Mác và Ph. Ăng ghen giải thích mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản và
giai cấp vơ sản, tính tiên phong của Đảng, mục đích, nhiệm vụ và chiến lược,
sách lược của đảng, phê phán sự vu khống của giai cấp tư sản đối với người
cộng sản trên một số vấn đề. Chương 3- Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng
sản chủ nghĩa, chương này các ông xác định thái độ cụ thể đối với từng trào
lưu tư tưởng xã hội phi vô sản. Cụ thể, các ông phê phán trào lưu chủ nghĩa
xã hội phản động phong kiến, phân tích sâu sắc chủ nghĩa xã hội bảo thủ tiểu

tư sản, đánh giá thích đáng chủ nghĩa xã hội không tưởng. Chương 4- Thái độ


7

của những người cộng sản với những đảng đối lập, chương này các ơng trình
bày lập trường kiên định của Đảng Cộng sản về những vấn đề chiến lược,
sách lược.
Sau khi nghiên cứu tác phẩm, tôi xin tập trung làm rõ : “ Tư tưởng
của C.Mác và Ph.Ăngghen về tính tất yếu khách quan phải thành lập Đảng
Cộng sản trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, ý nghĩa trong xây dựng
Đảng”.
Bằng phương pháp tư duy biện chứng, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
chứng minh một cách khoa học về sự phát triển của xã hội lồi người. Theo
hai ơng, lịch sử phát triển của xã hội loài người từ khi chế độ cộng sản nguyên
thuỷ tan rã cho tới nay là lịch sử đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa các giai
cấp bị áp bức bóc lột với giai cấp bóc lột: “ Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ
trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp.
Người tự do và người nơ lệ, q tộc và bình dân, chúa đất và nơng nơ,
thợ cả phường hội và thợ bạn, nói tóm lại, những kẻ áp bức và những người bị
áp bức, luôn luôn đối kháng với nhau, đã tiến hành một cuộc đấu tranh không
ngừng, lúc công khai, lúc ngấm ngầm, một cuộc đấu tranh bao giờ cũng kết
thúc hoặc bằng một cuộc cải tạo cách mạng toàn bộ xã hội, hoặc bằng sự diệt
vong của hai giai cấp đấu tranh với nhau” 2. Mác và Ăngghen cho rằng xã hội
tư sản hiện đại, sinh ra từ trong lòng xã hội phong kiến đã bị diệt vong, khơng
xố bỏ được những đối kháng giai cấp. Nó chỉ đem lại những giai cấp mới,
những điều kiện áp bức mới, những hình thức đấu tranh mới thay thế cho
những giai cấp, những điều kiện áp bức, những hình thức đấu tranh cũ mà
thơi.
Đến xã hội tư bản hiện đại cũng phân chia thành hai giai cấp lớn thù

địch với nhau, đó là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Nội dung cơ bản của sự
2

C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tâp 4, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 596, 597.


8

vận động của lịch sử xã hội hiện đại là cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và
giai cấp tư sản. Cuộc đấu tranh đó đưa tới sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa
tư bản và thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản: “ Tuy nhiên, đặc điểm của thời
đại chúng ta, thời đại của giai cấp tư sản, là đã đơn giản hoá những đối kháng
giai cấp. Xã hội ngày càng chia thành hai phe lớn thù địch với nhau, hai giai
cấp lớn hoàn toàn đối lập nhau: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản” 3. Đối với
giai cấp tư sản, Mác và Ăngghen cũng đã xác định rõ vị trí lịch sử của giai
cấp này. Nhờ áp dụng những thành quả mới của khoa học kỹ thuật vào sản
xuất, những công trường thủ công được thay thế bằng những xí nghiệp hiện
đại, những chủ cơng trường thủ cơng đã trở thành những chủ xí nghiệp tức là
những nhà tư sản hiện đại. Các ông cho rằng, đại công nghiệp đã tạo ra thị
trường thế giới, thị trường thế giới thúc đẩy cho thương nghiệp, hàng hải,
những phương tiện giao thông tiến bộ phát triển mau chóng lạ thường. Sự
phát triển này lại tác động trở lại đến việc mở rộng công nghiệp; mà công
nghiệp, thương nghiệp, hàng hải, đường sắt càng phát triển thì giai cấp tư sản
càng lớn lên, làm tăng những tư bản của họ lên và đẩy các giai cấp do thời
trung cổ để lại xuống phía sau.
Như vậy, Mác và Ăngghen đã cho chúng ta thấy rằng, bản thân giai
cấp tư sản hiện đại cũng là sản phẩm của một quá trình phát triển lâu dài, của
một loạt những cuộc cách mạng trong phương thức sản xuất và trao đổi. Mỗi
bước phát triển của giai cấp tư sản đều có một bước tiến bộ chính trị tương
ứng, là cơ sở chủ yếu để độc chiếm hẳn được quyền thống trị trong nhà nước

đại nghị hiện đại: “Giai cấp tư sản đã đóng một vai trị hết sức cách mạng
trong lịch sử.
Bất cứ ở chỗ nào mà giai cấp tư sản chiếm được chính quyền thì nó
đạp đổ những quan hệ phong kiến, gia trưởng và điền viên”4.
3
4

C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr .597.
C. Mác và Ph. Ăngghen, Sách đã dẫn, tập4, tr.599.


9

Như vậy, khi mới ra đời, giai cấp tư sản là lực lượng cách mạng có
một vai trị hết sức to lớn trong lịch sử. Đại diện cho sự phát triển của lực
lượng sản xuất đang lên, giai cấp tư sản đã làm cuộc cách mạng lật đổ giai cấp
phong kiến quí tộc, giành địa vị thống trị.
Sau khi nắm được chính quyền nhà nước, giai cấp tư sản liền phá huỷ
những quan hệ sản xuất phong kiến, gia trưởng, thuần phác, thiết lập sự thống
trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Giai cấp tư sản đã tạo điều kiện cho
sự phát triển của khoa học kỹ thuật, xố bỏ tất cả những gì khơng phù hợp
với lợi ích của bản thân giai cấp mình, mở đường cho lực lượng sản xuất phát
triển. Chính vì vậy, chưa đầy một thế kỷ, giai cấp tư sản đã tạo ra được một
lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các
thế hệ trước kia gộp lại. Đó là một tiến bộ của lịch sử.
Để thực hiện mục đích chính trị, quyền thống trị của mình, giai cấp tư
sản vốn đã có bản chất là một giai cấp tư hữu và bóc lột nên vai trò cách mạng
của giai cấp tư sản bị hạn chế ngay từ đầu. Giai cấp tư sản chỉ làm đơn giản
hoá giai cấp và đối kháng giai cấp mà thơi. Nó phân chia xã hội thành hai phe
thù địch với nhau, hai giai cấp hoàn toàn đối lập nhau; giai cấp vô sản và giai

cấp tư sản nảy sinh đấu tranh ngay từ khi chủ nghĩ tư bản ra đời. Sự tiến bộ
của lịch sử không chỉ do công lao riêng của giai cấp tư sản mà trước hết là do
công lao của quần chúng nhân lao động. Đặc biệt, Mác và Ăngghen chỉ rõ:
khi thiết lập quyền thống trị, giai cấp tư sản đã bóc lột giai cấp vô sản và quần
chúng nhân dân lao động hết sức tinh vi và xảo quyệt. Xã hội tư bản chứa
đựng đầy dẫy các tệ nạn xã hội : nạn thất nghiệp, tệ mại dâm … Nó tạo ra một
thứ đạo đức mới có tiền bằng mọi giá, khơng để lại giữa người với người một
mối quan hệ nào khác ngồi lợi ích trần trụi và lối tiền trao cháo múc khơng
tình nghĩa : “Giai cấp tư sản đã xé toang tấm màn tình cảm bao phủ những


10

quan hệ gia đình và làm cho những quan hệ ấy chỉ còn là những quan hệ tiền
nong đơn thuần”5.
Giai cấp tư sản đã biến phẩm giá của con người thành giá trị trao đổi;
nó đã đem tự do bn bán duy nhất thay cho biết bao quyền tự do đã được
ban cho và đã giành được một cách chính đáng: “Tóm lại, giai cấp tư sản đã
đem sự bóc lột công nhiên, vô sỉ, trực tiếp, tàn nhẫn thay cho sự bóc lột được
che đậy bằng những ảo tưởng tơn giáo và chính trị”6.
Giai cấp tư sản càng đầu tư sản xuất bấy nhiêu, mâu thuẫn giai cấp
càng sâu sắc bấy nhiêu. Với bản chất là một giai cấp tư hữu và bóc lột, giai
cấp tư sản khơng những đã rèn vũ khí để giết mình mà nó cịn tạo ra những
người sử dụng vũ khí ấy, đó chính là giai cấp công nhân hiện đại. Mác và
Ăngghen đã chứng minh một cách khoa học về sự diệt vong khơng thể tránh
khỏi của chủ nghĩa tư bản, về tính tất yếu của sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản
sang một hình thái kinh tế xã hội cao hơn đó là chủ nghĩa cộng sản. Hai ơng
chỉ rõ bước q độ đó khơng phải diễn ra tự phát mà phải bằng con đường
cách mạng. Hai ông đã phát hiện ra lực lượng xã hội có khả năng thực hiện
bước q độ đó là giai cấp cơng nhân - giai cấp vơ sản hiện đại, là người có

sứ mệnh lịch sử đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản và xây dựng một xã hội tốt
đẹp hơn - chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Sứ mệnh lịch sử đó
là khách quan do địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp vô sản trong lịch sử quy
định.
Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, giai cấp vô sản là giai cấp tiêu biểu cho
lực lượng sản xuất tiến bộ nhất, là giai cấp được rèn luyện trong nền sản xuất
đại cơng nghiệp, là sản phẩm của chính bản thân nền đại công nghiệp, cho nên
giai cấp vô sản là giai cấp tiên tiến nhất, có tinh thần triệt để cách mạng nhất,
có khả năng hành động cách mạng kiên quyết nhất, có tính tổ chức và kỷ luật
5
6

C. Mác và Ph. Ăngghen, Sách đã dẫn, tập 4, tr. 600.
C. Mác và Ph. Ăngghen,Sách đã dẫn, tập 4, tr. 600.


11

cao nhất, là giai cấp duy nhất đóng vai trị lãnh đạo cách mạng. C. Mác và Ph.
Ăngghen còn chỉ rõ : “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư
sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp
khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, cịn
giai cấp vơ sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”.7
Tuy nhiên, để thực hiện được sứ mệnh lịch sử đó thì điều kiện tiên
quyết là giai cấp vơ sản phải tổ chức ra chính đảng độc lập của mình. Vì chỉ
khi nào giai cấp vơ sản tổ chức được chính đảng chính trị độc lập của mình,
thì khi đó cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản mới chuyển từ đấu tranh tự phát
sang đấu tranh tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo: “ Sự tổ chức như vậy của
những người vô sản thành giai cấp và do đó thành chính đảng, ln ln bị sự
cạnh tranh giữa công nhân với nhau phá vỡ. Nhưng nó cũng ln ln được

tái lập và ln ln mạnh mẽ hơn. Nó lợi dụng những bất hồ trong nội bộ
giai cấp tư sản để buộc giai cấp tư sản phải thừa nhận bằng luật pháp, một số
quyền lợi của giai cấp công nhân. Chẳng hạn như đạo luật ngày lao động 10
giờ ở Anh”8. Mác và Ăngghen còn nhấn mạnh: “ Nói chung, những xung đột
xảy ra trong xã hội cũ đã thúc đảy quá trình phát triển của giai cấp vô sản về
nhiều mặt. Giai cấp tư sản sống trong một trạng thái chiến tranh không ngừng:
trước hết chống lại quý tộc, sau đó, chống lại các bộ phận của chính ngay giai
cấp tư sản mà quyền lợi xung đột với sự tiến bộ của công nghiệp, và cuối
cùng, luôn luôn chống lại giai cấp tư sản của tất cả các nước ngoài. Trong hết
thảy những cuộc đấu tranh ấy, giai cấp tư sản tự thấy mình buộc phải kêu gọi
giai cấp vô sản, yêu cầu họ giúp sức, và do đó, lơi cuốn họ vào phong trào
chính trị. Thành thử, giai cấp tư sản đã cung cấp cho những người vô sản
những tri thức của bản thân nó, nghĩa là những vũ khí chống lại bản thân nó”. 9
7
8
9

C. Mác và Ph. Ăngghen, Sách đã dẫn, tập4, tr.610.
C. Mác và Ph. Ăngghen, Sách đã dẫn, tập 4, tr.609.
C. Mác và Ph. Ăngghen, Sách đã dẫn, tập 4, tr.609.


12

Hoặc: “Trước hết, giai cấp tư sản sinh ra những người đào huyệt chơn chính
nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất
yếu như nhau” 10. Cũng như lời tựa cho lần xuất bản: "Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản" năm 1888, C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ rõ: “Chính do bản thân các
sự biến và do những thành bại trong cuộc đấu tranh chống tư bản- do những
thất bại nhiều hơn là do những thành công - mà công nhân không thể không

cảm thấy rằng tất cả các môn thuốc vạn ứng của họ đều vô dụng, họ không
thể không đi tới chỗ nhận thấy tường tận những điều kiện thực sự của cơng
cuộc giải phóng giai cấp cơng nhân” 11. Điều kiện đó là sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản.
Và như vậy, theo Mác và Ăngghen, trong xã hội có giai cấp, các giai
cấp có lợi ích khác nhau, dẫn đến mâu thuẫn về lợi ích. Đó là nguồn gốc cơ
bản của mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp thoạt đầu
là đấu tranh vì quyền lợi kinh tế. Cuộc đấu tranh đó phát triển đến một trình
độ nhất định thì chuyển hố thành đấu tranh chính trị: “ Tất cả những phong
trào lịch sử, từ trước đến nay, đều là do thiểu số thực hiện, hoặc đều mưu lợi
cho thiểu số. Phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu
lợi ích cho khối đại đa số. Giai cấp vô sản, tầng lớp ở bên dưới nhất của xã
hội hiện đại, khơng thể vùng dậy, vươn mình lên nếu khơng làm nổ tung tồn
bộ cái thượng tầng kiến trúc bao gồm những tầng lớp cấu thành xã hội quan
phương .
Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt
nội dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang
hình thức đấu tranh dân tộc. Đương nhiên là trước hết, giai cấp vô sản mỗi
nước phải thanh tốn xong giai cấp tư sản nước mình đã” 12. Theo hai ông, khi
10
11
12

C. Mác và Ph. Ăngghen, Sách đã dẫn, tập 4, tr. 613.
C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 518,521.
C. Mác và Ph. Ăng ghen:Sách đã dẫn, tập 4, tr.611.


13


cuộc đấu tranh giai cấp phát triển đến một trình độ nào đó thì chính đảng của
giai cấp ra đời. Chính đảng ra đời là một tất yếu lịch sử, là sản phẩm tự nhiên
của cuộc đấu tranh giai cấp đạt đến trình độ địi hỏi phải có sự lãnh đạo thống
nhất mọi hoạt động của giai cấp, nhằm hướng các nỗ lực chung vào mục tiêu
chống lại giai cấp đối lập và nhà nước thống trị của giai cấp đó. Đó chính là
giai cấp và nhà nước tư sản.
Chính đảng của giai cấp công nhân ra đời là một đòi hỏi tất yếu khách
quan của cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản, là
điều kiện tiên quyết để giai cấp vô sản thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình.
Theo Mác và Ăng ghen, vai trị lịch sử tồn thế giới của giai cấp công
nhân được quyết định trước hết là do địa vị của giai cấp đó trong nền sản xuất
xã hội, chứ khơng phải chỉ vì số lượng của giai cấp đó, hoặc chỉ vì nó là giai
cấp bị bóc lột nhiều nhất trong xã hội tư bản. Là giai cấp tiêu biểu cho lực
lượng sản xuất tiến bộ nhất, là giai cấp được rèn luyện trong nền sản xuất
công nghiệp, là sản phẩm của chính bản thân nền đại công nghiệp, là giai cấp
bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất, buộc phải đi làm thuê cho nhà tư sản. Giai
cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất, có tinh thần triệt để cách mạng nhất,
có khả năng hành động cách mạng kiên quyết nhất, có tính tổ chức và kỷ luật
cao nhất, là giai cấp duy nhất đóng vai trị lãnh đạo cách mạng.
Tuy nhiên, theo Mác và Ăngghen, giai cấp công nhân muốn thực hiện
được vai trị lịch sử thế giới thì điều kiện tiên quyết là giai cấp cơng nhân phải
tổ chức ra chính đảng độc lập của mình. Vì, chỉ khi nào giai cấp vơ sản tổ
chức được chính đảng chính trị độc lập của mình, thì khi đó cuộc đấu tranh
của giai cấp công nhân mới chuyển từ đấu tranh tự phát, lẻ tẻ, rời rạc sang đấu
tranh tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo, và cũng chỉ khi đó thì giai cấp vơ sản
mới chuyển từ giai cấp “tự mình” thành giai cấp “vì mình”. Mác và Ăngghen
khẳng định: “Trong cuộc đấu tranh của mình, chống quyền lực liên hợp của


14


các giai cấp có của, giai cấp cơng nhân chỉ khi được tổ chức thành một chính
đảng độc lập với tất cả các chính đảng cũ do các giai cấp có của lập nên thì
mới có thể hành động với tư cách là một giai cấp. Việc tổ chức như vậy giai
cấp cơng nhân thành một chính đảng là cần thiết để đảm bảo thắng lợi của
cách mạng xã hội và thắng lợi của mục đích cuối cùng của nó là : thủ tiêu các
giai cấp”13. Ăngghen còn chỉ rõ: “Để cho giai cấp vô sản đủ vững mạnh để
chiến thắng trong giờ phút quyết định, cần phảI - và điều này Mác và tôi chủ
trương từ năm 1847- thành lập một đảng riêng biệt khác hẳn các đảng khác và
đối lập hẳn với các đảng này, một đảng giai cấp tự giác”14.
Như vậy, theo tư tưởng của Mác và Ăngghen, chính vai trị lịch sử tồn
thế giới và địa vị lãnh đạo của giai cấp cơng nhân, chính việc thực hiện những
mục tiêu cao cả của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh cách mạng xoá
bỏ nền thống trị của giai cấp tư sản đã quyết định tính tất yếu khách quan và
sự cần thiết phải thành lập chính đảng cách mạng của giai cấp vơ sản.
Như vậy, chính đảng của giai cấp vơ sản mà C. Mác và Ph. Ăngghen
đề cập tới phải là một Đảng cách mạng, một Đảng độc lập mang bản chất giai
cấp vô sản rõ rệt, độc lập cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, không bị lệ thuộc
vào giai cấp tư sản, không bị giai cấp tư sản lợi dụng, Đảng gắn bó chặt chẽ với
giai cấp vơ sản và nhân dân lao động. Mặt khác, độc lập nhưng Đảng khơng
phải là hội kín, tách khỏi quần chúng nhân dân lao động nói chung và giai cấp
vơ sản nói riêng; Đảng liên hệ chặt chẽ với quần chúng, không đối lập với các
Đảng và các tổ chức khác của giai cấp vơ sản. Đảng phải tích cực hoạt động để
đưa tư tưởng chủ nghĩa xã hội khoa học vào các tổ chức đó và hướng hoạt động
của các tổ chức đó theo quỹ đạo của cách mạng vơ sản. Những cuộc đấu tranh
đã tạo điều kiện cho giai cấp vô sản đoàn kết thành tổ chức. Sự tổ chức như
vậy thành chính đảng. Sự tồn tại, phát triển của đảng vì sứ mệnh của giai cấp
13
14


C. Mác và Ăngghen, Tồn tập, Tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội, 1983, tr.207.
C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 704.


15

vơ sản. Đảng kết thúc vai trị của mình khi sứ mệnh lịch sử thế giới của giai
cấp vô sản hồn thành.
Trong cuộc đấu tranh, Đảng Cộng sản khơng chỉ tập hợp trong hàng
ngũ của mình giai cấp vơ sản mà cả các tầng lớp trung gian, những nhà tiểu
công nghiệp, tiểu thương, thợ thủ công, nông dân. Song, khi sắp rơi vào hàng
ngũ vô sản, họ đã tự nguyện từ bỏ quan điểm của chính họ để đứng trên quan
điểm của giai cấp vơ sản, bảo vệ lợi ích tương lai của họ. Hơn nữa, khi cuộc
đấu tranh giai cấp tiến gần tới giờ quyết định, giai cấp thống trị bị phân hoá,
một bộ phận nhỏ tách ra khỏi giai cấp này đi theo giai cấp vơ sản. Đó là bộ
phận những nhà tư tưởng tư sản vươn lên nhận thức được về mặt lý luận toàn
bộ cuộc vận động. Thực tiễn đó đã khẳng định rằng các tầng lớp trung gian và
cả giai cấp thống trị cũng có thể từ bỏ lập trường giai cấp của mình để tham
gia vào hàng ngũ của giai cấp vô sản.
Trong thực tiễn lúc đó, C.Mác, Ăngghen đã chứng kiến phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế xuất hiện nhiều tổ chức tự xưng là đảng vô sản
đại biểu cho quyền lợi của giai cấp vô sản nhưng trên thực tế nó khơng phải là
một đảng độc lập, một đảng thực sự cách mạng của giai cấp vơ sản, đủ sức
đóng vai trị lãnh tụ của giai cấp vơ sản như: đảng hiến chương ở Anh ra đời
năm 1832, nó là hình thức của đảng vơ sản nhưng thực chất chỉ là cái đuôi
của giai cấp tư sản chống lại giai cấp vơ sản. Khi những người lãnh đạo của
“Liên đồn những người chính nghĩa” đồng ý để C.Mác và Ph.Ăngghen cải tổ
triệt để tổ chức này thì các ơng đã có nhiều chủ trương và việc làm tích cực
như: Đổi tên của “Liên đồn những người chính nghĩa” thành “Liên đoàn
những người Cộng sản” và tuyên truyền, xây dựng làm cho tổ chức này trở

thành một chính Đảng cách mạng của giai cấp vơ sản. Theo Mác và Ăngghen:
“Mục đích trước mắt của những người cộng sản cũng là mục đích trước mắt
của tất cả các đảng vơ sản khác: tổ chức những người vô sản thành giai cấp,


16

lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vơ sản giành lấy chính
quyền. Những quan điểm lý luận của những người cộng sản tuyệt nhiên
không dựa trên những ý niệm, những nguyên lý do một nhà cải cách thế giới
nào phát minh hay phát hiện ra. Những nguyên lý ấy chỉ là biểu hiện khái
quát những quan hệ thực tại của một cuộc đấu tranh giai cấp hiện có, của một
sự vận động lịch sử đang diễn ra trước mắt chúng ta” 15 . Từ đó, hai Ông cũng
chỉ rõ : “Vậy là về mặt thực tiễn, những người cộng sản là một bộ phận kiên
quyết nhất trong các đảng vô sản ở tất cả các nước, là bộ phận luôn thúc đẩy
phong trào tiến lên, về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản
ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong
trào vô sản” 16.
Như vậy, theo C. Mác và Ph. Ăngghen, Đảng thể hiện tính vơ sản rõ
rệt, Đảng mang bản chất giai cấp vô sản, Đảng phải luôn đứng vững trên lập
trường của giai cấp vô sản để giải quyết mọi vấn đề trong xây dựng và hoạt
động của Đảng. Cương lĩnh chiến lược, sách lược của Đảng phải ln xuất
phát từ lợi ích của giai cấp vơ sản, của nhân dân lao động và phù hợp với thực
tiễn mỗi nước. Mục đích và lợi ích của Đảng Cộng sản và giai cấp vô sản là
thống nhất, Đảng Cộng sản luôn đại biểu trung thành và phấn đấu cho quyền
lợi của tồn thể giai cấp vơ sản. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản cũng là
sứ mệnh lịch sử của Đảng cộng sản. Kẻ thù của giai cấp vô sản là giai cấp tư
sản cũng là kẻ thù của Đảng Cộng sản.
Đảng Cộng sản là đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu, người vạch
ra cương lĩnh, chiến lược, sách lược cho giai cấp, do vậy Đảng Cộng sản phải

được trang bị lý luận tiên phong và phải thực sự tiên phong về mặt lý luận.
Đảng Cộng sản phải lấy những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học làm
nền tảng tư tưởng, có như vậy mới xác định đúng đắn các vấn đề trong lãnh
15
16

C. Mác và Ph. Ăngghen, Sách đã dẫn, tập 4, tr. 615.
C. Mác và Ph. Ăngghen, Sách đã dẫn, tập 4, tr. 615.


17

đạo và xây dựng Đảng. Chỉ khi được lý luận tiên phong dẫn đường và tích
cực đấu tranh bảo vệ tư tưởng khoa học thì Đảng Cộng sản mới làm trịn sứ
mệnh lịch sử của mình. C.Mác và Ph.Ăngghen khơng những là người đầu tiên
nêu lên những tư tưởng về chính đảng cách mạng của giai cấp vơ sản mà cịn
là những người đầu tiên tham gia xây dựng chính đảng cách mạng của giai
cấp vô sản. Đồng thời các ông đã tích cực tuyên truyền tư tưởng của chủ
nghĩa cộng sản khoa học vào phong trào vô sản, coi đó là một trong những
yếu tố có ý nghĩa quyết định để làm cho Đảng Cộng sản thực sự là một chính
đảng cách mạng.
Để tiến tới thành lập chính Đảng cách mạng của giai cấp vô sản,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã tích cực tuyên truyền chủ nghĩa xã hội khoa học
bằng cách viết bài đăng trên các báo, thành lập UỶ ban thông tin cộng sản ở
Bỉ, Anh, Pháp, Đức để thống nhất về tư tưởng, tổ chức của những người xã
hội chủ nghĩa và vô sản tiên tiến của tất cả các nước. Khi được mời tham gia
“Liên đoàn những người chính nghĩa” C.Mác và Ph.Ăngghen đã đấu tranh
đưa chủ nghĩa xã hội khoa học vào tổ chức này thay cho chủ nghĩa cộng sản
khơng tưởng, làm cho “Liên đồn những người Cộng sản” lần đầu tiên trở
thành một chính đảng cách mạng, khoa học.

Cuộc đấu tranh của các chính đảng là sự biểu hiện hoàn chỉnh nhất,
đầy đủ nhất và rõ rệt nhất của cuộc đấu tranh chính trị của giai cấp. Đảng là
một tổ chức chính trị, là sản phẩm lịch sử tự nhiên của cuộc đấu tranh chính
trị của một giai cấp, và chủ yếu, trước hết nó đại biểu quyền lợi của giai cấp
đó. Bất kỳ một chính đảng nào cũng ra đời theo quy luật đó. Khơng có đảng
siêu giai cấp. Đảng bao giờ cũng mang tính chất của một giai cấp.
Vì vậy, để hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp cơng nhân
phải lập ra chính đảng của mình với tư cách là lãnh tụ chính trị, bộ tham mưu


18

chiến đấu, thực sự tiên phong cả về lý luận và thực tiễn, cả về tư tưởng và tổ
chức để lãnh đạo phong trào công nhân.
Hiện nay, nhiều học giả tư sản và bọn cơ hội xét lại hiện đại trong
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đang ra sức phủ nhận vai trò lãnh
đạo của các Đảng Cộng sản. Họ bắt đầu từ sự phủ nhận vai trị lịch sử của giai
cấp cơng nhân và những thành quả cách mạng của nó. Hậu quả của sự sụp đổ
ở Liên Xô và ở một số nước Đông Âu mà Đảng Cộng sản đã giành được
chính quyền trước đây khơng phải vì bản thân chủ nghĩa xã hội khoa học mà
vì các Đảng Cộng sản ở các nước ấy phạm sai lầm chủ quan, duy ý chí, mà
chủ yếu ở sự nhận thức và vận dụng nó một cách sơ cứng, giáo điều; càng
không phải ỏ chỗ giai cấp cơng nhân đã mất vai trị lịch sử thế giới của mình.
Vai trị ấy được quyết định trước hết và chủ yếu bởi vai trị của nó trong nền
sản xuất xã hội và do điều kiện lịch sử quy định một cách khách quan. Giai
cấp công nhân đã và vẫn là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên
tiến. Song, chúng ta cũng cần có một nhận thức mới về giai cấp cơng nhân
hiện đại. Đó là giai cấp cơng nhân có khoa học, kỹ thuật, có trí tuệ, được trí
thức hố.
Qua bao thăng trầm của lịch sử, những biến động trong phong trào cộng

sản và công nhân quốc tế, của cách mạng thế giới, song những quan điểm, tư
tưởng được C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản” vẫn giữ nguyên giá trị.
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” ra đời, đánh dấu sự ra đời của chủ
nghĩa Mác, đồng thời “Tuyên ngôn” cũng là cương lĩnh chính trị của phong trào
cộng sản và cơng nhân quốc tế. Sự ra đời của “Tuyên ngôn” chấm dứt thời kỳ
khủng hoảng về lý luận cách mạng, về đường lối cách mạng, đáp ứng đòi hỏi
của phong trào cơng nhân lúc đó. Khi “Tun ngơn” được cơng bố, tác phẩm đã


19

tác động rất lớn để các Đảng Cộng sản trên phạm vi toàn thế giới ra đời lãnh đạo
cách mạng và phong trào công nhân.
Tác phẩm là cuốn kinh điển chủ yếu của chủ nghĩa xã hội khoa học và
giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Những tư tưởng trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” là những chỉ dẫn hết
sức quan trọng, có ý nghĩa thiết thực trong cơng tác xây dựng và hoạt động của
các Đảng Cộng sản. Nó được Lênin, Hồ Chí Minh và những lãnh tụ cộng sản
trên thế giới khơng những vận dụng trung thành mà cịn bảo vệ, phát triển trở
thành một học thuyết cách mạng, khoa học của giai cấp vô sản thế giới. Trung
thành và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng như những tư tưởng
trong tác phẩm: “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, quá trình lãnh đạo cách
mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi trọng đặc biệt việc xây dựng Đảng để
lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam đến bến bờ thắng lợi. Người ra sức
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào cách mạng, trước hết vào
phong trào công nhân Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đó là sự
kết hợp của chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào
yêu nước. Từ ngày thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng
định Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung

thành lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, giàu mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội, cuối
cùng là chủ nghĩa cộng sản, góp phần vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân
thế giới và của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế. Đảng luôn khẳng
định việc nâng cao bản chất giai cấp cơng nhân, tính tiên phong của Đảng là
tư tưởng xuyên suốt trong công tác xây dựng Đảng; thường xuyên chăm lo
xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, cả về lý luận


20

và thực tiễn, cả về cương lĩnh, đường lối, tổ chức của Đảng và tính tiên
phong, gương mẫu của đội ngũ đảng viên.
Ngày nay, nhân dân ta đang tiếp tục thực hiện sự nghiệp đổi mới đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại
hoá đất nước đang đặt ra những yêu cầu mới, địi hỏi sự nỗ lực cố gắng của
tồn Đảng, tồn dân, đặc biệt là vai trò tiên phong của Đảng. Trong khi xác
định xây dựng kinh tế là trọng tâm, Đảng ta coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ
then chốt. Kiên trì giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, chăm lo xây
dựng Đảng vững mạnh về mọi mặt là một trong những nhân tố quyết định
thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước ta hiện nay.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định:
“Những thành tựu và yếu kém trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc gắn liền với trách nhiệm lãnh đạo của Đảng và những ưu điểm, khuyết
điểm trong công tác xây dựng Đảng” 17. Đánh giá về những thành tựu đã đạt
được qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX về công tác xây
dựng Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X khẳng định: “ Công tác xây
dựng Đảng đạt một số kết quả tích cực. Cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng,
cơng tác tổ chức và cán bộ, xây dựng tổ chức cơ sở đảng gắn với xây dựng hệ

thống chính trị ở cơ sở, phát triển đảng, cơng tác kiểm tra có những chuyển
biến mới. Đa số cán bộ, đảng viên phát huy vai trò tiên phong, năng động sáng
tạo, giữ gìn phẩm chất đạo đức”18. Để đạt được những thành tựu trên là nhờ
đường lối đúng đắn của Đảng; sự quản lý thống nhất theo pháp luật của Nhà
nước, điều hành năng động của chính phủ và nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân ta.

17

ĐCSVN,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội, 2001,
tr.137.
18
18,19 ĐCSVN,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội,2006,
tr.61,65


21

Tuy nhiên, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X cũng chỉ ra những yếu
kém, khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng: “ Công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng chưa đạt u cầu. Tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức
lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí
trong một bộ phận cán bộ, cơng chức diễn ra nghiêm trọng. Nhiều tổ chức cơ
sở đảng thiếu sức chiến đấu và không đủ năng lực giải quyết những vấn đề
phức tạp nảy sinh. Cơng tác tư tưởng cịn thiếu tính thuyết phục. Cơng tác lý
luận chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới.
Cơng tác tổ chức và cán bộ cịn nhiều mặt yếu kém. Chất lượng và hiệu quả
kiểm tra, giám sát chưa cao”19. Những khuyết điểm và yếu kém nói trên do
nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, chủ yếu là nguyên nhân chủ quan:
“Tư duy của Đảng trên một số lĩnh vực chậm đổi mới. Một số vấn đề ở tầm

quan điểm, chủ trương lớn chưa được làm rõ nên chưa đạt được sự thống nhất
cao về nhận thức và thiếu dứt khốt trong hoạch định chính sách chỉ đạo điều
hành”20. Như vậy, trong công tác xây dựng Đảng, Đảng ta đã nhìn nhận, đánh
giá đúng đắn những thành tựu, chỉ rõ những yếu kém, khuyết điểm và tìm ra
nguyên nhân yếu kém để khắc phục sửa chữa, nhằm lãnh đạo cách mạng Việt
Nam thắng lợi.
Vì vậy, phải luôn tuyệt đối kiên định với sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản. Thực tiễn cách mạng Việt Nam và yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng và bảo
vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ thực hiện công nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước càng địi hỏi phải giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo và phát huy
tính tiền phong của Đảng. Đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng chẳng
những là vấn đề cơ bản mà cịn là vấn đề có tính cấp thiết hiện nay. Đảng ta chủ
trương tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn
Đảng theo Nghị quyết TW6 (lần 2) khoá VIII và Nghị quyết TW4 khoá IX, đó
19
20

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tr.65.


22

chính là những giải pháp thiết thực nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng. Nội dung tiến hành cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn
Đảng phải tồn diện cả chính trị, tư tưởng, cả con người và tổ chức, cả phẩm
chất, năng lực và phương pháp lãnh đạo, tác phong cơng tác, trong đó cần tập
trung vào những nội dung then chốt là: Nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh
đạo chính trị, tăng cường cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối
sống và kiến thức mọi mặt cho cán bộ, đảng viên; đổi mới nội dung, phương
thức lãnh đạo của Đảng gắn với đổi mới hệ thống chính trị, trước hết là đối với

Nhà nước; đổi mới công tác quần chúng của Đảng, đẩy mạnh cuộc đấu tranh
chống tham nhũng và các tệ nạn xã hội. Bảo đảm dân chủ, giữ gìn kỷ luật, tăng
cường đồn kết thống nhất trong Đảng, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ,
làm trong sạch đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, tiếp tục đổi mới
công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện, đã trải qua nhiều thử thách, trở thành một Đảng Mác- Lênin kiên
cường, trưởng thành về chính trị, vững vàng trước những biến cố vơ cùng khó
khăn của lịch sử ở trong nước và trên thế giới. Đó là thành cơng của học
thuyết Mác – Lênin về Đảng được vận dụng sáng tạo và việc xây dựng một
chính đảng cách mạng của giai cấp cơng nhân trong một nước có nền kinh tế
chậm phát triển, vốn là xã hội thuộc địa, nửa phong kiến.
Hiện nay trên thế giới, bọn cơ hội, xét lại và giai cấp tư sản đang tìm
mọi cách xuyên tạc nhằm phủ nhận giá trị tư tưởng trong: “Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản” cũng như học thuyết Mác – Lê nin về Đảng, thì việc nghiên
cứu, nắm vững giá trị tư tưởng trong “Tuyên ngôn” và các nguyên lý của học
thuyết Mác - Lênin về Đảng càng có ý nghĩa to lớn, giúp chúng ta những cơ
sở lý luận để quán triệt và vận dụng sáng tạo đường lối, chính sách, xây dựng
Đảng ngày càng vững mạnh, xứng đáng là đội tiên phong cách mạng, người


23

lãnh đạo chính trị duy nhất của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động Việt
Nam.



×