Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

tiểu luận cao học phân tích tính tất yếu khách quan của sự nghiệp đổi mới ở việt nam từ 1986 đến nay (autosaved) (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.08 KB, 14 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: HỆ THỐNG QUAN ĐIỂM ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
Đề tài:
PHÂN TÍCH TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA SỰ NGHIỆP
ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY


Câu hỏi: Phân tích tính tất yếu khách quan của sự nghiệp đổi mới
ở Việt Nam từ 1986 đến nay.
Bài làm
Trước hết, chúng ta cần phải khẳng định rằng, theo quy luật tiến hoá
của lịch sử, mọi chế độ xã hội chỉ có thể tồn tại, phát triển và tự bảo vệ được
mình khi nó thường xun tiến hành những cải cách và đổi mới cần thiết. Bởi
mọi chế độ xã hội sinh ra ngay từ đầu đã không phải trong một thể hình hồn
chỉnh, mà nó phải trải qua quá trình vận động, phát triển lâu dài, phải trải qua
những sự biến đổi lịch sử. Chủ nghĩa tư bản của thế kỷ XVI-XVII hồn tồn
khơng phải là chủ nghĩa tư bản của thế kỷ XX-XXI. Để đạt được trình độ văn
minh, hiện đại như ngày nay, chủ nghĩa tư bản đã phải trải qua nhiều giai
đoạn phát triển khác nhau, phải hứng chịu nhiều cuộc khủng hoảng về kinh tế
- xã hội, phải tiến hành nhiều cuộc cải cách, điều chỉnh về đường lối, chính
sách và chiến lược phát triển. Chủ nghĩa xã hội cũng không phải là trường
hợp ngoại lệ của lơgíc này. Để tồn tại và phát triển, để đứng vững trong một
thế giới đầy biến động và ln thay đổi, tự bản thân nó, chủ nghĩa xã hội cũng
phải cải cách và đổi mới thường xuyên theo tiến trình vận động và phát triển
hiện thực của lịch sử. Chỉ có trên cơ sở tự đổi mới thường xuyên, chủ nghĩa
xã hội hiện thực mới có khả năng tìm ra động lực phát triển của chính nó và
vạch ra con đường phát triển tiếp theo cho mình.
Bản thân chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, như các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác – Lênin quan niệm, “khơng phải là một xã hội hồn chỉnh
ngay một lúc”, “không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải


là một lý tưởng mà hiện thực phải khn theo” mà là “một q trình”, một
“cuộc vận động” lịch sử hiện thực, “chủ nghĩa cộng sản là một phong trào
hiện thức”, “một phong trào hết sức thực tế, theo đuổi những mục đích thực tế
bằng những phương tiện thực tế”. Xã hội xã hội chủ nghĩa “không phải là cái
gì đó nhất thành bất biến, mà cũng như mọi chế độ xã hội khác, nó cần phải
1


được xem xét như một xã hội được thay đổi và cải tạo thường xuyên”. Với tư
cách đó, chủ nghĩa xã hội khơng cam chịu bất kỳ một sự đình trệ nào dù là
tạm thời và ln ln địi hỏi phải cải cách, đổi mới để vận động và phát triển.
Đó là địi hỏi tất yếu, xuất phát từ lơgíc nội tại của tiến trình phát triển lịch sử.
Vì vậy, cải cách và đổi mới đối với chủ nghĩa ch ln ln là một tất yếu, một
địi hỏi bên trong của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhằm khắc phục
và phịng ngừa các nguy cơ khủng hoảng có thẻ xảy ra trong quá trình phát
triển. Đâu cũng là vấn đề mang tính quy luật nhằm làm cho chủ nghĩa xã hội
thốt khỏi sự trì trệ, lỗi thời để trở nên năng động và phát triển hơn.
Với Việt Nam, quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa nửa
phong kiến, với một nền sản xuất thấp kém, chưa qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa, chúng ta phải giải quyết cùng một lúc nhiều yêu cầu: phát triển
sản xuất, cơng nghiệp hố - hiện đại hoá đất nước, xây dựng nền sản xuất hiện
đại, xây dựng đời sống văn hoá - tinh thần tiên tiến và nâng cao mức sống cho
nhân dân lao động,… Cùng với việc khắc phục những hậu quả của một chế độ
kinh tế - xã hội kém phát triển và những hậu quả nặng nề của chiến tranh,
chúng ta còn phải đối phó với những âm mưu, thủ đoạn chống phá của kẻ thù
(chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế) để bảo vệ độc lập, chủ
quyền của quốc gia dân tộc. Mặt khác, tình hình quốc tế cũng có những diễn
biến phức tạp và thay đổi sâu sắc, tác động mạnh mẽ đến kinh tế đất nước.
Điều đó địi hỏi chúng ta phải có sự đổi mới trong nhận thức và trong hoạt
động thực tiễn. Trước hết là sự đổi mới tư duy về lợi ích dân tộc, về quan hệ

quốc tế, về an ninh và sự phát triển của khu vực và quốc tế, về vai trò của phát
triển kinh tế trong xây dựng sức mạnh tổng hợp của quốc gia và nâng cao vị
thế quốc gia trên trường quốc tế. Các nước đều coi chiến lược mở cửa ra bên
ngoài là một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển. Trong khi đó, công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa đã phạm phải
nhiều sai lầm và bộc lộ nhiều bất cập. Từ đầu thập kỷ 80, các nước xã hội chủ

2


nghĩa đã phải đứng trước một cuộc khủng hoảng về nhiều mặt. Để thốt ra
khỏi tình trạng khủng hoảng, các nước xã hội chủ nghĩa đã phải tiến hành cải
cách, cải tổ, đổi mới để tìm cho đất nước mình một phương thức phát triển;
những nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp đều chuyển sang kinh tế
thị trường, mở cửa, hội nhập kinh tế. Tình hình này đã tác động lớn đến quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề lựa
chọn con đường phát triển của đất nước.
Trên thực tế, trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước theo mơ
hình của Liên Xơ và Đơng Âu, chúng ta đã phạm phải những sai lầm nghiêm
trọng, đã không xuất phát từ thực tiễn, không tôn trọng và hành động theo các
quy luật khách quan. Chúng ta chưa có sự nhận thức một cách đầy đủ và đúng
đắn học thuyết Mác – Lênin về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ; sao chép
một cách máy móc mơ hình bao cấp thời kỳ chiến tranh khi nó đã trở nên
khơng cịn phù hợp, quan niệm một cách đơn giản về con đường xây dựng
chủ nghĩa xã hội mà khơng thấy hết những khó khăn, thử thách, tính phức tạp
và sự lâu dài của q trình đó. Sau năm 1975, Đảng ta đã mắc sai lầm: chủ
quan trong việc đánh giá tình hình đất nước, khơng thấy hết những khó khăn
của một đất nước bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh. Từ đó, đã dẫn đến tư
tưởng nóng vội, muốn có ngay chủ nghĩa xã hội; đã đề ra các chủ trương,
chính sách, mục tiêu khơng phù hợp với tình hình đất nước. Chúng ta đã vội

vàng xoá bỏ các thành phần kinh tế khi chúng vẫn cịn có khả năng phát triển,
đã phủ nhận sản xuất hàng hố và cơ chế thị trường, duy trì q lâu cơ chế
quản lý tập trung, quan liêu bao cấp, đầu tư quá mức cho công nghiệp nặng,
buông lỏng công tác xây dựng Đảng… Xem xét những khuyết điểm, sai lầm
đó, Đảng ta đã nhận định đó là những sai lầm mang tính chất chủ quan, duy ý
chí, khơng xuất phát từ thực tiễn, không tôn trọng các quy luật khách quan. Vì
khơng nhận thức đầy đủ tính tất yếu của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa là phải trải qua các bước quá độ trung gian, quá

3


độ với những hình thức và biện pháp chuẩn bị cần thiết, nên chúng ta đã đề ra
những mục tiêu, nhiệm vụ quá cao, không tương ứng với những điều kiện vật
chất hiện có để thực hiện nó. Chúng ta đã không xuất phát từ thực trạng thấp
kém của nền kinh tế để lựa chọn các giải pháp phát triển phù hợp; đã coi nhẹ
vai trò của các động lực, như khuyến khích lợi ích kinh tế, coi trọng vai trị cá
nhân và lợi ích của người lao động, v.v.. Và do vậy, chúng ra đã khơng
khuyến khích được tính tích cực của quần chúng nhân dân, đồng thời dung
túng cho thói lười biếng và vơ trách nhiệm trong lao động, sản xuất.
Chính do những sai lầm đó, nên sau một thời gian dài tiến hành công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đất nước ta vẫn ở trong tình trạng đói nghèo,
trì trệ và chậm phát triển. Những giá trị tốt đẹp thể hiện mục tiêu, lý tưởng
của chủ nghĩa xã hội chưa kịp định hình thì đất nước lại lâm vào khủng hoảng
trầm trọng về kinh tế - xã hội. Bức tranh kinh tế, xã hội nước ta từ 1976 1985 không mấy sáng sủa. Sản xuất nông, cơng nghiệp trì trệ, nơng dân bỏ
ruộng, các tập đồn sản xuất và hợp tác xã tan rã, mức sống của nhân dân
giảm mạnh và gặp rất nhiều khó khăn. Về mặt xã hội thật đáng lo ngại. Niềm
tin của người dân vào Đảng, vào chế độ giảm sút; tiêu cực xã hội phát triển
mạnh, văn hoá, đạo đức, lối sống, giáo dục xuống cấp; kỷ cương, pháp luật bị
vi phạm. Những dấu hiệu này chứa đựng nguy cơ chệch hướng xã hội chủ

nghĩa, làm gay gắt thêm những mâu thuẫn trong đời sống xã hội, đe doạ sự ổn
định của chế độ ta.
Vì lẽ đó, từ giữa thập kỷ 80, trong lịng xã hội Việt Nam đã chín muồi
những yêu cầu bức xúc của một cuộc cách tân, đổi mới. Đó chính là địi hỏi
khách quan từ thực tiễn cuộc sống, trước hết là từ tình hình kinh tế - xã hội
của đất nước, sau đó là những ảnh hưởng tích cực dội vào từ bên ngồi theo
xu thế đổi mới của thế giới hiện đại. Thực ra, tín hiệu của sự đổi mới đã được
phát ra từ Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá (năm
1979) với Nghị quyết về những biện pháp cấp bách nhằm tháo gỡ những khó

4


khăn về kinh tế, “làm cho sản xuất bung ra”. Nhưng tình hình đất nước sau đó
vẫn ở trong tình trạng khó khăn, khủng hoảng về kinh tế - xã hội. Phải đến
Đại hội VI, đường lối đổi mới mới thực sự mang ý nghĩa bước ngoặt. Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đáp ứng được đòi hỏi khách quan của thực tiễn,
mở đầu cho sự nghiệp đổi mới đất nước, đặt cơ sở cho sự giải phóng mọi tiềm
năng trong xã hội.
Từ sự phân tích trên cho thấy, sự nghiệp đổi mới đất nước là một tất
yếu khách quan, làm “yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề
có ý nghĩa sống cịn” đối với chúng ta. Bởi vì, nó là hiện thân của sự nghiệp
giải phóng và phát triển: Đổi mới là để thốt ra khỏi tình trạng khủng hoảng,
để vượt qua những lạc hậu, những trở lực kìm hãm có trong những hạn chế,
khuyết tật của mơ hình cũ, mơ hình mang nặng dấu ấn của sai lầm chủ quan,
duy ý chí, để giải phóng và khai thác mọi tiềm năng phát triển của xã hội
nhằm thực hiện chủ nghĩa xã hội đích thực: dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng
bằng, dân chủ, văn minh. Đổi mới không phải là từ bỏ chủ nghĩa xã hội, mà là
nhận thức lại và khẳng định tính quy luật của q trình đó, làm cho công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đúng với quy luật khách quan hơn, phù hợp hơn

với những quy luật đã được nhận thức, với hoàn cảnh, điều kiện thực tế của
đất nước, với đặc điểm và xu thế phát triển của thế giới đương đại.
Công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam chịu
sự tác động trực tiếp của những nhân tố quốc tế và thời đại, của tình hình khu
vực và thế giới. Giữa lúc Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới, trên thế giới
đã diễn ra những biến đổi lớn lao. Những biến đổi ấy vừa tác động trực tiếp
đến cách mạng Việt Nam, vừa gợi ra những bài học kinh nghiệm q báu.
Trước hết, cơng cuộc cải cách kinh tế ở nước láng giềng Trung Quốc theo
hướng kinh tế thị trường - mở cửa (diễn ra từ 1978) đã thu được những thành tựu
to lớn. Với những thành tựu này, Đảng Cộng sản và nhân dân Trung Quốc tiếp
tục công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc.
5


Thứ hai, sự không thành công của công cuộc cải tổ ở Liên Xô và Đông
Âu đã dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở những nước này. Sự sụp đổ
đó để lại những bài học kinh nghiệm đắt giá, nhất là bài học về lựa chọn con
đường, cách thức và phương pháp cải tổ, về giải quyết mối quan hệ giữa
Đảng, Nhà nước và nhân dân, giữa kinh tế và chính trị trong q trình cải tổ.
Thứ ba, thành công của các nước “công nghiệp mới” ở khu vực Đông
Á với chiến lược phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá “rút ngắn” vừa
dựa vào nội lực, vừa mở cửa thị trường, hội nhập quốc tế, đẩy mạnh xuất
khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài. Đây là một giải pháp phát triển mang ý
nghĩa chiến lược quan trọng, là một kinh nghiệm cho sự lựa chọn phương
thức phát triển mới của chúng ta, bởi Việt Nam và các nước Đông Á vốn
xuất phát từ những nước nơng nghiệp, có sự tương đồng về các điều kiện
văn hố – xã hội Á Đơng.
Thứ tư, xu hướng hợp tác và hội nhập quốc tế ngày càng được mở
rộng và tăng cường, tồn cầu hố kinh tế ngày càng trở thành một xu thế
khách quan. Bối cảnh mới đó đã buộc các quốc gia phải định hướng lại tư

duy về vấn đề phát triển, trong đó phát triển kinh tế trở thành mục tiêu
hàng đầu. Các nước đều có xu hướng đẩy nhanh q trình mở cửa và hội
nhập kinh tế quốc tế.
Tồn bộ tình hình trên đây, ở trong nước cũng như ở bên ngoài, đã tác
động đến nước ta về cả hai phương diện. Một mặt, địi hỏi chúng ta phải tiếp
tục cơng cuộc đổi mới, trước hế là đổi mới tư duy kinh tế, tiếp tục giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh mới. Mặt khác, nó tạo ra nhiều cơ
hội và điều kiện cho công cuộc đổi mới diễn ra thuận lợi hơn. Nhận thức được
sự thay đổi của tình hình và tính tất yếu của q trình đổi mới, Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VII (1991) đã khẳng định Việt Nam tiếp tục phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đã xác định mô
6


hình chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng với sáu đặc trưng cơ bản,
hướng đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh”.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996), lần thứ IX (2001) tiếp tục
khẳng định công cuộc đổi mới, khẳng định tính nhất quán của “con đường
đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa”. Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa nhằm tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là
sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp và do vậy, tất phải trải qua một thời kỳ
quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã
hội có tính chất q độ.
Như vậy, đổi mới khơng phải là mục đích tự thân mà là cách thức,
phương tiện để xác lập sự ổn định mới nhằm làm cho đất nước ta vững bước
trên con đường dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Chúng ta càng nhận thức đầy đủ và sâu sắc tính tất yếu của q trình đổi mới
- điều này phụ thuộc phần lớn vào ý chí, ý thức, khả năng phê phán trên quan

điểm biện chứng và phương pháp sáng tạo của chúng ta đối với thực hiện - thì
càng có nhiều khả năng đưa tư tưởng đổi mới giữ vững định hướng, có nội
dung tồn diện, có tính chất nhất quán. Từ đường lối đổi mới đến hành động
đổi mới và đổi mới có kết quả là cả một q trình lâu dài, đầy những tìm tịi
và thử nghiệm, trải qua nhiều khó khăn, phức tạp. Ở đây, nhận thức đúng đắn
là cần thiết nhưng chưa đủ. Tầm vóc và tính chất của sự nghiệp cách mạng
này địi hỏi những nỗ lực to lớn và sự sáng tạo phi thường trong hoạt động
thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Với
ý nghĩa đó, đổi mới thực sự đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng
đất nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Những đặc trưng cơ bản của công cuộc đổi mới ở Việt Nam là: Đổi mới
được tiến hành theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới tồn diện nhưng có
trọng tâm, trọng điểm, được tiến hành một cách tuần tự, từng bước; đổi mới

7


kinh tế gắn liền với đổi mới hệ thống chính trị; đổi mới để phát triển trong ổn
định; đổi mới gắn liền với mở cửa với thế giới bên ngoài. Triển vọng của công
cuộc đổi mới ở Việt Nam là tốt đẹp, bởi nó được đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, xuất phát từ thực tiễn xã hội Việt Nam và luôn gắn
kết thực tiễn với khái quát lý luận.
Việt Nam chính thức bước vào sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước và
tiến hành như một cuộc cách mạng thực sự chỉ bắt đầu từ năm 1986. Nhưng
trước đó, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương,
chính sách phát triển kinh tế mang tính chất đổi mới. Những đổi mới này vừa
đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn, vừa là những bước tìm tịi, thử nghiệm con
đường phát triển của Việt Nam. Mặc dù, ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ III (năm 1960), Đảng Cộng sản Việt Nam đã chú trọng đến vấn đề phát
triển kinh tế và xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.

Nhưng lúc đó và cả sau này, khi cả nước đi vào xây dựng chủ nghĩa xã hội thì
vấn đề phát triển kinh tế của Việt Nam có nội dung cốt lõi là thực hiện cơng
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và trên cơ sở đó, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật cho chủ nghĩa xã hội. Chủ trương này là phù hợp với điều kiện cụ thể
của Việt Nam lúc đó nhưng càng về sau, nhất là khi cả nước đi vào xây dựng
chủ nghĩa xã hội thì nó càng bộc lộ sự yếu kém trong nhận thức và vận dụng
một cách sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh vào từng giai đoạn phát triển cụ thể của cách mạng Việt Nam. Đó là vấn
đề nơng nghiệp, nông dân khi đất nước chuyển giai đoạn nhưng trên thực tế
lại khơng được coi trọng, khơng nhìn thấy tầm chiến lược của nó trong sự
phát triển nền kinh tế - xã hội ở một nước sản xuất nông nghiệp. Sự kéo dài
chủ trương đó, hơn nữa lại có những sai lầm trong thực hiện đã làm cho nền
kinh tế Việt Nam thực sự rơi vào một cuộc khủng hoảng. Vì vậy, cơng cuộc
đổi mới của Việt Nam có xuất phát điểm trước hết từ chính yêu cầu phát triển
nội tại của đất nước. Nó được bắt nguồn từ nhu cầu thực tiễn phát triển đất

8


nước, từ tâm tư, nguyện vọng của nhân dân lao động, từ kinh nghiệm sáng tạo
của một số cơ sở, địa phương.
Trên cơ sở nhận thức lại chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam đã tiến hành
cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa từ
năm 1986. Đến nay, sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam đã tiến hành được trên 30
năm. Qua mỗi giai đoạn đổi mới (5, 10, 15, 20 năm), Đảng Cộng sản và nhân
dân Việt Nam ln có sự tổng kết cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn nhằm rút ra
những bài học và kinh nghiệm cho những giai đoạn phát triển tiếp theo. Có
thể nói, con đường đổi mới ở Việt Nam vừa thể hiện sự trung thành, vừa là sự
tìm tịi và vận dụng một cách sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và

tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn và
có ý nghĩa lịch sử.
Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài nhiều năm,
khắc phục được nạn lạm phát có lúc trên 700% (năm 1986) xuống mức lạm
phát 12% (năm 1995) và từ đó đến nay lạm phát chỉ cịn một con số; khắc
phục được nạn thiếu lương thực trước đây và hiện nay kinh tế phát triển liên
tục, đặc biệt là sản xuất lương thực, Việt Nam trở thành một nước xuất khẩu
gạo thứ hai, thứ ba trên thế giới.
Hiện nay Việt Nam đang đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước nhằm mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. Cùng với tăng trưởng kinh tế, trong thời kỳ
đổi mới, Việt Nam đã chú ý đến việc thực hiện chính sách cơng bằng xã hội,
xóa đói giảm nghèo. Nhờ đó, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
được cải thiện một bước đáng kể. Tính riêng trong 5 năm (1993-1998), thu
nhập bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng 2,45 lần.

9


Một đặc điểm khác đáng chú ý nữa là sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam đã
xác định đổi mới kinh tế là trọng tâm, trước hết phải đổi mới tư duy về kinh
tế. Nhờ định hướng đúng đắn mà những yêu cầu cấp thiết của nhân dân ta về
sản xuất và đời sống được giải quyết, đem lại sự tin tưởng của nhân dân đối
với sự nghiệp đổi mới, tự nó trở thành động lực thúc đẩy cơng cuộc đổi mới
giành nhiều thắng lợi.
Song song với đổi mới kinh tế, từng bước đổi mới về chính trị, xã hội,
văn hóa với mục tiêu phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân, xây dựng
và phát huy đại đoàn kết tồn dân, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại. Khoa học - công nghệ cùng với giáo dục - đào tạo

được Nhà nước hết sức chăm lo. Nhà nước coi chính sách phát triển khoa học
- công nghệ và giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhờ vậy, trong
những năm vừa qua, khoa học - công nghệ và giáo dục - đào tạo đạt được
nhiều thành tựu quan trọng. Năm 2000, Việt Nam đã hoàn thành phổ cập giáo
dục tiểu học, hiện nay chương trình đào tạo sau đại học với hai học vị thạc sĩ
và tiến sĩ đang được thực hiện ở hầu hết các ngành học thuộc khoa học tự
nhiên và công nghệ cũng như khoa học xã hội và nhân văn.
Trong lĩnh vực đối ngoại, Việt Nam thực hiện chính sách mở rộng
quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng
hóa các quan hệ quốc tế, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển. Trên
cơ sở đường lối đó, Việt Nam đã kiên trì phấn đấu đẩy lùi và làm thất bại
chính sách bao vây cấm vận, cơ lập Việt Nam của các thế lực thù địch, tạo
được môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo
vệ đất nước.
Tháng 7-1995, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Hiệp
hội các quốc gia Đơng Nam Á (ASEAN). Tháng 3-1996, Việt Nam đã tham
gia Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) gồm 10 nước châu Á và 15 nước châu
10


Âu với tư cách thành viên sáng lập. Tháng 10-2004, Hội nghị ASEM lần thứ
năm đã họp tại Thủ đô Hà Nội của Việt Nam. Tháng 11-1998, Việt Nam đã
gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) gồm
các nước và lãnh thổ thuộc châu Á, châu Mỹ và châu Đại Dương ở ven hai bờ
Thái Bình Dương.
Chính trong q trình hội nhập kinh tế, Việt Nam đã nhanh chóng mở
rộng xuất khẩu, thúc đẩy phát triển, tạo thêm việc làm cho người lao động,
tăng nguồn thu ngân sách nhà nước. Năm 1990, kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam đạt 2,404 tỷ USD và nhập khẩu đạt 2,752 tỷ USD, tính chung bốn năm

từ năm 2001 đến năm 2004, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt gần 77 tỷ USD, tốc
độ tăng xuất khẩu bình quân bốn năm khoảng 14,6%. Kim ngạch xuất khẩu
bình quân đầu người năm 2004 đạt trên 305 USD/người.
Đổi mới ở Việt Nam đã kết hợp được nội lực và ngoại lực. Tháng 121987, Việt Nam đã ban hành Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài. Từ thời gian ấy
đến nay, đất nước ta đã thu được hàng chục tỷ USD vốn đầu tư nước ngồi
với hàng nghìn dự án, trong số đó đã thực hiện khoảng 21 tỷ USD. Có thể nói
rằng, nguồn đầu tư trực tiếp nước ngồi giữ một vị trí quan trọng trong nền
kinh tế Việt Nam thời kỳ đổi mới. Ngồi ra, Việt Nam cịn tranh thủ được
nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) ngày càng cao.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra cơ hội để Việt Nam tiếp cận
với những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang phát
triển mạnh mẽ trên thế giới. Đồng thời, thơng qua các dự án hợp tác với nước
ngồi, các doanh nghiệp Việt Nam đã tiếp nhận được nhiều kinh nghiệm quản
lý tiên tiến.
Có được những thành tựu trên đây là do Đảng ta có đường lối đổi mới
đúng đắn, sáng tạo, phù hợp lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, được nhân
dân đồng tình ủng hộ, tích cực thực hiện. Đảng ta đã nhận thức, vận dụng và

11


phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và
phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và vận
dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam; có bản lĩnh chính trị vững
vàng, kiên định lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đồng
thời nhạy bén, sáng tạo, kịp thời đưa ra những chủ trương, quyết sách phù hợp
cho từng giai đoạn cách mạng, khi tình hình thế giới và trong nước thay đổi.
Đông đảo cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân đã nỗ lực phấn đấu, tận
dụng thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện đường lối
đổi mới. Sự nghiệp đổi mới của đất nước ta được bạn bè quốc tế ủng hộ, hợp

tác, giúp đỡ.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, cơng
cuộc đổi mới tồn diện đất nước còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn
chế, khuyết điểm cần tập trung giải quyết, khắc phục để đưa đất nước phát
triển nhanh và bền vững.
Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm
rõ một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn,
cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước. Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội cịn có một số vấn đề phải qua tổng kết thực tiễn để tiếp tục làm
rõ.
Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu
cầu và thực tế nguồn lực được huy động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mô
cơ bản ổn định nhưng chưa vững chắc, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm,
phục hồi chậm. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế,
văn hóa, xã hội và môi trường. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn
đề xã hội và quản lý xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu
quả; cịn tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ mất ổn định xã hội. Trên một số
12


mặt, một số lĩnh vực, một bộ phận nhân dân chưa được thụ hưởng đầy đủ,
công bằng thành quả của công cuộc đổi mới. Năng lực và hiệu quả hoạt động
của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ.
Nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt.
Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu tồn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII
của Đảng (năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như
nguy cơ "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới

tinh vi và thâm độc chống phá nước ta và những biểu hiện "tự diễn biến", "tự
chuyển hóa". Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, chế độ
có mặt bị giảm sút.
Với những thành tựu đã đạt được, chúng ta có thể khẳng định rằng, đổi
mới đã đáp ứng được yêu cầu khách quan của sự tồn tại, phát triển của con
người và xã hội Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa. “Với đổi mới,
chúng ta đã tìm thấy và khẳng định được một phương thức phát triển mới,
một con đường phù hợp để giải quyết các vấn đề phát triển của đất nước”
trong điều kiện mới. Tiếp tục công cuộc đổi mới trên nền tảng chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta sẽ tạo ra được những tiền đề và
điều kiện để tiếp tục sự nghiệp giải phóng xã hội, phát triển con người, xây
dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.

13



×